…cùng quý anh chị Huynh trưởng trẻ Hà Cảng thân mến…

Nhận được tin nhắn và điện thoại của anh Tú đề nghị chúng tôi viết ít bài nhân kỷ niệm Chu niên lần thứ 50.

Đắn đo hoài không biết phải viết gì đây, giữa dòng đời trôi chảy, khi Đông – Tây hai ngã, xa nhau hơn nửa vòng Trái đất, tâm tư biết ngõ ra sao khi hai nền văn hoá tư duy khác biệt. Nhưng cũng không dám từ nan vì chúng tôi đã một lần không thực hiện qua báo tường kỷ niệm Chu niên 49 năm rồi, bất đắc dĩ chọn một đề tài như một lời tâm sự cùng anh chị Huynh Trưởng trẻ, không phụ lòng mong mỏi của anh chị em.   

    Thưa quý anh chị

    Gia Đình Phật Tử Việt Nam ra đời vào khoảng thập niên 1940 của Thế kỷ trước tại Huế trong bối cảnh lịch sử đầy đau thương khổ nạn của Dân tộc và Phật giáo. Trong hoàn cảnh nước mất nhà tan, nhân tâm y tán, bởi sự thống trị tàn bạo của thực dân Pháp và các thế lực ngoại bang. Trước những thống khổ và văn hoá đạo đức Dân tộc bị suy thoái – vì chế độ Thực dân muốn đồng hoá theo một nền văn hoá Tây phương và Tôn giáo của họ để dễ bề cai trị, giữa ngã ba đường tranh tối tranh sáng thanh thiếu niên tăm tối như đêm ba mươi. Cư sĩ Lê Đình Thám – một bác sĩ tài đức đã kết hợp một số thanh niên trí thức đứng ra thành lập Đoàn Thanh Niên Phật Học Đức Dục, quy tụ con em hội viên trong hội để hướng dẫn theo giáo lý Phật Đà. Buổi ban đầu Đoàn thành lập cũng được vài đơn vị - đó là tiền thân của Gia Đình Phật Tử Việt Nam sau này. Rồi phong trào lan rộng ra khắp cả Trung – Nam – Bắc, từ những ngày đầu sơ khai qua nhiều lần cải cách của các Đại hội, cuối cùng danh xưng Gia Đình Phật Tử đã được chọn và tồn tại cho đến ngày hôm nay.

    Trải gần một thế kỷ đi qua của biến thiên lịch sử, bao cuộc hưng vong thăng trầm của Đất nước và Phật giáo. Gia Đình Phật Tử Việt Nam lúc nào cũng hiện hữu dấn thân trong sứ mệnh bảo vệ Đạo Pháp và Dân tộc trong tinh thần Vô uý của người con Phật. Bao nhiêu thân mạng đã ngã xuống trong các thời kỳ Pháp nạn để vận động cho Tự do tín ngưỡng – Những cái chết đau thương mà bi hùng thật đáng kính. Chiến tranh đã chấm dứt – hoà bình lập lại trên quê hương đổ nát điêu tàn, tưởng đâu người con Phật bắt tay xây dựng lại và sinh hoạt tâm linh được tự do nhưng không, thay vào đó là những sự cấm đoán kéo dài, trong cái đau thương tủi nhục vô vọng đó thì một số Trưởng thoát ra hải ngoại liên lạc với nhau cùng nắm tay nhau xây dựng lại Gia Đình Phật Tử Việt Nam tại nước ngoài.

    Một vài nét sơ khởi tóm tắt đại cương như vậy để anh chị chúng ta có một cái nhìn trung thực để mỗi khi quý anh chị khoác lên chiếc áo Lam thì tinh thần Phấn chấn, dù ngày mai đây hoàn cảnh có thế nào thi niềm tin vào Chánh Pháp và Gia Đình Phật tử Việt Nam vẫn trung trinh nhất quán không suy suyển lung lay. Mà vì sao chúng ta vẫn còn giữ được? Có một cái gì đó để chúng ta tin theo – Đó có phải là niềm tin vào đạo đức tâm linh.

