- EM BÉ ĐỨNG CHỜ XE Ở NGÃ TƯ
- HUẾ MÀ TA SẼ TRỞ LẠI
- NHƯNG... TA KHÔNG THẤY GÌ HỀT
Em Bé Ðứng Chờ Xe Ở Ngã Tư
Mấy tháng sau cùng của năm học, sáng nào chở con tới trường tôi cũng nhìn thấy một bé gái đứng chờ xe ở ngã tư đường Washington và Oregon, thành phố Milpitas. Em chừng 13, 14 tuổi, da nâu, tóc đen, ngắn, khô và hơi xơ xác, quần áo của em như những đứa trẻ cùng lứa giống nhau, đơn sơ giản dị. Em gầy ốm, mắt nhỏ, sóng mũi thấp. Rõ ràng em có khuôn mặt của người Á châu. Nhưng tôi không rõ em là người Nhật hay người Hoa, người Ðại Hàn hay người Thái Lan. Em cũng có thể là người Phi Luật Tân. Mà sao không phải là người Việt? Milpitas nhiều người gốc Á hơn là dân bản xứ. Ðông nhất là dân Phi, Nhật và Ấn. Người Việt cũng đông, nhưng tôi không nghĩ là đông hơn ba sắc dân kia. Vậy mà đi đâu, nhìn đâu tôi cũng thấy người Việt. Mười ba năm ở Quận Cam, tôi bơi lội giữa người Việt. Nói năng đi đứng, suy nghĩ như một người đang sống ở Sài Gòn. Quán cà phê, tiệm ăn, nhà sách, tiệm chạp phô, quần áo, âm thanh, mùi vị,... chỗ nào cũng là Việt Nam. Sài Gòn trên mỗi bước chân. Trong từng hơi thở. Quận Cam không ai quá nghèo, cũng không ai quá giàu. Là tôi nghĩ thế. Cũng có thân tình và lạnh nhạt. Cũng có đố kỵ và tử tế. Cũng có đen và trắng. Cũng có bọn giả hình và người chân thật. Ðâu mà chẳng vậy. Nhưng tôi biết những ngày buồn tôi sẽ đi đâu. Ðến nhà một người bạn nào tôi sẽ được uống một tách trà, nghe những câu chuyện đáng nghe. Ðến quán cà phê hay tiệm ăn nào tôi sẽ gặp được người tôi muốn gặp. Tôi thật là một người may mắn. Nhiều người ở tiểu bang khác đến chơi bảo tôi, tới Bolsa thăm bạn bè ở vài ngày thì được, chứ ở lại thì không bao giờ. Tôi hỏi tại sao? Người ta bảo: Bolsa bon chen quá. Người ở đó một là vái nhau hai là đổ rác vào đầu cổ nhau. Không thích.
Tôi đồng ý, nhưng tôi cũng nghĩ đâu mà chẳng thế. Bọn tưởng là quý tộc còn tệ hơn. Cái thế giới trưởng giả giàu sang có những quy luật của nó. Tôi không quen. Rồi tôi dọn lên San Jose, Bắc Cali. Vậy mà cũng đã gần ba năm. Nơi tôi làm việc có khoảng 1,500 người. Số nhân viên người Việt chừng hai chục. Tôi thấy có cả những người gốc Á khác: người Hoa, người Phi, người Nhật và người Ấn. Nhưng cũng chỉ là một tỉ lệ nhỏ thôi. Chúng tôi gặp nhau trên hành lang, chào hỏi nhau buổi sáng, buổi chiều, cuối tuần đầu tuần. Tôi đã học được cách cười, cách nói cách nghĩ trong một khung cảnh mới. Những người trẻ Việt nói tiếng bản xứ trôi chảy. Những người lớn tuổi nói tiếng Việt dễ dàng. Công việc của tôi cũng thường. Không có gì khó, cũng không hẳn là dễ. Chỉ là nghề nghiệp. Một thói quen mới làm dần, học dần, trở thành cái máy. Thì cũng là những người tốt và người xấu,. Những người chơi được và những người chơi không được. Cũng có bọn giả hình. Cũng có người lương thiện. Ðâu mà chẳng thế!
Thung lũng điện tử nhiều người giàu, nhưng thành phố Milpitas, khu tôi ở, không ai giàu như nhiều người ở xa vẫn nghĩ. Thê thảm hơn là gần nửa năm nay, thung lũng không vui, nhiều người mất việc, nhiều cửa tiệm ăn uống không còn cảnh xếp hàng rồng rắn như trước. Nhà treo bảng bán suốt mấy tuần vẫn còn nguyên. Trước kia người ta hay nói pay-off bây giờ người ta chỉ nói lay-off. Trước người ta nói "anh có biết mỗi ngày thung lũng có thêm mấy nhà triệu phú không", bây giờ người ta nói mỗi ngày có bao nhiêu người dọn nhà ra khỏi thành phố. Trước kia người ta nói tên những hiệu xe đắt tiền và những ngôi nhà trên núi. Bây giờ người ta đi mua xe cũ và bán nhà.
Tôi vẫn chưa khám phá ra vẻ đẹp của vùng đất này. Tôi chỉ nhìn thấy những dãy núi buổi chiều vàng óng một phía mặt trời. Tôi chỉ thấy những xa lộ không lớn lắm , bảng chỉ đường rắc rối và những lối ra lối vào hơi nguy hiểm. Tôi cũng đã chạm vào những người tưởng là mình vĩ đại nhưng thực chất cũng chỉ là những kẻ tầm thường. Cũng xoàng thôi. Thật không may cho tôi, sao tôi cứ gặp mãi những khuôn mặt rất ít nụ cười! Và em bé đứng đợi xe ở ngã tư đường làm tôi nghĩ ngợi. Mỗi sáng của năm ngày trong tuần, tôi luôn nhìn thấy em. Có phải ba của em vừa mất việc? Hay ba mẹ em sạt nghiệp vì stock? Có phải gia đình em gặp tai nạn. Tôi nghĩ là nhà em nghèo? Một người Phi Luật Tân nghèo. Tôi đã ở đảo Bataan bên Phi tám tháng. Tôi không biết người Phi nghèo ở Manila ra sao, nhưng tôi biết người Phi ở Bataan nghèo hơn những người tị nạn. Những người tị nạn vốn đã đồng nghĩa với sự "khố rách áo ôm", người Phi ở Bataan còn khố rách áo ôm hơn. Những người bán hột vịt lộn rong buổi tối đi len qua cửa sau của những căn trại của người tị nạn rao hàng giọng buồn thảm, những người bán rượu lậu trong những căn nhà lợp lá cây xác xơ. Những người Phi hiền lành chân chất và tử tế. Tôi thấy mình gần gũi với họ hơn là những con người lúc nào cũng sắc mắc về một cái cà vạt, một bộ quần áo đúng kiểu. Tôi là một người nhà quê. Cái thứ người tưởng là thành phố mà trời ơi sao nó cải lương đồng bóng [nói như thế là đã xâm phạm cải lương rồi!]. Tôi càng không phải và không bao giờ là một nhà trí thức. Mấy ngày nay tôi có tình cờ đọc được một đôi bài bàn về trí thức. Có bài đàng hoàng, nặng về học thuật. Có bài biểu lộ sự khoa bảng và sự đọc, nhưng cũng có bài nói như một chị đứng giữa chợ Ðồng Xuân vén váy lên mà rủa sả vào mặt người khác. Tôi có học đôi ba chữ để đọc để viết. Mẹ tôi không học chữ nhiều. Cha tôi chỉ học ở đời sống. Tôi học được lòng nhân của mẹ. Tôi cũng học được cái triết lý của cha: không có gì lớn mà không bị một cái lớn vượt qua, không có gì đẹp mà không bị cái đẹp khác lấn át. Cái mình biết bao giờ cũng rất nhỏ. Cái mình tưởng là chân lý, đôi khi chỉ là một hạt bụi thôi. Cái bọn dởm cứ điệu đàng nhờ có đôi chút kiến thức sách vở tưởng rằng mặt trời đang ở trong tay. Tội nghiệp! Một lời nói nặng bị dọng vào tai, nghe không khỏi bực mình nhưng bài học cho biết phải quên đi ngay sau đó, để cái khoảng trống trong lỗ tai chứa những lời tử tế. Một chữ viết sai làm ta khó chịu rồi cũng phải để qua một bên còn lo viết cho đúng những chữ sắp tới. Hiền lành không bao giờ đồng nghĩa với sự ngu dốt. Làm thinh không phải là không biết nói. Bất bạo động không phải là không có khả năng tấn công. Tôi biết thế nào là một đứa trẻ bụi đời. Tôi từng là một đứa trẻ như thế.
