(HT Thích Thiện Hoa)
A.-Mở Ðề
Trong thời Pháp thuộc, vì vận mệnh chung cả nước nhà đang suy đồi, lại bị văn hóa Tây phương và ngoại đạo lấn áp, nên Phật Giáo đối với phần đông dân tộc Việt nam như là một tôn giáo hạ đẳng, phụ thuộc, không có nghĩa lý gì.
Nhưng vì nếu có ai đi sâu vào lịch sử Phật Giáo Việt-Nam theo dõi bước đi của sự truyền giáo qua các thời đại từ khi dân tộc Việt-Nam mới lập quốc đến ngày nay, thì sẽ thấy Phật Giáo giữ một địa vị quan trọng vô cùng trong công trình gây dựng văn hóa Việt-Nam. Có thể nói một cách không quá rằng: Văn hóa Việt- Nam một phần lớn là văn hóa Phật Giáo. Rút cái tánh chất Phật Giáo trong văn hóa Việt-Nam ra thì văn hóa ấy thật là nghèo nàn, nông cạn. Chính Thượng tọa Mật Thể, trong quyển '' Việt- Nam Phật Giáo sử lược'' đã nói rất đúng: ''nhờ tinh thần sáng suốt của thể đạo, với công nghiệp bố giáo của các tổ sư Phật Giáo rất có công to trên lịch sử văn hóa nước nhà''.
Ngày nay, để nhận chân đứng đắn cái vai trò quan trọng và sứ mệnh lịch sử của Phật Giáo nước nhà, cũng như để thêm tinh tưởng và phấn khởi mà tu học, để thừa tiếp cái tinh thần ''Bi- Trí-Dũng'' của đạo mà truyền lại cho các thế hệ về sau, chúng ta, Phật tử Việt-Nam cần phải biết rõ lịch sử Phật Giáo Việt-Nam.
B.-Chánh Ðề
I.- Phật Giáo Du Nhập Vào Việt Nam
1.- Con đường du nhập.
- Nước Việt-Nam ta nằm trên bán đảo Ấn Ðộ Chi na, giữa hai nước rộng lớn, hai dân tộc đông đảo nhất thế giới, hai nền văn minh sáng lạn của châu Á là Ấn Ðộ và Trung Hoa. Vì địa thế của nước Việt-Nam nằm ở giữa con đường biển đi Ấn Ðộ đến Trung Hoa, nên đã chịu ảnh hưởng nhiều của hai nền văn minh ấy .
Riêng về Phật Giáo , thì sư du nhập vào Việt- Nam củng do cả hai con đường: đường biển từ phía Nam lên và đường bộ từ phía Bắc xuống.
Trong số bốn nhà truyền giáo đầu tiên đặt chân lên Việt-Nam, thì hết ba nhà sư là người Ấn Ðộ, đi đường thủy sang Trung Hoa truyền đạo và đã ghé tại Việt-Nam là các Ngài: Ma-Ha-Kỳ-Vực, Khương-Tăng-Hội và Chi-Cương-Lương.
Nhà truyền giáo thứ tư là người Trung Hoa, Ngài Mâu-Bác, đã đi đường bộ từ phía Bắc xuống. Ðó là điều chứng minh rằng Phật Giáo vào Việt-Nam do cả đường thủy và đường bộ cả từ phía Nam lên và phía Bắc xuống. Nhưng vì nước ta bị Trung Hoa đô hộ ngót một ngàn năm và sau đó vẩn còn lệ thuộc vào văn hóa và chính trị nên về sau con đường truyền giáo từ Trung Hoa sang là con đường chính
2.- Thời đại du nhập đầu tiên.
-Theo các sử gia đáng tin cậy, thì nhà thì nhà truyền-giáo đầu tiên đến Việt nam ( lúc bấy giờ là đất Giao- Châu) là Ngài Mâu-Bác, người quận Thương Ngô tức là Ngô Châu ( Trung Hoa bây giờ ). Sau khi vua Hán Linh-Ðế mất (189) nước Tàu thường loan lạc, Ngài theo mẹ qua ở Giao Châu và truyền bá đạo Phật.