    Trước hết xin nói qua một chút về Đức tin. Trong kinh Tăng Chi Bộ, chương 7, phẩm Tài Sản – Đức Phật có dạy có bảy thứ Tài sản cho một con người có đủ nhân cách làm Thánh thì đầu tiên là TIN TÀI TÍN là Đức Tin. Vậy, Đức Tin có gì mà Thế Tôn dạy là Tín Tài?

1. TIN PHẬT:

    Tin Phật là bậc Thầy của Trời, Người, bậc Toàn tri Diệu Giác, là người hướng đạo chỉ đường cho chúng ta chứ không phải là một vị Thần luôn ban ơn giáng hoạ. Đức tin của người con Phật khác hẳn với Đức tin của các Tôn giáo khác. Quý anh chị cũng có thể tham khảo thêm về kinh KALAMA – Đức Phật đã dạy về 10 điều mà một người con Phật tin theo, tránh những gì tin mù quáng, không lạc lối lầm đường.

2. TIN PHÁP

    Diệu Pháp của đức Thế Tôn là thiên thuyết, là hiến thân thọ chứng xa lìa nhiệt não, là vượt thoát thời gian, đến để mà thấy, là dẫn đạo đi lên, là tự mình thông hiểu, đến để thấy chứ không phải đến để tin. Hơn 25 thế kỷ qua kể từ ngày Thế Tôn nhập diệt, Giáo Pháp vẫn còn đó, tuy nhiên cũng không ít tào tạp pha lẫn vào trong, hơn ai hết người con Phật cũng nên tìm hiểu Giáo Pháp, khi nghiên cứu hãy truy tì cho ra những Uyên nguyên của Giáo Pháp, bởi vì trong Bát Thánh Đạo có Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, chúng ta lấy Tam Pháp Ấn là Vô Thường – Khổ não – Vô Ngã, nơi nào có Tam Pháp Ấn thì ở đó mới là Giáo Pháp. Vì trong kinh A Nâu La Độ - Đức Phật cũng có nói: “Từ trước đến nay Như Lai chỉ giảng dạy về KHỔ và Con đường DIỆT KHỔ” (Tứ Thánh Đế) đó là cốt lõi căn bản của Giáo Lý Phật Đà”.

3. TIN TĂNG

    Tăng thân của đức Thế Tôn đang đi trên con đường diệu hạnh, trên con đường trực hạnh, trên con đường ứng lý, trên con đường chánh chân, là đoàn thể Lục hoà cộng trụ, là đáng được cúng dường, đáng được tôn trọng, đáng được quy kính, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng trên cõi đời, gần chúng tăng để được học hỏi tu tập, hộ trì Chánh Pháp cùng vận chuyển bánh xe Giáo Pháp mà con Phật cần nương tựa vào tăng thân.

4. TIN SÂU VÀO NHÂN QUẢ NGHIỆP BÁO

Trên đời này không có gì là ngẫu nhiên mà có, tất cả đều vận hành theo nhân quả, nghiệp báo, duyên sinh, cũng không phải do một Đấng sáng thế, Thần linh nào có quyền ban ơn giáng hoạ mà tất cả đều do ta tạo dựng. Biết được nhân quả và nghiệp, người con Phật tránh xa những bất thiện Pháp, không làm khổ mình khổ người, tạo thêm những nhân lành trong hiện tại nhằm thăng hoa cuộc sống an vui, xây dựng một xã hội theo tinh thần Phật giáo.