Tôi nhớ tới em bé đứng chờ xe ở ngã tư đường. Những hôm trời nắng hay trời mưa, trời có sương mù lạnh hay trời trong và ấm, em đứng đó, chiếc cặp trên vai, yên lặng nhìn những chiếc xe đi qua. Xe tôi thường hay ngừng chỗ ngã tư, nhường xe đến trước đi trước. Tôi thấy em có đôi mắt buồn. Quá buồn. Da mặt em tái xanh. Có vẻ như em không còn mẹ. Bà mẹ nào mà chẳng lo cho con? Sao bà nỡ để cho em tóc tai như thế, quần áo em như thế? Khi bỏ con tôi xuống gần cổng trường, tôi đi tiếp chiều xe chạy đến sở làm chứ không quay về lối cũ. Tôi không biết em đi ngã nào? Nếu đi học, tôi nghĩ em chỉ cần đi vài "lốc" đường là đến. Ở khu đó có ba cấp trường: tiểu học, cấp hai và cả cấp ba. Vậy thì em chờ xe đi đâu? Ba em đâu? Mẹ em đâu? Trong chiếc cặp quàng vai của em có chứa sách vở không? Hay là thứ gì khác? Thứ gì khác? Tôi không nghĩ ra một đứa bé gái bằng tuổi em ở Mỹ mà không đến trường thì đi đâu? Nhiều bữa, hình ảnh em theo đuổi tôi suốt dọc đường đến sở làm. Tôi nghĩ đến con tôi. Nghĩ đến cái tuổi 14, 16 đẹp đẽ của nó và tôi bỗng nhận ra tất cả tình yêu mà tôi dành cho nó là một sự hiến dâng xót xa đầy thất vọng.
Hơn hai tuần nay, tôi không còn đi lại mỗi buổi sáng trên con đường đó nữa. Nhà trường đã nghỉ hè. Nhưng hình ảnh em bỗng hiện ra trong trí tôi sáng nay. Tôi đi ngược đường đến sở làm. Tôi muốn trở lại ngã tư Washington và Oregon. Mặc dù hôm qua trời nắng gắt cháy da, sáng nay trời bỗng mưa. Mưa không to nhưng khá lạnh. Tôi tấp xe vào một khu chợ gần đó, đi lững thững dọc theo con đường đến trạm chờ xe. Trạm đợi xe vắng, không thấy bóng em. Tôi nhớ đôi mắt buồn của em., nhớ cái dáng điệu thỉnh thoảng em xốc lên có lẽ vì chiếc cặp trên vai khá nặng trên đôi vai quá gầy của em. Tôi tự hỏi tôi tìm kiếm gì? Tôi sẽ nói gì khi gặp em? Và liệu em có muốn trả lời những câu vớ vẩn của tôi? Ðứa con gái nhỏ của tôi mấy hôm nay đã bắt đầu đi làm mùa hè ở một tiệm trợt pa-tin trong thương xá của thành phố. Nó tìm cách chứng minh là nó có khả năng lao động, nhưng nó chưa biết giá trị mà nó thu nhập được từ mồ hôi của nó. Nó chưa biết giá trị của tình yêu mà tôi cho nó. Tôi không hiểu con tôi và có lẽ nó cũng chẳng cần hiểu tôi. Như tôi không hiểu thế nào là mùa hè ở Mỹ.
Tôi nhớ có nghe một ca khúc trong nước phổ từ bài thơ của Ðỗ Trung Quân. Một bài thơ nói về mùa hè, chùm phượng vĩ, tuổi mười tám, cậu học trò ngu ngơ trước tình yêu mới lớn:
Những chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng
Em chở mùa hè của tôi đi đâu?
Chùm phượng vĩ em cầm là tuổi tôi mười tám
Thuở ngây thơ thầm lặng mối tình đầu...
Ca khúc ấy tôi nghĩ rất hợp với Việt Nam, hợp với khí hậu thời tiết con người văn hóa Việt Nam. Ca khúc ấy hát lên ở đây , trên một nước Mỹ lạnh lẽo này sao mà xa lạ và lạc lõng. Nước Mỹ to lớn đang thiếu một cái gì đó để làm thành mùa hè cho những cô cậu học trò. Nước Mỹ đã mất ngây thơ ngay tại sân trường và lớp học. Không biết liệu mùa học tới, khi chở con đến trường, tôi có còn gặp lại em không?
Người Bạn Thân Cũ, Mùa Hè
Suốt một tháng nay tôi bồi hồi vì được nối lại liên lạc với một người bạn thân cũ. Tôi không biết chúng tôi bặt tin nhau đã bao nhiêu năm, nhưng nếu lấy tháng Tư 1975 làm mốc thì chúng tôi xa nhau có đến 40 năm hơn. Hồi đó chúng tôi còn ở tuổi thiếu niên. Thành phố Nha trang với những ngôi trường đầy những cây phượng vĩ, tiếng ve kêu râm ran chào đón mùa hè, và biển xanh, những cây dừa, những lùm dương, cát và gió, và một bầu trời không mây.
