A. Dẫn nhập:
Sống ngay với hiện tại ắt hẳn không thể nào tách lìa cuộc sống của thế gian. Điều đó quá rõ ràng. Cuộc sống trọn vẹn trong hiên tại chính là cuộc sống có cống hiến lớn nhất đối với xã hội và đối với bản thân. Cũng là kiểu sống tốt đẹp nhất, an lạc nhất, hạnh phúc nhất. Kiểu sống đó chính là kiểu sống của đạo Phật. Đạo Phật là một kiểu sống, một khoa học và một nghệ thuật sống đi vào chiều sâu của tâm hồn. Đó là cái nếp sống trọn vẹn.
Muốn thực hiện cái nếp sống trọn vẹn ấy thì phải có những phương thức thích hợp với tinh thần nhập thế, phải có những kiến thức làm nền tảng cho những phương thức hành động. Kiến thức ấy đạo Phật gọi là "MINH". Đại khái có năm phần, gọi là "Ngũ Minh".
B. Ngũ Minh Pháp:
I. Định nghĩa:
Ngũ Minh là năm kiến thức mà người hoằng pháp nói chung và người Huynh trưởng nói riêng cần phải am tường. Đó là: Nội minh, Nhân minh, Thanh minh, Công xảo minh, Y phương minh.
II. Nội dung của ngũ minh:
1. Nội minh:
Nội minh là kiến thức về nội điển Phật giáo. Như đã nói ở trên, mục đích đức Phật ra đời là "khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến". Giáo pháp của đức Phật là những phương pháp đưa chúng sanh từ chỗ khổ đau đến chỗ an vui, từ mê lầm đến giác ngộ.
Người Huynh trưởng muốn đem giáo pháp truyền bá cho đàn em của mình, cho những người chung quanh để đều được hưởng lợi ích thì trước hết tự mình phải hiểu rõ giáo lý của đạo Phật. Nếu không hiểu giáo lý của đạo Phật thì không thể nào thực hành đúng Phật pháp. Những tình trạng lộn xộn, mê tín, lố lăng của đạo Phật Việt nam sở dĩ có ra cũng vì người hành đạo thiếu sự am tường về giáo lý (nội điển).
Bao giờ đạo Phật cũng chủ trương: Hiểu rồi mới làm. Làm mà không hiểu ắt phải bị lạc hướng. Hướng dẫn giảng dạy giáo lý cho các em của mình (vì không có đủ các vị Tăng sĩ giảng dạy giáo lý cho các Gia đình) mà chưa hiểu nội điển là một điều vô cùng nguy hiểm. Không ai có thể tha thứ được cái thái độ "Nhất manh dẫn quần manh" (2).
Nhưng cũng không phải đợi đến thông suốt hết ba tạng kinh điển mới giảng dạy vì không ai có thể tự hào rằng mình đã thông suốt ba tạng kinh điển. Tuy nhiên người Huynh trưởng phải nắm được đại cương của Phật pháp, mục đích của Phật pháp (trong bài "Mục đích của Phật pháp") và nắm được hệ thống của ba tạng kinh điển. Giáo lý cao siêu trong ba tạng ấy được phần làm ba hệ thống (sẽ có dịp bàn rộng hơn ở các bậc sau):
1. Hệ thống Bát Nhã:
Giáo lý Chơn không, chủ trương rằng vạn pháp là không thực để hiểu lý tánh chơn không.
2. Hệ thống Pháp tướng:
Giáo lý Duy thức, chủ trương vạn pháp không thực tánh và sở dĩ có ra là do thức biểu hiện ra ngàn sai muôn khác.
3. Hệ thống Pháp tánh:
Chủ trương đạt đến chơn như. Các pháp đều do chơn như duyên khởi mà có.
Mỗi hệ thống giáo lý có vô số pháp môn để chúng sanh thực hành và đạt đến quả vị giác ngộ. Người hoằng pháp cần thông hiểu các hệ thống giáo lý và các pháp môn phương tiện để có thể đem ra ứng tiếp với xã hội cho hợp thời, hợp cơ.
Vậy, người Huynh trưởng phải luôn học hỏi giáo lý, nghiên cứu giáo lý, cần chọn một vị cao Tăng uyên thâm nội điển làm cố vấn cho mình. Sự hiểu biết nội điển là quan trọng nhất.
