A. DẪN NHẬP:
Giáo lý đức Phật đều nhắm vào xây dựng con người chân thiện. Gia đình,xã hội cũng từ con người mà ra, có được những con người hiền thiện thì chắc chắn gia đình sẽ vui tươi hòa ái, xã hội sẽ an lạc hưng thịnh.Bộ kinh này đặt biệt xây dựng cho hàng Phật tử tại gia.
Đứng về phương diện cứu cánh giải thoát,đức Phật muốn trình bày cho chúng ta rõ: Hàng cư sĩ tại gia mà phát nguyện tu hạnh lợi tha cứu độ cho chúng sanh,bố thí cho tất cả mà không thấy có tướng năng thí, tướng sở thí và vật thí là đã gây được nhân vô lậu giải thoát.
Qua kinh Ưu Bà Tắc Giới, Đức Phật đã đề ra phương hướng tu tập cho hàng Phật tử tại gia, khích lệ Phật tử tại gia vượt qua những khó khăn ràng buộc của hoàn cảnh để nổ lực tiến tu.
B. NỘI DUNG CHỦ YẾU:
I.- Chủ đích của kinh Ưu Bà Tắc Giới:
Nói cho đầy đủ là kinh Ưu Bà Tắc Giới. Thông thường ba tạng kinh điển được minh định rõ ràng: Kinh,Luật (giới luatä),Luận. Vậy theo tựa đề,chúng ta cũng thấy được đặc biệt bộ kinh này đức Phật vừa đưa ra những lời giảng dạy vừa nêu ra những giới luật cho người Phật tử tại gia tu tập – Đức Phật hướng dẫn hàng Phật tử tại gia những đường hướng tu tập vững chắc,hiệu nghiệm để tiến bước trên đường giải thoát giác ngộ.Đồng thời người Phật tử tại gia có thể trở thành một Bồ tát tại thế để cùng nhau kiến tạo một cảnh giới an vui tịnh độ ngay trong thế giới ta bà này. Đường hướng tu tập suốt trong bộ kinh này đều xây dựng trên nền tảng Bi – Trí – Dũng.
II.- Bố cục của bộ kinh: Bộ kinh gồm 28 phẩm,được bố cục như sau:
A/ Giới thiệu:
Giới thiệu nơi chốn thời gian,nguyên nhân Phật thuyết giảng. Thành phần thính chúng. Khái quát về danh nghĩa và chủng loại Bồ tát. Đức Phật ca ngợi hàng tại gia tu hạnh Bồ tát. (phẩm 1 – tập hội)
B/ Chánh tôn: Công hạnh tu tập của Ưu Bà Tắc.
1/ Đường hướng tu tập: (từ phẩm 2 đến phẩm 10)
a.Phát tâm bồ đề (phẩm 2: phát tâm Bồ đề) người tu tập cần phải phát tâm bồ đề.
b.Tâm từ bi: Tâm từ bi là nguyên nhân phát sanh tâm Bồ đề vô thượng (phẩm 3: Tâm từ bi)
- Đại bi là nhân sanh ra trí giác
- Phương pháp làm phát khởi tâm từ bi
- Phân biệt bi với đại bi
- Sự lợi ích của tu tâm từ bi (phẩm 4: giải thoát)
c. Giải thích về 3 thứ Bồ đề (phẩm 5: Ba thứ Bồ đề)
d. Tu hạnh nghiệp 32 tướng:
- Công đức tu hạnh nghiệp 32 tướng (phẩm 6: tu 32 tướng)
- Người trí thực hành được phép tu hạnh nghiệp 32 tướng Phẩm 7:
- Những lời phát nguyện của người trí phát nguyện
- Lợi ích của sự lập nguyện
e. Tâm kiên cố của Bồ tát chân thật:
- Phân biệt Bồ tát giả danh và Bồ tát chân thật (phẩm 8: Bồ tát giả và thật)
- Tâm kiên cố của Bồ tát chân thật (phẩm 9: Tâm kiên cố)
f. Liên hệ giữa:
- Bồ đề và đạo Bồ đề (phẩm 10: Từ bi và lợi tha,
- Học và học quả phẩm 11: Trang nghiêm cho
- Tự lợi và lợi tha mình và cho người)
2. Phương thức thực hiện:
a. Trang nghiêm phước trí (phẩm 12: Phước trí trang nghiêm)
b. Nhiếp thủ (phẩm 13: Nhiếp thủ)
c. Thọ giới (phẩm 14: Thọ giới)
d. Tịnh giới (phẩm 15: Tịnh giới)
e. Dứt trừ điều ác (phẩm 16: Dứt trừ điều ác)
f. Cúng dường Tam bảo (phẩm 17: Cúng dường Tam bảo)
3. Thăng tiến tu tập để trở thành Bồ tát tại gia: Sáu phép Ba la mật
a. Khái quát về sáu phép Ba la mật (phẩm 18: Sáu phép Ba la mật)
b. Bố thí Ba la mật (phẩm 19: Bố thí Ba la mật) và pháp Tam quy (phẩm 20: thanh tịnh Tam quy)
c. Trì giới Ba la mật
- Tu bát quan trai giới (phẩm 21: Tu bát quan trai giới)
- 5 giới (phẩm 22: năm giới)
- Trì giới Ba la mật (phẩm 23: trì giới Ba la mật)
- Triển khai về phép thập thiện (phẩm 24: nghiệp)
d. Nhẫn nhục Ba la mật (phẩm 25: Nhẫn nhục Ba la mật)
e. Tinh tấn Ba la mật (phẩm 26: Tinh tấn Ba la mật)
f. Thiền định Ba la mật (phẩm 27: Thiền định Ba la mật)
g. Bát nhã Ba la mật (trí tuệ Ba la mật) (phẩm 28: Bát nhã Ba la mật)
C. KẾT: (phần kết chung trong phẩm cuối này)
Thực hành 6 phép Ba la mật thì cũng là cúng dường 6 phương,và như vậy ngoài lợi ích lớn lao là dẫn đến giác ngộ giải thoát thì đồng thời cũng có được giàu có,sống lâu như người đời (ngoại đạo) thường mong muốn,do phước duyên tu tập.