Bạn tôi là một thiếu niên không chỉ đẹp trai mà còn học giỏi. Toán và sinh ngữ anh luôn đứng đầu lớp. Anh có nước da màu nâu như cô bé đón xe ở ngã tư Washington và Oregon. Và anh có mái tóc rất đẹp, vàng mịn và xoăn. Mà anh đẹp là phải. Anh rất giống mẹ anh. Người mẹ mà anh vẫn gọi là Dì. Bà giống như một phụ nữ Tây phương hơn là Á đông. Ít nói nhưng dịu dàng, nghiêm mà bao dung. Bà là chủ một tiệm ăn, khá sang, ít chỗ ngồi nhưng toàn khách chọn lọc. Thỉnh thoảng tới thăm bạn, tôi luôn luôn được Dì cho ăn, không phải như một người khách mà như một đứa con. Và tôi đã ăn theo kiểu "ăn cho bõ những ngày cơ cực" như cách nói của Bùi Bảo Trúc. Cái làm cho Dì ít giống như Tây phương nhất đó là Dì hút thuốc lá cẩm lệ như những phụ nữ Huế.
Hơn 40 năm tôi chưa gặp lại bạn, cho nên hình ảnh bạn còn trong trí nhớ tôi là một Tôn Thất L. thời Trung Học. Một thời với Ðoàn Lân, Trần Lâm Cao, Lê Văn Quyền, Thái Hồng Ngọc, Vĩnh Tiễn, Lê Quang An, Võ Văn Trưng, Dương Ðức Quảng, Sao Trên Rừng-Nguyễn Ðức Sơn, Duy Năng- Nguyễn Văn Trí, Hoàng Thị Ngọc Táo, Nguyễn Thị Hoàng, Tôn Nữ Nha Trang, Cao Hoành Nhân, và các bà chị xinh đẹp hoa khôi một thời thuở đó như Túy Hoa, Tôn Nữ Dạ Khê, Như Phú, Bích Hường Bích Ngôâ... Thành phố biển. Và những mối tình của tôi: Bích, Bạch Mai, Bouquet Odette. Mãi về sau này, khi đọc Métisse Blanche tôi mới biết tác giả Kim Lefèvre chính là Lâm Kim Yến, một trong mấy bà chị xinh đẹp của thành phố mà mối tình của chị (cũng như mối tình của Nguyễn Thị Hoàng trước khi viết Vòng Tay Học Trò) đã làm sóng biển Nha Trang trở thành bão tố. Dù sao thuở đó, tôi vẫn thấy Dì tôi là người đàn bà đẹp nhất. L. nói Dì không ở Montréal mà ở với một người con khác bên Mỹ. Tôi gọi dây nói thăm Dì. Tôi nói với Dì là "con đã già", Dì bảo Dì cũng không còn khỏe như ngày xưa. Dì đọc kinh và niệm Phật suốt ngày. Dì gọi tôi là "anh" như Dì vẫn gọi con trai của Dì, bạn L. của tôi là "anh" khi chúng tôi còn nhỏ.
40 năm sau, tôi chỉ gặp lại L. bằng điện thoại. Tôi vẫn chưa nhìn tận mặt anh. Chúng tôi biết là chúng tôi đã già. Mùa hè năm Ðệ Nhị, sau khi lấy được cái Tú Tài I, chúng tôi chia tay nhau. Cả hai chúng tôi đều vào Sài Gòn và điều kỳ lạ là chúng tôi lạc nhau trong cái thành phố Sài Gòn nhỏ bé kia. L . vào Quốc gia Hành chánh. Mấy năm sau tôi nhận được cái bưu thiếp từ Tokyo, L. viết mấy dòng ngắn về nơi anh đến. Và đó có lẽ là những dòng chữ duy nhất mà chúng tôi trao đổi với nhau trong suốt 40 năm.
Mùa hè, năm lên Ðệ nhị, chúng tôi bắt đầu chơi boxing và nói chuyện sẽ đi Sài Gòn học. Tôi muốn làm một người có thể chịu đựng những cú đấm, vì ngày nào đi tắm biển cũng bị những thằng to con đuổi đánh. Tôi muốn có sức chịu đựng của những thỏi thép. Tôi đã làm được điều đó và không lâu, khi cha tôi biết tôi chơi quyền Anh, ông bảo quả đấm của mày thì làm được gì. Liệu mày có đủ sức đấm trả Huỳnh Tiền không? [một tay võ sĩ lừng danh thuở đó]. Tôi hỏi, vậy con phải làm sao. Mày chơi súng đi! Tôi đã ăn cắp khẩu súng của anh tôi, khi anh từ Ban Mê Thuột trở về thăm gia đình. Khẩu súng ngắn Beretta rất đẹp, gọn và nhẹ, như một đồ chơi và tôi đã có dịp sử dụng nó trong một buổi tối ở biển. Viên đạn bắn trượt không giết chết ai, nhưng quả thật nó đã cứu tôi khỏi những thằng lục lâm ở biển. Mấy ngày sau cha tôi hỏi súng làm được gì? Tôi nói mấy thằng lâu la ở biển hết dám đụng con. Cha tôi cười, súng ống thì nhằm nhò gì! Có thứ còn hơn súng nữa kia. Tôi hỏi thứ gì? Cha cười "cái đầu của mày. Ði học đi, cái đầu còn hơn cái súng." Tôi trả cây Beretta lại cho anh tôi, tôi không chơi boxing nữa. Tôi chơi trò chơi văn chương. Qua đường dây viễn liên L. hỏi tôi tại sao viết văn? Viết hồi nào vậy? Tôi có đọc đâu đó những bài của ông, nhưng tôi cứ muốn hỏi tại sao? Hồi tụi mình chơi với nhau, ông đâu có thích chuyện này, phải không?
L. gửi cho tôi ba cuốn sách của Thích Nữ Trí Hải trong đó có hai cuốn dịch của W. Rahula (Phật Dạy Những Gì - Con Ðường Thoát Khổ với Lời Tựa của Hòa Thượng Thích Minh Châu, 1966) và cuốn của Geshe Kelsang Gyatso (Phật Giáo Truyền Thống Ðại Thừa). Tôi dừng lại ở cuốn Lấp Lánh Sao Trời. Cuốn sách mỏng hơn 100 trang gồm những bài viết ngắn, gọn súc tích. Tôi đã đạc rất nhiều lần bài thứ 27: Sống Chết Và Thời Gian của Thích Nữ Trí Hải. Tôi đọc trước hết vì sách do L. gửi cho tôi. Và tôi đọc nhiều lần bài viết ngắn này vì nó trả lời tôi những câu hỏi tôi đi tìm.
"..........đời sống chúng ta quả không khác gì một đốm lửa nhỏ chợt lóe lên trong đêm tối mênh mông rồi vụt tắt. Trước ta và sau ta là những gì, ta hoàn toàn mù tịt:
Tiền tế vô cùng
Hậu tế ninh khắc
Ðường trước mênh mang
Nẻo sau nào biết
(Qui sơn cảnh cách)
Ấy thế mà, trong khoảng thời gian ngắn ngủi của đốm sáng nổi (lên) giữa biển tối bao la đó, mấy ai đã tận dụng đời sống của mình một cách vẹn toàn hạnh phúc? Chúng ta hay than cuộc đời ngắn, nhưng nếu dài hơn ta sẽ làm gì? Làm gì nếu không phải là tiếp tục thở than và bất mãn? Càng theo đuổi những dục vọng, ta càng thêm khát khao, càng thấy không bao giờ đủ. Ðã đành là có những ý dục thanh cao hơn vật dục, như lòng ham muốn hiểu biết chẳng hạn, nhưng phải chăng đó cũng là đau khổ trá hình, còn vi tế sâu xa hơn cả lòng ham vật dục? Bởi vì cái hữu hình, vật chất, dù sao vẫn có hạn, chứ cái vô hình - hiểu biết - thì thật vô cùng. Do đó con người càng nhiều tri thức càng lắm khổ đau, vì sống chưa chắc được đến trăm năm mà cứ toan tính những kế hoạch ngàn năm thì chỉ luống công nhọc sức."