2. Nhân minh:
Am tường giáo lý chưa đủ, phải biết cách trình bày giáo lý một cách rõ ràng khúc chiết, lập luận vững vàng. Muốn được vậy, người hoằng pháp phải biết phương pháp luận lý. Phương pháp luận lý ấy gọi là "Nhân minh", tức là môn luận lý học của đạo Phật (có phương tiện sẽ nghiên cứu sau, phạm vi bài này chỉ trình bày qua đại cương). Đại cương, phương pháp luận lý này, cần có (và phải có) 3 phần chính: Tôn, Nhân, Dụ. Tôn là vấn đề đặt ra, là chủ trương của mình. Nhân là lý do đưa đến vấn đề đó, nguyên nhân hình thành chủ trương đó. Dụ là những sự kiện đưa ra để chứng minh.
Ví dụ: Tôn: Ông A phải chết.
Nhân: Vì ông A đã có lúc sanh ra.
Dụ: Phàm cái gì có sanh tức có chết như vua Quang Trung, văn hào Nuyễn Du... (Đồng dụ: Ví dụ tương đồng).
Phàm cái gì không có sanh tất không có chết như hư không...
(Dị dụ: Ví dụ tương phản).
Tôn: Hôm nay trò B bị phạt.
Nhân: Vì trò B không thuộc bài.
Dụ: Phàm học sinh nào không thuộc bài thì bị phạt như trò C, trò D trước đây không thuộc bài đều bị phạt (Đồng dụ).
Phàm học sinh thuộc bài thì không bị phạt như trò L, M (Dị dụ).
Ba phần Tôn, Nhân, Dụ phải liên lạc mật thiết nhau. Phân biệt chơn với ngụy, chính với tà và thuyết phục được người chưa hiểu đạo.
3. Thanh minh:
Đây là môn học về ngôn ngữ, về âm thanh, về văn học. Cần trau dồi văn chương để trình bày được lưu loát, có khả năng diễn đạt. Có phương tiện cần học thêm ngoại ngữ như hán văn, Paly để đọc thêm kinh sách (Nhờ có các vị Thượng tọa uyên thâm Hán văn, Paly ngày nay ta mới có một số kinh dịch ra tiếng Việt), Anh văn, Pháp văn... để có thể phiên dịch kinh sách. Âm nhạc, nếu biết lợi dụng, cũng có thể là phương tiện truyền bá giáo lý (các bài hát trong GĐPT).
4. Công xảo minh:
Tức là môn học về công nghệ, về kỹ thuật. Người Phật tử tại gia không thể không có một nghề (nghề chính đáng) trong tay để sống: nghề nông, nghề mộc, nghề may, thợ máy, lái xe, dạy học, kiến trúc sư, kỹ sư v.v... Có khoa học, kỹ thuật giúp cho nghề của ta mỗi ngày một tiến bộ, mỗi ngày một tinh xảo. Và nhìn rộng ra, một quốc gia, một xã hội mà nền khoa học, kỹ thuật được mở mang thì quốc gia đó, xã hội đó càng văn minh, càng hiện đại. Vậy, môn học này không những giúp cho cuộc sống cá nhân, của gia đình mà còn giúp cho nước nhà, nhất là một nước chậm tiến, kém phát triển sau những thế kỷ triền miên trong chiến tranh như Việt Nam.
Nhưng công xảo minh trong Phật giáo có những nét đặc thù của nó. Chúng ta biết cách mạng khoa học kỹ thuật nhưng phải lấy tinh thần Từ bi làm căn bản, lấy tinh thần Lợi tha làm hướng tiến, chứ không phải cốt để làm giàu cho cá nhân mình. Nếu công nghệ, kỹ thuật chỉ là lợi khí cho sự kinh doanh vụ lợi, ích kỷ, thì đó là điều mà Phật giáo rất bài xích, vì cái công nghệ ấy, cái khoa học kỹ thuật ấy càng tiến bộ chừng nào chỉ gây đau khổ cho loài người chừng ấy. Chúng sẽ biến thành lợi khí để tranh giành, cướp giựt, kỹ thuật tiến bộ của bom đạn đã là một sự đe dọa ghê gớm cho loài người.