II. Luợc ý các phẩm kinh:
Phẩm 1: Tập hội: Giới thiệu nơi chốn,thời gian và thính chúng
- Nội dung: Qua việc hỏi đáp của Thiện Sinh đức Phật đưa thủ tục lễ lạy 6 phương của người đời lúc bấy giờ (không phải là đạo Phật – ngoại đạo) hướng vào việc tu 6 pháp Ba la mật, sáu pháp ấy ở trong tâm chúng ta,mỗi người tự tu tập thì sẽ có kết quả chứ không cần lạy bên ngoài.
Cũng qua sự hỏi đáp,đức Phật dạy tiếp: Người có tâm lợi ích chúng sanh (Bồ tát) mới có thể tu được sáu pháp trên (tất cả các phẩm đều dưới hình thức hỏi đáp giữa đức Phật và Thiện Sinh cuối mỗi phẩm đều ca ngợi sự tu tập của người tại gia)
Phẩm 2: Phát tâm Bồ đề:
Nguyên nhân phát tâm Bồ đề chính là lòng tin tưởng trí hiểu biết. Tin tưởng ở khả năng thực hiện được tâm Bồ đề của mình.
Bồ đề là chơn trí có thể chứng được, tánh Bồ đề đã có sẳn trong mọi người chúng ta.
· Phương pháp để phát tâm Bồ đề:
+Gần bạn lành – dẹp nóng giận
+Vâng lời dạy chơn chánh của thầy, bạn
+Mở lòng thương đối với mọi người
+Chuyên tâm tu tập - có tâm khoan hồng
+Không chán nản và tiếc lời khuyên nhủ khi cần khuyên
+Không kiêu hãnh khi làm được việc tốt
+Không ganh tỵ khi thấy người làm điều hay mà mình không làm được
+Thương tất cả các chúng sanh đều như nhau và giúp đỡ bình đẳng
· Có phát tâm Bồ đề mới chắc chắn có thể tu được 6 pháp Ba la mật
Phẩm 3: Tâm từ bi
Đức Phật chỉ cho thấy người phát tâm Bồ đề có khi từ lòng đại bi, có khi do tu tập giải thoát tỏ ngộ được trí giác, thể là đại bi làm nhân sinh ra trí giác.
Ngài đưa ra phương pháp tu tâm từ bi, do quán chúng sanh mê lầm gây nhiều tội ác phải chịu sa vào những cảnh khổ đau, thiếu thốn mọi bề, khổ não, bệnh tật thì lòng từ bi mới phát sinh.
Tu từ bi tâm,dù chưa dứt phiền não nhưng có nhiều lợi ích vì tâm từ bi là động cơ phát sinh tất cả các pháp lành,chính pháp lục độ cũng từ hạt nhân là tâm từ bi.
Phẩm 4: Giải thoát
Người tu tâm từ bi sẽ được một pháp thể gọi là giải thoát phần. Ba phương tiện để giải thoát phần là: Bố thí, giữ giới, nghe nhiều. Được giải thoát phần cũng không hẳn do bố thí rất nhiều, cũng không hẳn đã qua nhiều đời thọ trì giới cấm,cũng không hẳn đã qua nhiều đời đọc tụng nhiều kinh điển. Ngược lại có người chỉ bố thí một vắt cơm cho người ăn xin hoặc chỉ trong một ngày đêm thọ bát quan trai giới hay cũng có người chỉ đọc một bài kệ 4 câu mà lại được pháp thể giải thoát phần.
Tùy theo tâm của chúng sanh,cốt yếu là phải biết nhất tâm quán chiếu sanh tử, tội lỗi, niết bàn an vui, thì dù bố thí ít, giữ giới ít, nghe pháp ít cũng được pháp thể giải thoát phần
Bồ đề có 4 chủng tử:
- Không tham của cải
- Không tiếc thân mạng
- Tu hạnh nhẫn nhục
- Thương mến chúng sanh
Bồ đề có 5 điều để tăng trưởng chủng tử:
1- Không tự ti là mình không thể đạt được trí giác vô thượng.
2- Thọ khổ mà không hối hận, không buồn nản.
3- Tinh tấn tu tập không thối chuyển.
4- Cứu giúp không lường chúng sanh khổ não.
5- Ca ngợi công đức cao cả của Tam bảo.
Cũng có thể tăng trưởng chủng tử Bồ đề bằng thực hành sáu phép Ba la mật không thối chuyển.