Thích Nữ Trí Hải viết: "Ðức Phật chỉ thẳng nguyên nhân của mọi nỗi khổ và khuyên ta trở về tìm ngay trong thân tâm này, xem cái gì là cái ta chủ chốt của mọi sự sống chết, ham muốn, yêu ghét, quan niệm, khổ vui, hiểu biết.... ấy. Tìm cho ra cái ta ấy đã, rồi hẳn xét đến những cái phụ thuộc vào nó như vui khổ, trí ngu, sống chết, nắn dài. Nếu tìm không có cái ta nào cả, thì những thuộc tính kia, do cái ta mà có, đương nhiên vô nghĩa, như sừng thỏ, lông rùa, hiện hữu còn không có, huống nữa là có ngắn có dài. Ðức Phật dạy: "Sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều không phải của ngươi, ngươi nên từ bỏ." Ở đây hành chính là những quan niệm, ký ức, tư tưởng, ước muốn âm thầm hoặc lộ liễu trong ta, cái ý thức sai lầm về một cái tôi và về tương tục tính mà kinh Kim Cương gọi là thọ giả tướng (cái tôi trên phương diện thời gian). Chỉ khi nào con người hiểu rõ cơ cấu cái ta, chủ tể của sự sống chết, khi ấy họa may mới hiểu được sống chết là gì,và khi ấy có thể sẽ không còn chuyện tham sống ghét chết, phát sinh do mù tịt về thời gian, về sống chết và cái ta." Cám ơn bạn. Mùa hè đã trở lại. Bốn mươi năm có là bao. Già thì đã sao. Vấn đề là những năm tháng ấy bạn có hạnh phúc không? Bạn thấy chưa, tôi đã đọc cuốn sách bạn gửi. Tôi đã tìm được một cách lý giải đời sống. Liệu tôi có đủ khả năng nắm bắt được điều đó không? Tôi biết cái ta có gì đâu. Tại sao cứ nghĩ tưởng cái ta của mình là lớn lắm, lớn đến nỗi sân si cả một chữ vô tình, một lời không hàm ý? Nhưng tình yêu thì sao? Có phải là thọ giả tướng không?
Nhớ một tiếng nói, tương tư một khuôn mặt, thèm một đôi môi, quen một mùi hương của da thịt, ....có phải là thọ giả tướng không?
Cơn Gió Sau Một Cái Chết
Sau cái chết là gì? Là không gì hết. Có chăng là những ngọn gió. Ngọn gió thổi những lời bay đi. Ngọn gió thổi trả những lời trở lại. Cây cải về trời, rau răm ở lại. Tất nhiên cây cải rau răm ở đây không cùng nội dung với câu ca dao. Nhưng dù sao thì cũng là cây cải, rau răm. Trịnh Cung đã nói về Trịnh Công Sơn sau cái chết của người nhạc sĩ tài hoa. Hoàng Phủ Ngọc Tường được nhắc tới.
Trịnh Cung nói vào thời điểm 1975, Trịnh Công Sơn phải làm kiểm điểm nộp cho Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tường không bằng lòng và ra lệnh cho Trịnh Công Sơn phải đi học tập cải tạo. Hoàng Phủ Ngọc Tường trong thư thanh minh nói "Ðây là chuyện hoàn toàn bịa đặt." Và Trịnh Công Sơn cũng như nhiều người khác, kể cả công nhân viên nhà nước, đã đi "thâm nhập thực tế" làm "nghĩa vụ lao động theo xã hội chủ nghĩa" theo danh từ hồi đó." Ông cũng cho biết ông là người viết văn làm báo, suốt đời chưa bao giờ có chút quyền hành gì, thì làm sao ra lệnh được cho ai?" Ông cũng cho biết "không hề có việc Trịnh Công Sơn phản ứng lạnh nhạt với ông, bằng cách đóng cửa không thèm tiếp ông trong một thời gian dài, bằng chứng là Trịnh CôngSơn đã nhờ ông đề tựa tập nhạc Em Còn Nhớ Hay Em Ðã Quên." Người ta biết cả hai ông Trịnh Cung và Hoàng Phủ Ngọc Tường đều là bạn thân của Trịnh Công Sơn.
Nguyễn Xuân Hoàng
* Lấp Lánh Sao Trời, Thích Nữ Trí Hải, Ưu Ðàm phát hành. Sách dày 102 tr. Không ghi giá. Liên lạc: 9172, 13e Avenue, Montréal, Qué, HIZ 3L5. Email: thao_hoa@yahoo.com
Huế Mà Ta Sẽ Trở Lại
Nguyễn Xuân Hoàng 07/1988
1.
Huế. Tại sao?
Huế. Huế có nghĩa là gì nếu nó không gắn liền với những con người và cảnh vật của thành phố đó?
Thói quen của chúng ta nói rằng Huế là tất cả miền Trung, cũng như Hà Nội là Bắc, Sài Gòn là Nam. Cái để người ta buộc chùm với Huế là sông Hương, núi Ngự, là chùa Thiên Mụ, là lăng tẩm, là Vĩ Dạ, là Đập Đá… là Công Tằng Tôn Nữ, là Nguyễn Phúc, Vĩnh, Bảo, là cảnh trí, là những trận mưa liên tu hồ tận, là…
Những người Việt Nam tị nạn gọi California là Sài Gòn nhưng gọi Hoa Thịnh Đốn là Huế. Cali thì hiểu được, nhưng Hoa Thịnh Đốn, tại sao?
Người Hoa Thịnh Đốn kiểu cách chăng? Hay Hoa Thịnh Đốn có con sông Potomac chảy qua thành phố như con sông Hương lướt thướt dưới cầu Tràng Tiền? Hay Hoa Thịnh Đốn đầy dẫy những di tích lịch sử để làm cho người ta liên tưởng đến những lăng tẩm của triều đình nhà Nguyễn?
Cách chi thì cách, lòng tôi sáng nay tràn đầy xứ Huế.
Tại sao?
Nào tôi có biết!
Huế. Thành phố ấy tưởng như đã chìm mất trong sự quên lãng, thật ra vẫn còn quanh quẩn nguyên vẹn trong trí nhớ tôi.
Huế. Thành phố của tuổi mười sáu gắn chặt tôi vào với Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử. Huế, thỏi nam châm tình ái của con đường đi qua Đập Đá và ánh nắng mới lên trên những hàng cau quạnh hiu của một mặt đường sỉn bụi.
Huế trước hết là khuôn mặt tuyệt vời, là đôi mắt hạnh nhân, là giọng nói ngọt ngào quyến rũ, là nụ cười bão tố.
Huế thổi trong tôi hơi thở thơm ngát của sông Hương.
Huế, tình nhân của tôi thời mới lớn.