Nhà truyền giáo thứ hai đặt chân lên đất Giao-Châu là Ngài Khương-Tăng-Hội, Ngài gốc Khương-Cư ( Soadiane, Ấn Ðộ ). Mục đích của Ngài là sang Trung Hoa, nhưng ông thân của Ngài sang Giao-Châu buôn bán nên Ngài cũng theo đường Giao-Châu để sang Trung Hoa. Trung Hoa lúc ấy về đời Tam-Quốc, Ngài đến nước Ðông-Ngô và được Ngô-Tôn-Quyền sùng mộ, xin quy-y với Ngài ( 229-252 ). Như thế là Ngài Khương-Tăng-Hội ghé lại Giao-Châu vào khoảng đầu thế kỷ thứ III, sau Tây lịch.
Vào khoảng giữa thế kỷ thứ III đến cuối thế kỷ thứ III, đất Giao-Châu lại đón tiếp hai nhà sư Ấn Ðộ nữa là Ngài Ma-Ha-Kỳ-Vực và Chi- Cương-Lương, trên bước đường sang Trung Hoa truyền-giáo của các Ngài, vào đời nhà Tần (265-306).
Như thế, có thể nói rằng: Ðạo Phật du nhập đầu tiên sang Việt-Nam trong khoảng cuối thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ III, sau Tây lịch.
3.- Các môn phái du nhập.
- Trong thời kỳ đầu tiên du nhập Việt-Nam, đạo Phật chỉ phớt qua trên đất nước, chưa có màu sắc riêng biệt và dân chúng chỉ mới tiếp xúc với Ðạo- Phật trong phương tiện thờ cúng lễ bái mà thôi.
Phải đợi đến vài ba năm sau, đạo Phật mới thâm nhập dần vào dân chúng và do ảnh huởng của Phật Giáo Trung Hoa. Có một đều chúng ta ngạc nhiên là, mặc dù Phật Giáo Trung Hoa gồm mười tôn phái, mà chỉ có Thiền-Tôn là được truyền đi sang Việt-Nam trước nhất và mạnh mẽ nhất. Tôn này được truyền vào Việt- Nam trước hết do Ngài Tỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi (Vinitaruci) đưa sang (580). Ngài là đệ-tử được truyền tâm-pháp của Tam-tổ Tăng-Xán, và chính là sơ-tổ Thiền-Tôn ở Việt-Nam.
Ðến đời Dường (820) lại có Ngài Vô-ngôn- Thông ở Trung Hoa sang truyền giáo, lập thành phái Thiền-Tôn thứ hai; kế đó là các phái Thảo- Ðường, Tào-động, Lâm-tế v.v.. lần lượt truyền sang Việt-Nam.
Tóm lại, đạo Phật du nhập vào Việt-Nam, chỉ có Thiền-Tôn là gây ảnh hưởng mạnh mẽ hơn cả.
B- Phật Giáo Dưới Thời Hậu Lý Nam Ðế (571-602) Và Bắc Thuộc Lần Thứ Ba (603- 939)
Từ khi Phật Giáo truyền vào Việt-Nam cho đến thời Tiền Lý Nam-Ðế, kể cả trên ba năm (189-548) nhưng vẫn còn nằm trong thời kỳ phôi-thai chưa có gì đáng gọi là thạnh hành lắm. Ðến thời Hậu Lý Nam-Ðế (571-602) và Bắc thuộc lần thứ III (603-939) Phật Giáo mới bắt đầu bước vào thời thành đạt.
1.-Giai đoạn thứ nhất.
- Sự truyền bá Thiền- Tôn của Ngài Tỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi ở Trung Hoa sang (580) đem Thiền-Tôn truyền bá vào, được người Việt-Nam hết sức sùng mộ. Do đó, lần đầu tiên nước Việt-Nam được biết đến ThiềnTôn và Ngài Tỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi chính là sơ-tổ phái Thiền-Tôn ở Việt-Nam. Sau Ngài Tỳ- Ni-Ða-Lưu-Chi có Ngài Pháp-Hiển là đệ tử của Ngài Tỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi nối nghiệp thầy, đem đạo Phật truyền sâu trong dân chúng.