Phẩm 5: Ba thứ Bồ đề
Trí Bồ đề của Thanh văn,do nghe giáo lý Tứ đế mà được. Trí bồ đề duyên giác nhờ suy nghĩ lý duyên sanh mà tỏ ngộ. Trí Bồ đề của Phật hoàn toàn do thực hành mà có. Trí giác của Thanh văn,Duyên giác chỉ biết tướng tổ hợp sự vật là giả nhưng còn chấp tướng. Trí giác của Phật chẳng những biết tướng tổ hợp mà còn biết tướng riêng biệt của sự vật,nhân sinh,vũ trụ. Vì vậy trí Bồ đề của Thanh văn,Duyên giác không phải là chân chánh Bồ đề.
Phẩm 6: Tu hạnh nghiệp 32 tướng
32 tướng là kết qủa của tu tâm từ bi,hạnh đại bi toàn thân đức Phật là hiện thân trăm phước đức của nhiều đời nhiều kiếp,vì vậy tu pháp này không những có 32 tướng tốt mà còn đạt được vô thượng Bồ đề.
Phẩm 7: Phát nguyện
Những lời phát nguyện (tuy nhiều nhưng không ngoài 4 lời nguyện lớn)
1-Thề nguyện cứu độ tất cả các chúng sanh,cứu khổ ban vui không phân biệt người thân, kẻ oán.Trong khi cứu độ,gặp nghịch cảnh trái ý vẫn tín hành không thối chí
2-Thề nguyện trừ sạch tận gốc hành vi tâm niệm xấu xa,hung ác của mình,của mọi người,không ham muốn thân mạng và tạo nghiệp ác.
3-Thề nguyện học hỏi giáo lý và đem giáo lý thuyết hóa mọi người tu hành chánh đạo.
4-Phật đạo vô thượng thề nguyện được thành tựu
· Kết quả của sự phát nguyện:- Tăng trưởng phước đức
- Trí tuệ thanh tịnh,sáng suốt
Phẩm 8: Bồ tát giả và thật
- Bồ tát giả là những người tự xưng là Bồ tát mà hành động không đúng theo hạnh Bồ tát hoặc trước có phát tâm Bồ đề nhưng sau lại thối chuyển.
- Bồ tát thật là những vị đã phát tâm Bồ đề, thực hiện cái pháp tu tập của Bồ tát, không thối chuyển, bố thí rộng rãi, không chùn bước trước nghịch cảnh,thực hiện lợi tha, thực tập thiền định có phát nguyện rộng lớn.
Phẩm 9: Tâm kiên cố của Bồ tát chân thật
Bàn rộng hạnh của Bồ tát chân thật
-Khi nào cũng vì chúng sanh nên khi tu sáu pháp Ba la mật không không mong kết qủa cho mình mà chỉ cầu cho chúng sanh được nhiều lợi lạc.
- Lúc thực hiện độ sanh dùng lời lẽ ôn tồn nhã nhặn để người nghe khởi tâm kính mến.
-Khi giảng gặp người u tối khó tiếp thu hay người hung dữ cũng kiên nhẫn không chán nản
-Bố thí luôn luôn hoan hỷ,không bao giờ mong trả ơn không cầu qủa báo.
-Trong mọi hành động phải luôn luôn xét lại mình là Bồ tát thật hay Bồ tát giả.
Phẩm 10: Tự lợi và lợi tha:
- Liên hệ giữa Bồ đề và đạo Bồ đề: Đaọ Bồ đề là nhân, Bồ đề là qủa. Nhân quả không thể tách rời nhau, nếu lìa Bồ đề không thể thành đạo Bồ đề, hay lìa đạo Bồ đề cũng không có Bồ đề (Quả cao tột của Đại thừa)
-Liên hệ giữa học và học quả:Thực hành đạo Bồ đề chưa đầy đủ mà tâm không thối chuyển, gọi là học. Đã được đầy đủ mà không thối chuyển gọi là học qủa.
- Tự lợi và lợi tha:
1- Mình và người đều được lợi lớn: Bồ tát không phải chỉ vì mình mà trau tâm sửa tánh mà chính vì muốn làm gương cho mọi người,giáo hóa mọi người.Như vậy trong khi lợi mình thì đồng thời cũng lợi người. Với Bồ Tát thì tự lợi cũng là lợi tha.
2- Cần thực hành những hạnh làm cho mình và người đều lợi. Muốn được vậy trước hết phải rèn luyện đức khoan hồng,trí sáng suốt,tinh thần mạnh mẽ rồi mới thực hành những sự nghiệp hữu ích – những người thông thạo ngũ minh dễ thực hiện những việc lợi mình lợi người.
3- Hàng xuất gia và tại gia cũng có những tương quan tương duyên trong vấn đề tự lợi và lợi tha.
Phẩm 11: Trang nghiêm cho mình và người.
Có 8 pháp lợi ích cho mình và người:
1- Sống lâu
2- Sắc đẹp không ai bằng
3- Sức khỏe dồi dào
4- Sanh trong dòng họ cao sang
5- Đủ thân nam tử
6- Có nhiều của báu
7- Lời nói rỏ ràng
8- Không run sợ trước đám đông
Nguyên nhân được tám pháp ấy (tương ứng)
1- Không giết hại
2- Bố thí y phục,đèn đuốc
3- Bố thí thức ăn uống
4- Dẹp lòng kiêu mạng
5- Chán thân nữ
6- Bố thí tiền của,giáo pháp
7- Thành tâm giữ giới
8- Cúng dường Tam bảo
- Nhân duyên thành tựu 8 điều trên: 3 thanh tịnh
1- Của thí trong sạnh (của làm ra do nghề nghiệp chính đáng)
2- Tâm trong sạch (không vì danh lợi, không vì trả ơn)
3- Phước điền thanh tịnh (người lãnh thọ có đạo đức)
8 mong cầu: 8 pháp lợi ích từ mong cầu lợi tha
Thành đạt tám điều ấy còn có được kết qủa: - Có đức cao mà không kiêu mạn
- Trong thế tục mà không nhiễm ô
Phẩm 12: Phước trí trang nghiêm
Do tu sáu pháp Ba la mật và sáu niệm mà được phước trí trang nghiêm. Sáu pháp Ba la mật thì bố thí,trì giới,tinh tấn đưa đến phước. Nhẫn nhục, thiền định,trí tuệ đưa đến trí.