Tôi đã thấy gì ở Huế hồi đó? Một chiếc hộp giấy bìa kín bưng bên trong là con dế nhỏ. Và tôi, cậu bé tìm trò chơi trong mùa mưa. Con dế dễ thương, tiếng gáy dòn tan, nhọn như kim. Và đứa nhỏ đứng lớ ngớ bên ngoài, chọc thủng cái lỗ nhỏ tí xíu nhìn vào.
Cách biệt. Ao ước. Sung sướng. Hồi hộp.
Nhưng một hôm bỗng nhiên Huế trôi đi như những cánh lục bình dưới gầm cầu sau cơn mưa lũ.
Tưởng vậy thôi, thực ra Huế không chìm mất hẳn. Như cái phao của chiếc cần câu có sợi dây tơ quá dài, Huế nổi lên, Huế trở lại trong tôi.
Trở lại trong tôi với tất cả nỗi đau đớn và xót xa.
Trở lại trong tôi với hình ảnh của một thành phố máu lửa. Huế giẫy giụa và bi thương. Huế nghẹn ngào và nghẹt thở.
Huế là người bệnh bị máu xối xả tuôn từ lục phủ ngũ tạng. Huế hấp hối.
Huế trở thành thành phố của bạo động và căm phẫn.
Huế trí tuệ.
Huế chôn xong người tình nhỏ bé, để hóa thân trở thành một nhà cách mạng cực đoan.
Huế khóc bằng nước mắt của dân tộc.
Chiếc cầu nối liền hai con đường chính của Huế đã gẫy. Con sông vẫn nghiêng bóng. Huế của trầm lặng đã trầm lặng trở lại sau những tiếng súng.
Trong cái ánh nắng chói chang của Huế, sao tôi chỉ nhìn thấy cái mù mịt của một đời sống xót thương?
Huế đầy hầm hố và xác chết, và tử biệt sinh ly?
Huế đòi lại người chồng người con đã bị vùi sâu trong đất đai và biển lửa.
Trên khuôn mặt xanh xao của Huế đang giàn giụa nước mắt là một Huế dũng mãnh.
Cả hai lần đến Huế, Huế đều dìm tôi xuống tận đáy vực của đau thương.
Lần đầu Huế là đôi mắt đen sâu như vực thẳm của tình ái. Lần sau Huế chính là ngọn lửa bốc cao tiếng khóc xót xa của một thời băng giá. Huế của địa ngục.
Như con chim sải cánh bay trên trời cao, ngó xuống tình cờ một thành phố ngổn ngang những di tích của một lịch sử, la liệt xác chết của một trận chiến ngu xuẩn, thấp tè những mái nhà tối tăm của một đời sống chậm chạp thiếu ăn và đen đúa.
Tôi bị cay mắt vì những cột khói mù của một thành phố cháy.
Huế hết chưa thời rêu rong và cổ kính?
Huế có còn không con đường hàng me đầy kỷ niệm?
Huế thơ ngây của tôi đã đầy chăng sự già dặn?
Huế của núi thấp và sông cạn.
Huế của tình yêu và thù hận.
Huế chỉ là nơi để nhìn ngắm và chiêm ngưỡng hay để sống và thở?
Huế, đó chính là thành phố mà tôi sẽ trở lại, mặc dù tôi biết là chẳng có ai chờ đón tôi ở đó.
Cũng chẳng làm sao, phải không? Bởi vì tôi đâu phải người khách lạ và Huế đâu phải là một miền đất không quen!
Huế cổ tích và hiện đại.
Huế với thời tiết kỳ quái, cách mạng xung động và trầm lặng khó hiểu.
Nhưng Huế, xin hãy chờ!
2.
Những cửa sổ của Huế
Mùa hè ở Huế, mặt trời xuống rất gần, đêm đứng gió, nóng bốc khói từng lỗ chân lông. Huế như chiếc hỏa lò lớn thiêu tro tất cả.
Trời xụp thấp. Và đám mây bồng, đã cũ xì.
Tôi ao ước mưa và tôi đang nghe thấy được mùi khói đất lượn qua mũi. Mưa. Cơn mưa tuyệt vời giữa mùa nắng cháy của Huế.
Tôi đang nghe hơi đất ngái xông lên, cơn mưa kỳ dị đang rơi xuống.
Hình như tôi ngửi thấy được mùi vị Huế, cái mùi cách đây lâu lắm tôi đã bắt được qua những bãi cát trắng chạy dọc đường từ sân bay về trạm ga, cái mùi đặc biệt Huế thoảng ra từ mái tóc gội bồ kết em, từ giọng nói ngọt ngào quyến rũ em, từ màu áo tím than buồn bã em.
Trong cơn gió nhẹ thổi tới mặt trong hạt mưa bay đọng trên cánh tay đặt ở bờ cửa, trong sự mệt mỏi của thân xác, tôi tưởng nhìn thấy lại khuôn mặt của một người với nụ cười dịu dàng, chiếc cổ cao, đôi mắt màu nâu sáng…
Nhưng không phải là cơn mưa phùn của mùa Xuân Đà lạt để khơi lại cái quá khứ đã nhòa nhạt, không phải là ngọn gió mềm Nha Trang để thổi bay chút phấn thông dĩ vãng đã phai màu. Chính là những giọt nước vỡ òa như cái bong bóng căng bị ép cực mạnh, chính là trận mưa tàn bạo bất thường, cơn gió thốc xoáy quái dị cuốn tung khuôn mặt ngày xưa của Huế. Chính là những căn nhà tôn lụp xụp, kiến trúc vuông vức phẳng lì hình hộp, san sát như những viên gạch để đáp ứng cho nhu cầu chiến tranh mà Huế trở nên nghẹt thở. Chính cái màu xám xịt của đoàn xe dày đặc đầy nhóc những lính trận, đạn dược và súng ống, chính những chiếc thiết giáp nặng nề nghiến nát mặt đường với bụi đất đỏ bết chặt thành xe, chính cái áo tơi quá rộng trùm kín những đôi vai gầy nhỏ, chiếc nón sắt cứng nhắc ép xuống cái đầu mềm nhũn của người lính trẻ làm Huế trở nên người lạ mặt.
Huế mà tôi đang nhìn thấy (chìm trong sương mù của tấm vải thô đục đan bằng những giọt nước mưa to) xa xôi như một vùng đất chưa hề một lần đặt chân đến.
Huế mà bây giờ ta đang nhìn thấy huyền ảo mong manh như một cái gì không có thực.
Huế tối tăm trong những bong bóng mưa vỡ tung khi chạm thành cửa kính, mũi xe, mặt đường.
Và như thế Huế chào đón tôi.
*
Tôi xuống xe ở nhà ga tàu lửa — những nhà ga tàu lửa của hầu hết những thành phố còn sót lại miền Nam này đã trở thành những trạm đi và đến của đường hàng không – nhớp nhúa hơn, lạc lõng hơn và tội nghiệp hơn cái nhà ga mà tôi đã nhìn thấy, đã chờ đợi, đã đưa đón, đã ra đi và đã biệt ly hồi đó.