2.-Giai đoạn thứ hai.
- Ảnh hưởng của ba đoàn truyền giáo:
Ðến đây, Phật Giáo Việt-Nam bắt đầu thịnh. Lúc bấy giờ nước ta đang lệ thuộc nhà Tùy, vua Cao-Tổ nhà Tùy , nghe nước ta đạo Phật đang phát-triển mạnh, nên vua ban cho các vị danh tăng ở nước ta năm hòm lễ vật, và sắc lịnh cho xây tháp ở ở chùa Pháp-Vân, chùa Trung-Khánh cùng các danh địa khác.
Sau này Tùy mất ngôi (618) nhà Ðường kế nghiệp, vua Ðường-Cao-Tổ củng có ban cho An-Nam năm viên ngọc Xá-Lỵ và sắc dựng chùa xây tháp.
Cũng trong giai đoạn này, những nhà truyền giáo Trung Hoa và Ấn Ðộ, thường mượn đường nước ta mà qua lạ. Trong khi đi ngang Việt- Nam các Ngài thường ghé lại ít lâu để thuyết- pháp, do đó chung ta cũng chịu được nhiều ảnh hưởng tốt. Trong số những doàn truyền giáo ấy, đang kể nhất là ba đoàn sau đây:
1. Ðoàn thứ nhất: Gồm có các Ngài Minh- Viễn pháp-sư, Huệ-Mạnh thiền-sư, và Vô-Hành thiền-sư, đều là người Trung Hoa.
2. Ðoàn thứ hai: Gồm các Ngài Ðàm-Nhuận pháp-sư, Trí-Hoàng pháp-sư, và Tăng-Già-Bạt-Ma (Hai Ngài đều người Trung Hoa và Ngài sau người Tây-Trúc).
3.Ðoàn thứ ba: Gồm sáu nhà sư Việt-Nam là các Ngài Vân-Kỳ thiền-sư, Mộc-Xoa-Ðề-Bà, Khuy-Sung pháp-sư, Huệ-Diệm pháp-sư, Trí- Hành thiền-sư bốn Ngài đầu người Giao-Châu, hai Ngài sau người Ái-Châu (Thanh-Hóa, Nghệ- An bây giờ). Các Ngài này đếu từ Việt-Nam đi sang cầu pháp ở Tây-Trúc và tịch, phần nhiều rất sớm, ở Ấn Ðộ hay Tích-lan.
3.- Giai đoạn thứ ba.
- Sự truyền bá của phái Vô-Ngôn-Thông:
Vào năm 820, nước ta lại được một vị cao- tăng thuộc phái Thiền-Tôn sang truyền giáo và lập thành một phái Thiền-Tôn thứ hai là Ngài Vô-Ngôn-Thông.
Ngài họ Trịnh, quê ở Quảng-Châu. Lúc nhỏ Ngài đã mộ đạo, xuất gia tu học tại chùa Song- Lâm, đất Vũ-Châu (Triết-Giang). Tính Ngài điềm đạm, ít nói nhưng sự lý gì củng hiểu, nên người thời ấy gọi Ngài là Vô-Ngôn-Thông.
Một hôm Ngài đang ngồi lễ Phật, gặp một vị thiền-sư đến điểm-hóa cho Ngài và đưa Ngài di tìm đúc Mã-Tổ mà tham học. Nhưng đến Giang- Tây, Ngài nghe tin đức Mã-Tổ đã tịch rồi, nên Ngài đi đến xin tòng sư với tổ Bạch-Tượng thiên-sư.
Một hôm trong buổi giảng, có vị học tăng hỏi Bạch-Tượng:
-Thế nào là pháp-môn của phái Ðại-thừa?
Tổ trả lời:
-Tâm địa nhược thông, huệ nhật tự chiếu
(nghĩa là:nếu tâm địa thông rồi thì mặt trời huệ tự nhiên chiếu sáng).
Nghe được mấy câu ấy, Ngài Vô-Ngôn- Thông liền ngọ đạo. Ngài trở về Quảng Châu, trụ trì tại chùa An-Hòa. Ðến năm 820, Ngài qua Việt-Nam trú ở chùa Kiến-Sơ, làng Phù-Ðổng (Bắc Ninh ) trọn ngày ngồi xây mặt vào vách mà thiền định. Như thế đã mấy năm mà không ai biết; chỉ có vị sư ở chùa ấy là Cảm-Thành thiền-sư biết Ngài là bậc Cao-tăng đắc đạo trông phái Thiền-Tôn, nên hết lòng kính trọng và thờ làm thầy.
Ngài thị-tịch một cách rất an nhiên tự- tại, vào năm 826 Tây lịch, sau khi truyền tâm ấn cho Ngài Cảm-Thành thiền-sư, Ngài Cảm-Thành thiền-sư lại truyền tâm-ấn cho Ngài Thiện-Hội và gây thành một truyền thống cho phái Vô-Ngôn-Thông (Chúng ta sẽ học tiếp trong các dời vua sau).
4.- Nhận xét chung về Phật Giáo trong giai đoạn này:
*Tóm lại, trong khoảng thời gian gần bốn trăm năm, từ đời Hậu Lý Nam-Ðế (571-602) cho đến hết thời ký Bắc thuộc lần thứ ba (603-939), sự truyền giáo ở Việt-Nam có thể chia làm ba giai đoạn:
-Giai đoạn thứ nhất, do công đức của phái Tỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi
-Giai đoạn thứ hai, do các đoàn truyền giáo Trung Hoa vá Việt-Nam, và sự khuyến khích ủng hộ của các đời vua Tùy và Ðường
-Giai đoạn thứ ba, do phái Vô-Ngôn-Thông.
III.- Phật Giáo Dưới Thời Ðinh Và Tiền Lê (968-1009)
1.- Tình trạng tổng quát của Phật Giáo trong hai đời Ðinh, Lê:
Trong hai đời vua nầy, đạo Phật được tiến phát rất nhiều. Có thể nói Ðạo Phật trở thành độc tôn. Tất cả văn hóa, chính trị trong nước, một phần lớn đều thuộc về tăng-sĩ, cho nên Ðạo Phật được phổ biến dễ dàng trong quần chúng. Mặc dù Nho-giáo và Lão giáo đã truyền vào từ lâu, nhưng không làm sao có uy thế được như Phật Giáo. Trong triều chính thì Ngài Ngô- Châu-Lưu làm đến chức Khuông-Việt thái-sư; trong giới tăng-sĩ thì Ngài Trương Ma-Ni làm Tăng-lục đạo sĩ và pháp-sư Ðặng Huyền Quang làm Sùng-Chân uy-nghi.
Sau khi nhà Ðinh mất ngôi, Lê-Ðại-Hành lên kế vị, chóng lại quân nhà Tống (980) và được thăng lợi. Trong giai đoạn này, các vị tăng-sĩ lại được biệt đãi hơn; vua Lê-Ðại-Hành thường triệu thỉnh các vị Tăng-thống vào triều để bàn hỏi việc nước và khuyến khích việc truyền bá Phật-pháp.
Ðều đáng chú ý trong giai đoạn này là, sau khi đã hòa với nhà Tống, vua Ðại-Hành sai sứ sang triều cống nhà Tống và xin thỉnh bộ "Cữu kinh" và "Ðại tạng kinh" đem về truyền bá. Ðây là lần đầu tiên nước tăng-sĩ công khai sang thỉnh kinh ở Trung Hoa về.
Một điều đáng ghi nhớ nữa là trong giai đoạn này, trong giới tăng-sĩ có hai vị cao-tăng xuất chúng đã làm vẽ vang cho nước nhà một thời. Ðó là Ngài Khuông-Việt thái-sư và Ngài Ðổ- Thuận thiền-sư.
2.-Khuôn việt thái-sư:
- Ngài họ Ngô pháp hiệu là Chân-Lưu, quê ở làng Cát-Lỵ, trụ trì chùa Phật-Ðà. Thuở nhỏ Ngài theo học Nho, lớn lên thọ giới ở Vân-phong thiền-sư ở chùa Khai- Quốc. Từ đó Ngài chuyên đọc kinh điển nhà Phật, hiểu được mọi lẽ cốt yếu của Thiền-Tôn, tiếng tăm lừng lẫy trong nước. Năm Ngài 40 tuổi, vua Ðinh- tiên- hoàng vời vào hỏi đạo, Ngài ứng đối tinh tường, vua rất mến phục và phong làm Tăng-Thống. Năm sau vua lại phong Ngài làm Khuông-Việt thái-sư (Khuông Việt là người có công giúp đở sửa sang người Việt).
Ðến đời vua Lê-Ðại-Hành, Ngài càng được kính trọng hơn nữa. Bao nhiêu việc quan, việc nước, vua thường triệu Ngài đến hỏi. Ngài ở triều được ít lâu rồi lấy cớ già yếu xin cáo vê, dựng một ngôi chùa ở núi Du-hý. Ơí đó, Ngài mở trường dạy hạc, học trò đến rất đông.
Ngày rằm tháng hai, niên hiệu Thuận-Thiên thứ hai đời nhà Lý, Ngài gọi Ða-Bảo thiền-sư là đệ tử thân tín của Ngài đến, truyền tâm pháp qua bài kệ sau đây, rồi chắp tay an-nhiên thị- tịch.
Nguyên văn
Mộc trung nguyên hữu hoa,
Nguyên hỏa phục hoàn sinh,
Nhược vị một vô hỏa,
Toản toại hà do sinh?
Dịch nghĩa:
Trong cây vốn có lữa,
Tia lữa mới sáng lòa,
Nếu bảo cây không có lữa,
Cọ sát sao lại ra?
Ngài thọ được 81 tuổi, và là người thứ tư được truyền tâm pháp của phái Vô-Ngôn- Thông.
3.-Ðỗ-Thuận Thiền-sư:
Ngài dòng họ Ðỗ, không rõ nguyên quán ở đâu, xuất-gia từ thuở nhỏ, thọ-giới với Long- Thọ Phù-Trì thiền-sư. Khi nhà Tiên Lê mới thành nghiệp, Ngài thường được vời vào triều để bàn luận chính trị và ngoại-giao. Vua Ðại- Hành thường gọi là Ðỗ pháp-sư, chứ không dám gọi chính tên. Ngài làm thơ rất hay, và thường được cử ra để đối đáp với các sứ-giả Trung Hoa.
Niên hiệu Hưng-Thống thư hai nhà Tiền-Lê, Ngài thị-tịch, thọ được 76 tuổi. Ngài có làm quyển "Bồ Tát hiệu sám-hối văn", nay truyền lại. Ngài là đời pháp truyền-thống thứ mười của phái Tỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi.
4.- Nhận xét chung về Phật Giáo trong giai đoạn này:
Phật Giáo đời Ðinh-Tiên-Hoàng và Tiền-Lê, sở dĩ được ưu đãi và giữ địa vị độc-tôn, vì những lý do sau đây: các vị tăng-sĩ phần nhiều là nhưng xvị bác học thâm Nho.
Chữ Nho mặc dù trước đó đã được đem dạy ở đất Việt, nhưng vì chưa có khoa thi cử, nên ít người theo học. Chỉ có các vị thiền-sư, vì cần nghiên cứu Phật Giáo qua kinh điển bằng chữ Hán, nên phỉ học nho nhiều.
Những vị sư lúc bấy giờ, vừa túc Nho, vừa hiểu đạo lý mà vừa có đức hạnh, thì lẽ dĩ nhiên trong triều được vua trọng vọng, ngoài dân chúng được kính nể. Ðạo Phật được thạnh hành trong giai đọan này cũng không có gì đáng ngạc nhiên.