Sáu niệm thì: Tưởng niệm Phật, Pháp, Tăng đưa đến trí.
Ghi nhớ trì giới,bố thí đưa đến phước
Bồ Tát tu trang nghiêm phước trí là vì mọi người mà tu,dù gian lao cực khổ vẫn không sờn lòng. Khích lệ giới tại gia trang nghiêm phước trí.
Phẩm 13: Nhiếp thủ
- Phải dùng Tứ nhiếp pháp mà thu phục người
- Bồ Tát xuất gia giáo hóa đệ tử tại gia và xuất gia
- Bồ Tát tại gia chỉ dạy người tại gia
Phẩm 14: Thọ giới
Trong 13 phẩm trước đây đã chỉ rỏ tư cách của người thọ giới,phẩm này nêu rõ điều kiện thọ giới để người tu học nhận biết được mình có thể học và trì giới không.
* Những điều kiện cần có trước khi thọ giới.
1- Phải thực hiện sáu phép Ba la mật
2- Được mọi người thân thích tán thành
3 - Không có hành động xấu xa dĩ vãng (gạn hỏi hành động dĩ vãng)
* Tiến trình thọ giới:
Sau một thời gian gần gủi chư Tăng học tập,chư Tăng xét thấy đương sự đây đủ tư cách và khả năng thọ giới thì chư tăng họp lại,trình bày các điều kiện người thọ giới đã có đủ. Toàn thể chư Tăng trong chúng đều đồng ý mới tiến hành truyền giới.
Tuỳ theo căn cơ khả năng mà giới tử có thể thọ 1,2,3. ... giới chứ không nhất thiết phải đầy đủ tất cả,trao Tam quy rồi mới truyền giới
* Giới trọng và giới khinh
- Có sáu giới trọng: Mỗi khi phạm phải xuất giới chứ không thể sám hối (năm giới chúng ta từng thọ trì thêm 1 giới nữa: Không nói những điều lỗi lầm của Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di)
- 28 giới khinh: Nếu vi phạm nhưng không vì cố ý thì xem như không phạm,nếu cố ý nhưng sau đó biết ăn năn sám hối thì tội tiêu tan, không khởi tâm sám hối thì bị đọa lạc.
1- Thất ý không cúng dường cha, mẹ, sư trưởng
2- Thất ý uống rượu
3- Vì nhờm gớm không chăm sóc người bệnh
4- Không bố thí chút gì cho người nghèo đói
5- Thấy các vị Tỳ kheo,Tỳ kheo ni,Trưởng lảo tôn túc,Ưu bà tắc, Ưu bà di mà không đứng dậy tiếp rước,chào hỏi
6- Thấy người khác phá giới mà mình sanh tâm ngạo mạn
7- Trong 1 tháng không có đủ 6 kỳ tu bát quan trai giới
8- Biết có tăng sĩ giảng pháp trong phạm vi 40 dặm mà không đến nghe pháp
20 giới tiếp theo là những sự việc linh tinh khác
Phẩm 15: Tịnh giới Phương pháp giữ tịnh giới tóm tắt trong 3 điều:
1- Vì luật nhân qủa và sự quy ngưỡng Tam bảo,phải có một đức tin mạnh mẽ ở Tam bảo.
2- Phải có lòng từ bi rộng lớn,bình đẳng
3- Phải có hạnh nguyện lợi tha cứu khổ và thực hiện một cách bình đẳng vô tư
Phẩm 16: Trừ các điều ác: Phương pháp đối trị,tiêu trừ các điều ác
- Chí tâm quán niệm công đức chư Phật
- Chí tâm quán niệm phước trí cao cả của chư Phật
- Tịnh giới
Phẩm 17: Cúng dường Tam bảo
Phải cúng dường Tam bảo một cách cung kính,chân thành và sáng suốt.
Cúng dường Tam bảo dẫn đến lợi ích:
- Hiện tại không bao giờ xa Phật pháp,đời sống an lành
- Tương lai: được giải thoát sanh tử,khổ đau
Phẩm 18: Sáu phép Ba la mật
Các đối tượng có thể thực hành 6 phép Ba la mật.
- Tâm lượng rộng rải, không bỏn xẻn, có thể thực hành bố thí Ba la mật
- Giữ gìn được ý nghĩ, lời nói, hành động luôn trong sạch thì có thể thực hành trì giới Ba la mật
- Nhẫn nhục được những điều nghịch ý, xem kẻ nghịch như bản thân thì có thể thực hành được nhẫn nhục Ba la Mật.