Chiếc xắc trên tay, không còn thứ hành lý nào khác để chờ lãnh, tôi đứng chơ vơ một mình ở sân ga.
Huế đó sao?
Trên sân ga này một buổi sáng tôi đã đến, len qua cánh cửa người soát vé, chạy băng trên nóc những toa tàu, gặm khúc bánh mì khô trong khói than.
Trên sân ga này, trong một buổi sớm mai lạnh buốt tôi đã nhìn thấy mắt em nhỏ lệ ngậm ngùi, nơi chúng tôi đã chia tay nhau không một lời từ biệt, và chúng tôi, ngầm hiểu với nhau rằng như thế là tình yêu đã hết.
Huế đó sao?
Hòn sỏi dưới chân tôi cũng lạ mặt giống hệt như tôi đang đứng trên bờ cát, những con sóng xô vào, rút nhanh, xóa tan hết cái vết chân ai vừa mới dẫm lên.
Người phu xe thở dốc khi đưa chúng tôi băng qua những con đường ổ gà — trận lụt bữa trước đã cuốn trôi tất cả — lên một chiếc cầu, nép tránh một chiếc xe hàng ọp ẹp, chúi nghiêng khi chùi xuống một lỗ trũng.
Bao Vinh xa không thể tưởng.
Chẳng hiểu là bạn ta có thấy được đường xa và cơn mưa buồn bã của tôi không?
Bạn đã nói đến quê nhà của bạn, thời thơ ấu của bạn, con đường mà bạn đã băng qua để đến trường học lớn nhất miền Trung, chiếc cầu (mà chúng tôi đã đi ngang qua đây) là nơi mà mỗi buổi chiều dân chúng thẩn thơ lên đó hóng những ngọn gió mát từ mặt sông thổi lên.
Tôi đã ngủ lại đêm ở nơi này. Bao Vinh ba giờ khuya nước sông lớn theo cơn mưa xoáy đứt neo trôi đi những thuyền buôn của mấy người Quảng. Và ta đứng trên bao lơn Bao Vinh nghe thấy Huế than khóc, rên rỉ, trôi trên sông một đời buồn bã.
Huế đó sao?
Sáng hôm sau khi Bao Vinh còn ngái ngủ tôi đã rời bỏ nó để trở về thành phố. Dù sao tôi vẫn ưa nhìn Huế tận mặt, tận mặt trong cái vẻ nguyên vẹn không màu sắc và phấn son của nó, tận mặt vì ở đó — những con đường Trần Hưng Đạo, Phan Bội Châu… đầy người hay con đường Lê Lợi, Phạm Ngũ Lão, Trần Thúc Nhẫn… vắng vẻ đến dễ sợ — tôi có thể thấy được cái mà ít ra Huế có thể phô bày. Thành phố Huế là khuôn mặt của Huế, những cái khác chỉ là tay chân. Cầu Trường Tiền và sông Hương là mạch máu và trái tim của Huế. Những chiếc cầu khác, những nhánh sông khác chỉ là những mạch máu nhỏ tiếp dưỡng và bồi bổ cho mạch máu lớn.
Thành Nội là vầng trán của Huế, trên đó người ta có thể nhìn thấy những nếp nhăn cổ tích, con đường hẹp ngập đầy bóng mát và lá úa của những tàn cây lớn đứng tuổi trước những thành quách rêu phong là dấu vết của một thứ quá khứ vàng son không bao giờ long lanh lại nữa.
Óc não Huế là khu Đại học trẻ trung chẻ ra bằng những con đường đá xanh, rợp bóng cây của những cuộc dạo chơi tình cảm, đứa con muộn màng của mối tình kỳ cựu nhất là chàng trai tơ Quốc Học và nàng kiều nữ Đồng Khánh.
Ruột gan Huế là chợ Đông Ba ngổn ngang xô bồ bên ngoài ngôi nhà tối tân không được tận tình sử dụng.
Và Vĩ Dạ bên kia Đập Đá chính là Tình Ái Huế.
*
Bỏ lại Bao Vinh một buổi sáng tôi nhớ gì?
Có phải câu ca dao mà bạn ta đã đọc (và ta đã không nghe rõ lắm).
Bao Vinh cao bực (?) thẳm bờ
Ghe thuyền năng đậu, mẹ nhờ duyên con
Thế nào là cao bực, là thẳm bờ? Tôi chỉ có thể giải thích được một điều là chốn ấy có người qua kẻ lại, và cái duyên của con gái có thể làm thay đổi cuộc sống của bà mẹ.
Bỏ lại Bao Vinh, sau một đêm gần như không ngủ, tôi thấy Huế dần dần hiện ra trong lặng lẽ im lìm, bất động.
Còn quá sớm để đánh thức một dĩ vãng đang yên ngủ, nhưng hình như quá trễ để pha một cốc nước trà cho người già nua?
Phải không Huế?
*
Như vậy đó tôi nhìn thấy Huế.
Suốt mấy ngày trời Huế mưa dầm mưa dề mưa tầm mưa tã.
Huế nhốt tôi trong trường Quốc Học. Cửa kính sỉn mờ, hành lang u ám, và tiếng trống vào lớp buồn xưa.
Huế trầm lặng, nghiêm trang như phòng thi với những khuôn mặt xanh, mắt lo âu, trán ưu tư. Huế kêu réo ký ức của một hoài niệm.
Mưa rơi trên sân trường, mực đầy trang giấy trắng. Và niềm im lặng cổ kính.
Chính là khuôn mặt dịu dàng em, đôi mắt tròn đen hơi ngơ ngác em, nụ cười buồn rầu và mái tóc ướt huyền em… xô đẩy cánh cửa thần thoại cổ tích…
Trận mưa da diết và kỳ diệu của Huế làm ướt đẫm tâm hồn tôi.
*
Còn nhớ buổi chiều đầu tiên của một ngày có nắng sau trận mưa liên tu hồ tận ở Huế, một người bạn hỏi tôi:
"Nóng chưa?"
"Cái gì nóng?"
"Thì trời nóng đất nóng chứ còn gì!"
"Nóng!"
"Vậy thì đi".
"Đi đâu?"
Bạn ta không trả lời. Hắn dẫn tôi ra trước Kỳ Đài (A! Chỗ này đây đã có trận đánh lớn, ngưòi ta giết nhau để cắm một ngọn cờ. Bao nhiêu người đã chết ở bãi cỏ xanh này. Bao nhiêu tuổi trẻ đã nằm gục vắt ngang khẩu đại bác cũ kỹ này? Một tấm vải. Một lá quốc kỳ. Và máu chảy xuống. Có phải là tôi đang nghe lại tiếng đạn réo ngang mang tai, một trái lựu đạn vừa nổ, một hơi thở vừa thoi thóp? Có phải tôi đang nhìn thấy lại trong trí tưởng cái hình ảnh quằn quại của người lính trận? Có hay không điểm khác nhau giữa sự đau đớn thân xác của người chiến sĩ này và người chiến sĩ bên kia sông? A! Chỗ này đây…) Đẩy tôi xuống một bờ dốc. Bước lên một tấm ván gỗ. Leo qua một khoang đò. Bạn ta cười cái cười kỳ cục.
