Bồ Đề Đạt Ma là vị tổ thứ 28 của Phật Giáo Ấn Độ nhưng là vị sơ tổ thiền tông ở Trung Hoa.
Về sự tích của tổ Bồ Đề Đạt Ma,chúng ta được biết qua hai nguồn tài liệu: trước hết là tài liệu của luật sư Nam Sơn Đạo Tuyên trong “Cao Tăng Truyện”,soạn vào năm 645,đầu đời nhà Đường và được coi là tài liệu cổ nhất hiện có. Nguồn tài liệu thứ hai là “ Truyền Đăng Lục” do Đạo Nguyên soạn năm 1004,đầu đời nhà Tống,sách được soạn khi THIỀN đã được đồng thanh thừa nhận như một Pháp môn riêng và chuyên ghi chép những việc làm, những câu nói của các Thiền sư.
Hai bộ sử này có nhiều điểm sai khác nhau hẳn về tiểu sử Bồ Đề Đạt Ma. Hiện nay chưa có sử liệu nào xác minh cụ thể, phần đông đều chấp nhận tiểu sử thường được truyền tụng sau đây và cũng chỉ là vài nét khái quát nhưng lại là ảnh hưởng rất thâm sâu.
Ngài Bồ Đề Đạt Ma là con thứ ba của một vị Đại Vương Bà La Môn ở Nam Thiên Trúc thuộc Tây Vức. Thần huệ sáng thông, nghe đâu ngộ đó, Ngài nuôi chí cầu pháp Đại thừa trút lớp áo trắng cư sĩ khoác lên mảnh nâu sồng,quyết tâm hưng thạnh nền Đạo pháp. (sử không thấy nói rõ Ngài sanh năm nào và xuất gia năm nào). Ngài có phong độ thong dong thông suốt thế sự,đức hạnh vượt ngoài khuôn mẫu thế gian, Ngài băn khoăn trước sự suy vi của Thánh giáo ở các nước ngoài, bèn băng núi vượt rừng qua du hóa ở nước Ngụy, Trung Hoa, năm 520 sau Tây lịch, lúc ấy người hiểu đạo ai cũng đồng tình còn người thiển cận lại sanh lòng chê trách.
Theo “Truyền Đăng Lục” bậc quý nhân đầu tiên Đạt Ma tiếp xúc khi vừa đến Trung Hoa là Lương Võ Đế không những là một vị vua mà còn là bậc lãnh đạo của Phật Giáo đương thời ở Trung Hoa. Cuộc tiếp kiến diễn ra như sau:
Lương Võ Đế hỏi: - Từ ngày tức vị đến nay trẩm cất chùa,chép kinh,độ tăng không biết bao nhiêu là kể như thế có công đức gì không ?
Thiền sư đáp: - Đều không công đức.
Võ Đế: Sao không công đức
Thiền sư: - Đó chỉ là nhân hữu lậu chỉ đem đến qủa nhỏ trong cõi Trời, người, như bóng theo hình, tuy có nhưng không thực.
Võ Đế: - Vậy công đức chân thật là gì ?
Thiền sư: - Trí phải thanh tịnh,thể phải lặng không,đó là chân công đức.Chân công đức ấy không thể lấy việc thế mà cầu được.
Võ Đế lại hỏi: - Chân lý cùng tột của đạo Thánh là gì ?
Thiền sư đáp: - Trống rỗng,hồn nhiên,không gì là Thánh.
Võ Đế hỏi tiếp: - Trước mặt trẩm là ai ?
Thiền sư đáp: - Không biết.
Lời đáp tuy giản dị nhưng suy diễn thì cũng có thâm ý nhưng vị hoàng đế mộ đạo và thông thái không khế hợp được với tinh thần phát lộ ở từng cử chỉ của Đạt Ma.