* TU HỌC BẢN THÂN

Là Huynh Trưởng, các anh chị cũng đã được học qua các bài học mà GĐPT Việt Nam đã soạn thảo gồm có các bộ môn Văn, Mỹ, Nghệ,… và tuỳ sự khai phóng sáng tạo linh hoạt của mỗi anh chị, bên cạnh đó về mặt tinh thần tâm linh quá ít và hầu như lý thuyết nhiều hơn thực tập và hình như Pháp học và Pháp hành chưa tương xứng. Do vậy quý anh chị cũng nên tìm tòi học hỏi thêm để có một kiến thức vững chãi về Giáo lý Phật Đà. Trong kinh Tăng Chi, Đức Phật có nói một bài Pháp Bảy Thánh Tài (bảy thứ tài sản của bậc Thánh) thì Đa Văn Tài (văn tài) học rộng hiểu nhiều là điều không thể thiếu trong Đạo cũng như ngoài đời là điều quan trọng nhất cho cuộc sống. Cuộc đời Hoằng Pháp 45 năm, mỗi ngày Đức Phật đều giảng cho đồ chúng, hơn 30000 bài Kinh ghi trong Kinh tạng Nam Truyền Nguyên Thuỷ, vậy thì chúng ta nghĩ thế nào mà cho học như vậy là đủ?

Trải qua 2568 năm, đi qua các quốc gia, một số vị Thầy vì phương tiện để hợp với văn hoá quốc gia đó mà sáng chế ra những hình thức phù hợp với trình độ căn cơ, nên cũng không ít Giáo Pháp có phần nào đó có tào tạp bên ngoài. Đức Phật không bao giờ nói những gì thiếu thực dụng, những gì huyền hoặc chắc chắn không phải Phật Pháp, trong một thời Kinh, phần Khai Kinh câu đầu cho đến hết bài Kệ nói lên phần nào người con Phật phải học Pháp và sau thời Kinh, phần “Tự quy y Pháp xin nguyện chúng sanh, Trí tuệ như biển…” mà chúng ta học bỏm bẻm một vài bài, như vậy có mâu thuẫn lắm không?

Câu hỏi này xin nhường quý anh chị trả lời, đây cũng là lúc người con Phật nhìn lại. Nếu anh chị có Pháp học, Pháp hành vững chãi thì sự hướng dẫn đàn em có phần lợi lạc.

49 năm về trước, khi hoà bình lập lại, sách báo Kinh sách họ nói văn hoá đồi truỵ đem đốt cả, tài liệu Phật giáo cũng như Kinh sách thật khan hiếm, chúng tôi gặp quý Thầy hỏi mượn để đọc, có gì đọc đó, nó không có căn bản từ thấp đến cao, nhưng không sao đó là khát vọng của người đi tìm lẽ sống Đạo. Sau này khi ra Hải ngoại có cơ hội nghiên cứu căn bản qua kinh tạng Nam Truyền, tham dự các ngày tu học, từ đó phân biệt được những tinh hoa của Giáo Pháp, cũng có cơ may được học hai truyền thống Bắc Truyền và Nam Truyền.

Ngày nay, xã hội đã phát triển, thông tin đầy đủ, mọi điều kiện có phần tiện lợi hơn xưa, chỉ cần có phone là quý anh chị có thể học thêm Giáo Pháp đọc và nghe, chỉ sợ rằng chúng ta không chịu học mà thôi, chỉ chạy theo những gì bên ngoài như game, chat,… thì đó mới là điều đáng nói. May mắn hơn thế nữa, anh chọ có được gặp Tăng Ni để học đạo và hành đạo, đó là cái hạnh phúc mà chúng tôi không có nhiều như quý anh chị, được tụng kinh, bái sám, tu tập,… Vậy thì có hạnh phúc nào nữa không quý anh chị? Ngoài ra anh chị cũng nên thực tập thêm Thiền Quán để có một thân thể khoẻ mạnh và trí tuệ minh mẫn hơn qua Tứ Niệm Xứ để nhận biết những tâm hành luân chuyển, khỏi sợ lạc lối vào tà kiến, sống đời sống an vui, mỗi ngày nên lạy Phật trước khi đi học hay đi làm để xả bỏ tánh kêu căng ngã mạn, quán chiếu đời sống như vậy là từng bước đi vào con đường của Chánh Pháp – lợi mình lợi người.

* KHÔNG ĐI LỆCH HƯỚNG

Bao thăng trầm biến thiên của lịch sử, biết bao lần đổi chủ thay ngôi, những người con Phật vẫn luôn giữ niềm tin với Đạo trước những được và thua, danh thơm và tiếng xấu, ca tụng và khiển trách, hạnh phúc và đau khổ. Phật Giáo Việt Nam và GĐPT Việt Nam đã bị ngăn cấm sau năm 1975 – thời gian kéo dài gần 20 năm, giai đoạn đó là một gia đoạn khốc liệt nhất, những sự tiềm tàng vẫn còn trong lòng người con Phật, những ngọn gió đời lắm khi nhiều quá lắm khi cũng dao động, vì sức người cũng có giới hạn. Sau thời gian dài rồi họ cũng nới tay, GĐPT lại được tái sinh hoạt nhưng họ lại đặt điều kiện ohải theo hướng chỉ đạo của họ, một số anh chị Huynh trưởng vì muốn bảo vệ tổ chức nên đành phải im lặng trong khổ nhục, nhưng trái lại có một số vì quyền lợi bức thúc mà đi theo, đã vậy có một số nảy sinh ra hoạt động riêng lẽ, đứng bên này, đứng phía bên kia,… và Phật Giáo không đứng bên này hoặc bên kia mà Phật giáo đứng lên trên tất cả. Vì Phật giáo không đặt sự tồn tại của mình nơi nguyên vị cá biệt mà đặt sự tồn tại ấy trong sự tồn tại của nhân loại và dân tộc, người con Phật không vì danh lợi hảo huyền nhất thời mà đánh mất đi tinh thần nhân bản với Đạo mà cúi đầu làm nô lệ cho bất cứ một thế lực nào muốn khuynh đảo Phật giáo – đó là tinh thần của Phật giáo.

* CON ĐƯỜNG PHỤNG SỰ DẤN THÂN

Hơn nửa thế kỷ trước, Nguyễn Bá Học nói một câu với thanh niên hồi đó “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì ngại núi e sông”. Vốn dĩ đường đời không phải lúc nào cũng bằng phẳng cả, mà có lúc cũng phong ba bão táp dập vùi, thăng trầm suy thịnh là lẽ Vô Thường, người con Phật không vì vậy mà thối chí nản lòng trước những khó khăn cam go. Kiên nhẫn là sức mạnh vượt qua mọi chướng ngại trong chí hướng phụng sự và mỗi khi gặp phải trên bước đường phụng sự thì anh chị hãy nhìn lại hình ảnh của Đức Thế Tôn – bậc đạo sư có một không hai trong cuộc đời, từ buổi sơ khai phát tâm cầu đạo trải qua ba a tăng kỳ kiếp lúc nào Ngài cũng kiên định với chí nguyện của Ngài, hình ảnh cuối cùng của Ngài đó là lúc Ngài 80 tuổi, thân thể bệnh nặng mà Ngài đi từ thành Tỳ Xá Ly đến Câu Thi N, ở đó Ngài đã độ cho ông Tu Bạt Đà La chứng đạo quả trước khi Ngài nhập Niết Bàn. Một ngày sống của Ngài là một ngày lợi lạc cho chúng sanh, ngày ấy không phải là một ngày vô ích. Hình ảnh đó các anh chị nhìn lại sẽ không chùn bước thối tâm.

Ngày đẹp trời nào đó sẽ tái ngộ cùng các anh chị trên đất mẹ, bên bếp lửa hồng ngồi kể nhau nghe chuyện Đời chuyện Đạo với trái bắp củ khoai nướng. Đó là hoài bảo mà kẻ nhà quê hằng mong mỏi.

Đã không nguyện cầu cho trời yên biển lặng mà nguyện cầu cho chân cứng đá mềm.

Mong lắm thay

Nguyên Hạnh – Trần Đình Cương

26.3.2024