Htr Lộc Uyển QUẢNG THAO - PHAN THỊ THẺO Kính ghi
HTr Đặng Dung phổ nhạc
"Hai thầy quẫy dép về Tây
Chúng con ở lại bơ vơ giữa đời
Thầy con công hạnh sáng ngời
Thắp đường dẫn lối chúng con quay về"
...Hôm nay ta về đây cùng vui hát ca nơi này
Hôm nay ta về đây ta cùng ca hát vui vầy
Dù thời gian qua mau
Nhiều buồn vui khắc sâu
Cùng nhau hát ca vang trời
HÀ CẢNG sáng tươi muôn đời
Mai đây khi rời nhau còn đâu phút giây vui này
Mai đây khi lìa nhau tìm đâu cánh Lam xinh màu
Còn tìm nhau nơi đâu
Mình tìm nhau nơi đâu
Ngày mai cánh chim tung trời về nơi phương trời nhớ mong
Nhớ, nhớ,...
Một bài hát cảm tác của Thầy năm đó, giờ vẫn mãi âm vang trong tim của chúng con - Áo Lam Hà Cảng.
Dù thời gian qua mau, nhiều chướng duyên nghịch cảnh, chúng con quyết ghi nhớ Ơn thầy để HÀ CẢNG SÁNG TƯƠI MUÔN ĐỜI !
Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Tứ Thế
Trúc Lâm Pháp Phái
Huý Thượng NGUYÊN Hạ QUANG - Tự TÍN ĐẠO - Hiệu NGÂN THANH
Trưởng Lão Hoà Thượng Ân Sư Giác Linh
TIỂU SỬ
CỐ HÒA THƯỢNG THÍCH TÍN ĐẠO
Sáng Lập Viên GĐPT Đức Tâm (Gia Định)
Ân Sư - Cố Vấn Giáo Hạnh GĐPT Đức Chơn (Gia Định)
Ân sư GĐPT Hà Cảng (Thừa Thiên)
Giáo thọ sư Quảng Hương Già Lam
Hòa thượng thế danh Nguyễn Ngọc Khiết, Pháp danh Nguyên Quang, Pháp tự Thích Tín Đạo, bút hiệu Ngân Thanh; thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 44. Hòa thượng sinh năm Bính Tuất (1946) người làng Cư Chánh, xã Thủy Bằng, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Ngọc Chút pháp danh Nguyên Đại, thân mẫu là cụ bà Hồ Thị Mài pháp danh Nguyên Khiết. Thầy sinh ra trong một gia đình mộ đạo và là em út của 5 chị anh. Trong đó có vị vừa là bào huynh vừa là pháp huynh là Hòa thượng Thích Lưu Thanh.
Năm 19 tuổi (1965) thầy phát tâm xuất gia tu học với cố Hòa thượng Thích Mật Hiển, Tổ đình Trúc Lâm Huế.
Năm 1967 được Bổn sư cho thọ Sa di phương trượng tại Tổ đình, trong năm này Hòa thượng đã trúng tuyển vào kháo Cao đẳng chuyên khoa Phật học Liễu Quán tại chùa Linh Quang-Huế
Sau biến cố Mậu Thân 1968, Hòa thượng chuyển vào Phật Học viện Hải Đức - Nha Trang và tiếp tục chuyên trình học tập tại trường Trung học Bồ Đề - Nha Trang. Cũng năm này thầy đăng đàn thọ Cụ túc giới tại Giới đàn Phật Học viện Hải Đức.
Sau khi tốt nghiệp Tú tài I, II được Học viện chuyển vào Sài Gòn, ở tại Tu viện Quảng Hương Già Lam và tiếp tục chương trình Đại học.
Đã theo học Cử nhân tại các trường Đại học Văn khoa Sài Gòn và Đại học Vạn Hạnh.
Sau năm 1975, Hòa thượng về ẩn tu và sinh hoạt theo tinh thần Thiền nông của Tổ Bách Trượng tại chùa Như Pháp, huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh.
Năm 1979 trở về trú xứ Già Lam, tiếp tục học khóa chuyên khoa bồi dưỡng Phật học Cao cấp. Trong thời gian này Hòa thượng được mời dạy môn Duy Thức Học cho lớp Ni sinh tổ chức tại chùa Già Lam, Từ Thuyền.