- Có thể vì những công việc, lợi người mà hăng say làm không kể đêm ngày,không kể đói lạnh thì có thể thực hành tinh tấn Ba la mật
- Thích yên tĩnh, tập trung tư tưởng có thể thực hành thiền định Ba la mật
- Uyên thâm giáo lý, thông hiểu dễ dàng những kiến thức văn hóa thế gian,thích giữ gìn trí tuệ trong sáng thì có thể thực hành trí tuệ Ba la mật (bát nhã Ba la mật)
- Trong mỗi pháp Ba la mật đều mang 4 tính chất:
1- Hàng phục chúng sanh,trang nghiêm Bồ đề
2- Lìa chướng ngại tương đối
3- Lợi mình
4- Lợi người
- Sáu pháp Ba la mật đều có giá trị,công năng như nhau,không có pháp nào trọng hơn pháp nào,vì mỗi pháp đều có thể tướng riêng
Phẩm 19: Bố thí Ba la mật
* Bồ Tát bố thí cốt yếu tự lợi và lợi tha,trong khi bố thí có đủ trí tuệ nên bình đẳng không phân biệt kẻ oán người thân
* Có 5 cách bố thí: 1 - Chí tâm, 2 - Chính tự tay mình,3- Tín tâm,4- Đúng thời tiết, 5- Vật bố thí đúng chánh pháp (do tự mình có được một cách chân chánh)
* Có 3 loại bố thí: pháp thí, tài thí, vô uý thí
* Những chướng ngại trong việc bố thí:
- Bố thí mà lòng bỏn xẻn
- Khinh của vật ít
- Không tu hạnh bố thí
- Cầu phước thế gian
* Có 3 hạng thí chủ:
1/ không tin nhân qủa,tâm bỏn xẻn nhưng vì lý do gì đó,bất đắc dĩ phải cho
2/ Có tin nhân qủa nhưng vẫn còn bỏn xẻn không muốn cho
3/ Tin nhân qủa rõ được lẽ vô thường,vui mừng khi cho
* Cần biết quán xét khi bố thí:
- Quán mọi vật đều vô thường - quán người xin là ân nhân
* Người trí ưa bố thí là muốn thành tựu qủa vô thượng đó là bố thí một cách thù thắng
*Người nghèo cũng có thể bố thí vì bố thí có 3 loại như đã nói trên chứ không chỉ có tài thí, mà tài thí cũng có nội tài và ngoại tài, có thể giúp sức lực, giúp ý kiến, kế hoạch làm ăn... chứ không chỉ một mặt tiền của.
* Bố thí Ba la mật vượt ra ngoài ý niệm “người thí”, “người thọ” nhưng do định luật nhân quả nên có qủa báo tùy nhân tùy duyên. Hơn nữa bao nhiêu hành vi cử chỉ thiện ác đều huân tập trong thức A lại gia,như thế không bao giờ mất mà mỗi khi đủ duyên sẽ phát khởi và thành qủa. Hơn nữa nếu bố thí đúng phép Ba la mật thì ngay khi bố thí ta đã thấy vui mừng chính đó cũng là kết qủa rối
*Cần tránh bố thí thấp kém, đó là bố thí để lấy tiếng (danh), bố thí lựa người (dễ thương,không dễ thương. ..),bố thí lựa lọc (bạc rách,trái cây hư. ..) bố thí ý niệm mong cầu qủa báo
* Bố thí cho kẻ ác với tâm từ bi giúp họ qua cơn đói khổ thì không thể nói là đã trợ duyên cho kẻ làm ác mà qủa ác chỉ người ấy gánh chịu thôi
* Bố thí nhiều ít không do ở của bố thí mà do ở tâm lượng người bố thí
* Thực hành tài thí phải song song với pháp thí
* Bố thí thuốc men,chữa trị người bệnh là phước đức lớn
Phẩm 20: Thanh tịnh Tam quy
Người đã thọ Tam quy mà còn thờ cúng qủy thần tin tưởng quyền năng qủy thần học giáo lý ngoại đạo kết bạn với kẻ tàn ác và mê tín dị đoan thì người ấy mất giới thể Tam quy.
Phẩm 21: Bát quan trai giới
Bát quan trai giới là 8 giới cho người tại gia tập hạnh xuất gia trong thời gian ngắn để dần dần có thể giải thoát luân hồi. Thực hiện được thì phước đức vô lượng. Mỗi kỳ ít nhất là 1 ngày đêm.
Phẩm 22: Năm giới:
Người Phật tử hiểu rõ nhân qủa,duyên sinh thì một điều lành nhỏ cũng không bỏ một điều ác nhỏ cũng tránh xa. Khi lỡ phạm lỗi nhỏ tâm thường lo sợ,hỗ thẹn.Người ấy biết giữ gìn 3 nghiệp.
* Muốn vượt khỏi bể sanh tử trầm luân, phải chí tâm thọ trì 5 giới.
Phẩm 23: Trì giới Ba la mật.
3 phẩm trước có nói đến trì giới nhưng đó là nói chung,nhân,thiên,hay tam thừa đều có thể giữ,giới Ba la mật mới đúng là Đại thừa giới.
Để được bền chí tiến đến qủa Bồ đề:
- Có 4 pháp kiên cố:
1- Thọ khổ lớn mà không bỏ chánh pháp.
2- Có thể lực,sức mạnh mà tu được đức nhẫn.
3- Sống trong nghèo khổ mà hay bố thí.
4- Xuất gia lúc tuổi nhỏ mới đủ đức hành đạo
- Tất cả công đức lành đều do giới mà sanh trưởng
- Sau khi thọ giới,điều không nên làm mà làm là phạm giới. Người Phật tử khi thọ giới là phải gìn giữ (trì) dù bất cứ ‘trong hoàncảnh nào.
- Trì giới đến mức độ “vô tướng trì giới” nghĩa là không còn khởi niệm phân biệt người giữ giới và giới điều mới là cứu cánh,gọi là “Trì Giới Đáo Bỉ Ngạn”
- Trong khi trì giới vẫn thực hành 5 pháp kia mới là rốt ráo.
Phẩm 24: Nghiệp
- Nghiệp qủa bất thiện thọ sanh các cõi dữ, nghiệp qủa không thuần nên bị sa đọa, muốn khỏi sa đọa thoát được luân hồi phải tu 10 nghiệp thiện.
- Tất cả hành động đều do ý thức, nên giữ ý thức đừng khởi tham,sân,si. Do 3 nghiệp nơi ý thức mà có 7 nghiệp nơi thân, khẩu. Nếu biết chuyển hóa về nẻo thiện thì hành động trở thành thiện.
- Trong 10 nghiệp bất thiện có khi một lúc làm cả hai,ba
- Tuỳ theo tâm niệm,tùy theo hoàn cảnh mà nặng nhẹ khác nhau (giết người nặng hơn giết thú vật,giết cha mẹ nặng hơn giết người khác,mắng chúng Tăng nặng hơn mắng người thường. ..)
Tu mười nghiệp thiện sẽ đem lại kết qủa tốt cho ta và cho hoàn cảnh quanh ta.
- Ý nghiệp tương tục trên 3 thời gian để điều khiển thân khẩu,nếu mới chỉ có ý thì chỉ có nghiệp mà chưa thành đạo nghiệp vì chưa thực hành.
- Đối với ác giới của ngoại đạo thì theo giới ác đã tạo nghiệp ác chứ chưa đợi phải hành động (ví dụ: thọ điều thệ nguyện phải giết một con dê để tế thần mỗi năm,tuy chưa giết nhưng đã có lời thệ nguyện thì đã tạo ác nghiệp)
- Ngũ nghiệp tội:
+ Phước điền của chúng sanh có 2 thứ: công đức điền - báo ân điền, nếu phá hoại 2 thứ phước điền ấy thì thuộc loại ngũ nghịch tội,do vì tâm qúa hung ác,không biết phước đức,không thấy qủa chân chánh.
+ Mức độ 5 tội ngũ nghịch: phá sự hòa hợp tăng nặng hơn làm thân Phật chảy máu,làm thân Phật chảy máu nặng hơn giết vị La hán,giết vị La hán nặng hơn giết cha mẹ,giết mẹ nặng hơn giết cha (đọa vô gián địa ngục)
- Chúng sanh thọ các báo nghiệp lâu hay mau đều do mức độ của nghiệp đã tạo chứ không một ai phân định. Tất cả đều do chính mình mà thôi.
Phẩm 25: Nhẫn nhục Ba la mật
- Nhẫn những sự khó nhẫn,những nỗi khó nhẫn
- Chỉ có hàng Đại thừa Bồ Tát mới có được vô tướng nhẫn,nhẫn đến chổ cứu cánh.
- Phương pháp tu nhẫn:
Phá tâm kiêu mạn,đừng thấy mình là quan trọng,đừng nhiều tự ái
- Bỏ tính giận hờn,tập hạnh hỷ xả
- Biết cách quán: ví dụ khi nghe tiếng mắng nhưng ta quán trong câu ấy có nhiều tiếng ghép lại,khi từng tiếng riêng rẽ thì không có nghĩa gì. Hoặc cách quán khác: khi nghe tiếng mắng,ta quán xét mình có lỗi hay không,nếu có lỗi thì mắng là đúng sao ta đem lòng tức giận,còn mình không có lỗi thì người mắng nghe lại câu ấy,đâu có dính gì đến mình,một cách giản tiện nữa là niệm Phật.
-Người tu nhẫn,sắc diện hiền hòa,tướng mạo ung dung,hoan hỷ
-Nếu vô ý khởi tâm sân thì phải biết xấu hổ và ăn năn sám hối
Phẩm 26: Tinh tấn Ba la mật
- Tinh tấn dứt ác,ngừa ác,tinh tấn làm việc thiện
- Siêng năng, nổ lực làm việc quấy đều là tà tinh tấn, siêng năng làm những việc hợp giáo pháp, lợi mình lợi người là chánh tinh tấn.
Chỉ có tinh tấn của Đại thừa Bồ Tát mới là tinh tấn Ba la mật - vì tinh tấn đến chỗ vô tướng,không còn thấy thời gian dài ngắn.
Phẩm 27: Thiền định Ba la mật
- Tướng trạng tu thiền định: Chuyên tâm trì giới, tập hạnh Từ bi, Hỷ xả, xa lìa phiền não, tu các pháp lành.
- Phép tu thiền: Cần gần gủi vị thiện trí thức chân chính, tu tập các phép thiền (đúng là thiền Phật giáo - vì ngoại đạo cũng có thiền) thường ở chỗ vắng lặng, bớt nói năng, ít ngủ nghỉ, chánh niệm hoàn toàn, không buông lung, giữ tâm và thân thanh tịnh,hiểu rõ tự thân, quan sát tâm lý, khi có những nỗi vui,mừng, buồn, giận, hay một ý tưởng gì nổi lên trong tâm, ta phải nhận biết rõ và diệt trừ.
- Tu thiền định có thể đưa đến giải thoát sinh tử khổ đau, phá các chướng nhiễm chứng thành nhứt thế chủng trí.