Thấy chưa độ được gì cho nhà vua, Ngài bỏ ra đi vào đất Ngụy,ẩn tu ở chùa Thiếu Lâm, chín năm yên lặng diện bích (xây mặt vào tường) nên sau đó người ta gọi ngài là “Thầy tu ngó vách” (Bích quán bà la môn)
Một này kia có một vị tăng tên là Thần Quang đến viếng ngài,nhiệt tình thành khẩn cầu khai ngộ pháp Thiền nhưng Ngài lạnh lùng không nhìn tới. Thần Quang không vì thế mà nãn lòng,nghĩ rằng những bậc chí Thánh đại hiền ngày xưa phải trải qua đủ thứ thiên ma bách chướng mới thành được bổn nguyện. Đêm đến vị Tăng đứng dầm mình trong tuyết chờ Đạt Ma nhìn lại, nhưng cho đến lúc tuyết rơi đầm đìa chôn vùi đến đầu gối mà ông vẫn đứng lặng yên.
Bây giờ Ngài mới quay lại hỏi:
- Ông muốn cầu gì ?
Thần Quang khóc lóc và bạch:
-Ngưỡng mong hòa thượng từ bi rưới nước cam lồ rộng độ chúng sanh
Ngài nói:
- Diệu đạo vô thượng của chư Phật phải nhiều khiếp tinh cần ; khó làm, làm được; khó nhịn, nhịn được ;hàng đức nhỏ, trí cùn, lòng đầy khinh mạn, há có thể chịu nỗi nhọc nhằn lao khổ cầu pháp chân thừa sao ?
Thần Quang nghe quở liền rút dao chặt lìa cánh tay đưa lên trước mặt Ngài Đạt Ma. Ngài biết gặp được người tinh cần và quyết tâm cầu đạo,bèn đáp:
- Chư Phật quyết tâm cầu đạo,vì pháp bỏ thân nay ông chặt tay trước mặt tôi vậy muốn cầu gì ?
Nhưng không đợi câu trả lời, Ngài bèn đổi tên Thần Quang ra Huệ Khả.
Huệ Khả bạch: Pháp ấn của chư Phật có thể nghe chăng.
Thiền sư nói: - Pháp ấn của chư Phật không thể nhờ vào ngưới khác.
Huệ Khả bạch: - Nhưng tâm con không an, thỉnh Sư làm cho tâm con an.
Ngài nói: Đưa tâm người đây ta an cho.
Một hồi lâu Huệ Khả bạch:
- Con kiếm mãi mà chẳng thấy tâm ở đâu cả.
Ngài nói: - Thế là ta đã an cái tâm cho ngươi rồi đó. Huệ Khả liền tỏ ngộ
Sau đó có ông đạo Dục cũng tuấn tú thông minh và có chí cầu pháp, duyên may gặp được thiền sư, cùng Huệ Khả ở đó phụng sự Ngài nhiều năm,hết lòng tu tập.
Về sau Ngài cũng có thêm một số đệ tử.
Thiền sư thấy các vị này tinh cần học đạo nên rất thương yêu và chỉ cho chân đạo. Đó là phép an tâm của Đại Thừ a giáo. Phép an tâm đó là Bích Quán.
Ngài Bồ Đề Đạt Ma ở chùa Thiếu Lâm chín năm ngài thường nói pháp chỉ dạy cho Huệ Khả:
“ Ngoài dứt chư duyên
Trong không toan tính
Tâm như tường vách
Mới là nhập Đạo”
Huệ Khả trình bày đủ cách hiểu của mình về tánh lý của tâm nhưng lần nào Thiền sư cũng một mực bảo “ chẳng phải” mà cũng không nói gì thêm về thể vô niệm.
Một ngày nọ Huệ Khả thưa “ con đã dứt hết chư duyên rồi”
Thiền sư hỏi: - Ngươi không biến thành đoạn diệt (hư vô) chứ ?
Huệ Khả đáp: - Chẳng thành đoạn diệt
Thiền sư hỏi lại: - Lấy gì làm tin chẳng phải là đoạn diệt ?
Huệ Khả đáp: - Do cái biết tự nhiên vậy, còn nói thì chẳng được.