Người Phật tử học lấy công nghệ, kỹ thuật để phụng sự cho nhân loại vì lòng Từ bi, vì tinh thần Vị tha, muốn cho nhân loại có hạnh phúc chân thực, tránh những thảm họa do dục vọng gây nên.
5. Y phương minh:
Môn học về các phương thuốc chữa bệnh và phương pháp chữa bệnh. Các đức Phật là những bậc lương y trị cả thân bệnh và tâm bệnh. Đức Dược Sư Lưu Ly là một gương sáng. Những phương thuốc chữa bệnh tinh thần, đã đành rất cần thiết mà những phương thuốc chữa bệnh thể chất cũng không thể là không cần đến. Người Phật tử có kiến thức về y học (biết chữa những bệnh thông thường hoặc biết cấp cứu một nạn nhân trước khi đưa đến bệnh viện là một điều tối cần thiết) dễ dàng thực hiện các công tác xã hội hợp với tinh thần từ bi.
Bởi vậy trong chương trình tu học của GĐPT có phần cứu thương. Ngoài phần cứu thương trong GĐPT, chúng ta có thì giờ nên nghiên cứu thêm các sách về y học. Nếu có duyên tốt hơn nữa, những Phật tử là Bác sĩ, là Y tá, là Đông y sĩ v.v... tất có trong tay phương tiện hành đạo rất quý giá. Một vị lương y tận tình chăm sóc, cứu chữa cho bệnh nhân, an ủi cứu giúp họ khi đau ốm trầm trọng là tiêu biểu tinh thần cứu tế của đạo Phật.
C. Trong Nội Minh đã có Ngũ Minh.
Trong bài đã phân tích Ngũ Minh cho Phật tử thấy rõ tinh thần nhập thế của đạo Phật. Chính tinh thần này đức Phật đă truyền dạy kỹ càng cho đệ tử của Ngài. Trong nội điển đã nói đến, hay nói cách khác, trong Nội minh đă bao trùm cả 4 minh kia. Nếu chịu khó phân tích suy luận thì ta cũng có thể nhận ra được. Như trong kinh Nikaya, phẩm Gotami, mục 4 Dighajàma người Koya, đức Thế Tôn đă trình bày cho Dighajàma 4 phép đưa đến hạnh phúc hiện tại cho thiện nam tử.
Đó là: đầy đủ tháo vác, đầy đủ phòng hộ, làm bạn với thiện, sống thăng bằng điều hòa. Đức Thế Tôn giải thích rõ: sự tháo vác và sự phòng hộ: "Ở đây, này Pyagghapajja, thiện nam tử, phàm làm nghề gì để sinh sống, hoặc nghề nông hoặc đi buôn, hoặc nuôi bò, hoặc làm nghề bắn cung, hoặc làm việc cho Vua, hoặc bất cứ một nghề gì, trong nghề ấy, người ấy thiện xảo, không biết mệt, biết suy tư, hiểu phương tiện vừa đủ để tự làm và điều khiển người khác làm. Này Pyaghapajja, đấy gọi là đầy đủ sự tháo vác. Và này, Pyaghapajja, thế nào là đầy đủ sự phòng hộ?"
"Những tài sản của thiện nam tử, do tháo vác tinh tấn thâu hoạch được, do mồ hôi đổ ra đúng pháp, vị ấy gìn giữ chúng, phòng hộ và bảo vệ: làm thế nào các tài sản này của ta không bị Vua mang đi, không bị lửa đốt, không bị nước cuốn trôi, không bị các người con thừa tự không khả ái đoạt. Này Pyghapajja, đấy là đầy đủ sự phòng hộ..." (Tăng chi phố kinh, tập III, quyển A).
Như vậy, đă thấy rõ điều Phật khuyên dạy ta về "Công xảo minh".
Về phần làm bạn với thiện, đức Phật cũng đã giải thích: Làm bạn với thiện tức là làm thân với những người hiền thiện, mình học và thành tựu được: Tín - Giới - Trí - Tuệ. Và 4 pháp học được ở bạn hiền này cũng là 4 pháp an lạc mai sau. Nghề tháo vác không đem đến an lạc sau khi chết (mai sau). Vả lại, 4 pháp khó được là: tài sản có đúng pháp (do mồ hôi làm ra) có danh tiếng, sống lâu, chết sanh cõi lành, là những điều tốt đẹp mà khó được. Muốn có được 4 pháp này, phải thành tựu: Tín - Giới - Trí - Tuệ.