Năm 1987 Ni sư Trí Hải mời dạy Tư Tưởng Kinh Điển Đại Thừa tại Ni viện Tuệ Uyển, thuộc Phật Học viện Vạn Hạnh.
Năm 1990 nhận lời mời đến dạy tại Trường Cơ bản Phật học tỉnh Hậu Giang về môn sử Phật giáo.
Năm 1991 được mời thỉnh giảng môn Lịch sử và Tư Tưởng Phật giáo thuộc khoa Sử Địa, Đại học Cần Thơ.
Năm 1994 thầy giảng dạy tại các Trường Phật học Cần Thơ và Sóc Trăng.
Năm 1996 giảng dạy môn Sử Phật giáo cho các trường: Phật học Thiên Khánh và Thiên Phước tại Long An; cũng thời gian này Hòa thượng đã được mời dạy các trường Hạ chùa Kim Cang (Thủ Thừa), chùa Hòa Bình, chùa Bồ Đề (Cần Giuộc), tịnh thất An Hòa (Thủ Đức), Tịnh xá Trung Tâm, Tịnh xá Ngọc Phương thuộc hệ phái Khất sĩ ở Tp.Hồ Chí Minh.
Năm 1997, trường Cao đẳng và Trung cấp Phật học mời dạy môn Duy Thức Học và Tư Tưởng Đại Thừa tại chùa Vĩnh Nghiêm (Tp.Hồ Chí Minh).
Năm 1998, Giáo thọ sư bộ môn Duy Thức học cho lớp Cao Đẳng chuyên khoa Phật học Cần Thơ.
Năm 2003, thể theo lời mời của Hòa thượng Viện chủ chùa Trang Nghiêm tại Pakse. Hòa thượng đã sang thăm nươc Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, trong dịp này thầy đã đi tham quan các danh lam thắng cảnh tại Thủ đô Viêng Chăn (Lào) và một số thắng cảnh tại Thái Lan.
Những năm về sau, vì bệnh duyên và lo trị bệnh nên Hòa thượng không còn thường xuyên tham gia các lớp giảng dạy Phật pháp cho chư Tăng ni sinh tại các tỉnh miền Tây và Đông Nam bộ. Nhưng đó cũng là thời gian để Hòa thượng ra vào Huế, về với Tổ đình thường xuyên và có thời gian để đàm đạo với huynh đệ nhiều hơn để như bù lại thời gian do nghịch cảnh của xã hội làm các huynh đệ mỗi người một ngã.
Đầu năm 2014, như cảm nhận được luật thế vô thường, Hòa thượng đã trở về Tổ đình đảnh lễ bảo thápTổ và Bổn sư. Thăm hỏi nhị vị Hòa thượng Pháp huynh. Sau đó Hòa thượng cũng đã nhờ con cháu đưa đi thăm viếng mộ phần của song thân và Tổ tiên ông bà.
Sau đó Hòa thượng trở lại Quảng Hương Già Lam để đảnh lễ niệm ân chư Tôn đức tại trú xứ đã hoan hỷ cùng Hòa thượng tu học trong hơn 40 năm hành đạo tại niềm Nam.
Hòa thượng đã an nhiên thị tịch lúc 4 giờ 10 phút ngày mùng 8 tháng 6 năm Giáp Ngọ (4/7/2014): thọ 69 tuổi đời và 46 hạ lạp.
Một số tác phẩm đã thực hiện:
Diệu Huệ Dòng Nữ Kinh (dịch giảng và chú thích, 1984).
Tuệ Trung Thượng Sĩ (Thiền Học, 1993).
Để lại cho ai (Thi tập, 1968).
Nguồn suối êm đềm (Tập truyện ngắn, 1970).
Mây ngàn (Thi tập, 1988).
Màu hoa tưởng niệm (Nhạc).
VÀI HÌNH ẢNH VỀ THẦY TÍN ĐẠO
Vùng thương nhớ là một bài thơ do HT Tín Đạo sáng tác trong những lần ra Hà Cảng.
HTr Quảng Niệm - Phan thị Tú Hoài tìm thấy bài thơ năm 2020 và gửi nhạc sĩ Hoàng Thanh phổ nhạc.