Thiền sư nói:-Đó là chỗ bí quyết tâm truyền của Phật chứ người chớ nghi ngờ gì hết
Đoạn đối đáp trên,thực đã đúc kết thông điệp đặc biệt hàm ẩn trong giáo lý Đạt Ma, nhờ đó chúng ta mới có thể tìm ra một lời giải đáp về tinh nghĩa hai chữ Bích Quán, vẫn tìm trong thái độ chủ quan của Thiền sư, một thái độ đại định thâm hậu, quyết liệt loại trừ tất cả tưởng niệm và hình tướng của giác quan. Thật không gì vô nghĩa hơn khi chỉ hiểu Bích Quán trên mặt chữ nghĩa là “ngó vào vách”. Nếu phải tìm hiểu thông điệp kỳ đặc của tổ sư Đông độ Đạt Ma qua di bút hiện còn của Tổ. Thiết tưởng phải tìm trong bốn chữ “Đại thừa Bích Quán”
Ngoài di bút ấy,chúng ta còn các bộ kinh Lăng Già,Kim Cang,Kim Cang Đại Định,đại khái giúp ta có một ý niệm về chỗ tâm yếu của phép Thiền Đạt Ma. Khác với các tông phái khác,Thiền tông không có bộ Kinh nào được coi là căn bản,dựa vào đó có thể dựng tông mở Giáo – Nhưng Đạt Ma trao bốn quyển Lăng già cho người đệ tử đầu tiên là Huệ Khả, coi như ký thác tâm ấn Phật kế hợp với đạo Thiền. (sau này Tổ viên tịch Kinh trên được chư Thiền sư đặc biệt tham cứu) (1).
Thấm thoắt chín năm trôi qua, Thiền sư muốn trở về Thiên trúc bèn gọi môn đồ đến bảo:
Ngày ta lên đường sắp đến các ngươi thử trình xem chỗ sở đắc của mỗi người về đạo thiền.
Bấy giờ thầy Đạo Phó bạch:
- Theo chỗ thấy của con, chẳng chấp văn tự, chẳng lìa văn tự, đó là chỗ sở dụng của Đạo.
Tổ nói: - Ông được phần da của ta.
Ni Tổng Trì bạch: - Chổ con thấy nay như Khánh Hỷ (A nan) nhìn vào nước Phật A súc (bất động) thấy một lần,không thấy lại được.
Tổ nói: - Bà đượïc phần thịt của ta.
Đạo Dục bạch: - Bổn đại vốn không,năm ấm chẳng thấy thật, chỗ con thấy chẳng có gì sở đắc hết.
Tổ nói: - Oâng được phần xương của ta.
Đến lượt Huệ Khả,Thầy đãnh lễ Tổ rồi đứng thẳng,không nói gì cả.
Tổ nói: - Oâng được phần tủy của ta.
Những ngày cuối cùng của Ngài Đạt Ma ở Trung Hoa bao trùm bí mật và không ai biết rõ bằng cách nào, lúc nào, tại đâu Tổ lìa khỏi thế tục nầy. Có người nói Tổ bị đối phương đầu độc,người nói Ngài băng sa mạc về Ấn và cũng có người bảo Tổ qua Nhật. Chỉ có một điều là mọi người đều thừa nhận là Ngài sống rất lâu,thọ trên một trăm năm mươi tuổi.
Theo Đạo Tuyên,Bồ Đề Đạt Ma có lưu lại nhiều bút tích hoặc danh ngôn nhưng chắc chắn hơn cả là “ Quán Tâm Pháp” gồm 3 phần:Ngộ tánh, Huyết mạch,Phá tướng và “ Bốn Quán Hạnh” (luận về phép an tâm).
Đây là phép an tâm của Đại thừ a giáo (2)
Trong "Truyền Đăng Lục" có ghi:
Đây là phép an tâm
Đây là phép phát hạnh
Đây là phép thuận vật
Đây là phương tiện.
An tâm đó, là Bích quán (trình bày phần trước)
Phát hạnh, đó là tứ hạnh
Thuận vật đó, là phòng ngừa sự chê gièm
Phương tiện đó, là khiến mình đừng chấp trước.
Khác với một số Tổ sư khác, thường đi đây đi đó để du hoá, Ngài Bồ Đề Đạt Ma suốt chín năm chỉ ở chùa Thiếu Lâm, chuyên tu Thiền định. Nhưng đạo Thiền lại thấm sâu vào Trung Quốc và ảnh hưởng lan tỏa đến các nước Aù Đông. Việt Nam cũng thừa hưởng rất nhiều về Thiền của Tổ.