Như vậy, đức Phật đă cho ta thấy tầm vóc quan trọng của "Nội minh" như thế nào trong cuộc sống.
Chỉ có người thành tựu Tín - Giới - Trí - Tuệ mới đầy đủ siêng năng sáng suốt trong việc làm ăn chính đáng. Vì ít dục hay không dục thì mới siêng năng và siêng năng đúng (Chánh tinh tấn, chánh mạng, chánh nghiệp). Ít dục hay không dục thì sáng suốt đúng đắn đầy sáng tạo, trong sáng (chánh tri kiến, chánh tư duy). Đây là then chốt cho 4 Minh sau thành tựu.
Nếu con người còn nhiều dục vọng thì có siêng cũng siêng sai (vì tham lợi) và hết lợi thì làm biếng. Dù có sáng suốt cũng chỉ sáng suốt trong mưu đồ, mánh lới. Đó là sự sụp đổ của 4 Minh sau.
Nếu có thành tựu thì thêm đại họa cho con người, nguyên nhân chính cũng vì không thành tựu "Nội minh" (Cũng trong Tăng chi bộ kinh, quyển III tập A).
Hơn nữa, khi ta hiểu Lý Nhân Duyên sinh thấy ta thấy được rằng: Đôi khi ta có "Công xảo minh" nhưng nghề nghiệp sinh sống của ta cũng gặp lắm trở ngại, không thành tựu. Chẳng hạn như trong việc trồng mà có người có kế hoạch đúng đắn, cụ thể; canh tác có khoa học kỹ thuật nhưng cũng có lúc cũng thất bại chua cay vì chưa hội đủ thiện duyên, thuận duyên. Vậy, "Nội minh" thì trong kinh Pháp Cú cũng có đoạn:
"Lìa ái không chấp thủ,
Cú pháp khéo biện tài,
Thông suốt từ vô ngại,
Hiểu thứ lớp trước sau,
Thân này thân cuối cùng,
Người như vậy được gọi,
Bậc Đại nhân, Đại sĩ."
(Pháp cú câu 352)
Thế rõ ràng đức Phật đă dạy ta về "Nhân Minh". (Sau này các vị Tổ chỉ dạy rõ ràng về phương pháp "Nhân minh luận")
D. Kết luận:
Nhìn chung lại "Nội Minh" (tức Phật pháp) đào luyện cho mình đời sống tinh thần, nội tâm, trí tuệ, ý chí, tình cảm. Còn "Nhân Minh", "Thanh Minh", "Công Xảo Minh", "Y Phương Minh" đào luyện kiến thức và khả năng tổng quát. Suy rộng ra thì trong "Nội Minh" đã bao trùm 5 Minh và chính "Nội Minh" là quan trọng nhất, là căn bản nhất.
Với lý thuyết Ngũ Minh, người Huynh trưởng có một đường hướng rõ rệt mà đường hướng đó được soi sáng bởi giáo lý Phật Đà trên mọi lãnh vực sinh hoạt.
Ghi chú:
(1) Thù diệu là đẹp một cách đặc biệt.
(2) Một người mù dẫn đoàn người mù.
(3) Nói "đạo Phật là đạo nhập thế chứ không phải yếm thế" là thuận tánh người đă chấp chặt mà nói. Nói cho đúng thì đạo Phật là đạo "Vô Dục" là đạo Sống. Đã Vô dục, đã là đạo Sống, tức tình thương trọn vẹn thì có gì mà người Phật tử lại không làm. Làm hết mọi chuyện, tức là tương quan chặt chẽ với đời. Nhưng làm hết mà làm "Vô Dục", làm việc chính đáng, tức là không bị đời lôi cuốn, không bị đời làm ô nhiễm. Như vậy là Đời mà khác Đời.
(4) Sự sống trọn vẹn thì bao giờ cũng "nhập thế" mà bao giờ cũng "xuất thế". Bi là nhập thế, Trí là xuất thế. Việc làm có Bi có Trí mới là việc làm theo hướng Phật giáo. Đây là lý luận, còn sự thể hiện sao cho độ thể nhập giáo của mỗi chúng ta, không một ai chứng minh hay làm thay cho ai được, với cái sự thực "nhập vào đâu cho được và xuất đi đâu cho khỏi".