Đêm trên sông Hương. Tôi tưởng thấy tất cả cái lóng lánh của một trang sách, mê say của một truyện kể… Nhưng chẳng có gì hết. Đò san sát nhau tấp dọc bờ. Người đàn bà tháo dây, chống sào. Đò lướt ra, không xa lắm, neo lại.
"Thế thôi?"
Đêm đó mát thật nhưng tôi buồn cười. Suốt đêm tôi buồn cười. Chẳng là vì tôi chờ đợi tiếng phách gõ của những thuyền nhỏ bán quà trên sông. Một người bạn ở Sài Gòn nghe tôi sắp ra Huế bèn nói cậu nên ngủ đò. Có gì hay không? Có. Gì? Tiếng động trên sông Hương đêm. Ra sao? Hắn nói đến tiếng phách gõ có nhịp điệu đặc biệt là một thứ ngôn ngữ mà người ta có thể truyền cho nhau được trên sông. Chẳng hạn như chè có lối gõ khác với cháo. Bún bò có một nhịp động khác với hột vịt lộn. Và những nàng kiều nữ nữa… Nhưng bây giờ đây, nghĩ đến thứ âm thanh trong trí tưởng đó làm tôi tức cười muốn chết. Tôi đâu có đi tìm một chút gió mát trên sông Hương. Tôi tìm nghe tiếng động của Huế ban đêm. Và tiếng động đó không có thực. Chỉ có tiếng người ơi ới rao hàng và tiếng mái dầm ì òm trên mặt nước.
Huế đó sao?
Trong bóng tối của trời đất, trong hơi thở của sông nước, tôi tình cờ nghe được tiếng thở dài của Huế. Phải, và trong cái tỉnh táo của đầu óc, trong sự lặng thinh của trái tim, tôi nhìn thấy lại khuôn mặt dịu dàng em, sự chết nằm trên vành khăn tang trắng cuồng bạo lạnh lẽo, nhưng trong đôi mắt nai em chứa chan một đời sống êm đềm, nồng nàn.
*
Trước khi dời bỏ Huế, tôi đã ra ngồi bên bực thềm Lăng Miếu trước trường Đồng Khánh. Vũng nước của trận mưa bữa qua còn đọng trên mặt đất. Ngày thì đã qua nhưng mùa hè vẫn còn. Chẳng làm thế nào để thấy được những con bướm trắng bay ra từ ngôi trường đó, rộn rịp nhởn nhơ trước mặt tôi khua guốc trên đường lộ, hót như chim, xuống đò qua sông mang theo chút ngây dại còn sót lại của đời tôi.
*
Ôi! Huế rêu phong buồn bã, thành quách cuồng tín, mưa dầm, nắng cháy!
Ôi, Huế bạo động và trầm lặng như em.
3.
Huế, Xin chào!
Xin chào thành phố buồn thiu, con sông lặng lẽ.
Xin chào Bao Vinh phố hẹp nhà đông, thuyền bè đứt neo, tiếng động ban đêm.
Xin chào bạn bè mà tôi đã gặp trên chuyến đi, ngôi trường nổi tiếng mà quá khứ vàng son của nó còn ngự trị nơi tôi cả một triều đại. Xin tạm biệt mùa thi, mùa hạ của Huế.
Xin chào mừng những chiếc đò xếp lớp như cá mòi đóng hộp, một chút gió sông, một trời đen ám, một đêm lạ lùng.
Xin chào những đóa sen trắng nở thơm quanh hào Thành nội, con đường bóng mát lởm chởm đá xanh dẫn đến ngôi nhà người họa sĩ trẻ đã một thời cùng tôi chung học dưới mái trường.
Xin chào bạn tôi, người đã sanh ra và lớn lên trên đất Thần kinh nghe thấy quanh quẩn đâu đó một điều tuyệt vọng.
Xin chào bóng tối của những cây nhãn trong quán Ngự viên, những giọt mưa phả ướt mặt tôi trên đường về chỗ trọ, tối ám quạnh hiu.
Xin chào những cây me thở diệp lục tố nơi bạn tôi đang ở mà tôi không đến được, xin chào nhà sàn Trần Thúc Nhẫn vườn kín lá cây xanh, nơi người bạn gái tạm trú với một mối tình đã chết.
Xin chào người anh em làm thơ viết văn tình ái và cách mạng của một Huế bi phẫn và cuồng nộ.
Xin chào mảng nắng sáng góc phố Lê Lợi, màu trời chiều tháng Sáu Vĩ Dạ. Xin chào hơi thở thơm hương cau hương bưởi em. Xin chào mùi bồ kết và chanh, tẩm đầy mật ong rừng trên mái tóc em.
Xin chào Kỳ dài chưa treo cờ, những khẩu đại bác bảo tàng viện bóng lưỡng sẽ không bao giờ còn thở khói, bờ cỏ mướt sương buổi sáng còn ướt chân tôi.
Xin chào Đập đá thấp, với chiếc cầu vòm cao trong trí tưởng, dẫn ngang những làng xóm khô cằn vừa trẻ lại bằng những chùm nắng lóng lánh trên hàng cau, bờ cỏ.
Xin chào Thuận An cát vàng bẩn sỉn, chiếc phà khô kệch chòng chành, người đi ngơ ngẩn.
Xin chào những bàn thờ, những nén hương ngạt ngào dọc bờ sông bị vây ám trong cơn mưa vào ngày kinh đô thất thủ làm sống dậy trong tôi một Tôn Thất Thuyết đảm lược, một Hàm Nghi vĩ đại can trường.
Xin chào nỗi đau khổ trong chiếc nón bài thơ, trong màu áo, trong mắt nhìn của những người mẹ ở chợ Đông Ba.
Xin chào một người trong trường Jeanne d’Arc với cổng kín tường cao, chiếc xích đu đong đua cả một chiều chờ đợi.
Xin chào đôi mắt to đen, vành khăn tang trắng, áo lụa vàng, nụ cười buồn, nhìn ai không nói trong sân trường Quốc học mùa thi.
Xin chào những trái cây còn non trong ngôi nhà cổ, nơi bóng tối nhiều hơn ánh sáng, chỗ nát tan nhiều hơn lành lặn, nơi tôi đã đến đốt một ngày dài kỷ niệm.
Xin chào những cây sầu đông không nở trái để tôi hái tặng em, xin chào những con đường em đã đi mà tôi không biết nơi nào để giẩm lên đó những dấu chân muộn màng, xin chào ngôi nhà em đã ở cùng với những người thân yêu mà tôi chưa một lần gặp mặt, xin chào những kỷ niệm riêng tư của em mà tôi không hề muốn nhìn ngắm.
Xin chào những dấu đạn, những hố bom, những xác chết, những vườn không, nhà trống, những chia lìa và tủi nhục của một thành phố tai ương.
Xin chào những chùm hoa phượng nở đỏ như máu trong trường Đồng Khánh, trái tim của hăng nồng và sắt máu, xin chào mãi mãi những tâm hồn vĩ đại đã không ngừng nhúm ngọn lửa đấu tranh không ngừng chống mọi gian trá, bất công và đàn áp.