Đạo Thiền của Bồ Đề Đạt Ma có thể tóm tắt trong mười sáu chữ:
Bất lập văn tự
Giáo ngoại biệt truyền
Trực chỉ nhân tâm
Kiến tánh thành Phật
(chẳng lập văn tự
truyền riêng ngoài giáo
trỏ thẳng tâm người
thấy tánh thành Phật)
Chỉ mười sáu chử nhưng đủ nêu lên cơ bản lập giáo của Thiền tông (3),khác với các môn phái khác của Phật giáo đương thời ở Trung Hoa.
Ngày nay, khi nói đến Thiền tông, không thể nào quên công ơn khai hóa của vị Tổ Bồ Đề Đạt Ma.
Chú Thích:
(1) Riêng về Bộ Kinh Kim Cang, nhiều người cho rằng: Từ ngũ Tổ Hoằng Nhẫn trở về trước thì Kinh ấy không liên quan đến Thiền, Hoằng Nhẫn là người đầu tiên đưa ra bộ Kinh ấy vào thiền giới chứ Ngài Bồ Đề Đạt Ma không hề đề cập đến. Nhưng theo lời tựa của Huệ Năng viết cho bộ Kim Cang, có câu: “ Đạt Ma từ lúc qua Tàu, luôn luôn để tâm xiểng dương yếu chỉ kinh Kim Cang để người học có thể đạt lý và ngộ tánh”. Như vậy thì ít ra Ngài Đạt Ma phải biết bộ Kinh ấy từ lúc mới mở đường hoằng pháp ở Trung Hoa và mối duyên liên hệ giữa Thiền và Kim Cang còn mật thiết hơn là Kinh Lăng Gia với Thiền tông.
(2) Phàm vào đạo có nhiều đường,nhưng nói chung cho cùng không ngoài hai đường này,là Lý nhập và Hạnh nhập.
2.1 Lý nhập là nương theo giáo (kinh điển) để ngộ vào tông (yếu chỉ),tin sâu rằng tất cả sanh linh đều chung đồng một chân tánh, chỉ vì khách trần bên ngoài và vọng tưởng bên trong che lấp nên chân tánh không hiển lộ được. Nếu bỏ vọng theo chân tinh thần ngưng trụ trong cái định BÍCH QUÁN thì không thấy có ta có người. Thánh phàm một bực như nhau; nếu một mực kiên cố không lay chuyển rốt ráo không lệ thuộc vào văn giáo,đó tức là ngầm hợp với lý hết tâm tưởng phân biệt.
Tịch nhiên vô vi gọi là lý nhập.
2.2 Hạnh nhập là nói về bốn hạnh, các hạnh khác đều bao gồm trong ấy.
- Một là báo oán hạnh
- Hai là tùy duyên hạnh
- Ba là vô sở cầu hạnh
- Bốn là xư ng pháp hạnh
1/ Sao gọi là báo oán hạnh ? – Người tu hành khi gặp cảnh khổ nên tự nghĩ như vầy: Ta từ bao kiếp trước buông lung, không bỏ gốc theo ngọn,trôi dạt theo vật chất, nặng lòng thương ghét,gây hại không cùng. Đời này tuy ta không phạm lỗi,nghiệp dữ theo từ trước nay kết trái chín,điều ấy nào phải do trời hoặc người tạo ra đâu,vậy ta đành phải nhận nhục chịu khổ, đừng nên oán trách.
Kinh nói: Gặp khổ không buồn. Vì sao vậy ? vì thấu suốt (luật nhân qủa) vậy. Khi tâm niệm ấy phát ra, ấy là ứng hợp với lý. Mượn oán mà hành đạo nên nói là hạnh trả oán.
2/ Hai Là Tùy Duyên Hạnh:
Chúng sanh đều do duyên nghiệp mà chuyển thành,chẳng có cái tôi. Mọi khổ vui đều do nhân duyên sanh. Nếu nay được qủa báo tốt,hưởng được vinh dự, ấy là do nhân lành thuở trước nay mới được vậy. Hễ duyên hết thì lại hoàn không,mừng vui nỗi gì ? Được mất gì đều tùy theo duyên,nhưng tâm người không vì vậy mà được thêm hoặc bớt mất gì.
Nếu thấu được như vậy thì gió vui chẳng động,lặng lẽ mà thuận đạo,nên nói là hạnh tùy thuận theo duyên nghiệp vậy.
3/ Ba Là Vô Sở Cầu Hạnh.
Người đời mãi đắm mê việc gì cũng tham trược,thế gọi là cấu.
Bậc trí ngộ lẽ chân,chuyển ngược thế tục nên an tâm trụ ở vô vi,thân hình tùy nghi mà vận chuyển. Muôn vật đều là không,có gì vui mà cầu được.
Hễ có công đức thì liền có hắc ám đuổi theo.Ở lâu trong ba cõi như khác nào ở trong nhà lửa. Có thân là khổ,được gì mà vui ? Thông suốt được vậy ắt buông hết sự vật,dứt tướng, chẳng cầu.
Kinh nói: “ còn cầu còn khổ. Hết cầu được vui”
Xét biết không cầu mới thực là đạo hạnh nên nói là không cầu mong.
4/ Bốn Là Xứng Pháp Hạnh.
Cái lý thanh tịnh của tự tánh gọi là pháp (tánh tịnh chi lý,mục chi vi pháp)
Tin hiểu lý ấy thì mọi hình tướng hoá thành không, không nhiễm không trước, không bi không thử.
Kinh nói: Pháp không có chúng sanh,hãy lìa chúng sanh cấu. Pháp không có tướng ngã hãy lìa ngã cấu.
Bậc trí ví tin hiểu như vậy thì tùy xứng theo pháp mà hành.
Bốn thể của pháp vốn không tham lận cho nên dầu đem thân mạng và của cải ra mà bố thí vẫn không hối tiếc. Thấu rõ ba cái không thì không còn ỷ lại và chấp trước. Chỉ cần gạn trừ trần cấu,tùy nghi mà giáo hóa chúng sanh,nhưng không mắc phải hình tướng,thế tức là tự hành,đã lợi người lại thêm trang nghiêm đạo Bồ đề. Bố thí đã vậy thì năm độ (Bát nhã) khác cũng thế. Vì dứt trừ vọng tướng mà hành pháp tu sáu độ,nhưng thật không gì gọi là hành cả,nên nói là hạnh tùy xứng theo pháp. (phần ghi chú (2) ở Truyền Đăng Lục quyển 30)
(3) Chúng ta cần hiểu rõ bốn câu này,nếu không sẽ ngỡ là mâu thuẫn. Giáo lý nhà Phật có đến hằng vạn kinh,riêng về Thiền chúng ta cũng thấy có rất nhiều sách thì sao nói chẳng lập văn tự ? còn truyền riêng ngoài giáo là truyền gì ? vậy không phải là đạo Phật ư ?
Chẳng lập văn tự: Văn tự chỉ là phương tiện để diễn đạt,kinh điển (văn tự) để qua đó hiểu được chân lý chứ kinh điển (văn tự) không phải là chân lý. Vậy cần yếu là phải nắm được tinh thần của kinh,chứ câu này không có nghĩa không cần đến văn tự (kinh).
Ngài Đạt Ma khi truyền tâm ấn cho Huệ Khả cũng trao cho Huệ Khả bốn cuốn kinh Lăng Già kia mà.
Giáo ngoại biệt truyền: Có nghĩa là làm cho người khác lãnh hội được tinh thần của kinh mà không qua chữ nghĩa trong kinh. Đi thẳng vào giáo lý,dựa vào chỗ thắc mắc,băn khoăn của mỗi người mà làm cho họ tỏ ngộ như trường hợp Bồ Đề Đạt Ma làm cho Huệ Khả tỏ ngộ mà không giảng một bài kinh nào (nhưng sự thực thì những gì Tổ thực thi cũng dựa vào gốc giáo lý). Đây là phương tiện đặc thu.ø Trỏ thẳng tâm người: tâm chúng ta bị chi phối bởi hoàn cảnh nên cứ lăng xăng, lại vì tham,sân,si sai khiến nên tâm hoàn toàn loạn động,nếu lắng yên nhìn rõ lại chính mình thì làm chủ được tâm mình.
Kiến tánh thành Phật: Khi làm chủ được tâm thì không còn bị tham,sân,si sai khiến,thấy rõ tự tánh thanh tịnh nên dứt sacnh phiền não,an vui tự tại do đó sẽ dẫn đến giác ngộ hoàn toàn (thành Phật)