- Thiền định ngoại đạo không đưa đến cứu cánh,chỉ có thiền Ba la mật của Đại thừa Bồ Tát mới đạt cứu cánh viên mãn mà thôi.
Phẩm 28: Bát nhã Ba la mật (Trí tuệ Ba la mật)
Tất cả mọi vấn đề,muốn được thành tựu tốt đẹp đều phải có trí tuệ soi sáng Muốn được năm pháp Ba la mật trước thì cần phải có Bát nhã trí,vì vậy đức Phật nói bát Nhã ba la mật sau cùng.
Văn huệ do nghe mà được,tư huệ do nghĩ mà có,tu huệ do tập mà thành,người tu huệ khi làm việc gì cũng không sai lầm.
-Huệ của phàm phu,của Tiểu thừa còn giới hạn,còn huệ của Đại thừa mới rốt ráo,mới đúng là Bát nhã Ba la mật.
Thực hành Ba la mật thì có thể cúng dường sáu phương,ý nói thực hành Ba la mật tức là đã cúng duờng sáu phương một cách đúng pháp.
Cuối mỗi phẩm đức Phật đều nêu sự khó khăn trong việc tu hành của người tại gia vì những chướng ngại,những ràng buộc của gia đình của thế tục để ca ngợi và khích lệ sự tiến tu của hàng Ưu bà tắc (Ưu bà di)
* Ba la mật: Trung Hoa dịch là “Đáo Bỉ Ngạn” từ bờ sinh tử đã bước sang bờ niết bàn rồi,tức là đã đến cứu cánh giải thoát. Sáu pháp Ba la mật,ý nói sáu pháp để đạt đến cứu cánh giải thoát.
IV. Cương yếu của bộ kinh:
Sau khi phân tích bố cục của bộ kinh và lược qua từng phẩm của bộ kinh,chúng ta rút ra được cương yếu của bộ kinh có 3 vấn đề mấu chốt:
1- Trọng tâm của bộ kinh: Bộ kinh có 3 trọng tâm:
a. Giới của Ưu bà tắc là trọng tâm của kinh,đây là giới của Bồ Tát tại gia,tựa đề là KINH ƯU TẮC GIỚI đã cho chúng ta thấy rõ điều đó. Chính đó là trọng tâm của kinh nên trong bộ kinh đã có nhiều phẩm nhắc nhở tầm quan trọng của giới,phương pháp trì giới,tịnh giới (phẩm 14,15,23)
b. Trọng tâm thứ hai là xây dựng Bồ Tát Tại Gia. Trong Tất cả các phẩm phẩm nào đoạn kết cũng sách tấn người tại gia tu hạnh Bồ Tát. Người tại gia hoàn cảnh buộc ràng khó khăn không dễ gì như qúy vị xuất gia. Tuy xuất gia tu tập dễ dàng hơn nhưng đối với đông đảo quấn chúng Phật tử thì số lượng người xuất gia rất ít ỏi,nếu Phật không dùng phương tiện giảng dạy kinh này thì Phật pháp không được phổ cập. Lại nữa khi người tại gia đã có tâm cầu đạo vô thượng,đã tu tập để trở thành Bồ Tát tại gia thì khi có thuận duyên xuất gia lại rất dễ dàng,từ một Bồ Tát tại gia đến một Tỳ kheo không có gì là ngăn cách. Trọng tâm của tại gia Bồ Tát chúng ta thấy rất rõ nét,từ phẩm thứ nhất đến phẩm thứ 18 là dưỡng thành hạnh tại gia Bồ Tát,từ phẩm 19 trở đi là thăng tiến tu tập của Bồ Tát tại gia: khuyến tu lục độ (sáu pháp Ba la mật)
c. Kinh này cũng lấy phát Bồ đề tâm làm trọng tâm. Phẩm đầu đã đề cập: không cần biện có Bồ Tát tánh hay không đều có thể phát Bồ đề tâm, “ nếu sẳn có tánh Bồ Tát thì không có người mới phát tâm và kẻ thối tâm ; do nhiều nhân duyên lành phát tâm Bồ đề mới gọi là Bồ Tát". Kế đó Ngài nói về bi tâm và rốt lại,dạy 1000 Ưu bà tắc phát Bồ đề tâm.
2 - Các vấn đề được đặc biệt chú trọng:Qua bộ kinh này chúng ta cũng thấy được những vấn đề được Phật đặc biệt nhắc nhở:
a. Tu phước bằng sự bố thí:
Từ đầu đến cuối bộ kinh đều khuyên mọi người tại gia đều làm công hạnh bố thí đúng pháp để được tăng trưởng của cải và mạng sống.
b. Hạnh không buông lung:
Đức Phật thường nhắc nhở đại chúng không buông lung không thối tâm mà phải luôn luôn tinh tấn tu tập. Ngài đã đề cao hạnh tinh tấn,tinh tấn là chánh nhân của lục độ,một phẩm riêng nói đến “ tinh tấn Ba la mật”
c. Chú trọng sự thành qủa:
Đặc biệt chú trọng về sự tu hành thành tựu oai lực để nhiếp phục chúng sanh,dõng mãnh tinh tấn mưu sự lợi ích chung cho xã hội.
Nếu mọi người trong chúng Ưu bà tắc (Ưu bà di) đều trở thành những Bồ Tát tại gia,vì tự lợi,lợi tha đem vui,cứu khổ,tế độ mọi người thì thế giới Ta bà có khác gì cõi Tịnh độ. Đó là điểm mấu chốt mà đức Phật chú trọng sự thành qủa.
3. Vận dụng linh hoạt:
Qua toàn bộ kinh chúng ta cảm nhận đức Phật là một nhà tâm lý tuyệt vời, một nhà văn hóa tuyệt diệu:
a. Cũng từ phong tục tập quán thế gian mà chuyển hóa,Ngài không phủ nhận những phong tục tập quán thế gian (ngoại đạo) mà lại vận dụng nó một cách linh hoạt,đưa vào đó một nội dung chánh pháp,dựa vào đó để chuyển hóa con người. Thiện Sinh đã theo phong tục,tập quán lễ lạy sáu phương một cách trống rỗng,vô bổ,Ngài cũng từ đó giáo hóa cho Thiện Sinh,và cả ngàn Ưu bà tắc về phép tu sáu pháp Ba la mật (lục độ) để vừa giải thoát cho cá nhân vừa làm đẹp cho cuộc đời. Nhờ đó phong tục lễ lạy sáu phương trở thành có ý nghĩa,trở thành nét văn hóa. Đấy cũng là một vấn đề tâm lý.
b. Dựa vào tâm lý:
- Để giúp con người có thể dần dần dứt điều ác của mình vì căn cơ,vì tập khí cũ,Ngài đã dạy phương pháp đối trị: Lấy công đức của sự niệm tưởng tướng hảo của Phật để làm công năng dứt ác (đưa về tông tịnh dộ)
- Cũng căn bản dựa vào tâm lý con người mà ban đầu đức Phật dạy lễ lạy 6 phương với nội dung, ý nghĩa như Phật trình bày mới được phước báu, được nhiều của cải và thọ mạng. Nhưng theo sự dẫn dắt tu tập dần dần, đến mức độ tỏ ngộ thì Ngài dạy bố thí Ba la mật, bố thí vì lợi lạc chúng sanh mà không vì cầu phước báo cho bản thân mình và nếu Bồ Tát có cầu sống lâu, cầu sắc đẹp, cầu lời nói rõ ràng cũng vì lợi ích chúng sanh, vì đạo Bồ đề.
Trong phẩm "tự lợi và lợi tha", đức Phật dạy: “sở dĩ Bồ Tát cầu sống lâu vì muốn chúng sanh khen ngợi” giới không giết hại. .. cầu sắc đẹp hơn hết vì muốn chúng sanh nhiếp ba quán: không,giã,trung. thấy “điều vui mừng”, cầu sức lực sung túc vì muốn đủ sức khỏe để trì giới,tụng kinh,thiền định. .. cầu được có lời nói rõ ràng vì muốn chúng sanh nhận lãnh được giáo pháp”
4. Cốt lõi trong đường hướng tu tập:
Nghiên cứu kỹ chúng ta cũng thấy được cốt lõi trong đường hướng tu tập ở bộ kinh này. Trong phẩm Bố thí, phẩm Nghiệp, phẩm Thanh tịnh Tam quy, phẩm Nhẫn nhục đều phá tự ngã, phá tự tại thiên, tu tập không quán. Từ trong nghiệp qủa tương tục mà xiển minh lý trung đạo: không đoạn,không thường,phi thật,phi hư,tức nhiếp về Đại thừa pháp tánh,pháp tướng mà cũng gồm nhiếp ba quán: không, giai,trung.
* Như vậy bộ kinh này hàng phật tử tại gia Ưu bà tắc (Ưu bà di) dễ lãnh hội và dựa trên đường hướng tu tập đã trình bày cặn kẽ trong bộ kinh mà có thể vạch ra phương án tu tập cho chính mình.
C- KẾT THÚC:
Đây là một bộ kinh,đặc biệt dành cho giới cư sĩ tại gia “Kinh Ưu bà tắc giới”, đức Phật đã giảng dạy rất cụ thể,trình bày đường hướng tu tập rõ ràng. Ngài cũng đã dẫn dắt chúng ta từng bước,từ một Phật tử sơ cơ (Thiện Sinh) chưa hiểu gì giáo pháp (lễ lạy sáu phương cầu phước mà chỉ theo tập tục - nếu không nói là mê tín - không mang theo một nội dung nào,không có môït ý nghĩa gì) có thể trở thành một Bồ Tát tại gia,vẫn hòa mình trong thế tục mà lại sống vì mọi người. cứu độ mọi người, đơm hương cho cuộc sống.
Ngài hướng dẫn từ cái sơ đẳng đến tiến phát dần dần để thăng tiến tu tập: sáu pháp Ba la mật.
Người Huynh trưởng chúng ta học giáo lý không phải chỉ cốt để hiểu suông và cũng không phải để có vốn liếng mà tranh biện với người khác. Chúng ta học để mà tu.
Vậy ngay sau khi học hiểu thấu đáo kinh này,mỗi người trong chúng ta nắm lấy những đường hướng tu tập trong kinh rồi xây dựng phương án tu tập cho chính mình,được vậy sẽ lợi lạc cho cả bản thân mình và xã hội.
*Ghi chú:
-Tùy theo thời lượng để triển khai bài này nhưng ít nhất cũng được giảng trong 4 giờ.
-Phần I,III và IV Huynh trưởng cần được tiếp thu thấu đáo. Phần II Huynh trưởng có thể tự nghiên cứu.
-Nếu có thì giờ rộng rãi thì nên đọc lại nguyên văn các phẩm trong kinh.
Tài liệu tham khảo: Kinh Ưu Bà Tắc Giới bản dịch của Sa Môn Thích Quảng Minh.