Xin chào những người đang yêu, những mối tình đang lớn / hay đã chết trong Huế.
Xin chào mặt trời trên cao, con mắt duy nhất đã nhìn thấy tội ác và đau khổ của một vùng đất khô cằn, nghèo đói, gầy ốm, bệnh tật và thiên tai.
Xin nghiêng mình trước một xứ Huế của những con người chịu đựng bền bỉ dẻo dai mãnh liệt hơn bất cứ một người dân nào trên thế giới.
Xin chào con đường mòn nhỏ dọc bờ sông với cỏ xanh đưa tới những bậc cấp của những Lăng Miếu trước trường nữ trung học, nơi tôi đã đi dạo mỗi buổi chiều với em, ghế đá nhám bẩn nơi tôi đã ngồi một mình nhìn con sông lặng lờ và những bậc cấp bằng gạch nung đã rêu xanh, nơi tôi tưởng đang nghe thấy tiếng cười rộn ràng của tình yêu Huế.
Xin chào các em nhỏ ở Huế, những đứa con được nuôi dưỡng trong một bầu khí đe dọa, bú mớm bằng thứ sữa thử thách, đầy cay đắng và kinh hoàng, các em sẽ lớn hơn mọi trẻ em trên thế giới vì các em có đủ căm thù để tranh đấu và đủ yêu thương để tha thứ và sống với kẻ khác.
Xin chào một tuổi trẻ hiện tại và dũng cảm Huế.
Xin vĩnh biệt quá khứ vàng son và xa cách Huế.
Xin chào một thành phố mà chắc chắn là tôi sẽ còn trở lại dù không ai chờ đợi.
Hãy làm bộ vĩnh biệt Huế, nghe.
* Trích Căn Nhà Ngói Đỏ của Nguyễn Xuân Hoàng, Văn Nghệ xuất bản 1989.
NHƯNG... TA KHÔNG THẤY GÌ HỀT
Không thấy gì hết, buổi sáng rồi qua, buổi trưa rồi tới, buổi chiều rồi đến.
Và đêm xuống như mọi đêm.
Hôm kia mưa một trận mưa lớn, bữa nay nắng đã ngập đầy trời. Con đường bụi đỏ ta đã đi, nước đã thấm ướt tận gót giầy, trên những chiếc lá úa nát nhầu tuổi nhỏ ta đã từng nhẩn nhơ những mùa nước lũ.
Mặt biển lên cao thịnh nộ, trắng những ngọn sóng thần, đục những triều nước táp, nơi ta đã trầm mình, chôn vùi những tháng ngày mới lớn.
Gác chân lên rào gỗ, nhắm mắt dưới mặt kiếng đen hình như ta nghe được tiếng chân quá khứ đang gõ nhịp trên đường dây trí nhớ.
Ta nhớ khuôn mặt già nua của mẹ, bàn tay đã nhăn màu củi mục, xếp nếp như chiếc áo nhàu nát, và tiếng súng mỗi đêm vọng về xé nát tâm can mẹ, một chút đời sống còn treo lửng lơ trên bờ vực thẳm.
Ta không sao quên được con mắt đục nâu, chiếc miệng móm bã trầu, những sợi tóc bạc, và nụ cười khô héo của mẹ.
Ừ, làm sao quên được những giọt nước mắt lưng tròng của mẹ khi ôm ta trong tay ngày ta trở về sau những tháng ngày lưu lạc.
***
Thổi mạnh nữa đi cơn gió biển buổi chiều, thổi bay đi những giúm cát còn sót lại của thời mới lớn ta.
Có phải nơi đây, phía dưới sâu của chiếc ghế ta đang ngồi, từ nhiều năm trước ta đã lăn vùi trong cát, lủi sâu giữa những bụi dương như những con dã tràng?
Có phải ngay trên chiếc ghế tựa này, ta đã duỗi dài trí tưởng, đốt điếu thuốc thứ nhất trong đời, khô cạn những giọt nước mắt lần đầu sau giờ cha ta ra đi?
Có phải quanh quẩn đâu đây, bên cây dừa mới lớn ta tưởng ngó thấy mối tình đầu tiên của ta hôm nào đã cháy phụt như một ngọn pháo bông rồi tắt ngúm như một ánh sao sa?
***
Thổi mạnh nữa đi hỡi trận gió buổi chiều, chỉ có mình ta bơi trong cơn hồng thủy.
Thổi mạnh nữa đi những rác rến của thời thơ ấu đã cùng ta tấp dạt vào bến bờ quên lãng!
Những con sóng nào ào ạt vỗ vào ghềnh đá, tan xác thành bọt trắng xóa, có nghe ta nói bằng giọng điệu của một kẻ cuồng điên?
Những hào hến rêu xanh ở núi đá ngoài khơi xa kia đã từng cắt xước đến rướm máu đôi bàn chân ta, đã từng há mồm táp vào tuổi trẻ ta, có còn chờ đợi ta: một người đang đếm ngược thời gian trở về quá khứ?
Ta đã trở về sao thành phố ngày xưa?
Bật một que diêm, khum tay che một đốm lửa, đốt một điếu thuốc, hâm nóng một kỷ niệm.
Nhưng, ta không thấy gì hết.
Que diêm tắt, đốm lửa rụi tàn, điếu thuốc lạnh tanh, kỷ niệm đã chết như rừng dương tuổi nhỏ ta đã bị san bằng để trở thành phi đạo.
***
Thổi mạnh hơn nữa đi hỡi đám cuồng phong còn ngái ngủ, hãy đẩy những con sóng lớn phủ ập chỗ ta ngồi, hãy cuốn phăng hết những quán hàng nhà cửa cây cối, cuốn phăng luôn những người và vật những lũ người giả dối những bọn tị hiềm. Hãy trả lại cho ta bải biển ngày xưa, chỉ có cát vàng, những con đôm đốm xanh soi chút ánh sáng lẻ loi dọc theo mé nước đêm, và ta một mình, hai tay trong túi, đếm từng bước đi.
Ta đã có một cuộc đời sao?
Những tháng ngày nào đã đi qua đời ta? Những người nào ta đã gặp? Đã quen? Đã yêu? Đã chia tay?
Hãy thổi mạnh nữa đi những trận bão của trời đất! Hãy bốc cháy hết những khu rừng! Hãy tràn ngập những con sông! Hãy chôn vùi trong đáy biển tất cả những thành phố! Hãy ném trả lại quả địa cầu lạnh lẽo này điêu tàn và chết chóc! ...
***
Ta tưởng ngón tay ta cầm lấy được sự thật mà ta biết, nhưng ta không thấy gì hết.
Chỉ là làn gió nhẹ thổi rì rào qua những nhánh lá dương.
Chỉ là tiếng ì ầm muôn năm của sóng bể táp vào bờ cát.
Chỉ là hơi nước mặn ướt rịn trên môi khô ta.
Chỉ là ta.
***
Không thấy gì hết.
Buổi sáng rồi qua, buổi trưa rồi tới, buổi chiều rồi đến.
Đêm sẽ xuống như mọi đêm.
Và sáng mai một mặt trời sẽ đỏ rực ở sau núi đá kia.[NXH]
Ý kiến độc giả: