Người Đi Trên Mây 2

Nguyễn Xuân Hòang : Người Đi Trên Mây

TV và BH

clip_image002

Giới Thiệu : Tác phẩm Người Đi Trên Mây của nhà văn Nguyễn Xuân Hòang có lẽ là tác phẩm được nhắc đến nhiều nhất mỗi khi người ta nói hoặc viết về Nguyễn Xuân Hòang. Thậm chí, bản thân nhà văn còn được gọi là “ Người đi trên mây “ và có người còn quả quyết rằng nhân vật chính trong truyện – Trần Lâm Thăng – là bản sao của tác giả. Sau Người Đi Trên Mây (1987), nhà văn Nguyễn Xuân Hòang cho ra đời Bụi Và Rác (1992) còn được gọi là Người Đi Trên Mây 2. Tin đồn rằng nhà văn đã hòan tất xong quyển sách thứ ba, tác phẩm này sẽ cùng với Người Đi Trên Mây, Bụi Và Rác , hợp thành bộ Trilogy để đời của ông, nhưng định mệnh đã xui khiến ông lỡ tay nhấp một cái “nhấp chuột chết người “(delete) và thế là tác phẩm thứ ba biến vào thế giới ảo mà không để lại chút dấu vết nào. Trong một dịp trò chuyện (qua điện thư), tôi có hỏi nhà văn về “tin đồn” này thì không được ông trả lời. Tôi không rõ ông không muốn trả lời câu hỏi hay chỉ đơn giản im lặng để tùy người đời suy đóan. Cho đến hôm nay,sau khi ông nằm xuống được một tuần, người ta có thể chắc chắn một điều là không có tác phẩm thứ ba. Có lẽ rồi đây, khi nỗi buồn vắng ông lắng xuống, thân nhân , thân hữu của nhà văn sẽ giúp chúng ta có câu trả lời chính xác. Còn bây giờ, để tưởng niệm một nhà văn quan trọng của văn học miền Nam ( và Việt Nam), cách hay nhất là đọc lại văn Nguyễn Xuân Hòang, nhất là hai tác phẩm Ngừơi Đi Trên Mây và Bụi Và Rác.

Về ấn bản điện tử của hai tác phẩm này, hiện lưu hành trên mạng tòan cầu chỉ có bản đăng từng kỳ ( 100 kỳ cho NĐTM và 100 kỳ cho BVR) do Người Việt Online thực hiện, được rải rác đây đó vài trang Web các cựu học sinh của nhà văn đem về nối kết (link) như một cách tưởng nhớ đến người thầy của mình. Trong tinh thần đó, TV&BH xin phép báo Người Việt Online được đăng tải lại tác phẩm NĐTM và BVR, sau khi đã gom những kỳ đăng tải rời rạc thành một bản văn và đối chiếu lại với bản in (giấy) mới nhất của nhà xuất bản Người Việt năm 2014, để gởi đến độc giả Việt Nam – trong và ngòai nước – bản điện tử trang trọng xứng tầm với vị trí của tác giả và hai tác phẩm tiêu biểu về một giai đọan lịch sử đau thương nhất của đất nước mà không ai trong chúng ta được quyền không biết đến và không ai trong chúng ta được phép quên lãng.

Kính mong được sự lượng thứ và cho phép của Cô Trương Gia Vy – phu nhân nhà văn NXH- về việc làm này của T.Vấn & Bạn Hữu.

Ngày 19 tháng 9 năm 2014

T.Vấn

Nguyễn Xuân Hòang

Người Đi Trên Mây

Chương 1

Thực tình trong thâm tâm tôi, tôi không có ý định đến dự buổi tiệc này. Tại sao tôi cũng không hiểu. Có thể có nhiều lý do, nhưng xét cho cùng, chẳng có lý do nào là chính đáng.

Trước hết, có lẽ vì tôi không hề quen biết người đứng mời, mặc dù chủ nhân không phải là một tên tuổi xa lạ trong lúc này, giữa những ngày đầy biến cố sôi động của Sài Gòn.

Lại nữa, tôi vốn không ưa thích lắm đám đông, nhất là đám đông của những tiệc tùng đình đám. Bầu không khí của những dạ tiệc càng làm tôi lo sợ hơn. Y phục kiểu cách, lịch sự giả dối, ngôn ngữ kênh kiệu… Tất cả những thứ đó làm tôi ngộp thở. Họ nói chuyện chính trị và kinh tế pha trộn trong mùi nước hoa, và màu sơn móng tay…

Sau cùng, tôi do dự vì tấm thiệp mời đã đặt tôi trước hai thái độ của đám bạn tôi. Một đứa khi cầm trên tay giấy mời in tuyệt đẹp với dấu nổi khằn ghi rõ tên tuổi của một chức sắc cao cấp trong Hội Ðồng Nội Các đã cười cười nói nói với tôi rằng đến làm chi cái thế giới quân phiệt và tài phiệt kia, nơi chỉ có luồn cúi và bưng bợ, lò thiêu hủy nhân cách con người. “Ðến chợ Ðủi đi, bọn tao chờ mày ở đó!” Ðám khác thì khuyên tôi nên đi, đó là một cơ hội bằng vàng, phải mở rộng cánh cửa quen biết. “Cho dù mày không ưa cái xã hội thượng lưu đó, chắc chắn sẽ có lúc mày cần đến nó! Vả lại được bắt tay ông Phan lúc này đâu phải là chuyện chơi! Ði đi con ạ! Chớ có ngu!”

Tôi biết chắc là tôi sẽ lạc lõng trong cái thế giới quyền lực và hào nhoáng kia, nhưng không hiểu cái gì đã xô đẩy tôi, vô hình nhưng mạnh mẽ.

Qua khỏi cánh cổng hẹp có lính gác tôi bước vào một khu vườn rộng. Dưới mỗi gốc cây là một bàn vuông nhỏ bốn chỗ ngồi với nến ba ngọn và thức uống. Khách đến đã khá đông. Tôi thấy chủ nhân, ông bà Phan, đứng trên bực cấp cao của ngôi biệt thự.

Tôi đang lớ ngớ thì một người đàn ông cao lớn, tóc cắt cao, mặt bạnh bước về phía tôi. Chân thẳng, đầu cúi thấp, giọng kiểu cách, anh ta nói:

“Xin lỗi ông. Chúng tôi sẽ rất hân hạnh được biết quý danh!”

Tôi nhìn hắn hơi ngạc nhiên, nhưng rất kịp thời tôi trả lời:

“Thăng. Trần Lâm Thăng. Làm nghề dạy học.”

Hắn nghiêng đầu, đưa tay mời:

“Xin mời giáo sư.”

Hắn đưa tôi đến trước mặt ông bà Phan, đứng nghiêm, giọng nhỏ, nhưng rõ ràng:

“Bẩm cụ. Giáo sư Trần Lâm Thăng!”

Ông Phan đưa tay cho tôi bắt. Bàn tay ông mập và mềm, mấy ngón tay ú nhão. Ông có đôi mắt nhỏ nhưng khóe nhìn sắc sảo. Cái nheo mắt của ông như thầm hỏi người hầu cận tôi là ai. Người đàn ông cao lớn, nhắc lại một lần nữa, giọng dõng dạc:

“Bẩm cụ. Giáo sư Trần Lâm Thăng!”

“Cậu Thăng! Trời ơi! Cậu là cậu Thăng đây hả?” Giọng ông mừng rỡ.

Ông quay sang người đàn bà đứng bên:

“Bà này, đây là cậu Thăng, con của anh Thành người bạn cố tri của tôi mà tôi vẫn thường nhắc với bà đó!”

Bà Phan khoảng tuổi trung niên và là một người đàn bà đẹp. Trán vồ kiêu hãnh, đôi mắt lớn, nụ cười hiền. Bà nhìn thẳng vào mắt tôi, giọng tình cảm:

“Chúng tôi rất vui mừng được biết cậu, cậu Thăng ạ! Nhà tôi vẫn nhắc đến ba cậu và cậu luôn!”

Tôi hơi ngạc nhiên về mối liên hệ bất ngờ giữa ông bà Phan và cha mẹ tôi. Tôi là đứa con thứ mười trong một gia đình có mười hai anh em. Từ khi tôi hiểu thế nào là đồng tiền và giá trị đổi chác của nó, tôi biết gia đình tôi luôn luôn sống trong một tình trạng túng thiếu.

Cha tôi thì suốt ngày say sưa chè chén, và má tôi thì đầu tắt mặt tối, lam lũ như một người đàn bà nhà quê. Còn ông Phan từ lâu được mô tả như là một trong những khuôn mặt lớn trong sinh hoạt chính trị Việt Nam, một người đang theo đường lối chính sách của Hoa Kỳ tại bán đảo Ðông Dương. Cũng có nguồn tin nói rằng ông Phan có khuynh hướng thân Pháp. Lý do là vì người cầm đầu chính phủ Pháp hiện nay trước kia từng là “copain” của ông. Họ đã từng cùng chiến đấu dưới một màu cờ tam tài trong cùng một binh chủng và ở cùng một đơn vị. Vai trò của ông Phan vì thế được chú ý một cách đặc biệt. Ông Phan, thí sinh số một đang được choàng hoa và đánh bóng kỹ nhất ở đây trong lãnh vực chính trị, đang cầm giữ tay tôi trong tay ông. Bàn tay ông mập mềm, rịn mồ hôi làm tôi ghê sợ. Tôi muốn rút tay ra, nhưng cái bắt tay đầy nhiệt tình của ông, và nhất là đôi mắt ông sáng lên thứ ánh sáng thân ái khiến tôi vừa không nỡ vừa không dám kéo tay ra.

Tôi không biết nói gì. Sự bỡ ngỡ làm tôi câm như hến. Tôi nhìn chăm vào mắt ông.

“Thưa ông bà, thật là một vinh hạnh lớn cho tôi.” Tôi nói như một kép cải lương.

Ông Phan có vẻ không quan tâm đến điều tôi nói.

Ông thả tay tôi ra, rồi đặt cả hai bàn tay ông lên vai tôi.

“Bà thấy không, nó giống anh Thành như đúc.”

Người đàn bà không trả lời chồng, chỉ khẻ gật đầu, nhìn tôi thiện cảm.

Sau cùng ông Phan nói:

“Mời cậu Thăng vào trong nhà. Chúng tôi có câu chuyện muốn bàn với cậu.”

Ông thu hai tay lại, hất hàm về phía người cận vệ.

“Xin mời ông!”

Theo chân người nhà ông Phan, tôi băng qua một phòng khách rộng, trần nhà cao, sơn trắng. Một chùm đèn lớn chụp pha lê treo giữa phòng tỏa ra một thứ ánh sáng vàng ấm áp. Bàn ăn đặt dài ở hai góc. Một quầy rượu đặt ở góc chéo cuối phòng.

Khách khứa, như tôi có thể hình dung trong trí, ăn mặc hợp thời trang, nói năng nhã nhặn lịch sự. Tuy vậy đám trẻ chiếm đa số, và người lớn có vẻ như là phụ huynh đi theo con để canh chừng chúng hơn là chính mình tham dự. Tôi thấy mấy người đàn bà tụ thành nhóm nhỏ, cười cười nói nói. Còn đám đàn ông với thuốc lá trên môi, ly rượu trên tay đang sôi nổi trò chuyện.

Ðiều rất giống nhau nơi họ mà tôi có thể nhận ra được ngay là quần quần áo áo. Họ ăn mặc đẹp và sang. Họ nói chuyện thời sự quốc tế và những đổi thay sắp tới trong Hội Ðồng Nội Các. Tuy vậy, lẫn giữa những vấn đề trọng đại của tình hình chiến sự tôi nghe được câu chuyện về màu sắc của chiếc cà vạt, loại vải mới để may bộ veste và giá tiền của một chiếc ô tô của một hãng danh tiếng.

Ði ngang qua quầy rượu, tôi dừng lại, nhón một quả ô liu và bưng một ly. Khi tôi quay lại người nhà ông Phan đã đi đàng nào. Tôi không gặp một ai quen trong đám khách ông Phan, nhưng thấp thoáng đâu đó tôi thấy một vài khuôn mặt đã từng xuất hiện trên truyền hình báo chí. Bỗng nhiên tôi nhớ đến đám bạn tôi. Giờ này ở Chợ Ðũi, có lẽ Ký đang đọc thơ, Nghĩa đang ngó lên trời cười một mình với cái ý tưởng “kinh tế học” nào đó trong đầu hắn, Lộc đang chửi thề, nhắc lại những ngày vui ở Paris… Có lẽ ngoài quán Cái Chùa, Phùng đang ngồi trước ly cà phê, chiếc kính cận tụt xuống sống mũi, Tâm đang đốt liên tu hồ tận những điếu thuốc đen, Ðình đang bàn chuyện cá ngựa, những “tuyệt phích” của ngày mai, và Nhật đang… “Rất ân hận”. Tôi dừng lại, nâng ly rượu lên trán, chào các bạn trong trí tưởng tượng và uống một hơi cạn…

Chỉ có chừng này thôi sao? Ðổi một buổi tối họp mặt bạn bè chỉ để nhìn ngó chừng này con người xa lạ, và uống một ly rượu?

Rượu, ở đâu mà chả có. Vả lại tôi đâu phải là bợm nhậu. Tôi uống kém nếu không muốn nói là tồi, dưới mức trung bình.

Ký vẫn gọi tôi là tên phá mồi. Nhưng, thiếu một thằng phá mồi trong một bữa nhậu cũng coi như là vắng một thằng nhậu…

Tuy vậy, tôi không phải thất vọng lâu. Ở cuối phòng, tôi thấy một khuôn mặt dễ thương, hai con mắt đen, tóc chải cao để lộ một chiếc trán bướng, áo màu tím sẫm, cổ hở rộng, giữa ngực là một chuỗi hạt lấp lánh trên một làn da trắng muốt… Vây quanh cô gái là các cậu trai ăn mặc như các công tử…

Người thiếu nữ nói, và sau mỗi câu nói của cô tôi nghe rộ lên những tiếng cười. Tôi không biết cô nói gì, nhưng rõ ràng là cô đang được tán thưởng. Sắc đẹp dù ở đâu cũng được tán thưởng (!).

-Xin lỗi giáo sư. Tôi tìm ông mãi!

Người nhà ông Phan chụp lấy tôi, mừng rỡ như tìm được món đồ tưởng đã mất.

-Cụ Phan muốn nói chuyện với giáo sư.

-Ngay bây giờ?” Tôi hỏi.

Hắn đưa tay dẫn đường

-Thưa giáo sư, lối này ạ!

Tôi khó chịu khi nghe ai gọi mình là giáo sư. Danh xưng ấy không hợp với tôi trên nhiều phương diện. Tôi dạy học bởi vì tôi không có khả năng chọn một nghề nào khác như lòng tôi mơ ước, chứ không phải vì tôi có thiên chức của một nhà giáo. Tôi nộp đơn vào binh chủng không quân ngay khi vừa đậu Tú Tài hai, nhưng mẹ tôi đã than khóc trì kéo. Bà nói nhà có hai đứa con trai. Thằng anh mày đi Biệt Ðộng Quân cũng đủ rồi. Mày phải ở nhà. Tao muốn mày học bác sĩ. Tôi vâng lời mẹ ghi danh theo học y khoa và tôi thất bại. Nghề đó không dính gì đến tôi. Tôi đậu vào Quốc Gia Hành Chánh và tôi đã bỏ nó ngay sau tuần lễ đầu. Tôi học Sư Phạm bởi vì một lẽ giản dị Ðà Lạt là một thành phố đẹp. Và một phần cũng vì cái học bổng ở đó tôi có thể tự nuôi thân tôi mà không làm phiền lụy ai.

Ði theo anh ta đến cuối phòng, ngang qua chỗ cô gái, tôi thấy hình như họ đang chơi một trò chơi gì đó. Cô gái chỉ tay vào mặt một cậu trai hỏi:

-Sẽ làm gì nếu tôi nói ghét anh?

Cậu trai do dự rồi đáp:

-Ðớp ngay hai tô phở!

Thiếu nữ phá lên cười và cả đám vỗ tay cười theo. Người nhà ông Phan mở cánh cửa nhỏ đưa tôi vào căn buồng, với tay bật nút điện. Sau đó anh ta nghiêng đầu chào tôi, rồi bước lui, nhẹ nhàng khép cửa bỏ lại tôi một mình.

Phòng giống như một thư viện loại bỏ túi. Hai bức họa khá lớn chiếm gần hết một mảng tường. Một tấm sơn dầu thuộc loại sao lại, là tác phẩm Tự Họa của Van Gogh, còn bức kia là của họa sư Utamoro Kitagawa vẽ hai diễn viên Kabuki. Phần còn lại là những kệ sách cao. Nhưng những cuốn ngang tầm mắt mà tôi có thể đọc được là Hồi Ký của Winston Churchill, Charles de Gaulle, André Malraux… Và ngay kệ dưới là Sứ Quân của Niccolo Machiavelli, Cuộc Chiến Ðấu Của Tôi của Adolf Hitler, Tư Bản Luận của Karl Marx, Dân Sự Bất Phục Tùng của Henry David Thoreau,…

Thật tình mà nói loại sách này tôi đọc chỉ là vì nghề nghiệp chứ không phải là ưa thích. Trong tủ sách tôi có một chỗ trang trọng dành cho Chùa Ðàn của Nguyễn Tuân, Thác Ðổ Sau Nhà của Võ Phiến, Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền, Dòng Sông Ðịnh Mệnh của Doãn Quốc Sỹ, Những Vì Sao của Alphonse Daudet, Bà Bovary của Gustave Flaubert… nhưng thiếu chỗ cho Hữu Thể và Hư Vô của Jean-Paul Sartre, hoặc Siêu Hình Học Là Gì? của Martin Heidegger, hoặc Triết Lý Ðã Ði Về Ðâu? của Trần Ðức Thảo…

Dù sao tôi đã lấy ra khỏi kệ cuốn Sứ Quân của Machiavelli. Tôi lơ đãng lật từng trang sách và tôi dừng lại ở Chương Mười Bảy, màu mực đỏ gạch dưới hai câu:

“Ðộc ác hay độ lượng? Ðể cho dân sợ hãi hơn là dân thương mến?”

Bên lề trang sách có dòng chữ cũng màu đỏ “Trong cộng đồng nhân loại uy quyền xây trên nền tảng vũ lực!”

Tôi nghĩ tới ông Phan, chánh sách nào ông đang theo đuổi, liên hệ nào ông có với gia đình tôi? Hồi còn sống cha tôi không hề nhắc đến một người nào tên Phan. Tôi cố gõ cánh cửa ký ức nhưng chỉ là vô vọng. Ông Phan không có trong ngăn kéo của những hoài niệm tôi.

Nhưng không lâu lắm tôi nghe có tiếng gõ cửa, và tiếp ngay đó, cửa xịch mở. Ông Phan hiện ra giữa phòng, mang theo ánh sáng, âm nhạc và tiếng động bên ngoài.

Tôi đứng bật dậy với cuốn sách trên tay.

-Chắc cậu chờ tôi lâu lắm, phải không?

-Thưa ông…

Tôi xếp sách lại kẹp vào nách, đứng thẳng hai tay bắt chéo.

-Cậu đừng ngại”, ông ngắt lời.

-Cứ tự nhiên như ở nhà! Bất ngờ tôi có một ông khách trong ngoại giao đoàn…

Ông quay một ô trong kệ sách, bấm một chiếc nút, cánh cửa nhỏ bật ra, và tôi thấy những chai rượu tây xếp dọc trong tủ.

-Cậu Thăng uống loại gì nào?

-Cám ơn ông…

-Ðừng nói chuyện không biết uống rượu với tôi. Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh chứ, Remy Martin hay Hennessy nào?

-Dạ! Tôi ngập ngừng.

-Ðược! Vậy là tốt. Không khách sáo thế là tốt! – Ông Phan không hiểu tiếng dạ của tôi.

-Thưa ông, tôi có điều thắc mắc!

-Thắc mắc? Thôi để qua một bên đi. Trước hết hãy uống một ly mừng ngày gặp gỡ con trai anh Thành. Rồi sau muốn gì hẳn nói!

……

-Ba cậu là tay nhậu có hạng. Còn cậu thì sao? Thôi ngồi xuống đây đi cậu Thăng!

Ông đặt chiếc ly không lên bàn, kéo hộc tủ, lui cui lục lọi hồi lâu trong đống giấy tờ rồi mang đến trước mặt tôi một tấm ảnh đã ngả màu.

-Cậu có nhận ra người này là ai không?

Ngón tay ông trỏ lên khuôn mặt một người đàn ông râu ria xồm xoàm. Ðó là một người lính mặc áo trận rộng, tay phải chống lên hông, chỗ đeo cây súng ngắn, tay trái choàng qua vai một người lính khác lùn và gầy hơn. Cả hai rõ ràng là người Á Ðông đứng giữa những tên mũi lõ… Tôi ngước mắt nhìn ông Phan và bắt gặp ông cũng đang nhìn tôi.

Thật ra không cần nhìn kỹ tôi cũng có thể biết người có râu trong ảnh là ai. Trong phòng cha tôi cũng có một tấm như thế.

Hồi xưa ông nhiều râu hơn bây giờ.

Tôi nói với ông Phan:

-Thưa ông, tôi không rõ!

Ông Phan hơi nhíu mày.

-Có thật cậu không nhận ra người trong ảnh là ai sao?

Tôi gật đầu, mắt vẫn không rời ông.

-Vậy chứ anh Thành không còn tấm ảnh nào như tấm này sao?

-Thưa ông, không, tôi chưa hề thấy!

Ông Phan không nói gì. Ông cầm tấm ảnh, mở ngăn kéo, trả lại chỗ cũ.

-Hồi đám tang anh Thành cậu ở đâu? – Ông bất ngờ hỏi tôi.

-Thưa ông…

-Thôi, không phải ông ông tôi tôi khách sáo nữa. Cứ gọi tôi là bác, bác Phan. Như vậy cho nó thân mật. Tôi ít tuổi hơn anh Thành, nhưng bọn tôi là bạn thân, rất thân.

Tôi đứng lên, để ly rượu trên bàn, trả quyển sách lại chỗ cũ.

-Thưa ông… Vâng, thưa bác, hồi đó cháu đang ở Sài Gòn. Hay tin không lành của cha cháu trễ quá thành ra…

-Nghĩa là cậu không về kịp chứ gì?

-Vâng, thưa bác, cháu về đến nhà khi mọi việc xong xuôi.

-Ðúng. Ðám tang anh Thành không có cậu. Tôi đã được xem bộ ảnh, nhưng không thấy cậu!

Ông Phan làm tôi sợ. Quả thật những giây phút cuối cùng của cha tôi đã không có tôi bên cạnh. Cha tôi, người đàn ông rượu chè be bét đã ám ảnh tôi suốt một thời tuổi trẻ.

Mẹ tôi khóc hết nước mắt vì những cơn say dữ dội của ông. Tuổi trẻ của ông ra sao? Mẹ tôi không bao giờ nói, mà ông thì lúc nào cũng chỉ có điệp khúc sau đây: “Tao, Trần Lâm Thành, sĩ quan tốt nghiệp trường Võ Bị Dar-el-Beida, chiến đấu dưới màu cờ Pháp quốc, đã theo chân Tướng Juin đổ bộ lên Ý Ðại Lợi, được ân thưởng Ðệ Ngũ Ðẳng Bắc Ðẩu Bội Tinh và được tuyên dương công trạng mười hai lần trước hàng quân. Tao, người duy nhất dám vứt bỏ chức vụ cao cấp mà Nhà Nước Pháp tưởng thưởng để dấn thân vào công cuộc tranh đấu cho nền độc lập xứ sở mà ông X. đã đứng ra đề xướng. Nhưng tao, cũng chính tao, là người đã dám đứng lên phản đối ông X. trong vụ ký hiệp ước Sáu Tháng Ba. Tao bị bọn chúng lên án tử hình và đã thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Tao, tên say rượu để sống. Rượu đã cứu tao. Rượu là ân nhân của tao. Chúng mày là đồ giả trá, ti tiện; chúng mày là một lũ đầu trâu mặt ngựa… Tao đếch sợ thằng nào. Thằng nào chê rượu là thằng tồi. Tao không chê rượu. Rượu là bạn tao. Sư cha thằng nào chê rượu. Rượu muôn năm!!!”

-Hình như mấy lúc sau này anh Thành uống rượu hơi nhiều phải không cậu?

-Thưa bác, cha cháu uống hơi nhiều từ lâu, kể từ ngày ông anh cả cháu bị thương trong trận chạm súng với Việt Cộng ở Hậu Nghĩa.

Phải, mấy năm sau này rượu trở thành nhu cầu thường trực và cấp bách của cha tôi. Rượu làm ông tiểu tụy và bạc nhược.

Tóc ông trắng toát và dài như một đạo sĩ tà phái. Hai mắt ông thất thần, đỏ ngầu những đường gân máu. Phòng ông tràn đầy khói thuốc, mùi rượu nồng nặc.

Giờ đây, khi ông Phan nhắc đến cha tôi và cho tôi xem tấm ảnh – mà tôi vẫn còn giữ lại sau cái chết của ông – tôi mới ngỡ ngàng nhận ra người đứng bên cạnh là ông Phan, một ông Phan hơi nhỏ và gầy bên cạnh một người cao lớn là cha tôi. Tôi nghĩ là tôi có thể hiểu phần nào mối liên hệ giữa ông Phan và cha tôi. Nhưng tôi vẫn không hiểu vì sao cha tôi đã không nhắc gì đến ông Phan trong suốt những ngày ông sống với vợ con ông.

-Cậu Thăng, hôm nay tôi cho mời cậu đến đây trước hết là tôi muốn giúp đỡ cậu. Cậu là con anh Thành, nên tôi xem cậu cũng là con tôi. Có phải hiện giờ cậu đang dạy học?

-Thưa bác, phải.

-Ðó là một nghề cao quí. Chọn nghề này theo tôi, là đồng nghĩa với chọn trách nhiệm và bổn phận. Làm thầy giáo có nghĩa là phải gạt bỏ tất cả mọi bon chen trong cuộc đời. Thầy giáo rất gần với thầy tu. Nhưng…”

Ông Phan dừng lại giữa chừng câu nói, ngó chăm vào mắt tôi.

-…nhưng hình như cậu lầm lẫn trong việc chọn nghề. Cậu có thấy vậy không?

Tôi đã nhận thấy điều này từ lâu, có lẽ ngay từ ngày đầu khi mới bước chân vào lớp học. Thành phố Ðà Lạt thơ mộng, và ngôi trường đại học nơi tôi theo học cũng chứa bao nhiêu điều đẹp đẽ mà bất kỳ một tuổi trẻ nào cũng thèm muốn và ao ước. Tuy vậy tôi biết rõ giáo dục không phải là ngành thích hợp của tôi. Tôi yêu kính những người thầy từng dạy dỗ tôi, nhưng tôi cũng không ngừng phẫn nộ vì sự bất công mà họ đã dành cho tôi. Tôi run sợ trước mặt những ông thầy. Tôi luôn luôn là nạn nhân chua xót của họ. Từ tiểu học, qua trung học, lên đại học, các ông thầy bà cô nhìn tôi như một đối tượng để trút lên đó những bực dọc của cuộc đời khốn nạn của họ. Tôi là tấm bia để họ bắn vào đó những mũi tên mặc cảm. Và buồn thay, đúng như câu “ghét của nào trời trao của đó” tôi đã đâm sầm vào trường Ðại Học Sư Phạm. Ðỗ tú tài hai ban toán, mất một năm rong chơi ở Y khoa, sau khi bị mẹ rút đơn ra khỏi binh chủng Không Quân, bỏ trường Quốc Gia Hành Chánh, tôi nhảy tọt vào ban Triết.

Có nhiều lý do để biện minh cho việc chọn ngành của tôi, nhưng thâm tâm tôi, tôi biết dù thế nào đi nữa, mình vẫn là tên ngụy biện. Phải, tôi đã lầm lẫn trong việc chọn nghề. Nhưng biết làm sao! Tôi giống như cây mía đã róc vỏ, bị đun đẩy vào cái máy ép. Tôi chỉ có thể ra ở đầu kia chứ không thể lui lại ở đầu này. Tuy vậy tôi vẫn hỏi ông Phan:

-Thưa bác, bác có thể cho cháu biết rõ hơn nữa về nhận xét của bác?

-Sở dĩ tôi nói như vậy là vì tất cả những gì tôi biết về cậu đều có vẻ chống lại những gì cậu đang theo đuổi một nghề mà cậu không ưa thích. Tại sao?

Như vậy là người ta đã báo cáo cho ông Phan khá nhiều về tôi. Và ông Phan đã nhìn tôi bằng cái nhìn mà mọi người đang có về tôi. Tôi là một tờ giấy trắng có nhiều vết mực bẩn chăng?

-Thưa bác, có lẽ dạy học là nghề không thích hợp với cháu. Cháu ưa một cuộc sống khác hơn là cuộc sống cháu hiện có. Ðây là một lầm lẫn tai hại, và vô phương cứu chữa.

-Tại sao?

-Tại vì cháu là một người thụ động.

-Chà! Chà!”

Tôi nghe tiếng ông Phan chặc lưỡi.

-Cậu dạy Triết mà có cái lối lý luận kỳ lạ. Theo chỗ tôi biết thì hình như cậu là một người thành công trong nghề nghiệp mà! Phải vậy không?

Thế nào là thành công trong nghề dạy học? Câu ấy khó mà trả lời. Những ngày đầu tiên khi mới ra trường, được bổ nhiệm về Biên Hòa, tôi đã gặp ngay một khó khăn lớn. Học sinh tôi và tôi không cách biệt bao nhiêu về tuổi tác. Và bài học tôi thu được của nhà trường thật khác xa với bài giảng trong lớp. Tôi càng cố gắng hòa hợp với học sinh tôi, tôi càng bị đồng nghiệp nhìn tôi bằng con mắt khó hiểu. Tôi thực sự lo lắng cho học sinh. Và tôi biết rằng họ cũng quan tâm đến sự lo lắng của tôi. Nếu trong những năm về sau, khi đổi sang một trường khác tại Sài Gòn, một trường trung học lớn nhất Việt Nam, mà tôi có được chút ít thành công, chẳng qua là vì những học sinh của tôi – hoặc là họ thông minh chăm chỉ, hoặc là họ thực sự cố gắng – khiến họ có được điểu họ quyết tâm hơn là do tôi.

-Thưa bác, xin cám ơn bác. Cháu vẫn nghĩ là chưa bao giờ cháu thành công trong lãnh vực này. Cháu chẳng qua là người may mắn.

-Khiêm tốn là điều tốt, nhưng khiêm tốn quá coi chừng sẽ có hiệu quả trái ngược. Cậu hiểu chứ? Con Uyên nhà tôi nói là nó biết cậu, biết nhiều về cậu!

Ông Phan nhấn mạnh hai chữ biết nhiều. Tôi hiểu sự ám chỉ ấy như một lời chê trách.

-Nhưng thưa bác, cô Uyên là ai, cháu chưa biết!

Ông Phan đang nhồi thuốc vào tẩu, bỗng ngừng lại ngó chăm vào mắt tôi.

-Cậu không biết Uyên là ai thật à? Tôi tưởng là cậu có quen nó chứ!

Tôi thực tình không hề quen biết cô Uyên. Nhưng theo cách nói của ông Phan tôi phải hiểu là cô Uyên nào đó biết tôi. Tôi dạy học và có thể trong đám đông học sinh tôi có một thiếu nữ tên là Uyên. Tuy vậy, tôi nghĩ biết tôi là một việc, còn biết tôi nhiều là một việc hoàn toàn khác.

Ông Phan có phần ngạc nhiên về thái độ của tôi. Ông đặt tẩu thuốc xuống bàn, bấm cái chuông điện gắn trên hộc kéo. Cửa phòng mở và người cận vệ bước vào, đứng nghiêm, mắt ngó thẳng.

-Bẩm cụ, gọi con!

-Phải. Làm ơn mời cô Uyên vào giúp tôi.

Cánh cửa khép lại, ông Phan quay sang tôi.

-Con Uyên nhà tôi nói là gia đình cậu có chuyện lục đục sao đó. Phải vậy không?

-Thưa bác, phải. Nhưng cháu vẫn không hiểu làm sao mà cô Uyên có thể biết quá nhiều về cháu như vậy!

Có tiếng gõ cửa. Và không đợi ông Phan lên tiếng tôi thấy tay nắm xoay vòng và một cô gái bước vào, mang theo mùi hương phấn rất đàn bà.

-Thưa bố, gọi con!

-Phải!

Ông Phan bập bập cái tẩu. Tôi nhận ra cái nhìn hơi khác của cô gái, một cái gì hơi khựng lại khi mắt cô đụng vào mắt tôi. Tôi cũng vậy, tôi đã nhìn ra được người thiếu nữ. Hai con mắt đen, mái tóc chải cao, chiếc trán bướng, hàm răng nhỏ, đều, trắng; áo nhung tím than hở cổ, da trắng mướt, chuỗi hạt lấp lánh giữa ngực. Cô gái mà mới vừa cách đây mấy phút, tôi thấy rực rỡ giữa các cậu trai, cuốn hút như một thỏi nam châm.

Ông Phan nhấc tẩu thuốc ra thở khói, gõ gõ tẩu thuốc lên lòng bàn tay.

“Ðể bố giới thiệu con với anh…”

Rất nhanh, cô gái nghiêng đầu về phía tôi:

“Thưa bố, con có biết ông Thăng. Chào ông!”

“Không dám. Chào cô!”

Ông Phan ngồi xuống ghế.

“Sao con nói là con có quen anh Thăng?”

“Thưa bố, con nói là con có biết ông Thăng, chứ con đâu có nói là quen ông ấy…”

“Chà! Chà!” Ông Phan chặt lưỡi. “Vậy mà bố cứ tưởng là con có quen anh ấy đấy!”

Ông vỗ tro thuốc xuống gạt tàn. Tay ông mân mê những chân tóc trắng trên trán như đang lựa đếm những suy nghĩ trong đầu mình.

Uyên đứng tựa lưng vào bức tranh Van Gogh hơi mỉm cười nhìn tôi. Tôi thấy mình thừa thãi.

“Anh Thăng là con của bác Thành, bạn nối khố của bố. Bác Thành chẳng may qua đời, anh Thăng thì đang gặp một vài rắc rối. Bố muốn con coi anh Thăng như một người anh trong gia đình. Một người anh, con nghe rõ chứ?”

“Thưa bố, con nghe rõ. Nhưng…”

“Nhưng làm sao?”

“Bố để cho con tự nhiên. Con sẽ nhớ lời bố mà!”

“Tốt!”

Ông quay sang tôi. Hình như ông định nói tiếp một điều gì đó, nhưng vừa lúc ông hắng giọng bắt đầu câu chuyện thì chuông điện thoại reo.

“A lô! Tôi nghe đây… Vâng, xin cứ nói!”

Tôi thấy cằm ông Phan bạnh ra, hai hàm răng nghiến lại, đôi mắt nhỏ dưới chiếc kính lão nheo lại và thỉnh thoảng sáng lên một thứ ánh sáng kỳ lạ.

“Phải!… Ðúng!… Ông niên trưởng ngoại giao đoàn vừa ở nhà tôi ra… Sao?… Bao giờ?… Ngay bây giờ à?… Ừ!.. Ðược!… Mọi thành viên đều có đủ mặt chứ?… Vâng, xin thông báo tôi sẽ đến ngay!”

Ông đặt ống nói xuống. Hai tay xoa vào nhau. Ông cắn một hớp rượu. Các thớ thịt ở gò má ông cuộn lại. Tôi có cảm tưởng ông đang có một quyết định quan trọng nào trong đầu.

“Cậu Thăng. Tôi rất tiếc không thể nói hết câu chuyện với cậu. Tình hình chính trị đang có nhiều biến chuyển mới. Tôi không thể vắng mặt trong một cuộc họp quan trọng và khẩn cấp. Hẹn cậu một dịp khác. Uyên sẽ thông báo cho cậu nhé!”

Ông Phan bắt tay tôi. Cái bắt tay chặt chẽ thân mật, nhưng những ngón tay mập và nhão của ông vẫn không làm tôi bớt ghê sợ.

Ông bấm chuông. Người cận vệ như núp sẵn đâu đó, mở cửa bước ngay vào, đứng nghiêm.

“Anh nói với bác tài chuẩn bị xe. Anh đi với tôi nhé!”

“Bẩm cụ, vâng!”

Người cận vệ ra, ông Phan bước tới một bước, hôn trán con gái:

“Thôi bố phải đi! Con tiếp anh Thăng hộ bố nhé!”

Uyên không trả lời cha. Cô nắm tay cha bước theo ông. Ðến thềm cửa, đôi mắt đen quay lại tôi:

“Ông Thăng chờ tôi nhé!”

Còn một mình trong căn phòng đọc sách buồn bã, tôi ngắm bức Tự Họa của Van Gogh tưởng chừng như thấy khuôn mặt của chính mình.

Tôi nghĩ đến căn phòng trống trải của tôi, nơi mà lát nữa đây tôi sẽ trở về sống một mình không một ai chờ đợi.

Mãi về sau tôi vẫn không hiểu tại sao tôi không đến chào bà Phan, hay bà Phan không muốn gặp tôi!

Chương 2

Ðứng trước cổng nhà ông Phan, tôi tự hỏi sẽ làm gì cho xong, cho hết cái phần thời gian còn lại của ngày. Tôi không chờ đợi Uyên, như cô đã hẹn tôi, mặc dù đôi mắt to đen, nụ cười mỉm chi, cái nốt ruồi duyên trên khóe miệng, cả cái dáng đi uyển chuyển của cô vẫn còn nguyên vẹn trong trí nhớ tôi.

Tại sao?

Có lẽ cái cảm giác ban đầu do sức hút của vẻ đẹp Uyên đang bị đẩy lui bởi cái ấn tượng mạnh mẽ của con người thời cuộc là ông Phan. Người ta nói sắc đẹp vốn là bạn đồng hành của dối trá và phản bội. Tôi không hoàn toàn tin như vậy. Nhưng ở Uyên, nhận xét ấy có phần đáng suy gẫm.

Ðêm xuống từ lâu trên những ngọn cây. Và ngôi biệt thự, nơi tôi vừa gặp gỡ những con người kỳ lạ vẫn còn sáng ánh điện.

Gió từ sông Saigon thổi luồng hơi lạnh len qua giữa những hàng cây chạy hoang trên những con đường vắng. Tôi cảm thấy gây gây ở sống lưng. Ðời sống tôi rối như một mớ bòng bong, giờ đây trong một quen biết mới, tôi thấy mớ bòng bong ấy chừng như càng rối ren thêm.

Tôi thả bộ dọc theo đường Lê Văn Duyệt. Phố xá vắng bóng người. Một vài chiếc xích lô máy chạy thục mạng như bị ma đuổi. Mấy chiếc xe nhà binh mui kín bóp còi inh ỏi trong một thành phố trống trải – âm thanh như lớn hơn và vang xa – càng làm tôi thấy mình như lẻ loi hơn.

Tôi chưa muốn về nhà. Không, tôi không muốn về lại căn phòng tối ám của tôi trên căn gác một chung cư. Với tôi, thời gian của đêm mấy lúc sau này sao quá dài, dài tưởng như vô cùng tận. Làm thế nào tôi có thể đốt hết cánh đồng cỏ khô của thời gian đăng đẳng này? Ðêm gặm nhấm tôi trong nỗi bứt rứt và chua xót thường trực của một người làm vườn thất bại. Người ta đâu thể phung phí cả tuổi thanh xuân trong việc trồng trọt vun xới cây thương yêu và tin cậy trên một mảnh đất – tưởng là màu mỡ – để chỉ gặt hái những bông hoa và trái cây của dối trá hận thù?

Tôi sợ những ý nghĩ lang bang của mình. Tôi sợ nghe chính tiếng chân tôi giẫm lên chiếc cầu thang bằng gỗ hơi dốc trong một chung cư dành cho những công chức hạng C, bủa quanh bằng sự nghèo nàn và bẩn thỉu.

Tôi sợ tiếng mưa ào ạt gõ vào thành cửa kính đã rạn nứt… Tôi sợ tiếng kêu rè rè của một chiếc máy thu thanh quên tắt khi chương trình nhạc đã chấm dứt. Tôi sợ chiếc cốc uống nước còn đọng dưới đáy cái màu vàng của xác trà bị bỏ quên nơi góc nhà…

Làm cách nào để rút ngắn được chiều dài của thời gian đe dọa dễ sợ kia? Ðến quán nước trên đường Tự Do, nơi sẽ có Tâm, Phùng, Nhật đang ngồi đấu láo bên những ly expresso nguội lạnh, nhạt nhẽo và chìm trong mịt mờ khói thuốc. Hay tấp vào cái quán nhậu ở đường Trần Quý Cáp, nơi sẽ có Ký, Nghĩa, Lộc ngất ngưởng giữa những chai bia và khóm ổi, cốc, xoài?

Nhưng hình như tôi đã suy nghĩ vớ vẩn. Chợ Ðũi nằm trên đường đến quán Cái Chùa, mà tôi thì đang lội bộ, việc gì phải tính toán vớ vẩn, phải không? Tôi đã có quyết định.

Chợ Ðũi vắng khách nhậu một cách kỳ lạ. Chỉ còn một bàn ở một quán gỗ nhỏ dựa sát cây me ở góc đường là có ánh đèn. Tất cả các bàn khác, ghế đã được xếp chồng lên trên. Ký, Lộc, Nghĩa là ba ông khách sau cùng trên chiếc bàn độc nhất kia. Trước mặt mỗi người là một ly bia. Dưới đất, quanh chân bàn la liệt những vỏ chai.

-A! Tên phá mồi đã đến!

Ký nhận ra tôi và anh la lên khi tôi đến sát bàn. Nghĩa ngó tôi cười cười một cách khó hiểu. Ðó là tôi nghĩ vậy. Nghĩa bao giờ cũng cười kiểu đó.

-Mồi hết rồi ông trời! Chỉ còn rượu thôi, ông trời nhậu được thì ngồi xuống đây!

Tôi tháo cà vạt nhét túi quần kéo ghế ngồi cạnh Ký, Lộc không nói gì, hắn đẩy ghế qua một bên, lảo đảo đứng lên, bước lạng quạng qua bên kia đường, thản nhiên vạch quần tiểu tiện dưới gốc me.

-Ê, cho mượn cái ly nữa chị Hai! Ký gọi.

Người chủ quán mang ly ra đặt trước mặt tôi và nói với Ký, giọng năn nỉ.

-Thầy hai, bữa nay đóng cửa sớm, thầy hai thông cảm nghen thầy hai?

Ký gạt ngang:

-Ðừng lo chị hai. Ðể tụi này tính cho. Không sao đâu mà!

Và anh nâng ly lên dừng ngang miệng, không uống:

-Ê, phá mồi! Ði đâu về mà ngon lành vậy?

-Chỗ ông Phan!

-A! Vậy mà tao tưởng mày không đi chớ!

-Thì cũng tính không đi. Nhưng…

-Thôi, dẹp! Nhưng nhị gì? Ông Phan chịu chơi không?

-Ai biết!?

-Vậy ăn nhậu gì mà tới?

Lộc trở về chỗ ngồi. Hắn lôi từ dưới bàn lên một chai bia lớn. Săm soi dưới ánh điện đường Lộc xuýt xoa:

-A! Trái thơm tụi bây! Có lý! Có lý!

Hắn dùng ngón tay cái bật cái nắp chai, rót đầy ly tôi và hắn:

-Ở đó rượu ngon không mậy?

-Ngon mà không ngon!

-Gì kỳ vậy?

-Không có bạn thì rượu gì ngon!

-Có lý! Có lý! Lộc vỗ đùi khen. Nhưng không để tôi nói, hắn hỏi tiếp:

-Vậy tới đó làm chi mậy?

Tới đó làm chi? Câu hỏi thật chí lý. Nhưng tôi đâu tới đó để uống rượu. Tôi cũng đâu tới đó để được bắt tay một ông lớn chịu chơi kiếm chút hơi hám quyền lực. Tôi tới đó giống như một người mắc bệnh tò mò muốn tìm xem có chút bí ẩn nào giấu sau cánh cổng của một ngôi nhà bỏ hoang. Và hình như tôi có được đôi chút thỏa mãn. Ông Phan soi chiếu cho tôi thấy đôi nét về cha tôi và về phần ông, ông cũng hé cho tôi thấy tầm mức của một quyền lực đang lớn.

Nhưng tôi có cần tìm cho mình một lời giải thích không? Tôi lảng sang một chuyện khác. Tôi hỏi Ký:

“Anh có nhớ bài Hồ Trường không?”

“Không!”

Tuy trả lời dứt dạt như vậy, nhưng liền đó Ký vung rộng tay đang bưng ly rượu làm sóng sánh nước bia vãi lên bàn.

“Hồ Trường! Hồ Trường! Ta biết rót về đâu? Rót về phương Ðông… ư… đếch nhớ!”

Ký đặt mạnh ly xuống bàn.

“Mà tại sao mày lại muốn nghe Hồ Trường?”

“Chẳng có lý do gì. Nhớ thì nhắc vậy thôi!”

“Ðể yên, tao sẽ đọc cho mày nghe một bài thơ khác. Ðồng ý?”

“Ðồng ý!”

Ký lại nâng ly lên, ngửa cổ tu một hơi. Xong anh cúi khom người xuống dưới bàn lôi ra một chiếc cặp da dầy cộm bị chôn giữa đám vỏ chai. Anh mở cặp, mò mẫm trong các ngăn đầy sách vở và lấy ra một cuốn tập. Anh dùng một ngón tay thấm nước bọt lật từng trang giấy. Nhưng anh lắc đầu. Ánh sáng ngọn đèn hột vịt không đủ sức soi rõ những chữ. Anh gập quyển tập lại, bỏ vào cặp, vất đại dưới chân bàn.

“Ðếch cần đèn! Tao đọc bằng trí nhớ cũng được. Này, tên phá mồi nghe đây!”

Ký lại đổ bia thêm vào ly, bưng ly lên và vung tay ra. Nước trong ly sóng sánh.

“Người con gái lội qua khe

“Bàn chân với nước lạnh đè lên nhau

“Nỗi niềm tưởng lại xưa sau

“Bàn chân với nước cùng nhau lại đè!”

“Tuyệt không? Thơ thế mới là thơ chớ! Tên phá mồi thấy thế nào?” Ký hỏi.

“Rất Bùi Giáng!” Tôi trả lời.

“Hay! Khá lắm! Phá mồi mà cũng biết được thơ của Trung Niên Thi Sĩ thì hơi lạ. Vậy còn bài này?”

Ký không đọc liền, anh rót thêm bia vào ly – đã tràn – bưng ly lên và vung tay ra. Nước trong ly sóng sánh đổ xuống mặt bàn.

“Em về mấy thế kỷ sau”

“Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không

“Ta đi còn gửi đôi dòng

“Lá rơi có dội ở trong sương mù.”

“…”

“Sao?” Ký nhìn chăm chăm vào mặt tôi, dò hỏi.

“Chịu!” Tôi lắc đầu.

“Không biết à?”

“Thua!”

“Thế thì phá mồi kém thật!”

“Ai vậy?”

Ký đặt ly bia xuống bàn.

“Thì cũng là Bùi Giáng! Không hay à?”

“Không, không phải vấn đề hay hay dở”. Tôi chống chế. “Vấn đề là nó không có chất Bùi Giáng”.

Ký gật gù.

“Cũng được! Cũng được! Nhưng “dô” cái coi!”

Anh bưng ly lên và cụng vào ly tôi.

“Sao anh không đọc thơ anh?”

Bỗng dưng tôi hỏi Ký một câu lãng xẹt. Anh không trả lời. Tôi đã vô tình động mối thương tâm của anh. Còn nhớ có lần trong một bữa nhậu, cũng tại quán này, hôm đó có Nhật và Tâm, tôi đã nói với anh rằng tôi thích đời sống anh hơn là thơ anh. Và khi anh nghiêng tai về phía tôi yêu cầu tôi nhắc lại điều vừa nói, tôi nói rõ hơn: “Ðời sống anh thơ hơn là thơ anh!” Ký không giận, nhưng tôi thấy anh đang ồn ào bỗng trầm hẳn lại. Về sau Nhật trách tôi đã nói một điều không nên nói với một người bạn đặc biệt là Ký. Anh lớn tuổi hơn chúng tôi dễ chừng đến gần một giáp. Tôi nhớ hổi nhỏ khi anh tôi mang về những tờ tạp chí Ðời Mới, tôi có lần đã đọc thơ anh. Những bài thơ có vần có điệu nhưng chữ nghĩa là những gì có phần cũ kỹ. Cuối bài thơ dù có để tên anh hay một tên nào khác, tôi nghĩ cũng thế thôi. Có lẽ hồi đó tôi có thành kiến là ai làm thơ hay hơn Quang Dũng – thật ra thì tôi cũng nghe lỏm bõm được câu trước mất câu sau của nhà thơ này mà thôi.

(Em ở Thành Sơn chạy giặc về

Tôi từ chinh chiến cũng ra đi

Cách biệt mấy lần quê Bất Bạt

Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì…)

Cho nên thơ không tỏa ra được cái chất Quang Dũng này là không thể yêu được. Vậy thôi.

Lớn lên đọc thơ anh, tất nhiên bằng một con mắt trưởng thành hơn, tôi thấy có cái gì đó không ổn trong chữ nghĩa và hình ảnh của thơ anh. Tất cả như sao chép lại từ nguyên bản. Rồi tôi quen anh vì cùng dạy chung một trường. Anh là một người ngang tàng. Anh uống rượu như Kiều Phong. Anh có một người vợ đẹp như A Tỷ. Anh sống bất cần đời. Khi chiều xuống là lúc anh say sưa và lúc đó đối với anh trời đất cũng chỉ là hạt cát.

Tôi biết là anh khổ sở vì câu nói của tôi.

Ðột nhiên Ký gạt tay ngang mặt bàn. Tất cả ly cốc đồ nhậu rơi dạt xuống thềm xi măng. Tiếng thủy tinh vỡ tung tóe.

-Dzô đi tên phá mồi! Ai biết uống rượu người đó biết thưởng thức thơ. Mày cố học uống rượu đi, nếu không mày vĩnh viễn đếch biết thế nào là thơ.

Khi tôi bưng ly bia lên ực một hơi lắc lắc cho những viên đá chạm vào thành ly, tôi bỗng nhe tiếng thắng gấp của một chiếc xe hơi lết bánh trên mặt đường. Và ào một cái, như sấm chớp, trước mặt sau lưng chúng tôi là những người lính cảnh sát dã chiến.

Một người dáng chừng là chỉ huy đưa tay ra trước mặt Ký nói:

-Ông cho xem căn cước!

-Không có thẻ căn cước! Ký bưng ly bia lên trả lời gọn.

-Ê, đừng giỡn mặt cha nội! Một người lính đứng phía sau nói vói qua vai người chỉ huy. Tôi nghe tiếng lên đạn lách cách.

-Cả mấy ông này nữa! Người chỉ huy chỉ tay vào Nghĩa, Lộc nói.

Tôi nhìn Lộc thấy hắn đã gục trên bàn, đầu gối trên cánh tay nhưng bàn tay vẫn còn giữ chặt ly bia. Nghĩa đã ngả đầu ra sau lưng ghế. Tôi mở bóp lấy thẻ căn cước. Một ngọn đèn pin bật sáng chiếu vào mắt tôi sau đó chuyển xuống tấm giấy chứng minh. Tôi nghe có người đọc tên tôi. Tôi nói:

-Xin mấy anh thông cảm. Ðám bạn tôi ngất ngư cả rồi!

Người chỉ huy đưa trả tôi thẻ căn cước, phất phất tay:

-Không sao! Không sao! Hỏi chơi vậy thôi. Tôi biết mấy ông quá mà!

Và quay sang người chủ quán đang đứng xớ rớ bên cạnh, người chỉ huy nói:

-Yêu cầu đóng cửa ngay! Chị không biết tin thiết quân luật à?

Chị chủ quán xoa tay, ấp úng:

-Xin mấy thầy thông cảm!

Tôi hỏi người chỉ huy.

-Xin anh cho biết giới nghiêm từ lúc mấy giờ?

-Mười một giờ! Mấy ông đã vi phạm hơn nửa giờ! Yêu cầu các ông trở về nhà ngay!

Tôi nhìn Ký, Nghĩa và Lộc, nói với người chỉ huy:

-Nhưng…

-Tôi hiểu! Tôi hiểu! Người chỉ huy ngắt lời tôi.

-Ông muốn nói mấy ông nội này quắc cần câu rồi chớ gì?

-Ðúng vậy! Tôi gật đầu.

-Bọn tôi sẽ chở các ông về nhà!

-Tôi sợ không tiện!

-Tại sao?

-Ông này ở tận Hàng Xanh – tôi chỉ Lộc; ông này ở tuốt Phú Lâm, Cây Da Xà – tôi chỉ Nghĩa; ông này thì ở Bùi Thị Xuân gần đây thôi – tôi chỉ Ký. Còn tôi, tôi ở Hồng Thập Tự, Ngã Sáu. Tôi đi bộ được!

-A! Người chỉ huy kêu.

-Thế thì rắc rối to. Bọn tôi còn nhiều việc phải làm, không thể đi tùm lum ở những vùng không thuộc phạm vi kiểm soát của tôi.

Ngừng lại một giây, người chỉ huy tiếp:

-Hay là… Hay là tôi sẽ đưa ông về nhà, còn mấy ông thần lưu linh này chúng tôi sẽ giữ tạm một đêm ở bót gần đây, mai về sớm!

-Cám ơn! Tôi ngập ngừng

-Tôi nghĩ là mấy ông bạn tôi cần tôi. Ðể cho tôi theo mấy ổng, cũng là tiện cho ông!

-Ðược thôi!

Người chỉ huy ra dấu cho những người lính xốc Ký, Nghĩa và Lộc lên xe. Lúc khiêng Lộc đặt lên chỗ ngồi băng sau xe nhà binh, tôi chợt thấy hắn nhếch mép cười. Chắc hẳn Lộc đang mơ thấy mấy con đầm nhảy điệu can-can của những ngày còn học ở Paris. “Comme au premier jour, toujours toujours…” Hắn hát nữa trời ạ! Những người lính bật cười.

Chương 3

Ðêm đó, trong bót cảnh sát, chúng tôi tặng cho bọn muỗi một bữa no nê. Ký, Lộc và Nghĩa ngáy như gỗ. Phần tôi, mãi đến gần sáng mới chợp mắt được.

Choáng đầy giấc mơ chập chờn của tôi là ông Phan và Uyên. Quyền lực của người già và sắc đẹp của tuổi trẻ. Ðó là hai gọng kềm đang khép tôi lại. Liệu tôi có thể ra khỏi được thứ xiềng xích vô hình ấy không? Bàn tay ướt rịn mồ hôi của ông Phan đẩy tôi ra, nhưng đôi mắt to đen, nốt ruồi tham lam ở khóe môi Uyên hút tôi vào. Hình ảnh đầy trong một giấc ngủ lưng.

Khi tôi bắt đầu chợp mắt thì cửa phòng tạm giam mở. Người cảnh sát đập bọn chúng tôi dậy và báo cho biết là chúng tôi có thể ra về. Ký soạn lại cặp sách, càu nhàu luôn mồm. Nghĩa cười cười như còn vướng vất hơi rượu đêm qua. Lộc tỉnh hẳn và bắt đầu nói như sáo.

Chúng tôi rủ nhau đi uống cà phê và điểm tâm ở một quán hủ tiếu Tàu. Lộc dạy chúng tôi uống cà phê bằng cách đổ lên chiếc đĩa lót và bưng húp như húp nước mắm.

Chúng tôi chia tay khi Saigon đang đón những chiếc xe thổ mộ cuối cùng chở hoa xuống chợ Bến Thành.

Tuy sớm vậy mà trước cửa phòng tôi, ai đã đặt sẵn một bao thơ từ hồi nào: Ðó là giấy báo của nhà trường triệu tập buổi họp khẩn cấp của hội đồng giáo sư.

Ở hành lang trường, tôi gặp lại gần như đầy đủ các bạn đồng nghiệp. Những khuôn mặt đăm chiêu hằn những nụ cười buồn. Ðời sống của một người dạy học vốn đã khó khăn, tình trạng chiến tranh càng đẩy họ vào ngõ hẻm của sự thanh bần cưỡng bách.

Dù sao, buổi họp cũng đã diễn ra nhanh chóng. Người hiệu trưởng trẻ tuổi nhưng nghiêm nghị, thông báo cho mọi người biết là kể từ không giờ sáng nay, mọi công dân, theo lệnh chính phủ, bị đặt trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu. Lệnh Tổng Ðộng Viên đã được ban hành và mọi sĩ quan biệt phái phải ở trong tư thế chờ đợi trả về đơn vị gốc của quân đội.

Ðối với tôi, điều đó có nghĩa là mùa hè vẫn chưa hết, mặc dù cây phượng duy nhất trước sân trường đã rụng hết bông, và chiến tranh chỉ là một con quái vật tuy ghê tởm nhưng vẫn đứng thấp thoáng bên ngoài ngưỡng cửa của một Saigon bất khả xâm phạm.

Những bài phóng sự chiến trường của Nhật viết từ vùng lửa đạn kề cận nỗi chết, vẫn chưa đủ sức hâm nóng trái tim nguội tanh của người Saigon. Tôi nhớ mỗi lần trở lại thành phố sau một chuyến tham gia trận đánh, Nhật hay nói đùa một câu rất Cổ Long, một tay viết tiểu thuyết kiếm hiệp cũng lừng danh như Kim Dung, rằng “Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ!” Ðó là lúc tôi thấy Nhật buồn rầu rõ nét nhất.

Thật ra Saigon lúc này đang có cuộc chiến tranh của nó. Những tin đồn đủ loại áp lực lên nỗi lo âu của người thành phố như hơi nước trong nồi súp de. Rồi xuống đường, biểu tình, phe nhóm, đảng phái, tôn giáo, truyền đơn… như những mồi lửa bên thùng thuốc súng… Thôi thì đủ thứ. Saigon như một cô gái đẹp bị xâu xé giữa những chàng trai hung hãn.

Ở phòng họp ra, tôi phóng xe như bay xuống phố. Quán nước quen vẫn đông người, nhưng bên ngoài cửa kính là một lượt lưới sắt to cọng phủ kín. Ðể vào được quán phải lách qua một cánh cửa nhỏ chỉ vừa một người. Bên trong, mọi người vừa ăn uống vừa ngóng ra đường như chờ đợi một điều gì. Trên nét mặt căng thẳng, trên những đôi mắt giương to, người ta có thể đọc thấy hiu hắt một nỗi lo âu.

Tôi may mắn tìm được một chỗ ngồi khá tốt: vừa gần cửa kính nhất để có thể trông qua tòa nhà Quốc Hội bên kia đường, vừa khuất sau một cây cột để người từ ngoài bước vào không trông thấy tôi, nhưng tôi thì có thể quan sát được họ. Nơi công viên, quanh chỗ giữ xe gắn máy, những cuộn dây kẽm gai vừa được cảnh sát kéo giăng ngang.

“Lại xuống đường nữa rồi!” Người đàn ông ngồi gần bàn tôi nói trống không sau khi nhấc tẩu thuốc ra khỏi miệng và thở mùi “seventy nine” thơm nức cả phòng. Tôi cũng cùng ý nghĩ như ông ta, nhưng không biết phe nhóm nào? Hôm qua nghe nói nhóm của Linh Mục Tr.H. Th., còn hôm nay nghe đâu đến lượt mấy ông “ký giả ăn mày!” Tại sao lại ký giả ăn mày nhỉ? Tôi không hiểu gì hết. Dẫu sao nỗi lo lắng của tôi lúc này là Quỳnh. Ở phòng họp sáng nay tôi đã gọi dây nói cho Quỳnh và hẹn nàng. Tôi nhắc nhiều chỗ hẹn và nói tôi rất cần gặp Quỳnh. Quỳnh quả quyết: “Em cũng cần gặp anh. Thế nào em cũng đến. Nhớ chờ em. Ðừng đi đâu!”

Nhưng tình hình thế này làm sao Quỳnh có thể tới được chỗ hẹn. Tất cả mọi lối vào quán như thế là bị kẽm gai ngăn lại.

Tôi thấy nhiều xe Cảnh Sát Dã Chiến đang đổ xuống ở góc đường Tự Do và Lê Lợi. Ngay bên ngoài cửa kính của quán nước, tôi cũng vừa chợt thấy một chiếc Dodge đầy lính nai nịt gọn gàng, mặt nạ chống hơi ngạt ở cổ, súng phóng lựu đạn cay cầm ở tay và mộc chống biểu tình dựng dưới chân.

Lâu lắm, dễ chừng hơn một tháng nay Quỳnh và tôi không gặp nhau. Trước đây, mỗi tuần ít nhất chúng tôi gặp nhau một lần, và thường là ăn cơm với nhau ở một hiệu cơm Tàu trong Cholon. Quán ăn nhỏ nằm trong một con hẻm mang tên Tản Ðà, một nhà thơ nổi tiếng Việt Nam. Chủ nhân là người Phúc Kiến. Quán chứa không quá hai mươi thực khách, nhưng đặc biệt là chỗ ngồi cho hai người hay bốn người đều được chia riêng biệt, không bàn nào nhìn thấy bàn nào. Lưng ghế cao, mặt bàn lót đá xanh có vân mát lạnh. Chính Quỳnh đã đưa tôi đến đây. Cô cho biết người giám đốc hãng hàng không CAL ở Hồng Kông trong một dịp đến thăm chi nhánh CAL Saigon, đã mời các nhân viên trong hãng – trong đó có Quỳnh – đến ăn quán này. Ông là một người Trung Hoa cao lớn, rất thông thạo Anh ngữ, Pháp ngữ và tiếng Tây Ban Nha. Ðặc biệt ông rất sành văn chương Pháp. Trong bữa ăn, ông nói với Quỳnh là chính tại cái quán nhỏ bé này, nhà văn André Malraux của Pháp – sau này là bộ trưởng văn hóa Pháp – đã từng là khách danh dự.

Dưới mắt các bạn tôi, Quỳnh không phải là một người đẹp. Cô có khuôn mặt hơi dữ, cặp chân mày đen đậm trên một đôi mắt màu nâu to, miệng hơi rộng, mũi thon nhưng hơi hỉnh. Và tất cả những nét ấy dịu lại nhờ chiếc răng khểnh vô cùng lôi cuốn.

Tôi quen Quỳnh trong một dịp rất tình cờ và mãi về sau tôi mới biết cô là em gái của một người bạn cùng lớp với tôi ở những năm trung học. Hắn tên là Tuấn và có biệt danh là Tuấn-phở, vì hắn nổi tiếng là người có thể điểm tâm một lúc bằng ba tô phở, đó là chưa kể có thể kết thúc bằng một ly cà phê sữa đá loại lớn nữa. Tuấn-phở là một “phénomène” của thời còn mài đũng quần trên ghế nhà trường. Cho đến khi tốt nghiệp trường Luật, tập sự luật sư và hành nghề này, hắn luôn luôn tỏ ra là một tên trí thức lập dị. Hắn để râu, những sợi râu thưa và cứng trên một đôi môi lúc nào cũng như mím lại.

Hắn ưa đội một chiếc nón lát rộng vành. Hắn đọc sách nhiều hiểu biết nhiều và rất có hoa tay. Hắn không là họa sĩ nhưng tranh vẽ của hắn có nhiều bức còn hơn những ông tự xưng là họa sĩ. Hắn học giỏi. Hắn ngốn nhiều kiến thức. Nhưng hắn bị “tẩu hỏa nhập ma.” Trên khuôn mặt nhỏ như chiếc lá rau răm của hắn không bao giờ thiếu cặp kính tròn, kiểu như kính của ông Thượng Thư Bộ Lại thời xưa. Tuy nhiên, có lúc hắn nói với tôi là hắn thích John Lennon của ban nhạc Beatles.

Tôi không thân Tuấn-phở và tôi biết hắn cũng không ưa gì tôi. Có lần tôi đụng hắn một trận kinh hồn tưởng chừng sẽ chẳng bao giờ còn nhìn mặt nhau nữa. Nhưng mấy năm sau, khi Tuấn-phở trở thành Tuấn-luật sư và cưới một người bạn gái rất thân trong đám bạn tôi, thì sự liên hệ giữa hai chúng tôi được thắt lại, tuy chẳng có gì là chặt chẽ lắm.

Mùa Hè năm đó, tôi được cử ra Nha Trang làm việc trong Hội Ðồng Giám Thị và Giám Khảo kỳ thi Tú Tài hai. Ðó là một mùa thi mang đến cho tôi nhiều bối rối nhất. Trung tâm tôi phụ trách bị lộ đề thi toán và tôi được biết ở một số phòng thi, nhiều thí sinh đang có bài giảng trong tay. Là chủ tịch Hội Ðồng Giám Thị, tôi phải giải quyết một số trường hợp bị coi là gian lận. Người ta đưa đến trước mặt tôi một cô gái có khuôn mặt lạnh tanh, cặp chân mày hơi xếch trên một đôi mắt màu nâu to. Chiếc răng khểnh là một nét đặc biệt của cô. Sau khi xem xét giấy tờ hợp lệ của cô, tôi hỏi:

“Chị có điều gì cần nói?”

“Có!” Cô gái trả lời cộc, mặt lạnh, mắt mở to ngó thẳng vào tôi.

“Xin chị cứ nói”. Tôi nhỏ nhẹ.

“Tại sao tôi phải bỏ dở buổi thi để đứng ở đây?” Cô hỏi giọng gay gắt.

“Thế chị không biết lý do vì sao người ta đưa chị lên đây à?” Tôi ngạc nhiên.

“Không!” Cô trả lời dấm dẳn và giận dữ.

Tôi hơi mất bình tĩnh vì thái độ của cô, nhưng tôi cố nén hơi nóng đang dồn lên buồng ngực mình. Tôi giải thích cho cô nghe lý do. Cô gái phá lên cười:

“Vậy thì mấy ông nhầm to rồi! Người có trong tay đề giải là Hà Thị Như Quỳnh số ký danh 151, còn tôi là Hoàng Thị Như Quỳnh số ký danh 152. Tôi bị mất mười lăm phút làm bài để đứng đây vì một cái lỗi không có. Theo ông, tôi phải làm sao?”

Cô làm tôi buồn cười. Tất nhiên Hoàng thị Như Quỳnh 152 được trở lại phòng thi và cô được đền bù số thời gian bị mất với một lời xin lỗi của toàn thể Hội Ðồng.

Mùa thi qua, tôi trở lại Saigon. Và những gì đã xảy ra trong mùa hè đó rồi cũng đi vào lãng quên. Cho đến một buổi sáng mùa Thu năm sau tại tòa án Saigon, khi tôi đang ngồi nói chuyện với luật sư của tôi trên một băng ghế ở hành lang trước một căn phòng nhỏ chờ ông tòa hòa giải đợt đầu thì gặp Quỳnh. Rất nhanh chóng, chúng tôi nhận ra nhau:

Tôi hỏi Quỳnh:

-Chị không trượt chớ?

-Cám ơn ông. Nhờ trời tôi đậu! Quỳnh trả lời nhưng giọng có khó khăn.

-Gia đình chị ở Saigon à?

-Không ạ! Tôi sống với mẹ tôi ở Ðà Lạt.

-Sao chị đi thi chi xa tận Nha Trang?

-Vâng. Tôi học ở Lycée Ðà Lạt, nhưng tôi thích Nha Trang.

-Nha Trang là một thành phố biển đẹp! Tôi gợi ý.

-Nha Trang đẹp vì đó là quê của cha tôi! Quỳnh nêu một lý do khác.

-Còn cái Tú Tài Pháp? Tôi hỏi nhảy sang chuyện khác.

-Sao ông biết tôi thi Tú Tài Pháp? Quỳnh ngạc nhiên.

-Chị vừa nói chị học ở Lycée mà!

-Ồ! Quỳnh nhớ ra. Cô tiếp:

-Cám ơn ông. Tôi thi tại Saigon và nhờ trời, tôi đậu.

Và Quỳnh cười. Chiếc răng khểnh của cô có một sức quyến rũ lạ lùng. Cả tấm thân thể cao lớn của cô, đôi chân dài, eo thon, ngực nở, hai con mắt long lanh tình ái, mái tóc ngắn làm Quỳnh có vẻ cao hơn. Bỗng nhiên tôi giật mình nhận ra không hiểu vì sao cô có mặt ở tòa án. Tôi hỏi:

-Xin lỗi chị, tôi hỏi có hơi tò mò, chị có chuyện gì ở đây vậy.

-Tôi có cái hẹn với anh Tuấn tôi.

-Chị muốn nói Tuấn-luật sư?

-Dạ phải. Ông quen anh Tuấn sao? Quỳnh ngạc nhiên.

-Có. Có một thời chúng tôi là bạn học!

Tôi trả lời, nhưng mắt vẫn nhìn Quỳnh, cố tìm xem có nét tương đồng nào giữa Tuấn và người thiếu nữ xinh đẹp này không. Không. Thật hoàn toàn là không. Quỳnh cao lớn, Tuấn nhỏ con. Khuôn mặt Quỳnh phúc hậu, da trắng, hai con mắt to ngó thẳng vào người nói chuyện. Còn Tuấn khuôn mặt choắt, mắt là một đường chỉ nhỏ, nói chuyện với ai luôn nhìn nghiêng về một phía. Quỳnh nói giọng chững chạc rõ ràng, Tuấn hơi lắp bắp và nhiều khi nuốt cả tiếng. (Ấy thế mà luật sư mới tài!)… Có lẽ đọc được ý nghĩ tôi, Quỳnh giải thích:

-Tuấn là anh cả, tôi là em út. Nhà có bảy anh em. Tôi thua Tuấn mười sáu tuổi. Mẹ tôi nói tôi là đứa con không cầu mà được.

Và bỗng nhiên Quỳnh đổi giọng:

-Còn ông? Tôi cũng muốn hỏi ông một câu tương tự. Ông có nghĩ là tôi quá tò mò không?

-Không. Tôi hiện đang ở thời gian ly dị. Tôi trả lời không do dự.

-Ồ! Quỳnh kêu lên như một cách xin lỗi. Chiếc răng khểnh của cô vẫn là thỏi nam châm thu hút tôi. Và như thế chúng tôi quen nhau.

Mãi về sau, có lần tôi hỏi Quỳnh vì sao lần đầu tiên gặp tôi ở Hội Ðồng Thi cô có vẻ kênh như thế, Quỳnh hỏi lại tôi là phải chăng tôi muốn nói đến cách xưng hô của cô.

-Em không học anh, không việc gì em phải gọi anh là Thầy. Mà nếu có học anh đi nữa thì em cũng chẳng việc gì phải gọi anh là Thầy.

-Tại sao?

-Chẳng sao cả. Em vẫn gọi mấy ông bà giáo của em là oui monsieur…, non monsieur…, oui madame…, merci madame… có sao đâu. Vả lại khi em thích anh thì em có đủ tự tin để tự nâng mình lên ngang với anh, nếu không, em sẽ kéo anh xuống để anh ngang bằng em!

Những ngày sau đó thỉnh thoảng chúng tôi có gặp nhau. Tôi được biết cô đang làm việc cho hãng Hàng Không China Air Lines và cô đang theo một lớp Anh văn ở Hội Việt Mỹ đường Mạc Ðĩnh Chi. Mấy lần tôi đổi phòng trọ, Quỳnh đều đến dọn dẹp giúp tôi. Vào những ngày cuối tuần hai đứa con tôi vẫn thường theo cô Quỳnh đi xi nê, Sở Thú, ăn kem…

Về phần hai chúng tôi, nếu trí nhớ tôi không lầm, thì chưa ai nói lời yêu ai, mặc dù giữa chúng tôi bức tường ngăn cách đã bị đập bỏ từ lúc nào. Tôi không xác định được thời điểm nào mình đã “mở cửa” đi vào đời Quỳnh. Trong ký ức mù mịt tôi, tôi chỉ nhớ được không gian nơi chúng tôi đã chia sẻ cùng nhau hơi thở tình ái. Thân thể tôi trong thân thể Quỳnh.

Chúng tôi tự vỗ về nhau trong một thú đau thương cùng tột. Trên lưng tôi không bao giờ phai mờ dấu vết của Quỳnh và tôi cũng biết trên vùng “đồi núi” cô ít khi lặn chìm những dấu răng cuồng loạn tôi.

-Anh!

Quỳnh đứng dậy quàng sắc lên vai.

Tôi chép địa chỉ lên phía sau lưng của một hộp quẹt giấy, bỏ vào xắc tay Quỳnh và đưa cô ra cửa.

Ðường đã bắt đầu đông người. Tôi đi theo Quỳnh một quãng ngắn.

“Bây giờ anh đi đâu?” Quỳnh chợt đứng lại bên tượng Thủy Quân Lục Chiến hỏi tôi:

“Có lẽ tôi sẽ đi xem một phim mới của Michel Piccoli và Romy Schneider”.

“Nên lắm. Les Choses De La Vie. Thứ Bảy nhé!” Quỳnh nắm chặt những ngón tay tôi như một lời từ giã.

Chương 4

“Ê ai như ông Thăng kìa!”

Trước hàng rào dẫn vào cửa phòng chiếu rạp Rex tôi thấy Uyên và mấy người trẻ tuổi. Một cậu tóc dài phủ ót, quần ống rộng, áo chẽn. Còn cậu kia tóc ngắn, y phục gọn, mắt sáng. Cô gái đứng cạnh Uyên khá cao lớn, cả khuôn mặt như chìm trong đôi mắt kính đen gọng to.

“Chào anh Thăng!” Uyên bước tới đưa tay về phía tôi.

“Chào!” Tôi bắt tay Uyên.

Quần jean xanh bạc màu, sơ-mi trắng rộng, tóc dài bím đuôi sam, Uyên tươi mát và ngây thơ như một thiên thần.

“Xin giới thiệu anh, đây là Cathy Hồng, bạn Uyên, và đây là Tấn và Minh ở Luật Khoa“

“Chào!”

“Và đây là anh Thăng!” Cô giới thiệu tôi với bạn mình.

“Thưa anh.” Cả ba người trẻ tuổi cùng nói.

“Xin lỗi mấy bồ nhé!” Uyên nói với các bạn, và cô kéo tay tôi lôi về phía quầy giải khát bên hông tiền đình.

“Sao hôm đó anh không chờ Uyên?”

“Tại sao tôi phải chờ cô?”

“Ðưa bố ra xe trở vào phòng đọc sách thì anh đã đi mất tiêu.”

“Tôi là người ít kiên nhẫn.”

“Sao anh không phone cho Uyên.”

“Nhưng tôi đâu có số điện thoại của cô?”

“Ồ!” Uyên kêu lên bật cười.

“Cô thích Romy Schneider không?” Tôi nói lảng.

“Thích! Anh đi với bọn này nhé!”

“Cô có thể chờ tôi lấy vé được không?”

“Không còn vé đâu!” Uyên chỉ tôi xem tấm bảng Hết Vé dựng trước cửa tò vò.

“Làm sao?”

“Uyên có rất nhiều giấy mời. Anh đi với bọn này nhé?”

“ Cám ơn cô! Ðể khi khác. Tôi có chút việc phải làm ngay bây giờ.”

“Anh làm sao vậy? Uyên có chuyện muốn nói với anh thực mà!”

Cô bước lại chỗ mấy người bạn. Bốn cái đầu chụm lại. Tôi không nghe họ nói gì, nhưng khi Uyên quay lại cầm lấy tay tôi, tôi

thấy cả ba đưa tay chào trước khi bước hẳn vào bên trong rạp.

“Mình đi đi anh!”

“Ði đâu?” Tôi ngạc nhiên.

“Thì anh cứ đi với Uyên đã.”

Chúng tôi đi băng qua công viên trước Tòa Ðô Chính, đi vào Hành Lang Eden. Những cửa kính trưng bày mỹ phẩm, đồ trang

sức đàn ông đàn bà. Ðèn sáng trong hành lang, nhưng người thưa thớt. Ra khỏi Hàng Lang là đường Tự Do, người đông nhưng có vẻ vội vội vàng vàng. Tôi đứng lại. Trên thềm gạch dọc theo vách nhà sách Xuân Thu là hàng sách “xôn”. Không thiếu thứ gì: tiểu thuyết, sách khoa học, hội họa, âm nhạc, triết học… Lướt mắt trên những tạp chí cũ và những tựa đề sách, tôi cố ý chờ nghe Uyên nói. Nhưng vì cô cứ lặng thinh nên sau cùng tôi phải lên tiếng:

“Ði đâu bây giờ?”

“Uyên muốn uống trà Hoàng Cúc.”

“Trà Hoàng Cúc?” Tôi ngạc nhiên. “Ở đâu vậy?”

“Ở tiệm Hoàng Gia. Ði, anh đi với Uyên.”

Ðường Tự Do buổi chiều mát rượi dưới những cơn gió miệt mài từ sông Saigon thổi lên. Uyên khỏe mạnh, trẻ trung, nồng nàn đi bên cạnh một người đàn ông là tôi buồn nản, hoài nghi và nhạt nhẽo. Tôi lê bước theo Uyên trên một con phố thanh bình sang trọng. Chẳng có chút dấu vết nào cho thấy da thịt của Saigon bị những trận cào cấu nhức xương của một người tình phụ phàng trong mấy ngày qua. Tôi nghĩ đến Ðăng và Mai, không hiểu chiều nay chúng đang làm gì trong căn nhà nhỏ ở một ngõ hẻm đường Kỳ Ðồng. Mẹ chúng nó, người đàn bà lớn lên trong một gia đình mà đồng tiền ngự trị trên tất cả, đã có lần nói với tôi rằng nếu phải đổi tất cả danh dự và phẩm giá con người để có được trong tay cái tài sản trở thành người giàu nhất Saigon cô ta sẽ không do dự đặt danh giá dưới gót chân mình. Cũng may, cô ta không có đủ danh dự và phẩm giá để đổi cho nên số tài sản cô thu vào không đáng là bao.

Bù lại, cô ta được cái vẻ bề ngoài của một người vợ hiền khốn khổ bị hất hủi bởi một thằng chồng khốn nạn. Cô ta bỏ tiền ra mua chuộc những người chứng buộc tội. Ở người này là chiếc vòng ngọc thạch, ở người nọ là những tờ giấy bạc, ở người kia là những giọt nước mắt. Và khi chiếc vòng ngọc thạch trở thành vòng mã não, đồng tiền trở thành đồng bạc, nước mắt trở thành nước lã, họ cáo buộc lẫn nhau, tố cả đến người mua chuộc họ. Tôi sợ người đàn bà này. Nhưng sợ về phần tôi thì ít, mà sợ về hậu quả những đứa con tôi phải lãnh thì nhiều. “Tiền trên hết”. Ðó là định đề mà cô ta dạy chúng như một bài học vỡ lòng để chuẩn bị vào đời.

Một tội ác toàn hảo không có nghĩa là không có kẽ hở nhỏ. Một kịch sĩ đại tài không có nghĩa là đánh lừa được tất cả mọi người bằng vai trò của mình. Có thể nhiều người nhìn y, bị lôi cuốn bởi tài nghệ điêu luyện của y trong diễn xuất nên tưởng nhân vật y đóng và y là một. Và ngay cả y nữa, y đóng trò giỏi đến nỗi chính y cũng tưởng rằng y là một con người như thế.

“Ðây mà anh!” Uyên kéo tay tôi lại khi thấy tôi đi vượt quá cửa hàng.

Tôi đẩy cửa kính, nhường cô vào trước. Quán nhỏ nhưng ấm cúng. Bên hông trái là một cánh cửa nhỏ mở ra một Hoàng Gia khác dành cho những bợm nhậu.

“Hai Hoàng Cúc!” Tôi nói với người chủ quán.

“Bố muốn gặp anh!” Cô bắt đầu.

“ Bác có nói bao giờ không?”

“Không. Bố chỉ nói bao giờ gặp anh nhớ cho anh biết ý muốn đó của bố. Chuyện liên hệ đến anh!”

“Theo cô nghĩ, đó là chuyện gì?”

“Uyên không biết. Nhưng theo mẹ thì đó là chuyện gia đình anh và có liên hệ đến tính mạng anh”.

“Chuyện gia đình tôi, mà lại liên hệ đến tính mạng tôi?”

“Uyên không biết. Và Uyên cũng không hiểu. Nhưng tại sao anh không đến gặp bố?”

“Tôi nhờ cô xin bác cho tôi cái hẹn!”

“Chủ nhật này được không anh?”

“Bất cứ lúc nào bác cho phép.”

“Anh còn đang nghỉ mà, phải không? Uyên sẽ tìm anh ngay khi bố muốn gặp anh. Ðược không?”

“Nhưng cô biết tôi ở đâu mà tìm?”

“Anh ở đâu, chơi với ai, ngồi ở quán nào mà Uyên không biết.”

“Cô là ma xó à?”

“Chứ sao?”

“Tôi muốn hỏi một câu? Vậy chớ cô nghĩ tôi là một người như thế nào?”

“Anh là một kẻ tà đạo!”

Tôi ngạc nhiên.

“Thế nào là một kẻ tà đạo?”

“An advocate of immorality”.

“Tôi không hiểu!”

“Uyên cũng không hiểu. Nhưng tại sao anh chọn cách sống kỳ quái như vậy? Sao anh không cố gắng sống như mọi người?”

“Thế nào là sống như mọi người? Tôi vẫn ăn vẫn sống và tôi vẫn thở. Tôi đâu có gì khác người?”

“Uyên có gặp bà Lan một lần. Bà ấy than thở trăm chiều, nói xấu anh cùng cực. Anh chơi bời, bỏ bê nhà cửa. Anh là một

người đam mê đủ thứ: rượu chè, trai gái, cờ bạc, hút xách… Anh hư hỏng…”

“Bà ấy còn nói gì thêm?”

“Bà ấy một gia đình thượng lưu như bà ấy, con gái của một chủ nhà băng không thể chịu đựng một người chồng hư như vậy?”

“…”

“Bà ấy nói anh có thể là một người cha tốt, cũng có thể là một người tình tuyệt vời, nhưng là một người chồng xấu.”

“Cô nghĩ gì về bà ấy?”

“Xinh!”

“Thế thôi?”

“Nói nhiều!”

“…?”

“Và giả dối!”

“Cái gì làm cô nghĩ vậy?”

“Không thể nói được. Lúc này Uyên không thể cho anh nghe được!”

“Bao giờ thì có thể nói được?”

“Bao giờ chúng ta gặp lại?”

“Chẳng phải là chúng ta đang gặp ở đây sao?”

“Phải. Nhưng anh chưa đọc Le Petit Prince của Antoine de Saint Expery sao?” Cô có vẻ đổi để tài.

“Ðã đọc. Nhưng sao?”

“Cần phải apprivoisier chứ?”

“Ai?”

“Chúng ta!”

“Vậy ai hiểu?”

Ngưng một lát, Uyên nhìn tôi.

-Anh có vẻ bận nhỉ?

-Không. Tôi đang nghĩ tới một điều…

-Một người?

-Ừ. Một điều và một người.

-Một người tên Quỳnh?

-Sao cô biết?

-Uyên là ma xó mà! Nhưng… anh thử nghĩ coi đi với người này mà đầu óc nghĩ tới người kia thì có phải là một người đàn ông lịch sự không?

-Tất nhiên là không!

-Vậy anh là người lịch sự?

-Ðương nhiên.

-Anh có nghĩ rằng mình là người kiêu ngạo quá không?

-Không!

-Vậy anh là người khiêm tốn?

-Cũng có thể.

-Anh nghĩ sao nếu có người nói anh là Don Juan?

-Bậy bạ!

-Anh có biết là Uyên đã biết anh từ lâu không?

-Không! Từ hồi nào?

-Lâu. Nhưng không nhớ từ hồi nào! Có lẽ hơn một năm nay, ở một lớp tối, trường Trường Sơn!

-Cô làm gì ở đó?

-Ði chơi. Có một người bạn học ở đó. Theo cho vui.

-Hôm đó cô nghe tôi nói gì?

-Anh nói với người ta không nhớ đến con người hay sự vật chỉ vì con người hay sự vật đó. Người ta chỉ nhớ đến những gì có liên quan đến mình mà thôi.

-Sao cô nhớ kỹ thế?

-Uyên chỉ nhớ những gì có liên quan đến Uyên mà thôi!

-Giỏi!

-Anh khen Uyên phải không?

-Cứ cho là vậy đi!

-Anh hay giảng bài lạc đề lắm, anh có biết không?

-Ở đâu? Hồi nào?

-Hôm đó, hôm có một người con gái lên hát bài Tiếng Sông Hương của Phạm Ðình Chương.

Tôi hớp một ngụm trà Hoàng Cúc, đốt một điếu thuốc và nhớ lại buổi học tối hôm đó.

Lớp tối của Saigon phần lớn dành cho những người đứng tuổi đã có công ăn việc làm, muốn kiếm thêm cái bằng để tăng lương tăng ngạch. Cũng có một số người trẻ là những học sinh trường Pháp muốn, nếu chẳng may rớt Tú Tài Tây, còn lấy được cái Tú Tài Ta. Hôm đó lớp học khá đông, nhưng nói chung không khí có vẻ như bất bình thường. Bài học có tựa đề là Ký Ức Và Liên Tưởng. Tôi cho cả lớp ghi một số điểm tựa để nhớ khi làm bài thi. Tôi nhắc đến một số bài thơ phổ nhạc: Chiều của Hồ Dzếnh, Ngày Xưa Hoàng Thị của Phạm Thiên Thư, Mộng Dưới Hoa của Ðinh Hùng… và tôi hỏi họ những ca khúc ấy có gợi cho họ điều gì không? Ðau khổ hay Hạnh phúc? Tình yêu hay Thù hận? Hoặc một vệt nắng ở chái hiên, một cơn mưa phùn trên hàng me… có làm ta nghĩ đến chia ly hay sum họp? Lúc bấy giờ, tôi còn nhớ rõ như in, một chị ngồi ở đầu bàn đứng dậy:

-Monsieur, em nói được không?

Tôi hơi ngạc nhiên, vì ở các lớp tối tính thụ động và ù lì gần như là bản chất. Họ ngồi nghe, ghi chép hoặc nói chuyện và ngủ gục. Phát biểu ý kiến hoặc đặt câu hỏi là một điều hiếm hoi.

-Mời chị. Nhưng chị hãy cho tôi biết là chị có ý định đi ra ngoài bài học không?

-Không, monsieur, em hiểu bài học hôm nay theo một cách khác.

-Mời chị!- Tôi nhắc lại sự đồng ý của mình.

-Xin cám ơn!

Rồi chị đứng quay mặt xuống lớp, giọng dõng dạc:

-Miền Trung đang bị thiên tai bão lụt, chúng ta đã đóng góp gì chưa?

-Chưa! Tôi nghe cả lớp ồ lên.

-Tôi đề nghị chúng ta nên nghĩ đến nỗi khổ đau của đồng bào ruột thịt!

-Ðề nghị đi! Cuối lớp có tiếng người nói lớn.

Cả lớp nhao nhao.

-Tôi muốn cả lớp chúng ta đóng góp một chút gì để gọi là chia sẻ nỗi khổ đau của đất nước.

-Chị đóng góp trước đi!

-Tự nhiên là tôi xin đóng góp trước!

Chị lên bàn, lấy hộp đựng phấn viết bảng trút hết phấn ra, bỏ vào đó một tờ giấy bạc.

-Xin các bạn tùy hỉ!

-Không phải giờ đóng góp! Cả lớp lại nhao nhao.

-Tôi có ý kiến!- Chị vừa đưa tay lên vừa đứng dậy. Tôi xin hát tặng cả lớp bài Tiếng Sông Hương của Phạm Ðình Chương. Các bạn sẽ đóng góp chứ?

-Hoan hô! Hoan hô! Cả lớp nghe nói hát hò vỗ tay ầm lên.

-Tôi có ý kiến! Một người cuối lớp đứng dậy.

-Tôi hoàn toàn đồng ý việc làm của chị. Nhưng tôi nghĩ chị đã lạc đề. Chúng ta đang giờ học. Có lẽ mình nên dành việc này cho mươi lăm phút cuối giờ. Ðược không?

-Tôi không lạc để. Chị tiếp:

-Bài học hôm nay cho ta thấy là một chút mưa, một chút nắng ở đây không thể không gợi cho ta nhớ đến miền Trung được, đó là miền đất ruột thịt của ta, nó liên quan đến ta, và ta có bổn phận phải nhớ nó. Theo tôi hiểu đó là triết lý của bài học!

Và chị hát. Cả lớp im lặng. Ngọn điện néon trên bảng đen hình như sáng hơn. Và tiếng hát ấy của chị, tiếng hát tuy không nghề nghiệp nhưng rõ ràng phát ra từ một trái tim chân thật. Tiếng hát mộc mạc của người con gái mảnh dẻ mà can đảm ấy, đã làm cả lớp rung động.

-Xin cám ơn chị! Xin thay mặt miền Trung đau khổ tôi cám ơn chị! Buổi học hôm nay là buổi học hoàn hảo nhất trong năm của tôi nếu không nói là buổi học mà tôi bằng lòng nhất trong cuộc đời dạy học của tôi.

Tôi muốn ứa nước mắt khi nói với cả lớp sau khi bài hát chấm dứt.

-Lúc đó cô cũng có mặt trong lớp sao?

-Có. Uyên ngồi ở bàn chót.

-Và cô đã chứng kiến…

Ầm! Cắt giữa chừng câu nói tôi là tiếng nổ lớn làm rung rinh những bức tranh trên tường. Cánh cửa kính giữ hơi lạnh của máy điều hòa không khí bị bật vào bật ra nhiều lần. Một số người chen nhau chạy ùa vào quán mang theo khói lựu đạn cay mù mịt. Uyên ho sặc sụa nước mắt nước mũi ràn rụa! Hai tay cô nắm chặt tay tôi. Chén trà Hoàng Cúc đổ ướt mặt bàn.

Tôi biết tôi cũng đang ràn rụa mắt mũi.

Chương 5

Cùng với hơi lựu đạn cay là những con sâu vi trùng của bệnh cúm bay khắp thành phố, thổi qua căn gác tôi. Và vật ngã tôi.

Tôi nhớ hôm đó trời mưa lất phất trên đường khi tôi đưa Uyên về nhà bằng chiếc xe Lam cà khổ của tôi. Tuy mưa mà không mát, những hạt nước nhỏ như có chứa những ngọn lửa chích vào da thịt một thứ nóng ngột ngạt. Tự nhiên tôi nghe khan ở cổ và và ran buốt buồng ngực. Một cơn ho dữ dội và kéo dài như muốn bưng cả buồng phổi tôi vất ra ngoài, làm tôi phải gập người lại và ngã xuống khi tra chìa khóa cửa phòng căn gác trọ.

Tôi cố gượng để bước vào bên trong nhưng mắt hoa lên, cả căn nhà như sụp xuống và mọi vật quay cuồng, xoáy tròn trong một cơn lốc dữ dội. Và như thế tôi thiếp đi trong tiếng mưa gõ lên thành cửa sổ. Tôi cố mở mắt ra, nhưng vô ích, một lần nữa, chiếc cầu thang bằng gỗ, ngôi nhà, bầu trời, tiếng động… tất cả đều lung lay, chập chờn, nhạt nhòa và vỡ vụn…

Trong trí tưởng mờ mịt tôi lúc đó những hình ảnh này trộn lẫn vào những bóng dáng kia, sự việc này chen vô sự việc nọ, chẳng có gì ăn khớp nhau, nhưng hình như chúng liên tục và rất là hợp lý. Tôi thấy ông Phan là kẻ thù tôi, Uyên là em gái tôi, Quỳnh là mẹ tôi, ông Lý là bạn thân tôi. Chiếc răng khểnh của Quỳnh chạy qua Uyên, nốt ruồi tham lam của Uyên trên khuôn mặt Quỳnh. Ông Lý có đôi bàn tay mập ú rịn ướt mồ hôi còn giọng nói ông Phan đặc sệt miền Nam của ông Lý. Bà Phan là một thiếu nữ xinh đẹp. Và Ðăng, và Mai các con tôi đã là những người lớn. Duy có một điều mà trí nhớ bệnh tật tôi lúc đó không hề bị hư hỏng, đó là ký ức về ngôi nhà tôi đã sống.

Nhà nằm sâu trong một ngõ cụt, trên góc đường Kỳ Ðồng và Trương Minh Giảng. Cái sân chung của những ngôi nhà trong cùng một ngõ không ra hình chữ nhật cũng chẳng giống hình bầu dục. Ngay đoạn giữa là bụi, sỏi vụn và đá xanh lởm chởm. Nhà đâu mặt vào nhau cho thấy nhiều giai tầng xã hội trong một tập hợp thân ái mà nhạt nhẽo. Bên mặt là dãy nhà giầu, có sân riêng lót gạch đỏ, cổng sắt và cửa gỗ đánh vẹc-ni. Căn đầu là của một cặp vợ chồng Ðức-Việt. Chồng làm ở tòa Ðại Sứ Ðức, vợ ở nhà trông con, hai đứa con lai cao lớn tóc vàng óng. Nhà kế là của ba chị em người Ðà Nẵng, chỉ cả làm thư ký ở Tòa Ðại Sứ Úc, chị thứ hai là y tá bệnh viện Grall và cô Út đang học trung học. Cả ba đều chưa chồng, nhưng cô Út đang mang bầu. Căn thứ ba là của một giáo sư dạy trường Nha và đang hành nghề chữa răng và chuyên làm răng giả tại gia. Vợ là bác sĩ mới ra trường. Ở trong cùng, đối diện với mặt đường là ba căn nhà: một biệt thự của một chủ ngân hàng, có cổng lớn, nhiều cây to và hơi tối. Tôi chưa vào nhà ấy lần nào nhưng tôi được nghe là nó rộng và đẹp lắm. Nhà sát đó là của một người thợ sửa xe đạp với đám con bụng ỏng da xanh mướt. Kế bên là nhà của một người đàn bà lấy chồng Mỹ. Phía bên trái là một căn nhà nhỏ thông qua đường Trương Minh Giảng. Nhà có sân tráng xi măng, với một cây trứng cá thay hàng rào. Phòng khách và bếp dàn hàng ngang. Buồng ngủ là căn gác sàn gỗ gần sát mái tôn. Cửa sổ mở ngó ra đường Trương Minh Giảng, không tránh nổi cơn nắng chiều quái ác.

Trong căn nhà đó, tôi đã có những buổi sáng thức dậy một mình, lo cho các con bữa ăn sáng và lo cả cho chính bản thân tôi, rồi tôi đưa chúng đi học, trước khi đến sở làm.

Trong căn nhà đó, tôi đã có những buổi trưa ngồi nhìn các con ăn trong nỗi chán chường của một gia đình mục rã, nơi có một người đàn bà chỉ nghĩ đến mình, chăm sóc phần ngoài của mình hơn là lo cho chồng cho con.

Trong căn nhà đó, tôi đã những buổi tối trở về khi các con tôi đã ngủ, tự làm lấy thức ăn một mình, tự ngồi một mình trên bàn cơm với cái chén, đôi đũa và sự cô đơn của một con người.

Nhưng thế nào là một gia đình?

Câu hỏi ấy cứ luôn luôn trở đi trở lại mãi mãi trong đầu tôi.

Một tế bào của xã hội, mà nếu thiếu nó xã hội chẳng là gì cả?

Một đơn vị gia cư?

Một tập hợp những cá thể, gồm một người đàn ông và một người đàn bà, và, nếu có thể, những đứa con?

Một chốn hợp pháp dành cho sự gặp gỡ của giống đực và giống cái?

Một nơi để trở về sau khi đã ra đi?

Một hang động để trú ẩn?

Tôi đã có một gia đình chưa?

Hình như là đã có theo một trong những ý nghĩa đó, và hình như là chưa theo một trong những câu trả lời kia.

Trong ngôi nhà đó, cái lò lửa nóng hực mặt trời buổi trưa, trong một Saigon đang lên cơn sốt chính trị, tôi đã phải tự bứng mình đi như người ta nhổ một bụi khoai ra khỏi cái luống đất xốp và rời rạc kia.

Ðó là căn nhà của cơm nguội và nước lạnh, chan vào nhau lõng bõng lêu bêu, rời rạc nhạt nhẽo. Không ai có thể sống mãi trong một căn nhà như thế, khi cuộc đời bên ngoài tự nó cũng đang là một cái gì buồn thảm, lêu bêu lõng bõng, giả trá, xa lạ và đầy thù hận.

Tôi đã giã từ căn nhà đó, như cắt đứt cánh tay bị ung nhọt thối tha của tôi vì đã hết thuốc chữa.

Nhưng tình yêu của tôi dành cho Ðăng và Mai vẫn còn nguyên vẹn. Ðó là nỗi đau của tôi. “Con cần mẹ, nhưng ba cũng cần các con.” Cái hình ảnh một người đàn ông chiều Thứ Bảy đi thăm con ở nhà một người đàn bà trước kia là vợ mình, sao nó thê thảm đến thế!

Căn nhà ấy, mặc dù đã ra đi, tôi vẫn nhiều lần trở lại. Những buổi trưa, ba cha con ngồi quanh chiếc bàn ăn hình chữ nhật.

“Hôm nay con học gì? Một bài hát mới hả? Con hát ba nghe coi! Il était un petit navire! Il était un petit navire! Qui n’vait ja-ja-jamais navigué, Qui n’avait ja-ja-jamais navigué… Con ăn gì? Cay hả? Không, không cay đâu. Cái này không có ớt đâu!”

-Con phải cầm đũa như thế này, này! Con ngồi ngay ngắn nhé! Ðể tay lên bàn. Ðúng! Thế!

-Con ăn thêm nữa không? No hả? Sao ít vậy?

Bữa cơm xong, Mai rửa mặt, đánh răng lâu thật lâu, tẩn mẩn tỉ mỉ từng chút, chậm rãi như một bà cụ non. Còn Ðăng là một cái gì trái ngược: rửa mặt ào ào, đánh răng ào ào, chùi hai tay lên áo, trở lại bàn lấy tập và bút. Vẽ.

-Ðố ba biết cái này là cái gì?

-….

-Ba dở ẹt! Thằng Tintin đi Hồng Kông mà ba cũng hổng biết!

-….

-Ba biết thằng cao bồi này tên gì không?

-….

-Ba thiệt hổng biết gì hết trơn hết trọi! Ðây là Lucky Luke. Còn mấy thằng này là anh em đám thằng Dalton. Ghê chưa? Ba sợ hông?

-….

Ðó là những buổi trưa, như những buổi trưa buồn thảm khác có ba cha con tôi trong căn nhà hộp diêm, thấp tè, nóng bức.

Cũng có hôm tôi bị phỏng vấn.

-Ba đi đâu? Sao ba không ở nhà?

-Ba đi làm việc!

-Ba làm việc ở đâu?

-Tụi con biết rồi mà!

-A! Con biết! Con biết! Mai la lên.

-Anh Ðăng không biết đâu. Con biết nè! Bữa hổm ba chỉ cho em rồi. Phải không ba?

-Phải!

-Ðó thấy chưa anh Ðăng? Em biết mà!

Sau đó, ba cha con trải chiếu dưới đất. Ðăng xem sách hình. Mai kể chuyện cô giáo trong trường. Rất nhanh, một đứa đánh rơi sách và một đứa thiu thiu.

Rồi đến lượt tôi, rất nhẹ nhàng rón rén ra đi, sợ làm kinh động giấc ngủ của hai đứa bé.

Ở căn nhà đó ra, tôi lại trở về căn gác trọ, tắm rửa, thay quần áo, xuống phố, nói chuyện tầm phào với lũ bạn ở một quán nước quen, đi rong qua những hàng sách “xôn,” xem một cuốn phim.

Còn cơm tối? Có khi là một bát phở, một khúc bánh mì, một chén bò viên, một chai bia… Cũng có khi, vì lười biếng, chẳng có gì hết ngoài những ly cà phê sữa đã uống…

Chiều Thứ Bảy. Thường lệ là những chiều Thứ Bảy, tôi đón Ðăng và Mai đi ăn ở một quán Tàu trên đường Lê Văn Duyệt.

Cơm thố và thức ăn xào nấu vừa miệng. Ðây là quán mà tôi và các con tôi thích nhất. Người chủ quán là một cô Tàu còn nhỏ nhưng mập tròn và lùn tịt như một chiếc thùng tô nô. Cô hay hỏi tôi:

-Má tụi nó đâu rồi?

Tôi mỉm cười không trả lời. Và bao giờ cũng vậy, đó là câu hỏi duy nhất mà cô luôn luôn nói với tôi. Sau bữa ăn là một chầu xi nê. Một cuốn phim mà trẻ con có thể xem được. Ðôi khi nhằm một rạp vắng, Ðăng đi từng dãy ghế, bật lên bật xuống từng chỗ ngồi, khua động từng chập trước giờ vào phim. Cuối cùng là vào một tiệm kem ba màu cho Ðăng, bốn màu cho Mai, một cà phê liégeois cho tôi. Ðêm trở về căn nhà ấy, hôn các con, và chia tay. Tôi lại lóc cóc chạy xe vòng qua Nhà Thờ Chúa Cứu Thế, rẽ qua con đường Nguyễn Thông đến Ngã Sáu chạy ngược chiều đường Phan Thanh Giản, qua một đường rầy xe lửa… vào một Cư Xá, leo lên một cầu thang dốc, tra chìa khóa vào một cánh cửa làm bằng ván ọp ẹp. Và bước vào một căn phòng không ai chờ đợi!

Tôi đã làm gì đời tôi?

Tôi làm một nghề bội bạc: dạy học. Nhiều người nói giáo dục là một nghề cao quý nhưng dạy học thì đồng nghĩa với bội bạc.

Chẳng cần nghe người khác nói tôi mới biết điều đó. Tôi đã từng nhiều lần nhìn thấy sự bội bạc ấy vào mỗi cuối niên học nơi những học sinh thông minh và dễ thương nhất của tôi. Tất nhiên không phải người học sinh xuất sắc nào sau cùng sẽ chỉ là một người bội bạc xuất sắc, nhưng thường những học sinh xuất sắc dễ trở thành những tâm hồn bội bạc cực kỳ xuất sắc& Tôi yêu những khuôn mặt trẻ trung, những thái độ ngông nghênh mà vô tội vạ của họ. Tôi thích nhìn thấy tuổi trẻ ấy lớn lên, mau chóng vượt qua những gì họ đã học được ở nhà trường. Hạnh phúc của tôi chính là được thấy sự trưởng thành của học sinh tôi, là thấy được một ngày kia những anh chị ấy biết khinh bỉ sự chết cóng và những xác ướp kiến thức trong sách vở. Nếu họ đi xa và bỏ lại đằng sau lưng những người thầy của họ về mặt kiến thức và tiền bạc vật chất (tất nhiên), tôi hiểu rằng điều đó không bao giờ có nghĩa là bội bạc.

Dù sao, sự làm ra vẻ lãng quên, hay làm ra vẻ mình có một trí nhớ khiêm tốn của một người học sinh trước người thầy học cũ, cũng chỉ là một điều tự nhiên và bình thường trong xã hội ngày nay. Ðiều bất bình thường chính là người học sinh ấy còn nhớ đến người thầy của mình!

May mắn cho tôi trong đời mình cũng có đôi lúc nhận được sự bất bình thường loại đó. Và đó là một điều hiếm hoi của chút ánh sáng hạnh phúc phù du còn lại trong cái mờ mịt của một xã hội thời nay.

Tôi biết tôi là một tên lười biếng.

Tôi chỉ đọc những gì liên hệ đến công việc tôi đang làm, chỉ ăn những thức ăn đã dọn sẵn trên bàn, chỉ trò chuyện những ai đụng vào trái tim tôi, chỉ yêu những ai can đảm yêu tôi. Tôi không biết sục sạo, bươi móc như con gà tìm kiếm chút hạt gạo thừa ngoài sân.

Tôi là tên đàn ông thụ động trong tận cùng xương tủy.

Ðừng tưởng là tôi không chán tôi. Tôi chán tôi như người ta vẫn thường chán những thức ăn thừa phải hâm đi hâm lại mãi nhiều lần trong nhiều ngày.

Nhưng tôi là ai?

Tôi là người đàn ông lang bang, lêu bêu. Tôi đang là cái tôi cách đây mười năm khi mới vừa tốt nghiệp ra trường. Một lần Quỳnh nói anh cứ coi như mình đang bắt đầu từ con số không đi! Tôi không đồng ý cách nói đó của Quỳnh. Làm sao tôi có thể bắt đầu được từ con số không? Tôi đang bắt đầu từ âm số. Dưới con số không nhiều bậc kia. Tôi đã bị trừ đi cái mười năm của tuổi trẻ phung phí vào một người đàn bà gian trá. Tôi đã bị trừ đi cái mười năm của một sự trống trơn về tai tiếng. Tôi đang bắt đầu từ những âm số của nợ nần, của những lời thị phi, của nụ cười đã tắt, niềm vui đã chết, hi vọng đã tan hoang.

Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình đang nằm trên giường. Chiếu chăn thẳng thớm. Chiếc gối dưới đầu thơm mùi xà phòng mới giặt. Căn phòng gọn và sạch đến nỗi tôi có cảm tưởng như đây là lần đầu tiên tôi tới chốn này. Và trên chiếc ghế đặt sát đầu giường tôi là một ly nước cam vắt và một lá thư.

Thư của Quỳnh.

Cô cho biết cô đã đến thăm tôi đúng vào cái lúc tôi nằm ngáng ngay cửa phòng. Và cô đã khó khăn lắm mới đưa được tôi lên giường, thay quần áo, xoa dầu nóng, gọi bác sĩ thăm bệnh tôi. Nàng đã lau sạch sàn nhà, sắp xếp báo chí sách vở, thu dọn quần áo bẩn đem đi tiệm giặt, thay cả màn cửa, và mền gối mới cho tôi. “Suốt đêm, Quỳnh viết, anh sốt mê man, miệng không ngớt lảm nhảm những lời vô nghĩa. Nếu anh cứ tiếp tục cái kiểu này có ngày anh sẽ chết mà không ai hay. Ðời sống anh làm em ứa nước mắt.”

Thật sao? Có thật là còn có một người nào đó trên đời này ứa nước mắt cho tôi? Cuộc sống tôi bi thảm đến thế sao?

Trống trơn và lạnh lẽo. Ðó là căn phòng tôi đang ở. Ðó cũng là đời sống tôi. Sự bừa bãi của sách báo, và quần áo có thể làm đầy căn phòng, nhưng không thể làm đầy được sự trống rỗng trong tôi. Lửa làm ấm bàn tay nhưng ngọn lửa nào ấm được trái tim nguội lạnh tôi?

Và tôi thấy lại Quỳnh. Hình dung cô đứng ở cửa phòng khi tôi đang nằm ngáng nơi cánh cửa kia. Hình dung cô thu dọn, lau chùi căn phòng. Hình dung một người phụ nữ xinh đẹp ngoài phố và giỏi dắn như một bà nội trợ đảm đang trong gia đình.

Tôi đã yêu Quỳnh chăng? Tôi, kẻ không còn tuổi trẻ, không địa vị cũng chẳng phải là một tên biết hái ra tiền. Nhưng cái gì khiến người thiếu nữ xinh đẹp là Quỳnh yêu người đàn ông là tôi kia? Tôi không biết!

Hơn ai hết, Quỳnh hiểu tôi là kẻ không có gì trước mặt, cũng chẳng có gì sau lưng. Vậy mà Quỳnh không gìn giữ cho mình, nàng gửi hết cho tôi trái tim trẻ trung và nóng bỏng của cô. Quỳnh làn thức dậy trong tôi những tế bào tưởng sẽ chỉ mãi mãi ngủ quên do sức ép của những biến cố dồn dập lên đời tôi.

Giọt nước mắt của Quỳnh đã làm tôi hồi sinh thật chưa? Hay cũng chỉ là một sự đứng dậy nhất thời?

Nghĩ lẩn quẩn mãi tôi vẫn không hiểu tại sao tôi cứ bị căn gác trọ này ám ảnh thần trí tôi?! Tại sao tôi không tìm đến một chỗ trọ khác, khang trang hơn, ấm áp hơn? Phải chăng trong sự bi thảm có cái sức quyến rũ riêng của nó? Những hôm mưa lớn đứng trên cửa sổ nhìn xuống phía dưới tôi có cảm tưởng như mình đang đi thuyền trên một con sông lớn nước đục ngầu. Gặp những trận mưa to, cửa sổ không rèm che, không “ô-văng”, nước tạt vào ướt cả chăn nệm, thấm những cuốn sách trên bàn viết& Hôm nào trời nắng gắt, phòng giống như cái hỏa lò làm rơi mồ hôi hột, mặc dù trên trần nhà những cánh quạt máy vẫn quay ở tốc độ cao nhất. Cái máy thu thanh mới lắp pin hai ngày đã chỉ phát ra những tiếng rè rè vì quên tắt núm điều chỉnh. Tấm lịch quên xé ngày. Cái gạt tàn đầy nhóc tàn tro và đuôi thuốc. Phin cà phê còn đầy xác mấy ngày chưa rửa. Những viên kẹo ngọt chảy nước trên mặt bàn vì để quá lâu…

Nhưng nếu tất cả những luộm thuộm, bẩn thỉu này làm cho đời sống tôi bi thảm thì phải chăng giờ đây khi mọi sự đã sạch sẽ, đã ngăn nắp sự bi thảm ấy đã chấm dứt?

Và nữa, kỳ lạ chưa, cái gì vậy? Trên vách, sau lưng tôi, ngay chỗ đầu giường ngủ tôi là một bức tranh sơn dầu vẽ chân dung một thiếu nữ. Ánh sáng, bố cục khuôn mặt và màu xanh kỳ lạ của bức họa – từ khi tôi nhìn thấy nó – làm cho căn phòng như trở nên sáng hơn, rộng hơn và dễ ưa hơn.

Dù sao điều tôi nhận ra ngay tức khắc khi nhìn chân dung người thiếu nữ trong tranh là sự pha trộn kỳ lạ giữa hai khuôn mặt trong một khuôn mặt. Cái trán bướng bỉnh, nốt ruồi tham lam, chiếc cổ cao của Uyên với đôi mắt mở to màu nâu mã não và cái miệng hơi rộng với chiếc răng khểnh của Quỳnh làm tôi giật mình.

Tranh không ký tên người vẽ, nhưng màu sắc và đường nét gợi nhớ đến Trịnh Nam, một trong những họa sĩ trẻ mà tài năng đang được xác nhận như là một trong số họa sĩ có khả năng vượt khỏi biên giới của quốc gia.

Gió thổi qua cửa sổ. Bầu trời đen như mực không một ánh sao. Tuy vậy tôi có thể nhìn thấy trong trí nhớ phía dưới kia là những mái nhà, những lớp ngói mốc rêu xanh, một sân nước bẩn thỉu, một con hẻm hẹp với hình ảnh một người đàn bà có bầu đang đùa với đứa bé bụng ỏng.

Cơn mưa sẽ đến! Tôi nghĩ vậy và nhìn đồng hồ. Còn mười lăm phút nữa mới đến tám giờ. Thế mà tôi cứ tưởng là khuya lắm.

Tôi đứng lên đóng cửa sổ, nằm xuống giường mở trang sách, đọc lại quyển “Chùa Ðàn” của Nguyễn Tuân.

Có tiếng giày khua trên những bậc thang gỗ dẫn lên căn gác tôi. Rồi tiếng gõ cửa. Tôi vẫn nằm im. Tôi nghĩ là Quỳnh.

Hình như trong thư cô đã viết cho tôi như vậy. Cái tay nắm cửa được xoay một vòng. Tôi nằm yên và nhắm mắt. Tôi nghĩ là Quỳnh sẽ hôn tôi. Nhưng lập tức tôi biết là tôi đã đoán sai. Mùi hương phấn rất đàn bà đang phớt qua mũi tôi. Ai? Tôi tự hỏi nhưng vẫn tiếp tục nhắm nghiền mắt. Tiếng giày ngừng lại ở đầu giường tôi. Tiếng xắc tay mở ra. Tiếng thở dài. Và mùi nước hoa lạ đang gần thấp xuống tôi. Rất gần!

Tôi không thể đoán được và cũng không thể kềm chế nổi cơn tò mò của mình. Và tôi mở mắt ra.

-Uyên! Tôi kêu lên.

Khuôn mặt trắng xanh, trán bướng, mắt to, nốt ruồi. Cằm nhọn, cổ cao, tóc dài, ngực nở nang kiêu hãnh. Phải, đó là Uyên, con gái ông Phan, người tạo thời cuộc.

Uyên đang đứng trên đầu giường tôi, hai tay khoanh lại, nhìn tôi đăm đăm. Thấy tôi mở mắt, cô bỏ tay ra, một tay đặt trên trán tôi:

-Anh làm sao vậy? Uyên lo cho anh quá!

Tôi chống tay ngồi hẳn dậy.

-Ðừng. Anh cứ nằm yên nghỉ cho khỏe. Uyên đến thăm anh mà!

Tôi nhất định ngồi dậy, tựa lưng vào thành giường, kéo chăn lên ngực, trong tay vẫn cầm quyển Chùa Ðàn.

-Sao cô biết tôi bị bệnh?

Uyên ngồi xuống ghế. Cô mở túi đựng cam, xếp lên bàn. Cầm một trái, vừa bóc vỏ Uyên vừa nói:

-Cách đây nửa giờ có người gọi dây nói cho Uyên biết là anh bị ốm.

-Ai vậy?

-Làm sao Uyên biết được!

-Ðàn ông hay đàn bà? Tôi không kềm nổi sự ngạc nhiên.

-Theo Uyên thì đó là giọng của một cô gái. Vâng, là của một cô gái.

-Một cô gái? Mà cô ta nói gì vậy?

-Cô nói là ông Thăng không thể nào gọi dây nói cho Uyên được vì ông ấy ốm, khi nào khỏi bệnh ông ấy sẽ gọi lại ngay!

-Thế thôi? Cô ta không xưng tên à?

-Thế thôi! Cô ta báo tin xong là “cúp” ngay. Chẳng kịp hỏi han gì hết!

-Không kịp hỏi han gì hết, sao cô lại biết chỗ ở của tôi?

Uyên đưa cho tôi mấy múi cam đã bóc vỏ, rồi giơ một ngón tay lên đặt ngay sống mũi:

-Bí mật nghề nghiệp!

Tôi vẫn tựa lưng vào thành giường, nhìn Uyên. Vẫn xinh đẹp, vẫn trẻ trung. Rất phụ nữ, rất con gái. Uyên ngồi đó, bên cạnh tôi, trong căn phòng của một người đàn ông độc thân. Ánh sáng của ngọn đèn néon làm khuôn mặt cô trắng bệch xanh mướt, lót nền cho hai con mắt to đen trở nên quyến rũ hơn. Tôi nghĩ đến cái mà cô gọi là bí mật nghề nghiệp. Có gì bí mật? Ông Phan có thừa tai mắt để biết nơi ăn và chốn ở và cả hành tung của hằng vạn con người, ngay cả những người khó hiểu nhất, ăn thua gì một người như tôi. Vả lại, đâu cần thông minh lắm mới biết được cô gái gọi dây nói cho Uyên là ai. Có lẽ trong lúc dọn dẹp căn phòng Quỳnh đã đọc được cái “message” của Uyên gởi tôi? Và có lẽ Quỳnh muốn thử giải một bài toán mà cô là người đi tìm đáp số. Cô là người chia bài và chính cô là người đánh lá đầu tiên. Thôi được, cứ cho là Quỳnh chơi bài và Uyên cũng đang chơi bài đi. Nhưng tôi là cái “thá” gì mới được chớ?

Uyên vẫn ngồi yên. Cô có vẻ suy nghĩ lung lắm. Sau cùng Uyên đứng dậy đưa tay:

-Thôi, xin phép anh, Uyên phải về đây!

Tôi nắm bàn tay Uyên. Tôi nhìn vào mắt cô. Uyên không phản ứng. Cô để yên tay mình trong tay tôi. Mắt tôi gặp mắt Uyên. Chúng tôi nhìn nhau như thể mới thấy nhau lần đầu. Tôi đọc được sự thách thức trong đôi mắt cô. Nếu tôi bỏ tay cô ra trước có lẽ tôi là người thua cuộc. Nhưng nếu cứ giữ tay Uyên trong tay tôi, tôi sẽ là cái gì? Vì vậy tôi kéo Uyên. Và cô ngã lên tôi.

-Ðừng anh! Ðừng anh!

Tôi nghe tiếng Uyên kêu yếu ớt khi tay tôi vòng qua thân thể cô. Tôi hôn nhẹ nhàng trên trán cô, gò má cô, tai cô, cổ cô và sau cùng rất tàn bạo môi Uyên. Mùi hương phấn rất đàn bà của Uyên tràn ngập trong tôi.

-Ðừng anh! Ðừng anh!

Uyên kêu khẽ. Cô không hôn tôi. Tôi thấy đôi mắt Uyên ráo hoảnh nhìn tôi. Và cô đứng dậy, vén lại mái tóc rũ xòa trước trán:

-Thôi Uyên về! Bác tài đang chờ Uyên dưới đường!

Tôi nhìn Uyên không nói.

-Anh ráng tịnh dưỡng nhé!

Và cô nhẹ nhàng hôn lên trán tôi, rồi quày quả bước ra cửa. Tôi nghe tiếng giày khua rất chậm ở dốc cầu thang. Và tiếng động cơ xe nổ giòn, lăn bánh.

Chương 6

Tất cả những con đường đưa vào trung tâm thành phố bị chận. Cảnh sát dã chiến và quân đội phối hợp đóng trụ ở các yếu điểm. Nội bất xuất, ngoại bất nhập. Biểu tình lớn ở trước thềm Quốc Hội. Chợ Bến Thành là một biển người. Trong hơi gió phảng phất mùi lựu đạn cay.

Bầu trời nặng và oi.

Cơn cúm chưa ra khỏi hẳn người tôi. Nhưng tôi không chịu nổi cảnh nằm nhà nghe nhạc và đọc sách như một tu sĩ. Tôi muốn gặp lại bạn bè ở không khí của một quán nước quen.

Với chiếc Lambretta, tôi chạy len qua khắp nẻo, nhưng không làm sao đến được chốn mà tôi vẫn thường đến. Ðường vắng, nhưng những quán ăn ngoài lề đường vẫn đông khách. Dọc phố rải rác dưới các gốc cây, những mái hiên, góc lộ… là những người lính nai nịt gọn gàng, súng ống cầm tay trong một khí thế căng thẳng. Ở đường Ðoàn Thị Ðiểm, một chiếc xe jeep Mỹ bốn bánh chổng vó lên trời cháy sém. Ðối diện với sân quần vợt Bà Huyện Thanh Quan là khu cư xá của kiều dân Pháp, cổng đã đóng, và một cây cờ tam tài tổ bố trương lên cao.

-Ði đâu bây giờ?

Tôi tự hỏi và không tìm thấy câu trả lời. Tôi cứ thế cho xe chạy. Ngang qua căn nhà có cây trứng cá ở đường Kỳ Ðồng tôi thấy Ðăng và Mai đang đùa vui với lũ trẻ trong xóm. Tôi không muốn gặp Lan. Tôi chắc giờ này chị ta đang ở nhà. Tôi chạy xuống nhà Quỳnh trước rạp Rex. Nhưng kẽm gai đã kéo qua Lê Lợi, rào chắn đã chặn ngõ Lê Thánh Tôn. Nguyễn Huệ hay Tự Do đều cô lập. Tôi như con chuột chạy quanh trong một chiếc lồng lớn bằng lưới.

Sau cùng tôi thấy mình ngừng xe trước cổng một ngôi biệt thự. Tôi bấm chuông. Và không đầy một giây, một người đàn ông, chẳng biết đã chờ chực ở đó từ bao giờ, hiện ra ở cửa:

-Ông hỏi ai?

-Cô Uyên.

-Cậu là bạn cô Uyên?

-Phải.

-Xin lỗi. Mời cậu vào trong.

Tôi theo chân người nhà của Uyên, băng qua khu vườn mà hôm trước tôi đã đi. Ðến phòng khách, hắn mời tôi ngồi, lấy nước trà cho tôi và xin phép đi gọi Uyên.

Phòng khách rộng. Tường màu xanh nhạt. Ghế trường kỷ, bàn và cả một tứ bình đều cẩn xà cừ. Một bức tranh sơn mài lớn vẽ hình bốn con ngựa trong bốn tư thế phi nước đại khác nhau. Hoa hồng cắm trong một chiếc độc bình màu huyết dụ. Thảm trải dưới chân có hoa văn Ba Tư.

Tôi không ngồi. Tôi đứng say mê nhìn bức sơn mài. Ngựa bao giờ cũng là con vật ưa thích nhất của tôi. Ngay khi đó bà Phan bước vào.

-Thưa bác.

-Chà, cậu Thăng. Lâu dữ. Ông nhà tôi nhắc cậu hoài.

-Thưa bác, mấy hôm nay tôi cũng có ý định đến hầu bác, nhưng… Tôi lúng túng.

-Tôi biết, tôi biết! Cậu bị ốm phải không? Bà chận lời tôi và chỉ chiếc ghế bành.

-Cậu ngồi xuống đây đi!

-Cám ơn bác. Ðúng vậy! Tôi bị cúm.

Tôi ngồi xuống ghế không biết mình sẽ nói gì. Thực ra nếu có Uyên ở đây cũng chưa chắc tôi nói được gì. Chẳng lẽ tôi đến thăm cô như một chuyện tình cờ? Chẳng lẽ tôi hỏi bà Phan là tôi muốn gặp Uyên?

-Bị cúm à? Hồi này trời độc lắm. Ông nhà tôi mấy hôm nay cũng sụt sịt hoài. Thế cậu đã uống thuốc gì chưa?

-Thưa bác. Tôi đã uống đủ thứ. Congex. Ngậm Maxicaine. Và cũng đã chích một mũi Arcopulmin nữa.

-Nhưng bây giờ thì cậu đã nhẹ rồi chứ?

-Cám ơn bác. Hết hẳn thì không hẳn là hết, nhưng nhẹ thì đã thấy nhẹ lắm.

-Thảo nào trông cậu vẫn còn xanh. Tám đâu? Bà vừa nói chuyện vừa gọi người làm.

-Lấy giùm tôi hai ly sữa đậu nành nhé!

Người nhà mang nước lên. Bà Phan nói:

-Cậu dùng thử nước này xem sao?

Tôi nâng ly mời bà. Tôi đang khát nước. Trong phòng trọ tôi thiếu cái tủ lạnh. Nước máy lấy ở Lavabo thì nồng nàn mùi eau-de-javel, bình thủy có bỏ trà thì vì lười nên ít khi nấu.

-Cậu thấy thế nào?

-Thưa bác cám ơn bác. Ngon lắm!

-Ðấy, con Uyên nhà tôi làm đấy!

Nghe bà Phan đã nhắc Uyên, tôi thấy mình làm màu thế là quá đủ, tôi muốn hỏi thăm Uyên, nhưng bà Phan đã đứng dậy sửa lại cành hoa trong độc bình:

-Xin lỗi cậu Thăng nhé! Tôi có chút việc. Ðể tôi gọi Uyên lên cho anh em nói chuyện nhé!

Ðến cửa hông, bà Phan dừng lại, quay mặt nhìn tôi.

-À, trưa nay cậu Thăng ở lại dùng cơm với nhà tôi nhé! Cơm thường thôi. Ðừng từ chối, bác giận!

Tôi đứng dậy, hai tay thừa thãi:

-Thưa bác, cám ơn bác, nhưng xin phép bác cho một dịp khác.

-Không được! Ðừng làm khách. Nhà tôi và tôi cũng muốn hỏi thăm cậu mấy chuyện!

Và bà Phan bỏ đi vào trong.

Ngồi lại một mình trong phòng khách, tôi châm một điếu thuốc và thấy mình sao trơ trẽn. Tôi đến đây với mục đích gì?

Ðộng cơ nào xô đẩy tôi? Nếu là Uyên, tôi muốn gì ở cô? Giữa hai chúng tôi mới chỉ là một cái hôn. Tuy môi tôi đã ngậm môi cô và tuy cô không phản đối nhưng rõ ràng cô không hôn tôi.

Uyên. Tôi thì thầm tên cô. Tôi bỗng cảm thấy mình trở nên lãng mạn một cách kỳ quái. Tuổi trẻ thực sự tôi ở đâu để bây giờ đã quá cái tuổi ba mươi còn bị rung động vì một cái hôn?

Tôi châm thêm một điếu thuốc. Cái gạt tàn đã đầy lên vì mấy điếu thuốc hút dở chừng của tôi. Bỗng nhiên tôi thấy ngứa ở cổ. Và cơn ho khan làm gập đôi người tôi. Ðiếu thuốc trên tay rơi xuống làm cháy khét một lỗ. Tôi lọng cọng mãi mới nhặt được điếu thuốc lên, dí đầu lửa vào cái gạt tàn.

Bà Phan trở lại phòng khách.

-Cậu Thăng ạ! Tôi quên mất, nó xin phép tôi đi từ sáng. Có lẽ cũng sắp về.

-Cám ơn bác.

Tôi chỉ vết cháy trên thảm.

-Nhưng tôi làm cháy mất tấm thảm quý của bác rồi!

-Không sao! Bà Phan nhìn theo ngón tay trỏ của tôi.

-Cậu vẫn còn ốm đấy. Ðể tôi lấy thuốc cho. Ðừng có tưởng khỏe mà dể ngươi.

Bà trở vào trong mang ra một ly trà nóng và mấy viên thuốc.

-Aspirine. Cậu nghe tôi uống một viên. Aspirine mà trị cúm là nhất nhé!

Bất ngờ chuông điện thoại reo, bà Phan đứng dậy nhấc máy. Tiếng trả lời của bà khá nhỏ. Lúc trở lại chỗ ngồi, bà nói:

-Ông nhà tôi gọi cho hay trưa nay không về được. Tình hình chính trị gay go lắm! Nhưng không sao, cậu ở lại dùng cơm với mẹ con tôi nhé?

Tôi đứng dậy. Tôi đã chuẩn bị trước một lời cáo từ. Nhưng kìa, Uyên đã hiện ra ở khung cửa. Áo chẽn ngắn tay màu kim nhũ, quần ống rộng màu vàng, thắt lưng to bản.

-Thưa mẹ, con mới về! Và quay sang tôi.

-Chào anh Thăng, anh mới đến chơi?

-Chào, cô Uyên. Tôi đến thăm cô! Tôi ngượng ngùng thú thật.

-Anh Thăng ở lại dùng cơm nhé!

Bà Phan ngước mắt nhìn đồng hồ treo tường rồi nói với con gái:

-Quá bữa rồi đó! Con xuống xem chú Ba đặt bàn chưa? Anh Thăng đương nhiên là phải ở lại dùng cơm với mẹ con mình rồi!

-Còn bố? Bố không về sao mẹ?

-Không! Bố bận họp! Phố xá có gì lạ không con?

-Thưa mẹ, lộn xộn lắm. Anh Minh bị bắt hồi sáng nay, một người bạn của anh Minh trong Ban Ðại Diện Sinh Viên bị một người lạ mặt bắn chết tại góc đường Hiền Vương-Duy Tân.

-Anh Minh nào vậy? Bà Phan có vẻ chú ý.

-Thưa mẹ, anh Minh bạn con, cái anh chàng tóc cắt cao, quần áo gọn gàng như một sĩ quan không quân mà mẹ vẫn thường nhắc đó!

-Mẹ nhớ ra rồi! Mà sao anh ấy bị bắt mới được chứ?

-Con không biết. Chỉ nghe nói anh ấy cầm đầu bên trường Luật xuống đường xuống phố gì đó!

-Ai bắt? Bà Phan có vẻ chú ý.

-Bên chú Trương. Phòng Cảnh Sát Ðặc Biệt!

Ngừng một chút, Uyên tiếp:

-Mà mẹ có định can thiệp cho anh ấy không đấy?

-Con muốn mẹ can thiệp sao? Bà Phan hỏi ngược lại.

-Con không biết. Anh ấy là người đàng hoàng và học giỏi. Anh ấy là bạn tốt của con. Anh Minh có nhiều tham vọng.

-Thôi! Bà Phan gạt ngang.

-Chuyện này để mẹ bàn với bố xem sao. Bây giờ mình ăn cơm đi. Mẹ đói quá rồi!

Bàn ăn hình bầu dục. Lưng ghế cao thoải mái. Thức ăn vừa miệng. Canh chua cá bông lau. Thịt kho tộ. Rau và cải chua.

Một bữa cơm thanh bạch như thế này trong một gia đình thuộc loại số một quốc gia, tôi cho là “trong sạch.” Phần tôi cả tuần nay không có lấy một hột cơm trong bụng. Mì gói, bánh mì, xôi. Nói chung, tôi: Mì gói muôn năm. Vì vậy bữa cơm ngon miệng không thể tả.

Bà Phan ngồi ở đầu bàn. Uyên và tôi ngồi đối diện nhau. Nhiều lần bà Phan gắp thức ăn bỏ vào chén tôi. Uyên cũng vậy.

Thỉnh thoảng giục tôi ăn. Thật tình lúc đầu tôi cũng có hơi làm khách, nhưng sau chén thứ nhất tôi đã thấy tự nhiên. Rõ ràng là tôi ăn có nhiều hơn thường lệ.

Khi người nhà mang trái cây tráng miệng lên, Uyên bẻ nửa trái chuối đưa tôi:

-Anh chia hộ Uyên nhé!

-Tôi là chúa ghét chuối! Tôi buột miệng trả lời không kịp nghĩ.

Uyên vẫn đưa thẳng tay nửa trái chuối về phía tôi.

-Thì anh ăn hộ Uyên mà!

Bà Phan ngó tôi:

-Chưa bao giờ tôi thấy con Uyên nó ăn hết một trái chuối. Cậu Thăng ăn hộ em nhé!

Tôi cầm phần chuối Uyên chia và tôi thấy Uyên cầm tay tôi.

-Cám ơn anh. Uyên làm cà phê cho anh nhé?

-Rất cám ơn!

-Ðúng tần số của anh rồi phải không? Uyên nhẹ nhàng đẩy ghế ra, đứng dậy nhìn mẹ:

-Mẹ có muốn uống sữa đậu nành không?

-Cám ơn con. Mẹ đã uống lúc nãy với anh Thăng!

-Vậy, mẹ uống trà nhé?

-Ừ! Con cho mẹ nước trà, nhưng vừa thôi đừng đậm quá!

Uyên xuống bếp.

Bà Phan mở chiếc khăn ăn ra, thấm thấm ở môi:

-Cậu Thăng, tôi hỏi thế này khi không phải, xin cậu bỏ qua cho nhé! Tại sao cậu không sống trong gia đình bình thường như mọi người?

-A! Câu chuyện sắp khởi sự rồi đây. Tôi nghĩ vậy.

-Thưa bác, tôi không được rõ ý bác?

Bà Phan có vẻ không vừa ý. Bà giải thích.

-Tôi muốn nói bình thường như mọi người: Làm việc, nuôi vợ con, săn sóc nhà cửa. Bình thường như tất cà những người bình thường!

Thế nghĩa là cái gì? Tại làm sao lại có cái chuyện bình thường với bất thường như thế này?

-Thưa bác, tôi vẫn lo cho gia đình và con cái.

Tôi nhìn thẳng vào mặt bà Phan và tôi nghe tiếng bà cười. Giọng cười nhỏ nhẹ nhưng không thiếu phần mỉa mai.

-Cậu Thăng vẫn lo cho gia đình con cái đều đặn. Khá nhỉ?

Tôi thực sự ngạc nhiên về thái độ của bà Phan. Rõ ràng là bà đang đứng ở phía Lan. Bà không phê phán. Bà lên án. Bà tấn công tôi không phải bằng súng trường mà bằng đại bác. Nhưng không. Tôi không ngạc nhiên nữa. Tôi cáu. Tôi cáu thực. Bà nhân danh cái gì lên án tôi? Bà biết gì về những lục đục chính trong gia đình tôi dẫn tới tình trạng kia?

Ai đã cung cấp cho bà những tin tức sai lạc dường ấy? Còn nhớ một lần trong phòng họp giáo sư một bạn đồng nghiệp nói với tôi một điều gì tương tự như thế và tôi đã kể cho anh ta nghe một câu chuyện chiếc vớ bị thủng lỗ trong một đôi giầy cao cổ. Tôi hỏi anh ta nếu tôi mang chiếc vớ như thế thì anh có biết nó có lủng lỗ hay chỉ nhìn từ bên ngoài? Anh ta trả lời làm sao mà biết được. Tôi nói cũng có thể biết “nếu mình dám làm cái công việc dí mũi vào bên trong đôi giầy ấy, nhưng người lịch sự, có học và ghê gớm sự hôi thối không ai làm thế!” Tất nhiên sau đó anh ta chường mặt tôi, và lỡ khi phải đụng mặt nhau ở hành lang giữa tiếng chuông đổi lớp, chúng tôi vẫn không buồn chào nhau.

Nhưng với bà Phan tôi phải phản ứng làm sao đây? Hay là không cần phản ứng gì cả? Mà im lặng như vậy thì khác nào xác nhận lời nói của bà?

-Thưa bác, gia đình nào cũng có những điều riêng tư mà không phải ai đứng bên ngoài cũng đều có thể nhìn thấy được.

Bà Phan nhìn vào mắt tôi, giọng đã dịu dàng:

-Cậu Thăng. Xin lỗi đã có nhận xét về cậu. Tôi muốn nói chuyện với cậu như nói với một người thân trong gia đình. Một đứa em, một người con. Chắc cậu hiểu tôi chứ?

-Thưa bác, tôi hết sức cám ơn bác. Xin bác cứ nói những gì bác nghĩ và những gì bác đã được nghe người ta nói về tôi. Có những điều người ta thấy đúng nhưng nghĩ sai, và cũng có những sự việc tưởng là thế mà lại không phải thế!

-Người ta nói cuộc sống của cậu phóng túng quá!

Thế nào là một cuộc sống phóng túng? Lang bạt kỳ hồ? Phiêu lưu tình cảm? Bừa bãi trong mọi giao du liên hệ? Trai gái, cờ bạc, rượu chè, hút xách? Tôi không phải là tay đổ bác. Tôi cũng có đánh bạc đấy nhưng thường là chỉ chơi vào dịp Tết, và chỉ chơi trong giới hạn gia đình. Tôi không phải là bợm nhậu. Bạn tôi ở Chợ Ðũi gọi tôi là tên phá mồi. Bia chỉ làm chai thứ hai đã ríu mắt. Sao làm Hồng Thất Công được! Tôi không phải là ống khói nhà máy chuyên thở khói thuốc lá. Tôi càng không phải là tay chích choác. Còn nhớ lần theo Ðình, một trong những nhà văn có ảnh hưởng khá lớn trong giới sinh viên học sinh, đi thăm một tiệm “vàng đen” trên lầu một ngôi nhà ở góc đường Nancy và Trần Hưng Ðạo. Ðình nói với tôi mày thử một lần xem sao. Tuyệt lắm! Tôi thấy cái cảnh nằm la liệt trên những chiếc chiếu bẩn, uống chung cái cốc nước trà bằng sành nhỏ vàng vàng gớm ghiếc, tôi đã buồn mửa, làm sao ngậm cho được vào mồm cái tẩu đã chuyền qua hàng ngàn cái mồm bẩn kia! Tôi quyết liệt dứt khoát từ chối. Sau lần ấy, Ðình không bao giờ còn rủ tôi theo anh trong những chuyến đi loại đó nữa.

Cái còn lại của tôi, nếu gọi được nó phóng túng, có lẽ là đàn bà. Tôi lập gia đình năm hai mươi tuổi với một người bạn gái học cùng lớp. Thuở đó tôi quá mơ mộng và lý tưởng. Còn cô ta thực tế đến tận đất đen. Ðà Lạt là đất của những cặp tình nhân. Nếu ở đây một người con trai và một người con gái chưa quen nhau mà hơi gần hoặc hạp nhãn nhau thì trước sau tất sẽ quen nhau. Nếu quen nhau rồi trước sau sẽ yêu nhau. Nếu yêu nhau thì không thể tránh đi lại với nhau, gần gũi nhau.

Ðã gần gũi nhau mà đứa con trai có chút trách nhiệm thì không chóng thì chầy sẽ lấy nhau làm vợ chồng. Hôn nhân ở cuối đường của cô gái là cái gì mơ hồ nhưng tình dục rõ ràng là đã xâm chiếm lấn át hết mọi sinh hoạt của họ.

Chúng tôi lấy nhau vì thói quen như quen một món ăn, một thức uống. Nhưng tệ hại vẫn là tôi, người chưa bao giờ có được một quyết định sáng suốt trong cuộc sống.

Giữa mùa hè, sau khi đã tốt nghiệp, Lan hay tin tôi muốn bỏ ngành đã học và đăng lính Hải Quân, cô ta tức tốc bắt tài xế đang đêm phải lái xe từ Ðà Lạt vù xuống Nha Trang, gõ cửa nhà tôi – lúc đó tôi đang ở Sài Gòn – và khóc với mẹ tôi xin bà hãy cho cô làm dâu. Mẹ tôi không có ý kiến. Bà nói chuyện hôn nhân là của tôi, tôi phải tự định đoạt.

-Ðể sau nó không trách được tôi nếu nó không được hạnh phúc.

Ðó cũng là năm mà tôi có Bích, một bạn gái quen nhau từ nhiều năm, khi tôi còn học trung học. Bích yêu tôi. Mẹ cô làm chủ một nhà Hộ Sanh khá lớn, anh em Bích đều là những người thông minh, học hành giỏi giang và tất cả đều thành đạt.

Tuy vậy Bích là một thiếu nữ lãng mạn quá, mơ mộng quá. Tôi sợ một thiếu nữ lãng mạn. Yêu một cô gái mơ mộng thì được, nhưng cưới thì không! Lan trở lại Sài Gòn gặp tôi. Cô nói:

-Em yêu anh, em muốn sống chung với anh. Em muốn có con với anh. Em biết chỉ có anh là người duy nhất có thể tha thứ cho em về sự lầm lỡ của đời em.

-Tên lưu manh ấy, cô ta tiếp,

-Hiện làm consul tại San Francisco. Hắn phá hoại đời em. Hắn không chịu cưới em. Và nếu hắn có muốn cưới em, em cũng không thể nào lấy hắn. Em yêu anh. Thăng ơi, hãy cưới em hoặc để em chết?

Tôi hiểu được do đâu có lời kêu than đó. Tôi là một tên quân tử Tàu loại hạng bét. Xúc động vì những giọt nước mắt, tôi cúi xuống vớt cô ta từ đống bùn đen lên, xóa giùm cô cái vết ô nhục mà gia đình cô ta không muốn nghe ai nhắc đến.

Ðêm tân hôn cô ta nói:

-Cám ơn anh! Bây giờ em là vợ anh, nhưng em thấy mình vẫn có bổn phận biết ơn anh cho đến khi chết.

Tuy vậy cô ta có một trí nhớ kém khi có lần cô nói người ta có thể lấy một người “hư hỏng” làm vợ chớ không ai lấy một người vợ về làm một mụ đàn bà “hư hỏng.” Cô nói thiếu: không ai lấy một cô gái “hư hỏng” về để nhìn cô tiếp tục làm người đàn bà hư hỏng.

Với một người đàn bà loại ấy trong nhà thì người đàn ông sẽ phải làm gì nhỉ? Chắc là hắn không thể ở trong nhà được!

Hắn cần có công việc để vùi đầu vào quên lãng. Hắn có cần tình yêu không, nếu tình yêu ấy đến với hắn? Hắn phóng túng quá không?

Có lẽ thấy tôi làm thinh hơi lâu, bà Phan tiếp:

-Người ta nói cậu bỏ bê con cái. Có khi nào cậu về thăm con không?

-Thưa bác, chiều nào tôi cũng đón mấy cháu ở trường.

-Thật sao? Bà Phan hỏi, giọng ngạc nhiên.

-Có. Cái đó con có thể làm chứng!

Uyên vừa đặt ly cà phê trước mặt tôi vừa mỉm cười quả quyết.

Bà Phan gạt ngang:

-Con thì biết cái gì cơ chứ!

Uyên trở lại chỗ ngồi cũ. Cô xem lại cái phin cà phê của tôi đã xuống hết chưa. Cô cho đường vào cốc và khuấy. Cô đổ trà ra cốc cho mẹ. Nước trà còn loãng, cô lại đổ vào bình.

-Mấy lần con đến trường của mấy cháu, con thấy anh Thăng rất đúng giờ!

-Uyên! Bà Phan la con.

-Me muốn con để yên cho me nói chuyện với anh Thăng.

-Thưa me, vâng! Uyên tuân lời mẹ, không vui.

-Người ta cũng nói cậu có liên hệ với một cô làm ở hãng hàng không CAL? Tin đồn đó có đúng không?

-Thưa bác, điều này đúng! Cô ấy tên là Quỳnh và là một cô gái can đảm!

Tôi thấy Uyên nhìn tôi. Cả bà Phan nữa. Chắc bà không chờ đợi nơi tôi một câu trả lời như thế. Tôi múc một muỗng đường cho vào cà phê và khuấy. Tôi chuyển cà phê sang một ly đá lạnh. Tôi quên là Uyên đã cho đường vừa đủ.

-Cậu nghĩ gì về những lời đồn đại đó! Bà Phan có vẻ như muốn kết thúc câu chuyện.

-Thưa bác, như bác thấy đó, cũng có đôi phần đúng và nhiều phần sai.

-Tóm lại, trong sự đổ đổ vỡ này lỗi về phần ai?

-Me!

Tôi nghe tiếng Uyên thốt lên bất ngờ. Chiếc muỗng cà phê trên tay cô rơi xuống nền gạch gây nên một tiếng động chát chúa.

Cô xô ghế chạy ào vào phòng riêng và đóng sầm cửa lại.

Mặt nước màu nâu đậm sóng sánh trong ly. Câu chuyện về tôi để làm loãng sự quánh đặc của cốc cà phê thân ái.

“Xin lỗi cậu Thăng nhé!”

Bà Phan đứng dậy, xếp lại cái khăn bàn ăn cho ngay ngắn, rồi chậm rãi đi lại trước cửa phòng Uyên, gõ nhẹ mấy tiếng lên mặt gỗ và áp má vào đó.

Tôi thấy mình trơ trẽn, thừa thãi. Tôi cho tay vào túi tìm gói thuốc và chạm một bao thơ. Tôi nhớ ra rồi. Ðó là thư mời ra mắt sách của một nhà văn nữ. Chắc chắn là sẽ không thiếu mặt nào trong đám bạn bè tôi.

Tôi châm một điếu thuốc. Khói làm tôi ho sặc sụa, nhưng tôi biết cái thư mời ra mắt sách này đã cứu tôi ra khỏi cơn tắt nghẽn.

Chương 7

Căn nhà nhỏ nằm trên một quãng đường hẹp, sỏi đá lỡm chổm và bụi mù tung mờ mịt dưới bánh xe. Cổng là một khung gỗ có ràng kẽm gai bên ngoài, nhưng bên trong là một miếng tôn dùng che tầm mắt của người đi đường để họ không thể thấy được phòng khách. Rất tạm bợ. Sân tráng xi măng xù xì vì trộn quá nhiều cát. Giữa sân là một cây khế cành lá xum xuê. Cửa chính hẹp, nhưng phỏng khách tương đối rộng.

Chủ nhân là một nhà văn nữ. Truyện chị hiện đang được nhiều nhật báo giành nhau đi hằng ngày. Chị viết dễ dãi, lôi cuốn, nhiều tình tiết. Nhân vật chị yêu nhau dữ dội và nguyền rủa nhau không tiếc lời. Họ gần gũi với đời sống nhưng đó là một đời sống đã được cường điệu: một linh mục, một tín đồ, một cô giáo, một nam sinh, một mối tình tay ba, một tình yêu không lối thoát… Nói chung truyện chị rất ít tình ái và rất nhiều tình dục. Lãng mạn có phần lép vế trước xác thịt. Ghen tuông dằn vặt lấn át cả hòa thuận yên vui. Một vài nhân vật tự tử vì không lấy được nhau. Một vài nhân vật lấy được nhau nhưng bắt đầu chán nản và cả hai cùng ngoại tình…

Truyện chị đăng trên báo thì nhiều, nhưng hôm nay mới là ngày ra mắt cuốn sách đầu tay của chị.

Khách đến đã khá đông. Phần lớn tôi đều quen mặt biết tên. Phùng, vẫn đôi kính cận màu nâu nhạt, gọng to, vẫn giọng nói gấp gáp đuổi nhau từ tiếng này sang tiếng khác. Anh dạy học ở một tỉnh cách xa Sài gòn chừng vài mươi cây số, nhưng mới đây, Phùng nói, anh vừa nhận được sự vụ lệnh thuyên chuyển về làm phụ khảo môn Triết Tây tại đại học Văn Khoa.

Nhật, sĩ quan chiến tranh chính trị, phóng viên chiến trường. Anh là người gây sôi nổi và được chú ý nhất trong năm qua với cuốn sách viết về trận chiến mùa hè ở Quảng Trị. Cái chết của người dân và người lính trải dài trên Ðại Lộ Kinh Hoàng gây cho người đọc một ấn tượng khủng khiếp khó quên. Nhật là một trong số những nhà báo xông xáo nhất, có mặt trên hầu hết những điểm nóng của chiến trường.

Tâm, khuôn mặt sạm đen, gầy như một Khô Khốc Thiền Sư, thở thuốc lá đen như ống khói nhà máy, uống rượu như hũ chìm, và là một trong những tay đổ bác thuộc loại “Paul Húc”. Anh cũng là một trong số ít nhà phê bình văn học có cái nhìn mới mẻ và sâu sắc về các tác phẩm văn chương hiện đại. Trong giao tế anh là người khó khăn, nhưng trong tình bạn anh là người cực kỳ chung thủy.

Gầy và mỏng hơn cả là Tâm là Ðình. Anh có mái tóc dài chải lật ngược về phía sau. Cặp kính cận đôi lúc hơi trụt xuống sống mũi, tuy vậy vẫn không che hết được nỗi hắt hiu của một đôi mắt lúc nào cũng như chực chờ để vĩnh viễn khép lại. Ðình là một trong những cây bút thời danh của Sàigòn kéo dài từ những năm sáu mươi đến nay. Văn chương anh mềm mại, chữ nghĩa anh xanh xao. Truyện anh là một tiếng thở dài buồn bã hắt ra từ niềm tuyệt vọng của một kiếp nhân sinh. Giọng nói Ðình phải chăng vì thế chan chứa sự quyến rũ của một cái gì sắp tan đi như mây khói. Trên đài phát thanh, chương trình nhạc chủ đề do Ðình viết, đọc, và giới thiệu thu hút một tầng lớp thanh niên có học, và phải nói là gây một ảnh hưởng khá lớn đối với giới trẻ. Tôi yêu cái tài hoa điệu nghệ của anh, nhưng thật tình mà nói, tôi sợ giống anh, ít ra là hai điều: bệnh tật trầm kha đang ngự trị trên một thân thể vốn quá gầy yếu của anh, và ngôn ngữ anh chứa đầy độc tố…

Nguyễn Giang, một khuôn mặt lớn trong đời sống âm nhạc của đám đông với mái tóc dài hơi xoắn, chiếc kính cận gọng nhỏ, nụ cười nửa miệng. Anh là cha đẻ của những ca khúc mà mỗi lời hát như một lời thơ.

Ngôn ngữ âm nhạc anh là bản lề giữa một bên là tiếng nói hằng ngày và một bên là suy tư triết học. Âm nhạc ấy được trình bày bởi một giọng hát lôi cuốn trẻ trung và đìu hiu: Mai Khanh. Tiếng hát của chị vang lên từ một trái tim hấp hối. Trong buồng ngực của chị như có ngọn lửa tàn bạo thổi nóng từng tiếng ngân, thắp sáng và mở rộng không gian của người thưởng ngoạn. Tôi nghĩ người ta đã nói không quá đáng rằng âm nhạc của Giang sở dĩ chinh phục được tim óc người nghe là nhờ tiếng ca ma túy của Mai Khanh và ngược lại giọng hát của Mai Khanh có được một chỗ đứng hàng đầu như cô hiện nay chính là vì tiếng hát ấy đã tựa được vào âm nhạc Nguyễn Giang.

Góc nhà chỗ đầu hồi, ngó ra cửa sổ, nơi lá của những cành khế thấp xuống, là một dương cầm. Con gái nữ chủ nhân đang chơi một khúc cổ điển quen thuộc của Beethoven.

Ghế ngồi của khách đặt sát vách tường. Giữa phòng là hai chiếc bàn kê gần nhau. Một bàn xếp những cuốn sách mới vừa in xong còn thơm mùi mực của nhà văn nữ. Bàn còn lại là thức ăn nhẹ và nước uống. Giữa là một bình hoa lớn. Những bông hồng nhung đỏ và vành tươi chen quanh những lá măng nhỏ cọng.

Người đến trễ giữa lúc mọi người đang ăn và sắp sang mục tặng sách là Tuấn-phở, Tuấn-luật sư. Hôm nay hắn ăn mặc khá đỏm dáng. Quần áo như đi dự dạ hội, râu mép, tóc dài, cổ choàng foulard đỏ màu huyết dụ. Vừa bước vào nhìn thấy tôi, Tuấn đã kêu to:

-A, Thăng! Vụ mày tới đâu rồi?

Tôi nhìn hắn cười, hỏi nghịch:

-Vụ gì?

-Còn vụ gì nữa! Có Bản Ðại Tự chưa?

Tôi vẫn muốn chọc hắn:

-Sao ông không nói toẹt ra là vụ ly dị cho nhẹ cái lỗ nhĩ có hơn không!

-Ừ! Thì cứ gọi là vậy đi! Thế nào?

Tuấn vẫn tỉnh bơ.

-Thế mà tôi định hỏi thăm ông đó. Ông ở tòa án chắc ông phải rõ hơn tôi chớ!

-Khỉ! Tao đâu có phụ trách hồ sơ mày! Ði mà hỏi luật sư của mày chứ!

Tuấn nói hơi to tiếng khiến mọi người gần như quay mặt hết về phía hắn. Hắn vẫn không để ý, vẫn ồm ồm cười nói lớn giọng. Liền đó, hắn xăm xăm tới bàn, rút một cành hồng vàng rồi đi thẳng tới nữ chủ nhân. Nhà văn nữ của những truyện tình thời thượng đang nói chuyện với nhà xuất bản, một thanh niên trẻ và làm giàu sớm, thấy Tuấn đến vội ngừng câu chuyện.

-Xin tặng người phụ nữ văn chương đẹp nhất Việt Nam một bông hồng vàng của David Lean!

-Tại sao David Lean! Chị hỏi.

-Vì David Lean là đạo diễn phim Doctor Jivago.

-Thế có liên hệ gì đến tôi cơ chứ?

-Có chứ!

-Ông chỉ được cái vớ vẩn!

-Vớ vẫn thế nào được. Thế bà chưa xem phim này à?

-Ðã. Nhưng sao cơ?

-Ðó là đoạn chàng Jivago bỏ nàng Tonia đang có bầu đứng giữa một vườn hoa vàng ở Varenkino để lên đường đi thăm người tình Lara của mình.

-Khiếp cái nhà ông luật sư này! Nữ chủ nhân hiểu ra và la lên.

Tôi bưng ly rượu đến gần chỗ Nhật. Anh là người nói nhiều nhưng hôm nay nhìn anh trầm ngâm trước ly whisky làm tôi ngạc nhiên:

-Bao giờ lại đi? Tôi hỏi.

-Cũng sắp!

-Nhà cửa hồi này ra sao?

-Khủng khiếp!

-Cái gì? Sao lại khủng khiếp? Tôi ngạc nhiên.

-Con vợ tao mày biết rồi chứ gì? Nó-hiền- như con cọp cái!

Nhật sôi nổi.

-Tại sao?

-Mày coi đây này!

Nhật vừa nói vừa cởi chiếc giày trận. Ngón chân út của anh đã mất, tuy vết thương đã lành nhưng lớp da chỗ đó vẫn còn đỏ hỏn.

-Tao chả hiểu khỉ khô gì hết! Tôi vừa nói vừa nhìn vào mắt Nhật.

Anh kể lại câu chuyện. Cách đây hai tháng về thăm vợ ở Biên Hòa là nguyên nhân về cái bàn chân bị mất ngón út của anh. Vợ Nhật là con gái rượu của viên đại tá công binh. Chị tên Lê, xinh đẹp và thông minh.

Ở tỉnh lẻ, Lê nổi bật như một thiếu nữ tân tiến. Chị đọc sách nhiều, đầu óc cởi mở. Tuy mới lớn, chị đã dám vượt khỏi khuôn khổ của lề thói mà con người sống trong tỉnh nhỏ thường vẫn tự trói buộc. Tôi không hiểu từ miền Trung xa xôi, Nhật đã gặp, quen và cưới Lê trong trường hợp nào, nhưng tôi biết nếu cuộc hôn nhân ấy thành cũng là điều dễ hiểu. Tuy vậy thỉnh thoảng gặp Nhật, tôi vẫn nghe anh thở than về cuộc sống của gia đình anh.

Là một sĩ quan Dù, Nhật chiến đấu giỏi, gan dạ và mưu trí. Những bài báo viết từ chiến trường của anh có tiếng vang lớn.

Chính những bài báo đó đưa anh từ Dù sang Chiến Tranh Chính Trị và làm phóng viên chiến trường. Cuộc sống nay đây mai đó của Nhật làm Lê khó chịu. Nhiều khi cả tháng anh lê la mấy quán nước ở Sài Gòn, lăn lóc chè chén với đám bạn bè. Tới hôm về thăm vợ chợt nhớ ra sinh nhật của Lê đã qua cách đây hai hôm. Nghe lời tôi, Nhật mua về một bó hoa hồng xin lỗi vợ, nhưng Lê một mực lặng thinh. Chị nhất định làm con ốc biển mặc cho sóng vỗ ào ạt lên bờ cát.

Tối hôm đó, khi Nhật bắt đầu “chiến tranh lạnh” trở lại, Lê lên tiếng. Ðến nửa đêm, khi thấy mình cứ lải nhải mà chồng thì cứ ngáy khò từ đời nào, Lê đập Nhật dậy bật đèn sáng cả nhà, liệng xuống sàn nhà tất cả ly chén cốc dĩa nào trong tầm tay, xong cầm cái dao lính của Nhật vẫn thường giắt lưng, đặt ngón tay trỏ của bàn tay trái mình lên bàn chặt phựt một cái.

-Mày biết không? Nhật tiếp,

-Tao điên lên vì tức, vì buồn ngủ, vì lo sợ. Nó muốn qua mặt mình, muốn dằn mặt mình. Tao nghĩ vậy, bèn giật con dao còn dính máu, đặt bàn chân này lên chỗ bàn ngủ, cứa mẹ cái ngón chân út này. Thế là huề.

-Còn mày? Nhật hỏi tôi.

-Ối! Tao còn tệ hơn mày nhiều!

-Tới đâu?

-Mày không nghe Tuấn-luật sư nói sao?

-Thì cũng mơ mơ màng màng vậy thôi. Nhưng sao có thằng nói mày sắp làm phò mã ông Phan?

Nhật làm tôi giật mình. Sao lại có cái cớ sự này?

-Ai nói? Tôi hỏi gặng.

-Thì tụi nó nói. Ðại khái là vậy. Thế nhưng còn em bé gì làm ở China Air Lines thì sao?

-Có sao đâu! Tôi chống chế.

Phùng mang một dĩa thức ăn đến chỗ tôi và Nhật.

-Ê, Thăng. Tình hình hồi này ra sao?

-Tình hình gì?

-Thì còn tình hình gì nữa? Tao muốn nói tình hình chính trị ở đây?

-Chính trị? Sao mày không hỏi thằng Nhật hoặc ông Ðình mà hỏi tao?

-Tin sốt dẻo bây giờ chỉ có mày là nhất. Tao sợ thằng Nhật hay ông Ðình rồi cũng phải đến hỏi mày mà thôi!

Phùng làm tôi tức cười. Bạn bè biết tôi là thằng không ưa chính trị. Trong đám đông có ai nói chiến tranh hay chính trị thì tôi luôn luôn là kẻ ngồi im câm miệng hến. Tại sao? Tôi cũng không rõ nữa. Có lẽ tôi là tên dốt chính trị. Ðằng nào tôi cũng là tên lơ tơ mơ về mặt này. Còn nhớ có lần Trọng, một bạn đồng nghiệp hỏi tôi rằng đâu là mối tương quan giữa chính trị và văn chương. Tôi trả lời hắn thẳng thừng văn chương và chính trị chẳng có ăn nhậu gì với nhau hết. Trọng, tất nhiên là không hài lòng về câu hỏi đó. Hắn chờ một câu ngược lại. Tuy vậy mặt hắn cứ lạnh như tiền. Thật ra, trước đó, hồi cùng thụ huấn chung tại quân trường Quang Trung, khi tôi được cử làm tờ báo cho Liên Ðoàn Khóa Sinh Dự Bị Sĩ Quan, Trọng có viết cho tờ đặc san một bài xã luận về cuộc chiến Việt Nam. Suốt bài, hắn lên án quân đội Mỹ và đồng minh là kẻ xâm lược, giọng điệu sặc mùi tả phái bởi vì bài báo ấy chỉ nhìn từ một phía nên không thể đi được. Hắn lạnh lùng nhìn tôi và nói:

-Rồi mày sẽ hối hận.

Tôi không hiểu ý nghĩa của lời hắn nói. Khi được biệt phái trở về nhiệm sở cũ, và cũng như Phùng, hắn được chuyển về làm phụ khảo cho môn Triết Tây tại đại học Văn Khoa Sàigòn, hắn viết và cho xuất bản một tập tiểu luận dưới nhan đề: “Cái chết của một nhạc sĩ.” Bài viết của hắn lập tức được đài Hà Nội đọc lại và gây một phản ứng dữ dội từ nhiều phía.

Thật ra, khi viết tập tiểu luận này, Trọng hoàn toàn đứng trên quan điểm duy vật biện chứng có cải đổi nhẹ đi một chút. Dù sao vẫn là lấy chính trị đè bẹp văn chương.

Tôi nói với hắn rằng nhìn ngắm một tác phẩm văn học nghệ thuật tiên quyết là nhìn ngắm bằng con mắt thẩm mỹ học trước khi nhìn ngắm dưới khía cạnh chính trị, kinh tế, xã hội hay đạo đức. Một cái nhìn văn chương có tính cách gượng ép và đàn áp như vậy là một cái nhìn cận thị trí thức, khiến cho người có đôi mắt ấy trở nên một quái nhân với “chiếc đầu” to nhưng “trái tim” teo.

Tất nhiên không ai chịu nổi một bài thơ ca ngợi trăng sao và tình ái đăng trên một tạp chí xuất bản tại thành phố vừa mới qua một trận thiên tai kéo theo cái chết của hàng chục ngàn con người và hàng ngàn gia đình không chốn nương thân. Cái thứ thơ thẩn ấy cũng nên đem chôn sống đi là vừa. Thế nhưng, tôi cũng không ưa những kẻ bạ đâu cũng bô bô cái miệng lập trường quan điểm. Những kẻ chuyên gán ghép để buộc tội kẻ khác, lên án kẻ này, người nọ, thường là những kẻ đang có trong cơ thể hắn đúng thứ bệnh tật đó, nếu không muốn nói hắn là kẻ yếu đuối và thiếu bản lĩnh. Cái điệu bộ trịnh trọng của bọn này làm tôi chết cười.

Phùng, hơn ai hết, biết rõ điều này nơi tôi. Tôi không hiểu tại sao bạn ta lại đặt cho ta một câu hỏi quái đản như thế? Tôi hỏi lại Phùng:

-Tại sao? Tao tưởng dạo này mày bắt đầu quan tâm tới đời sống chính trị rồi chớ?

Phùng vất mẩu thuốc hút dở xuống bàn – hắn luôn luôn làm như vậy dù trước mặt hắn có cái gạt tàn, bởi vì theo hắn cả cái xã hội này đã là cái gạt tàn lớn thì điếu thuốc hay tro thuốc bỏ đâu mà chẳng được.

-Nghe nói mày vẫn đều đặn trình diện ông Phan mà!

-Ðừng có móc bạn! Từ thì tao có gặp ông Phan. Nhưng đã sao?

-Ðó! Vấn đề là ở chỗ đó! Ông Phan không phải đang là người tạo thời cuộc sao? Không phải ông Phan đang chuẩn bị để làm người số một hay sao? Cái quyền lực trong tay ông Phan hiện chưa tới nhưng chẳng phải là một quyền lực “diều gặp gió” hay sao?

Nghĩ là tôi giận vì thấy tôi vẫn làm thinh, Phùng đùa:

-Chứng chỉ Triết Tây của cô Uyên do ông Phùng phụ trách, còn chứng chỉ Tình Yêu do ông Thăng đảm nhiệm nhé!

Nói xong, Phùng xô ghế đứng dậy, sửa lại gọng kính nâu tụt trên sống mũi, kẹp cuốn sách vào nách.

-Ðùa chơi tí, đừng cáu nghe bạn!

-Sư mày! Ðồ triết gia điên khùng!

-Thôi, để tao đến chào chủ nhân cái rồi dọt!

Phùng đi, nhưng Nhật vẫn không buông tôi:

-Tưởng mày cũng biết tí ti chứ!

-Biết gì? Tôi giả mù sa mưa.

-Thì tình hình chính trị chớ còn gì?

-Thế mày tưởng thằng Phùng nó nói thật hả?

Nhật cười cợt:

-Ðừng quên anh em nghe Thăng!

-Cái gì? Tôi hỏi lại và bật cười.

Bạn tôi thực sự là những tên đùa dai. Những lời chòng ghẹo của chúng làm tôi nhớ lại hôm gặp ông bà Phan. Ðó lần duy nhất tôi gặp ông Phan. Ông quá bận rộn đến nỗi câu chuyện mà ông hứa sẽ nói với tôi vẫn còn nguyên trong bóng tối. Tôi cũng không quên những câu hỏi của bà Phan trong bữa cơm. Bà tấn công tôi với mục đích gì? Tại sao Uyên bật lên tiếng kêu ở cuối bữa cơm? Có phải nàng muốn ngăn chận những câu hỏi kế tiếp của bà Phan? Và tôi làm sao quên được lần hôn Uyên. Ðôi môi nàng nóng bỏng nhưng còn do dự ngập ngừng và mái tóc dài của nàng che phủ mặt mũi tôi tỏa xuống một mùi hương kỳ diệu của một thân thể trẻ trung tràn trề nhựa sống.

Nhật chưa kịp trả lời câu hỏi của tôi, thì Ðình, Tâm đã cùng nữ chủ nhân kéo đến.

Nhà văn nữ chìa ly rượu trên tay cho tôi:

-Xin lỗi anh Nhật nhé! Tôi muốn mời anh Thăng thử chút Ngũ Gia Bì này!

-Bà ơi! Bà mời rượu thằng này chẳng khác nào mời thằng Tây húp nước mắm!

-Vậy là anh Thăng không biết uống rượu?

-Ðúng! Bà đưa cho tôi. Tôi mới là connoisseur chính cống! Nhật cầm lấy ly rượu.

-Anh Thăng không có ý kiến? Nữ chủ nhân hỏi.

-Ðừng hỏi ý kiến của một người không bao giờ có ý kiến! Ðình chận lời.

-Cám ơn! Tôi giật ly rượu trên tay Nhật và hớp một ngụm. Chất cay muốn xé cổ. Tôi chuyền ly cho Nhật. Anh ngửa cổ nốc cạn.

-Ngon tuyệt! Nhật chùi mép khen.

Nhà văn nữ hỏi tôi:

-Thế còn anh Thăng? Anh thấy thế nào?

-Cay! Với tôi, rượu không có mùi vị nào khác ngoài vị cay! Rất đắng cay!

-Nó đang đau khổ vì tình, nên rượu vào chỉ có đắng cay! Tâm thêm.

-Tôi có nghe chuyện tình của anh Thăng. Có lẽ tôi sẽ viết một truyện về anh, anh Thăng ạ! Nhà văn nữ hơi phô trương.

-Cám ơn lòng tốt bà chị. Tài năng như bà chị mà viết truyện tình của tôi thì phí phạm quá!

-Ðừng mỉa mai tôi, ông bạn! Rồi có lúc ông sẽ đọc truyện về ông trên những dòng chữ của tôi! Nữ chủ nhân không phải tay vừa.

-Chào!

Tôi ngồi lại một mình với Nhật. Tôi không biết làm gì. Mọi người chia ra từng nhóm nhỏ. Tuấn-luật sư vẫn là người to tiếng nhất. Tôi hỏi Nhật khi thấy anh thừ người trên ghế như đang lo nghĩ điều gì.

-Ông Phan là người như thế nào?

Nhật nhìn thẳng vào mắt tôi nghi ngờ. Có lẽ anh nghĩ là tôi hỏi đố anh. Tuy vậy sau cùng Nhật vẫn lên tiếng nói về ông Phan theo cách hiểu biết của anh. Theo Nhật, ông Phan là một tay hiếm hoi trong những người làm chính trị chuyên nghiệp.

-Một tay thủ đoạn, một kẻ tà đạo trong chính trường.

Nhật nói như vậy. Ông Phan tốt nghiệp khóa sĩ quan trường võ bị Dar-el-Beida năm mới hai mươi mốt tuổi, tham gia nhiều trận đánh trong quân đội Pháp. Khi Ðệ Nhị Thế Chiến chấm dứt, ông mang cấp bậc trung tá. Người ta nói trong đoàn quân trở về tiếp thu Paris, ông Phan có mặt trong đội danh dự. Nhờ vết thương trong trận Normandie, ông Phan xin giải ngũ, xuống Toulouse mở một tiệm ăn Việt Nam.

Năm 1954, khi Pháp thua trận Ðiện Biên Phủ và Hà Nội rơi vào tay cộng sản, ông Phan sang lại tiệm ăn ở Toulouse cho một người đồng hương, trở lại Sài Gòn. Người ta thấy ông Phan có mặt trong những buổi tiếp tân quan trọng. Vai trò của người Pháp sắp hết trên bán đảo Ðông Dương, ông Phan là người biết rõ điều ấy, nhưng ông vẫn đi lại với Tướng Michel Nguyễn “có vợ đầm, quốc tịch Pháp và là con trai của Ðốc Phủ Sứ Maurice Nguyễn” trong chức vụ tổng Tham mưu trưởng quân đội. Ông Phan cũng liên hệ đến nhân vật Sáu Cận, người cầm đầu Bình Xuyên và tin tức báo chí còn cho thấy ông Phan dành nhiều buổi nói chuyện với Ðức Hộ Pháp… Sau cùng khi những khuôn mặt này không còn chỗ đứng trong chính trường miền Nam, người ta thấy ông Phan lui tới với ông Cương “em trai của vị tổng thống đầu tiên ở Việt Nam” và uống rượu với Ðại Sứ Hoa Kỳ Amberley. Người ta đồn lúc này bà An Hạ, vợ của ông Cương, là tình nhân của Tướng Trần, nhưng nguồn tin thân cận thì nói rằng ông Phan mới là người tình thực sự của người đàn bà lừng lẫy này. Khi bà An Hạ đi Pháp tẩy độc dư luận sau vụ tự thiêu của một hòa thượng, người ta thấy ông Phan có mặt bên cạnh bà đệ nhất phu nhân ở sân bay Tân Sơn Nhất.

Sau đó ông biến mất một thời gian. Người ta nói tổng thống Hoa Kỳ đón ông sang Mỹ ngay khi cử ông Fullerton, nhà ngoại giao và cũng là tay bỉnh bút cừ khôi của tờ Le Monde Diplomatique Pháp đến Việt Nam làm đại sứ.

Sự có mặt của ông Fullerton kéo theo sau đó sự sụp đổ của anh em ông Cương… ông Phan là người luôn luôn chứng tỏ mình là một nhà lãnh đạo nhà nghề. Ông không ngừng học hỏi nghệ thuật lãnh đạo và chủ nghĩa quyền thuật trong các tác phẩm lớn của nhân loại, điều mà trước kia do khả năng văn hóa kém đã không cho phép ông thực hiện được. Ông đã tự học – ngoài tiếng Pháp và tiếng mẹ đẻ – Anh, Tây Ban Nha và Hoa ngữ. Ông nói khá thành thạo tất cả những ngôn ngữ này. Châm ngôn của ông là -Si vis non vobis,- nghĩa là -ở với họ nhưng không theo họ.- Với một bề ngoài xuề xòa, ông Phan là người đòi hỏi kẻ khác nhiều đức tính mà không phải ai cũng có thể có. Ít ai đoán được ông Phan sẽ làm gì sau cái bắt tay thân mật và nồng nhiệt của ông. Ông luôn luôn rào đắp quanh ông những cạm bẫy. Ông muốn làm sụp ai kẻ ấy trước sau sẽ sụp. Ðiều đặc biệt cái bẫy của ông Phan là một khi đã sụp thì khó mà ngóc dậy được…

Nhật nói về ông Phan như nói về một nhân vật tiểu thuyết của anh. Sự mô tả của Nhật làm cho hình ảnh ông Phan trong tôi mỗi lúc một rõ nét hơn.

-Nhưng ông ấy có phải là một người giỏi không?

Nhật cười:

-Thế nào là một người giỏi?

-Ông Phan có phải là một chính trị gia giỏi không?

-Chính trị đòi hỏi thủ đoạn, liều lĩnh và máu lạnh. Ông Phan có đủ những thứ ấy!

Tôi ngó chăm vào mặt Nhật:

-Mày không ưa ông Phan?

Nhật cười giòn:

-Tại sao mày bắt tao ưa hay không ưa một người chẳng có liên hệ đến tao? Mày nên dành câu hỏi ấy cho chính mày mới phải!

Ừ, mà tôi yêu hay ghét ông Phan vậy? Có lúc tôi thấy tôi ghét ông, ghét cái khuôn mặt mập tròn của ông, ghét những ngón tay ú nhão rịn mồ hôi trong tay tôi, ghét cái hung bạo người ta nói về ông… Nhưng cũng có lúc tôi thích ông… Sự cố gắng cực kỳ khó khăn của ông để làm thành một con người khác. Một tình cảm vô thức nào đó trong tôi nói với tôi rằng ông là mẫu người mà tôi tìm kiếm, khát khao được gặp và đã tìm thấy. Dù sao tôi muốn chấm dứt câu chuyện về ông Phan.

-Thôi không phải nói chuyện ông Phan nữa!

Nhật cười:

-Bây giờ làm báo mà không nói về ông Phan thì coi như không biết làm báo!

Tôi đứng dậy, trả ly rượu trên bàn, đột nhiên nhận ra suốt buổi chiều hôm nay mình đã không đốt một điếu thuốc nào. Tôi hỏi Nhật:

-Mày còn thuốc?

Nhật đang vò bao thuốc không trên tay giơ lên cao cười cười.

-Thiệt là vô duyên. Tôi nói:

-Thôi về đây!

-Chưa về được đâu! Nữ chủ nhân chận tôi:

-Phải nghe anh Giang hát một ca khúc mới nhất của anh ấy đã! Cái ông Thăng này!

-Ngồi xuống đây đi ông nội! Nhật đè vai tôi xuống.

Người ta đã mang cây tây ban cầm ra cho Giang. Tôi thấy anh sửa lại gọng kính đang bị tụt xuống sống mũi. Anh so dây, đầu cúi thấp, nhưng mặt hơi nghểnh lên, tai trái nghiêng xuống thùng đàn lắng nghe âm thanh phát ra từ những sợi dây đồng.

Cả phòng bỗng im lặng.

Âm nhạc anh làm tôi nhớ Quỳnh, vô cùng nhớ Quỳnh…

Nhưng những gì Nhật vừa nói về ông Phan làm tôi lo nghĩ hơn. Nỗi ám ảnh về con người ấy to lớn đến nỗi tôi thấy mình như đang bị bạn bè cô lập. Có thật là ông Phan muốn gặp tôi? Có thật là giữa ông ta và tôi có một mối liên hệ nào đó và ông đang rất muốn gặp tôi? Sự thật tôi muốn gì nơi ông?

Chương 8

Rốt cuộc ông Phan và tôi cũng gặp nhau. Ðó là buổi sáng của một mùa Hè được kéo dài do cơn lốc thời sự gây nên. Suốt đêm qua tôi khó ngủ, nhưng không hiểu sao tôi lại dậy được sớm hơn thường lệ.

Ngồi quán, tôi gọi cà phê, chờ đám bạn mà tôi biết thế nào chúng cũng sẽ đến. Bọn chúng tôi không có thói quen thăm nhau ở nhà. Sáng cà phê Cái Chùa, chiều bia Chợ Ðũi, đêm nghêu sò ốc hến La Cai& Ðó là những nơi chúng tôi có thể tìm gặp nhau mà không cần hẹn.

Mỗi đứa trong bọn có cuộc sống riêng và nỗi khổ riêng. Cái chung của cả bọn ấy là chúng tôi đều cảm nhận được sự lạc long của mình trước cuộc sống. Tuổi trẻ chúng tôi lớn lên tù túng trong những khu phố chật chội. Tầm mắt chúng tôi không vượt quá cái cao ốc mười tầng của nhà hàng Caravelle. Những đứa may mắn được đi du học, nhìn bạn bè ở lại như người ngư phủ nhìn những con cá mắc cạn. Một vài đứa vào quân đội tưởng đã thoát ra khỏi được chiếc lồng nhỏ bé là những con đường mát bóng cây dẫn đến một giảng đường đại học nào đó, để lao vào cuộc chiến tranh không thương xót mà kẻ thù chủ nghĩa ẩn hiện như một bóng ma, -vẫn không làm sao quên được màu nắng vàng rớt trên con lộ một khu phố quen. Có đứa đi biệt không về, không bao giờ về nữa. Có đứa may mắn hơn trở lại chỗ ngồi cũ thì đã tật nguyền cả thân xác lẫn tâm hồn. Và nhà cửa, cơm áo vợ con cũng đủ làm cho chúng tối tăm mặt mũi. Tình yêu đến hay đi, đối với chúng tôi như một cái phao hơn là một lẽ sống. Một lần gặp nhau ở Chợ Ðũi, bên những chai bia, khi cả bọn đã ngà ngà say, Ký nói ông Vũ Hoàng Chương thế mà hay, ông ấy không chỉ nói giùm cho những người cùng thời đại ông mà còn nói giùm cho cả thế hệ bọn mình nữa. Và anh buồn bã đọc những câu thơ mà cả bọn gần như thuộc lòng. Tuy vậy, mỗi lần Ký đọc là mỗi lần anh đem đến cho chúng tôi một xúc cảm mới:

Lũ chúng ta lạc loài năm bảy đứa

Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh

Bể vô tận sá gì phương hướng nữa

Thuyền ơi thuyền theo gió hãy lênh đênh

Sáng nay, nhìn quanh quẩn trong quán không thấy người khách nào khác ngoài mình, tôi bỗng nhớ Tâm. Tâm nổi tiếng trong bọn là người hay ra quán sớm nhất, sớm đến nỗi một hôm nó đụng một người lạ mặt cũng đang đứng chờ trước cửa như nó. Ông ta hỏi Tâm:

“Chào ông, ông đi đâu sớm vậy?”

Tâm trả lời:

“Tôi đi uống cả phê”.

Và nó hỏi lại người lạ:

“Còn ông, ông đi đâu mà cũng sớm quá vậy?”

Người lạ đáp:

“Tôi là quản lý nhà hàng, nhưng& xin lỗi ông cho tôi vào trước, sẽ có cà phê nóng cho ông ngay.”

Tôi cười thầm khi nhớ lại câu chuyện uống cà phê của Tâm. Ðúng lúc tôi nghe cánh cửa bật mở. Tôi nghĩ, chắc sẽ không phải ai khác hơn ngoài Tâm. Nhưng không! Người mới bước vào to lớn dềnh dàng như một con khỉ đột. Y ngó quanh nhà hàng, và khi thấy tôi một mình, y xăm xăm bước tới, hai chân thẳng, đầu cúi thấp:

“Xin lỗi, ông có phải là ông Thăng không ạ?”

“Phải! Chính tôi!” Tôi ngừng dao bôi bơ lên bánh, ngạc nhiên.

“Thưa ông, tôi là người nhà cụ Phan. Cụ sai tôi mời ông có việc cần.”

Tôi đặt bánh xuống đĩa, lau tay:

“Nhưng sao anh biết là tôi ở đây?”

“Thưa cô Uyên bảo là ông ở đây!”

Y trả lời, giọng ngập ngừng.

“Cô Uyên? Nhưng cô ấy ở đâu?”

“Cô đang chờ ông ngoài xe.”

Tôi đặt tiền lên bàn, đứng dậy theo người nhà ông Phan. Y đi trước, mở cửa, giữ tay nắm, nhường lối cho tôi. Bên lề

đường, một chiếc Mercedes đen vẫn còn nổ máy. Y mở cửa sau:

“Mời ông!”

Trên đệm xe, Uyên kéo chiếc kính mát màu nâu thấp xuống sống mũi, nhìn tôi tinh nghịch:

“Anh thấy chưa, không ai biết anh bằng Uyên!”

Nàng nhích vào trong nhường chỗ cho tôi.

“Cám ơn cô! Chưa ai bằng cô thật!”

Xe phóng êm. Máy lạnh mát. Buổi sáng Sài Gòn thức dậy uể oải. Không còn nữa cái không khí náo nhiệt cách đây nửa năm.

Tôi nhìn Uyên. Khuôn mặt cô thiếu nữ một cách trẻ con. Uyên đang mỉm cười một mình. Nốt ruồi ở khóe môi như một thách thức. Mái tóc dài của Uyên được tết thành đuôi sam. Cuối đuôi là một bông tỉ muội trắng. Áo vàng ngắn cũn cỡn, quần ống rộng, nhưng bó căng ở đùi. Cánh tay Uyên trắng xanh, những sợi lông tơ dài và mịn, màu vàng óng ánh nằm rạp như cánh đồng lúa dưới cơn gió.

Tôi lấy một điếu thuốc gắn lên môi.

“Tôi hút được chớ, cô bé?”

“Xin anh cứ tự nhiên, Uyên không sợ cay mắt đâu!”

Tôi bật lửa châm thuốc. Khói bị nhốt trong xe có máy điều hòa bay chấp chới.

“Cô Uyên có biết ông cụ gọi tôi về chuyện gì không?”

“Uyên không biết. Nhưng chắc vẫn là chuyện hôm nọ bố chưa kịp nói với anh. Phần anh, anh cũng muốn gặp bố mà, phải không?”

“Phải. Nhưng sao bất ngờ quá!”

“Sáng nay, trong bữa điểm tâm, bố hỏi mẹ là anh có đến chơi nhà không. Me nói có. Bố bảo muốn gặp anh, và Uyên xung phong đi tìm. Thế thôi!”

“Thế thôi!”

Uyên quay mặt về phía tôi. Bàn tay mát rượi của cô đặt lên tay tôi.

“Gặp bố anh có lo không?”

“Tại sao tôi phải lo chớ?”

“Anh quên sao? Bố nói là chuyện này có liên hệ đến đời anh mà!”

Tôi lo thật. Việc ông Phan gọi tôi bất ngờ sáng nay làm tôi lo hơn. Tôi chỉ giả mù sa mưa thôi. Tôi đâu có cứng đến như vậy.

Tôi nói lảng:

“Chuyện anh Minh tới đâu rồi?”

“Anh Minh nào?” Uyên ngơ ngác.

“Anh Minh trường Luật hay Văn Khoa bị bắt trong đám biểu tình hôm nọ đó!”

“Ồ!” Uyên nhớ ra. “Bố đã can thiệp bên Cảnh Sát thả anh ấy ra rồi!”

“Còn Tấn?”

“Ôi anh ấy thì được cái tích sự gỉ? Suốt ngày chỉ nghĩ đến chuyện ăn diện và nhảy nhót. Học thì ngáp vắn ngáp dài. Ăn chơi

thì sáng mắt như sao băng!”

“Thế còn cô?”

“Uyên đấy à? Uyên không đồng bóng như anh ấy đâu!”

“Nghĩa là cô đồng bóng cách khác à?” Tôi nghịch.

“Ðừng nói bậy, ông này!” Uyên bấm những ngón tay nhọn của nàng trên tay tôi. “Có những người như anh Tấn cứ tưởng nhảy nhót là văn minh, ăn diện là thanh lịch, trong khi đầu óc thì trống rỗng tối tăm. Uyên thích anh Minh hơn. Anh ấy đàn ông, rất đàn ông, hiểu biết và tham vọng. Giữa hai người là một khoảng cách thật lớn mà không hiểu sao họ lại thân nhau được. Thật Uyên không hiểu nổi!”

“Có gì mà không hiểu. Kết thân với ai có nghĩa là tìm kiếm nơi người đó điều mà mình đang thiếu.”

“Thế anh tìm kiếm gì nơi Uyên?” Ðột nhiên Uyên đặt một câu hỏi bất ngờ.

“Tôi tìm nơi cô cái mà tôi thiệt thiếu… còn cô, cô tìm gì nơi tôi?”

“Uyên ghét anh! Uyên ghét anh!”

Thoắt cái, hai bàn tay Uyên đập lia lịa trên ngực tôi như một người đánh trống. Tôi là một cái trống không phát ra tiếng động.

Xe đã lăn vào nhà. Bánh lăn lạo xạo trên sân sỏi.

“Thưa bác!”

Ở cuối phòng khách rộng, ông Phan đang quay mặt vào vách, hai tay chắp sau lưng, đầu ngước lên, có vẻ như ông đang chiêm ngưỡng những hoa văn chạm ở thanh kiếm Nhật treo ở trên tường.

“Bố!”

Uyên đứng bên tôi, hai tay chống lên thành ghế, cô gọi ông Phan, giọng hơi lớn. Ông quay lại, dáng chậm rãi, mắt thoáng sáng, nhưng không có cái vẻ vồn vã với tôi như lần đầu. Ông chìa tay cho tôi:

“A, cậu Thăng…, cháu Thăng. Lâu dữ!”

Tự nhiên tôi rụt lại, chần chừ. Tôi nhìn vào mắt ông. Cách xưng hô thân mật của ông làm nhẹ nỗi lo trong tôi nhưng không khỏi làm tôi ngạc nhiên. Uyên giục:

-Kìa anh, bắt tay bố đi!

Tôi bước tới một bước. Những ngón tay mập và mềm của ông siết chặt tay tôi.

-Thưa, bác vẫn khỏe?

-Cám ơn cháu…

Ông cười không vui. Chỉ một thời gian ngắn không gặp mà tôi thấy ông như già sọm đi. Da mặt chùng, mắt sâu, tóc thưa hơn.

-Uyên vào trong xem me có cần gì không nhé! Bố và anh Thăng có chút việc riêng.

Ông Phan choàng vai tôi, đưa tôi trở lại phòng đọc sách hôm trước. Ðèn thư viện sáng. Máy điều hòa lạnh. Trên tường vẫn bức tự họa của Van Gogh và bức vẽ hai diễn viên Kabuki của nhà danh họa Utamaro Kitagawa. Ông Phan ngồi xuống chiếc ghế bọc da và chỉ chiếc ghế đối diện cho tôi.

-Sáng nay cháu không bận gì chứ?

-Thưa bác, trường vẫn còn đóng cửa.

-Tốt. Câu chuyện của chúng ta sẽ khá dài. À mà cháu dùng điểm tâm chưa?

-Cám ơn bác, cháu vừa ăn xong!

-Tốt! Vậy thì mình uống trà. Người ta vừa biếu tôi một gói Thiết Quan Âm chánh hiệu.

Ông bấm chuông gọi người lấy trà. Xong ông quay sang tôi, tiếp:

-Có mấy chuyện tôi muốn bàn với cháu ngay sáng hôm nay, bởi vì tôi sắp đi xa Sài Gòn ít lâu.

-….

-Cháu ngạc nhiên hả?

-Thưa bác, đúng vậy! Cháu nghe người ta nói là bác vừa mới được mời đứng ra thành lập Nội Các mà!

-Không. Ðó chỉ là tin đồn thôi. Tình hình không đơn giản như người ta tưởng đâu. Những vụ xuống đường của sinh viên học sinh, biểu tình của các đoàn thể tôn giáo, các vụ đình công đang rục rịch ở Nhà Kiếng… kể cả việc Bắc Việt đưa quân ào ạt theo đường mòn Hồ Chí Minh vào tăng cường cho Mặt Trận của chúng cũng không lớn hơn cái hình ảnh của Phó Tổng Thống Mỹ, ông Richard N., đang đi thăm Vạn Lý Trường Thành. Cháu nghĩ sao khi Hoa Kỳ và Trung Cộng xích lại gần nhau?

Ông Phan đã hỏi tôi một câu khó. Tôi là người luôn bị bạn bè kêu là ngu dốt về thời sự và chính trị. Tôi nói quanh:

-Thưa bác, cháu thiếu một cái nhìn bao quát về tình hình quốc tế. Cháu ít theo dõi những bài phân tích thời cuộc của các báo…

-Nhưng theo hiểu biết của cháu, Mỹ và Tàu bắt tay nhau không gợi cho cháu một suy nghĩ nào sao?

-Theo cháu tôi ngập ngừng nói cầu may cứ bằng vào tình hình này chắc Hoa Kỳ bỏ rơi Việt Nam quá!

Ông Phan cười:

-Tôi đang có trong tay một số nhận định tương tợ. Nhưng tôi không tin. Người Mỹ không bao giờ bỏ rơi Việt Nam.

-Thưa bác, như vậy phải chăng cuộc chiến Việt Nam vẫn cứ tiếp diễn. Và hòa bình không bao giờ có ở Ðông Nam Á?

-Không! Cái này thì tôi tin ngược lại. Chiến tranh sẽ chấm dứt ở Việt Nam, nhưng điều đó không có nghĩa là Ðông Nam Á có hòa bình.

Ngừng một lát, ông Phan tiếp:

-Nhưng thôi để chuyện này qua một bên. Tôi biết là cháu không mấy lưu tâm, phải không? Năm 45 cháu mới 5 tuổi chứ gì? Năm 54 cháu vừa mười bốn phải không? Hạnh phúc cho những ai trong suốt cuộc đời chỉ biết có một lần chạy giặc!

Ông Phan nhồi thuốc vào tẩu, châm lửa bập bập và thở khói.

-Có khi nào cháu nghĩ là người ta muốn cháu không tồn tại hay không?

Câu hỏi của ông làm tôi giật mình. Làm gì có một chuyện kỳ quái như vậy? Tôi linh tính là đến gặp ông Phan hôm nay sẽ được nghe những điều không vui, nhưng tôi không hề nghĩ là sẽ có một điều khủng khiếp như vậy.

-Thưa bác…

-Bình tĩnh nào! Cháu muốn biết “người ta” đó là ai phải không?

-Vâng, thưa bác…

-Cháu có biết là cháu đang đụng vào một khối thép không?

-Thưa bác, không. Cháu không hiểu!

-Cháu có biết một người nào đó vừa là chủ nhà băng, vừa là chủ nhà máy sản xuất lưới B40, vừa là tổng giám đốc công ty nhập cảng phim Hồng Kông…

Ông nói chậm lại, ngón tay gõ nhịp lên bàn, ngó chăm vào mặt tôi:

-… Người đó là chủ nhân của một trương mục ở ngân hàng Thụy Sĩ, và vừa mới đây đã mua xong một khu phố thương mãi ở quận 13 Paris?

-A! Tôi kêu lên. Tôi đã nhận ra con người ấy. Ông Phan cầm tẩu thuốc chỉ về phía tôi:

-Cháu hiểu ra chưa?

-Thưa bác, cháu nhận ra nhưng cháu không hiểu.

Ðúng. Tôi có đầy đủ lý do để nhận ra con người lẫy lừng đó. Ông là một nhân vật nổi danh trong giới tài phiệt, người có đến bốn mươi chín phần trăm cổ phần trong các công ty lớn của nhà nước. Tiếng nói của ông có sức nặng trên những quyết định của Bộ Kinh Tế. Người ta nói không có cánh cửa nào của chính quyền còn được coi là kiên cố dưới sức gõ của bàn tay ông. Ông còn là một người hào phóng, phải nói là rất hào phóng. Một lần tình cờ theo ông vào nhà hàng Admiral ở đường Nguyễn Văn Thinh, tôi thấy những khách thanh lịch cổ cồn cà-vạt ở đây đều thân mật chào ông. Người chủ nhà đích thân lấy rượu ra cho ông không chờ ông gọi. Lúc ra về, ông nói với người chủ:

-Chầu rượu hôm nay tôi xin mời tất cả các bạn! Nhớ ghi sổ phần tôi! Xin chào!

Nhưng đó không phải là lần duy nhất tôi thấy cách đãi rượu của ông. Cũng lạ, trả tiền rượu cho tất cả những người khác, bất kể lạ quen, ở một nhà hàng sang trong một buổi chiều tình cờ ghé ngang để uống một consommation cho đỡ lạt miệng! Người đó không phải ai xa lạ, chính là ông Lý, ông ngoại của các con tôi.

-Ðáng lẽ tôi đã cho cháu biết tin này từ lần trước, nhưng lúc đó tôi thấy chưa cần. Bây giờ sắp phải đi xa, tôi buộc phải cho cháu rõ. Dù sao, cháu nên nhớ là làm mất lòng ông Lý là làm mất lòng nhiều người lắm đấy!

Tôi biết điều đó. Thế nhưng không bao giờ tôi nghĩ rằng sự thể trầm trọng đến như vậy. Còn nhớ lần sau cùng đi uống rượu với ông ở Palace, ông vỗ vai tôi nói:

-Ba không muốn thấy chuyện lục đục của tụi con. Ba không muốn nghe đến chữ ly dị trong gia đình ba. Ba càng không muốn con là nguyên cáo đưa vợ ra tòa vì một tội mà không ai tha thứ được. Ba muốn hai đứa phải tiếp tục chung sống với nhau như một đôi đũa, cho dù sự thể có ra làm sao. Nhưng ba cũng biết tánh con hiền hậu mà liều lĩnh. Có thể con sẽ làm bậy. Vả lại, nếu đặt vào hoàn cảnh con, chắc ba cũng sẽ không thể xử sự khác. Ba chỉ xin con một điều: vì danh dự gia đình ba, vì tiếng tăm mà ba đã xây dựng được từ bao nhiêu năm nay trong chỗ làm ăn, con hãy rút đơn lại thay vào đó bằng tờ Consentement mutuel thì nó dễ cho ba hơn. Sau đó, con cần gì cứ cho ba biết. Con có muốn đi Pháp một chuyến để xả hơi không? Hay là để ba xin cho cái học bổng đi Mỹ. Ba muốn con bỏ quách cái nghề bán cháo phổi đi. Sao con không nghĩ đến chuyện học ngành quản trị xí nghiệp?

Ông Lý là như vậy đó. Không việc gì là ông không làm được. Ông coi như rác rến những thứ mà người khác xem là vàng ngọc. Những mộng tưởng của người này khi vào tay ông sẽ rất nhanh trở thành hiện thực. Phải nói ông Lý là một người trên nhiều người. Nhưng tôi biết rõ, ông chỉ thành công ngoài đời. Gia đình là một vố nặng đối với ông. Người nguyền rủa ông nhất là mẹ của các con tôi, và mỉa mai thay, người bênh vực ông luôn luôn là tôi. Nhưng điều này không có nghĩa là tôi thuộc phe ông và càng không phải là người được ông yêu. Mỗi lần ông hỏi tôi câu:

-Con cần gì?

Câu trả lời luôn luôn là:

-Cám ơn ba, con có đủ!

-Ðủ gì? Thằng kiêu ngạo!

Ðối với ông Lý, đồng tiền là thước đo của mọi giá trị. Tiền giải quyết được tất cả. Theo ông, người giỏi không phải là người có học vị cao hay chức tước lớn.

Người giỏi chính là người làm được nhiều tiền nhất, bất kể đồng tiền ấy do đâu có và đến từ đâu. (Con gái ông hoàn toàn giống ông ở mục này!). Tôi nhớ lúc bấy giờ để trả lời đề nghị của ông Lý về chuyện tòa án, tôi đã nói với ông là tôi rất cám ơn ông, nhưng tôi là người không có nhu cầu đi Pháp hay đi Mỹ. Tôi đã quá cái tuổi cắp sách đến trường, nên có học gì đi nữa thì chắc cũng không vô. Tôi nói:

-Con chỉ xin phép được nhắc ba một điều là lẽ phải trong câu chuyện tòa án không bao giờ đứng về phía con gái ba!

-Ba hiểu! Ba hiểu! Ba cám ơn con! Dầu sao con vẫn là con của ba chớ?

-Thưa ba, dầu sao con vẫn là con của ba!

Tôi đã giữ lời hứa. Tờ Thuận Tình Ly Hôn được thảo ra, và chị ta, con gái ông Lý, xin ghi vào đó một vài điều khoản “hoàn toàn thiết thực do nhu cầu”: Căn nhà có cây trứng cá cho chị nuôi con, chiếc xe Volswagen cho chị làm chân đi đây đi đó, tiền trong trương mục ngân hàng Chase Manhattan cho chị dùng sửa sang nhan sắc trong chuyến đi Nhật sắp tới.

Nói chung, chị là người có nhiều nhu cầu. Như vậy cuộc chia tay của chúng tôi đã được mua bán theo một giá đặc biệt: tôi nhận tất cả mọi sự thua thiệt để có thể sớm xa lánh con người mà tôi ghê tởm. Bù lại, tôi thấy mình thanh thỏa tâm hồn vì đã dám khước từ được những đề nghị hấp dẫn của ông Lý.

Vậy thì tại sao có cớ sự này?

Ðiều tôi thực tình không hiểu là ở chỗ đó. Tôi nói hết với ông Phan câu chuyện của tôi. Ông kêu lên ngạc nhiên:

-Thật sao? Thật vậy sao?

-Cháu xin thề với bác. Ðó là tất cả sự thật.

Ông Phan cầm ngược tẩu thuốc úp xuống cái gạt tàn khẩy tro. Ông có vẻ nghĩ ngợi. Lúc đó tôi nghe tiếng gõ cửa. Người nhà ông Phan mang trà vào.

Bộ bình tích làm bằng đất nung, màu đỏ nâu láng bóng. Tất cả đều nhỏ nhắn như đồ chơi trẻ con. Ông Phan rót trà cho tôi:

-Cháu uống đi. Cà phê hoài là không tốt đâu!

Khi người nhà ra, cửa phòng đã khép lại, tôi nói với ông Phan:

-Thưa bác, sao trên đời này có thể có một thứ quyền lực quái đản như vậy?

Ông Phan hớp một ngụm trà.

-Ðồng tiền ở đâu cũng vậy, luôn luôn là một quyền lực to nhất. Sức mạnh của nó là vô địch!

-Thưa bác, thế còn lẽ phải? Không có lẽ phải làm sao có sức mạnh?

Tôi nghe thấy giọng ông Phan cười:

-Ở đâu có sức mạnh, ở đó có lẽ phải!

Tôi nhìn ông ngạc nhiên. Có vẻ như ông đang hỏi chính cái suy nghĩ của ông.

-Nhưng thưa bác, sức mạnh là cái nhất thời, còn lẽ phải là cái muôn thuở. Làm sao đem cái nhất thời so với cái muôn thuở được?

-Cháu là người dễ xúc động, phải không? Chắc trong đầu cháu đang có cái ý nghĩ rằng là tôi chủ trương một quan điểm như vậy chứ gì? Không đâu! Cũng là của ông Lý, nhạc phụ của cháu đấy!…

-Của ông Lý? Nhưng ông Lý thì làm sao mà ảnh hưởng đến bác được cơ chứ?

Ông Phan lập lại từng tiếng câu nói của tôi. Sau cùng tôi nghe tiếng ông cười.

-Dù sao cháu nên nhớ điều này, cháu là con anh Thành, bạn chí cốt của tôi. Bao giờ tôi còn ngồi đây sẽ không ai đụng đến cháu được. Cho dù người đó là ông Lý. Ðiểu quan trọng là cháu phải biết tự chế.

-Cám ơn bác. Cháu sẽ nhớ lời bác. Nhưng người ta muốn giải quyết cháu như thế nào?

-Hồ sơ cháu, tôi có đọc. Người ta đưa ra khá nhiều biện pháp giải quyết vụ Trần Lâm Thăng. Hoặc chấm dứt tình trạng biệt phái của đương sự, trả về đơn vị gốc, chuyển ra Vùng Một Chiến Thuật, tùy nghi sử dụng. Hoặc, đổi đi dạy học ở một vùng xôi đậu. Ðương sự có thể bị tai nạn xe đò lật, lạc đạn, hoặc Việt Cộng thủ tiêu. Hoặc, sẽ bị Bộ Giáo Dục truy tố về tội phỉ báng chương trình nhà nước. Ðặc biệt đương sự đã nhiều lần rao giảng nơi công cộng chương trình Triết Việt Nam là một ăn cắp ngu xuẩn chương trình Triết của Pháp. Hoặc Bộ Nội Vụ sẽ đưa đương sự ra Tòa về việc tuyên truyền có lợi cho Cộng Sản trong khi giảng bài vì đã cổ võ cho chế độ vô thần: phá bỏ nhà tù, nhà thờ, nhà chùa thay vào đó là xây dựng trường học, vườn trẻ, bệnh viện. Hoặc… mà thôi, cháu biết là tôi thực tình quí mến cháu. Tôi chỉ có một đứa con duy nhất là Uyên. Tôi thèm có một đứa con trai… Người ta nhắn gửi tôi về cháu có nghĩa là người ta muốn tôi quên sự có mặt của cháu để cho các cấp dưới dễ làm việc. Nhưng người ta nhắn gửi tôi cũng có nghĩa là xin tôi đừng che chở cháu…

Tôi lặng người trên ghế, bẻ gập từng ngón tay, nghe tiếng kêu của các khớp xương, buốt rợn. Ông Phan đã cho tôi rõ tất cả những gì mà lâu nay tôi không biết, mà tôi cũng không thể tưởng tượng nổi. Ông Lý như vậy đã giăng trước mặt và sau lưng tôi những hầm chông không cách nào thoát được.

Ông Lý, người mà mấy phút trước tôi coi như một nhân vật thẳng thắn nhất, giờ đây đã không còn như thế nữa. Tôi vẫn còn nhớ như in cảnh tượng lần đầu gặp ông. Bữa cơm thường chào đón tôi trong biệt thự ở đường Lê Quí Ðôn, với tôi như một đại yến. Cuối bữa, khi uống cà phê, ông nói với tôi thẳng thắn:

-Cậu là hình ảnh hoàn toàn đối nghịch với tôi thời mới lớn. Ở vào tuổi cậu, tôi đã biết đạp chân dưới đất, còn cậu bây giờ như người đi trên mây. Tôi biết tôi mê tiền và tôi đã hiểu cái giá để có nó, còn cậu, cậu dám coi thường đồng tiền, cho nên cậu chưa hiểu cái giá của nó. Cậu cả nể, hỏa hoãn, tôi thì khác, lịch sự nhưng quyết liệt, ai chơi tới đâu, tôi chơi tới đó… Nhưng tôi chấp nhận cậu. Trong nhà này có một người như tôi đủ rồi. Nếu cậu giống tôi quá thì có lẽ dư một người.

-Thưa bác -tôi nói với ông Phan – thật tình cháu không hiểu nổi ông Lý. Giữa ông ta và cháu đã có quy ước và như vậy là ông là người phá bỏ quy ước trước.

-Ðúng là cháu không hiểu ông Lý, và cháu sẽ không bao giờ hiểu được ông Lý. Bởi vì người có ảnh hưởng đến ông Lý nhất hiện nay là vợ cháu chứ không ai khác. Mọi cố gắng tìm cách bôi lọ cháu trước dư luận và mọi nỗ lực nhằm chấm dứt đời cháu là người đàn bà ấy chứ không phải ông Lý. Nhưng để làm được chuyện ấy vợ cháu không có phương tiện nào tối tân hơn là qua trung gian ông Lý…

-…

-Nhưng thôi, điều cháu cần biết tôi đã cho biết. Vấn đề còn lại là cháu phải đối phó như thế nào khi tôi không có mặt ở đây!

Ông Phan đặt tẩu thuốc xuống bàn, nhấc chiếc kính lão ra, nắm hai chân gọng chà xát lên mặt vải áo. Tôi thấy đôi mắt ông có vẻ húp lên và dại ra. Trông ông lúc này giống như một công chức già về hưu đang răn dạy đứa con ngỗ nghịch là tôi.

-Như đã nói với cháu lúc nãy, tôi sắp phải đi xa ít lâu. Sự vắng mặt của tôi có thể mang đến phiền lụy cho cháu. Mặc dù tôi đã gửi gắm cháu cho những người có trách nhiệm, tôi vẫn không an tâm.

Ngừng một phút, đeo kính vào mắt, ông Phan tiếp:

-Tôi sẽ không hỏi cháu lý do vì sao phải ly dị, nhưng tôi có thể biết được vụ tòa án của cháu tới đâu rồi chứ?

-Thưa bác, cám ơn bác, theo luật sư của cháu thì đầu tháng tới sẽ hoàn tất. Cháu sẽ nhận một Bản Ðại Tự của tòa.

-Còn vấn đề con cái?

-Trong tờ Thuận Tình Ly Hôn, người mẹ đồng ý để cháu giữ bé trai và mẹ nó giữ bé gái. Nhưng theo luật sư của cháu thì vì bé trai còn quá nhỏ nên có thể tòa sẽ quyết định để mẹ nó trông coi một thời gian.

-Không. Ý tôi muốn hỏi là con cái sẽ ra sao nếu cha mẹ chúng ly dị?

-Thưa bác, cháu hiểu rằng sự chia rẽ của cha mẹ sẽ để lại trong tâm hồn con cái một vết thương khó cứu chữa. Nhưng biết làm sao! Ở giữa hai điều xấu mà con người phải chọn, cháu đành chọn điều ít xấu hơn.

-Nghĩa là làm sao?

-Thưa bác, vấn đề con cái là mối bận tâm của cháu trong suốt thời gian qua. Cháu nghĩ thà con cái chỉ sống với cha hoặc chỉ với mẹ, còn hơn là sống đầy đủ mà mỗi ngày phải chứng kiến cái thảm kịch đổ vỡ tồi tệ của cha mẹ chúng.

-Không còn cách nào khác sao?

-Thưa bác, thật tình là cháu thấy không còn cách nào khác!

Ông Phan chống tay lên trán, ngón giữa miết lấy những đường nhăn của thời gian. Mãi một lúc sau, ông ngẩng mặt lên:

-Tôi không biết làm sao! Mỗi người trong hoàn cảnh mình có nỗi khổ riêng, bởi vì không ai có thể sống thay cho cuộc sống của người khác. Nhưng tôi hy vọng là cháu sáng suốt trong quyết định của mình. Trên đời này có những việc mà khi đã làm hỏng một lần rất khó mà bắt đầu lại được… À, mà năm nay cháu bao nhiêu tuổi nhỉ?

-Thưa bác, cháu đã ba mươi ba.

Ông Phan đặt tẩu thuốc xuống bàn, uống một ngụm nước trà, rồi bấm đốt ngón tay, lẩm bẩm:

-Ba mươi ba! Tuổi Thìn. Canh Thìn. Canh cô mồ quả. Bị sao La Hầu chiếu. Suốt năm còn nhiều vất vả. Tai nạn. Tù tội. Và tai tiếng. Năm đại hạn! Xấu lắm! Xấu lắm!

-Bác tin vào số mệnh?- Tôi hỏi, ngạc nhiên.

-Tôi tin tử vi. Tôi tin con người ta ai cũng có số cả. Hồi còn trẻ như cháu, tôi có coi trời đất ra gì đâu. Nhưng bây giờ trải qua bao cuộc bể dâu, tôi nghiệm ra cái lẽ biến dịch của thiên địa…

Tôi xếp hai tay, dựa cùi chỏ lên đùi, mắt ngó xuống mũi giầy lắng nghe. Bỗng nhiên tôi cảm thấy ông Phan ngừng giữa câu nói. Tôi đưa mắt nhìn ông. Ông Phan đang ngó chăm vào bức Tự Họa của Van Gogh.

-Thưa bác! Tôi rụt rè gọi ông.

-Sao? Cháu nói gì? Ông quay lại hỏi.

-Thưa bác, cháu vẫn nghĩ số mệnh của mỗi người là do chính người ấy tạo nên hơn là do một quyền lực thần bí chi phối.

-Thế tình trạng của cháu bây giờ, nếu không phải do định mệnh an bài thì là do cháu gây ra à?

-Thưa bác, cháu nghĩ mọi sự đối với cháu cũng là do cháu thôi. Chính cái quyết định lấy con gái ông Lý của cháu đã dẫn cháu đến ngày hôm nay. Có ai bắt cháu phải lấy người đàn bà này đâu?

Ông Phan cười, chậm rãi:

-Chính cái quyết định của cháu là một quyết định có tính cách định mệnh. Nhưng tôi, chúng ta sẽ trở lại câu chuyện này vào một dịp khác. Tôi muốn dặn cháu đôi điều trước khi ra đi.

-Nhưng thưa bác, chẳng lẽ bác ra đi trong tình trạng hãy còn hỗn loạn như thế này sao?

-Không có tình trạng hỗn loạn nào mà đằng sau nó không có những động cơ thúc đẩy. Nắm được những động cơ ấy thì muốn chấm dứt lúc nào mà chả được! Vả lại, đôi khi cũng cần phải biết nuôi dưỡng sự hỗn loạn ấy. Chỉ sợ, như cách nói của Paul Valery người phù thủy tạo ra âm binh có khi lại bị chính cái đám âm binh ấy quật lại thôi!

-Thế bác có sợ đám âm binh ấy không?

-Chỉ những tay không bản lĩnh mới có thứ tâm lý sợ hãi kiểu đó!

-Thưa bác, nói bác tha lỗi cho, bác lo sợ điều gì?

-Hội nghị Saint Cloud đang có những bất lợi cho ta.

-Bác tìm kiếm gì trong chuyến đi này?

-Tôi muốn xem bài toán cộng giữa Mỹ và Tàu. Tôi muốn cân lượng lại tầm mức trách nhiệm lương tâm Hoa Kỳ ở Việt Nam theo cách của tôi.

-…

-Tôi sẽ cho Hoa Thịnh Ðốn biết Sài Gòn cần gì và không cần gì. Một quân lực mạnh. Một nền kinh tế không què quặt. Một guồng máy hành chánh hữu hiệu. Tôi muốn dân chúng có mức sinh hoạt cao. Hàng rào y tế và điện lực sẽ đến được những làng mạc xa xôi và hẻo lánh nhất. Tôi muốn tiếng nói của Sài gòn phải vang lên tại tòa nhà Quốc Hội ở thủ đô Hoa Kỳ. Tóm lại, tôi muốn biết Hoa Thịnh Ðốn sẽ tiếp tục viện trợ cho ta đến mức nào và trong bao lâu…

-Nghĩa là…

Ông Phan không tiếp lời tôi. Ông đứng dậy đến tủ rượu lấy chai Hennessy và hai cái cốc.

-Trà nhạt rồi. Mình uống chút này cho ấm bụng, cháu!

Tôi nâng cốc. Mùi rượu bay lên mũi, tôi nhớ đến cha tôi. Tôi vẫn không hiểu tại sao cha tôi lại tự giết mình bằng thứ nước cay độc này. Ông không nói gì với con cái chuyện đời ông, ngay cả với người anh lớn tôi, người mà tôi hết lòng quí trọng và thương mến. Ở binh chủng Biệt Ðộng Quân, anh được coi là một trong những sĩ quan ưu tú và gan lì nhất. Với bạn bè anh luôn là một người tình nghĩa. Có lần hy sinh hai ngày phép hiếm hoi, anh cùng một trung sĩ, trên chiếc Jeep, đã dám rời thành phố Nha Trang trong đêm, qua đèo Rù Rì rồi đèo Rọ Tượng, không dừng chân ở trạm Ninh Hòa, đi một mạch qua M’Rak, thẳng đến Buôn Mê Thuột, chỉ để thăm một người bạn thân vừa bị thương nặng trong một trận đụng độ với bộ đội Bắc Việt. Anh là người thừa hưởng được tính gan lì của cha tôi, nhưng rượu chè thì anh nhất định không đụng tới.

Còn tôi, không có chút gì giống anh và cha. Chỉ uống được vài hớp rượu nhưng dư thừa sự hèn nhát. Có lẽ chúng tôi không ai hội đủ những đặc tính của cha nên cha tôi không buồn gần gũi chúng tôi.

Tôi thấy ông Phan nhấp một ngụm rượu:

“Cháu Thăng!” Ông hắng giọng: “Tôi có một đề nghị. Chuyến đi của tôi, trong trực giác mà tôi có, lẫn trong những phân tích mà tôi có thể suy được, là một chuyến đi vào xứ Thục. Tôi sẽ không yên tâm khi thấy cháu vẫn cứ loanh quanh ở cái phòng trọ chật chội hôi hám trong cư xá Ðô Thành. Ờ đó không an ninh đâu. Nội nhật ngày mai, ngay sau khi tôi lên đường, cháu nên dọn về đây. Cháu thử tự nhốt mình một thời gian trong nhà này cho đến ngày tôi về xem sao. Tôi mong là cháu hiểu nhiều hơn những gì tôi nói!”

“…”

Ông Phan đứng dậy, đưa tay cho tôi bắt. Vẫn những ngón tròn và mập. Vẫn lòng bàn tay ướt rịn mồ hôi. Tôi cầm tay ông mà vẫn không hiểu gì cả.

Ra khỏi tiểu thư viện, tôi quay lại nhìn ông lần cuối, tôi thấy ông đang lặng yên, tay chắp sau lưng nhìn bức Tự Họa của Van Gogh.

Ngoài đường nhựa, nắng Sài gòn dữ dội, nhưng tôi có cảm tưởng như cái nắng ấy là không có thật.

Tôi sẽ dọn nhà chớ?

Chương 9

“Thế nào, lạ chỗ cháu có ngủ được không?”

Bà Phan ngồi đúng vào cái ghế bà đã ngồi hôm trước. Bên trái là Uyên đang loay hoay với cái lọc cà phê phin chưa chịu nhỏ một giọt nào.

“Cám ơn bác. Cháu ngủ không biết trời trăng gì hết!”

Uyên đẩy ly cà phê về phía tôi, cười:

“Hôm qua anh về đến nhà đã say khướt thì làm sao còn biết trời trăng gì?”

Tôi say ư? Tôi thật tình không rõ lắm. Sau khi dọn về nhà ông Phan tôi ngồi suốt buổi với Ký, Nghĩa, và Lộc ở Chợ Ðũi? Tôi uống khá nhiều. Lần đầu tiên tôi làm được một lúc tám chai 33. Tuy vậy còn lâu tôi mới theo kịp Ký. Anh ấy uống thoải mái, từ tốn, thong thả. Hết chai này rót chai khác, không nhanh hơn, không chậm hơn. Ðối với anh, thơ và tình yêu mới là đời sống. Rượu chẳng qua chỉ là men cay để cuộc đời còn chút ý nghĩa. Anh nói vậy nhưng không có rượu anh rất khổ sở. Tôi không nhớ mình đã nói gì trong bữa nhậu, tôi chỉ biết rượu và là tôi buồn ngủ. Tôi đã ngủ ở quán hồi nào và ai là người đưa tôi về, tôi không nhớ.

Tôi thấy bà Phan nhìn chăm vào mắt tôi.

“Cháu không nên uống nhiều. Rượu không tốt đâu!” Và bà đưa cho tôi mấy tờ báo phát hành chiều qua.

“Cháu đọc tin trang nhất này. Ông nhà tôi vừa mới đi buổi sáng, âm thầm và bí mật như vậy mà buổi chiều báo chí đã loan tin và có ảnh ngay. Khiếp thật!”

Tôi nhấc riêng từng tờ, liếc qua những bài tám cột. Quả thật là tin ông Phan đi Mỹ chiếm hàng đầu trên các trang nhất. Tờ nào cũng đưa bản tin và bình luận na ná như nhau? Tại sao ông Phan ra đi? Sự vắng mặt của ông trong tình thế này có nghĩa gì?

Thông điệp nào ông mang theo trong chuyến đi đầy khó khăn kia? Trên tờ Sóng Thần, ngoài bản tin là bức ảnh chụp ông Phan đang nâng ly nói chuyện với viên Tổng Lãnh Sự người Pháp trong một buổi tiếp tân của Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ. Tôi thấy đôi mắt nhỏ của ông Phan dưới lớp kính trắng nhíu lại, gò mà hóp nhô xương. Tôi nhận ra đúng cái vẻ mặt ông mà tôi đã thấy trong buổi nói chuyện sáng ngày hôm kia. Ðó là một khuôn mặt ưu tư, trầm ngâm và hoài nghi.

“Thưa bác, chuyến đi của bác trai sẽ kéo dài trong bao lâu?”

“Ông nhà tôi dự trù hai tuần. Trên đường về sẽ ghé Paris đôi ngày thăm một vài bạn chiến đấu cũ của ông hiện là nghị sĩ trong Quốc Hội Pháp.”

“Bác có thể cho cháu hỏi một câu tò mò?”

“Cháu tự nhiên!”

Bà Phan ngừng khuấy ly nước cam, nhìn tôi chờ đợi.

“Cháu không hiểu bác có cảm tưởng gì khi làm vợ một chính khách như bác trai?”

“Cảm tưởng à?” Bà không nhìn tôi, mắt ngó vào khoảng không, bàn tay cầm thìa bất động. “Một người đàn ông nhiều tham vọng chính trị sẽ rất ít tình yêu cho gia đình!” Ngưng lại một giây, bà nhìn mắt tôi, tiếp “Không, ý bác muốn nói thế này, người đàn ông có tham vọng, bất luận là loại tham vọng nào, đều dành cho vợ con một chỗ rất nhỏ trong trái tim họ. Cháu thấy sao?”

Tôi hỏi bà, nhưng chính bà đặt ngược lại tôi. Tôi có phải là người đàn ông nhiều tham vọng không? Không, tôi chỉ là một người đi trên mây. Trái tim tôi bao giờ cũng có thừa chỗ cho tình yêu gia đình, nhưng gia đình thì hình như không có chỗ nào dành cho tình yêu tôi.

Thấy tôi ngần ngừ, Uyên vừa đưa kem tươi cho vào cà phê tôi vừa nói:

“Thưa me, con nghĩ anh Thăng phải là một người tham vọng”, và quay sang tôi, cô nói “anh uống xem có phải cà phê Uyên pha ngon hơn cà phê của mấy cái quán anh vẫn đến không?”

“Sao cô biết tôi là một người tham vọng? Tôi hỏi.

“Còn sao nữa! Chính anh nói mà!” Ðôi mắt Uyên tinh nghịch.

“Khó hiểu! Thật là khó hiểu!” Tôi bẻ một miếng bánh có bôi bơ lạt cho vào miệng.

“Cháu đừng quan tâm cách nói năng của Uyên. Nó là chúa bốc đồng đấy!” Bà Phan cầm chiếc khăn ăn thấm thấm môi.

“Thưa me, me đừng bênh anh Thăng. Chính anh ấy nói thật mà!”

“Hồi nào, ở đâu?” Tôi đùa.

“Anh có thể quên, nhưng Uyên có trí nhớ rất tốt. Cuộc đời một thiếu nữ khởi đầu bằng tình yêu và chấm dứt bằng hôn nhân. Còn cuộc đời của một thanh niên khởi đầu bằng tình yêu nhưng chấm dứt bằng một tham vọng.” Nếu Uyên không lầm, chính anh đã nói câu này trong một lớp tối, cách đây chừng bốn tháng!”

Ðúng là Uyên có một trí nhớ rất tốt. Nhưng đó không phải là câu nói của tôi. May sao bà Phan cắt ngang:

“Uống cà phê đi cháu. Cháu còn thiếu thứ gì cho bác biết nhé!”

“Cám ơn bác, cháu đã đủ”.

Bà quay sang con gái:

“Uyên nhớ lo cho anh Thăng những gì anh ấy cần! Con có để ý mấy cái cúc áo anh ấy không? Gớm dạy học gì mà áo nào cũng đứt một nút ở cổ!”

“Mẹ không phải đơm cúc áo cho anh ấy, con thấy lúc nào anh ấy cũng để áo hở cổ mà?” Bà Phan phì cười.

“Còn sách báo? Cháu đọc gì mà lắm thế?”

Quả là như vậy, đồ đạc tôi đâu có gì ngoài mấy cuốn sách. Quần áo không quá bộ thứ ba. Giầy một đôi. Dép một cặp. Hình như thời còn đi học tôi khá hơn bây giờ nhiều. Uyên kêu than vì đống báo tôi cứ phải bê xuống bê lên cầu thang không biết bao nhiêu bận. Khi đã cho tất cả vào thùng xe, Uyên nói.

“Thế mà cũng gọi là dọn nhà đấy! Nhà có gì đâu mà dọn. Chỉ là dọn sách báo thôi. Ðể Uyên mở một hàng sách nhé!”

Chú Tư tài xế nhắc:

“Còn bức tranh vẽ cô Uyên trên tường?”

Suýt nữa tôi quên. Bức tranh ấy Quỳnh dặn tôi nhớ mang theo. Sáng hôm sau ở nhà ông Phan ra, tôi đã đến gặp Quỳnh ở sở làm. Tôi kể lại cho cô nghe những gì ông Phan đã cho tôi biết. Quỳnh hơi mỉm cười không mấy tin một câu chuyện như thế.

Cô nói:

“Tiểu thuyết quá! Nhưng – Quỳnh tiếp – anh cũng không nên coi thường. Ông Phan là cây dù của anh trong lúc mưa to gió lớn thế này. Ðến ở hẳn trong nhà ông, theo em, không phải là một giải pháp toàn hảo, nhưng cứ nghĩ đến sự an toàn của anh, em xin anh cứ tạm thời là như thế!”

Quỳnh không hề nhắc đến Uyên, người mà cô biết chắc là tôi sẽ phải giáp mặt hằng ngày dưới một mái nhà. Quỳnh nói lần này cô sẽ không dọn nhà giúp như mấy lần trước, nhưng “đừng quên mang theo bức tranh của em, có nó anh sẽ nhớ em!”

Căn phòng bà Phan dọn cho tôi khá rộng, thoáng. Cửa kính trong suốt, màn vải dầy màu kem, máy điều hòa không khí mát lạnh. Một kệ sách bằng gỗ cẩm lai đẹp và nhã. Bàn viết lớn, ghế xoay. Giường trải ra trắng tinh, nệm, gối chăn đều mới. Một dàn máy nghe nhạc tối tân, một chồng dĩa mới nhất. Một ngọn đèn đọc sách trên bàn ngủ cạnh đầu giường. Cửa sổ chỗ đầu nằm mở ra một lối đi trải sỏi và cây mận lớn chùi nhánh lá qua mấy chấn song.

-Một con mọt sách đáng ghét! Uyên kêu lên.

-Uyên! Ðể im cho me nói chuyện với anh Thăng. Rồi quay sang tôi, bà tiếp:

-Có cháu ở đây tự nhiên tôi cảm thấy nhà cửa khác hẳn ra. Tôi có cảm tưởng như mình vừa có thêm một đứa con trai!

-Cám ơn bác! Bà Phan làm tôi cảm động thật sự.

-Này nghe tôi dặn, có đi chơi đâu nhớ trưa về ăn cơm nhé!

-Thưa bác, có lẽ cháu sẽ về muộn. Xin bác cho phép cháu tự nhiên!

-Cẩn thận nhé, ông nhà tôi trước khi đi có nhắc là đừng để cháu ra ngoài nhiều!

-Cám ơn bác, nhất định cháu sẽ không về khuya!

Tôi đứng dậy sau khi đã uống hớp cà phê cuối cùng.

-Xin phép bác!

-Kìa, anh Thăng! Anh đi đâu vậy? Uyên kêu lên, mắt nhìn tôi dò hỏi.

-Tôi có chút chuyện.

-Uyên đi theo được không? Cô hỏi tôi nhưng mặt quay về phía bà Phan.

-Uyên! Bà Phan nghiêm khắc. Nhưng khi thấy con gái xịu mặt, bà tiếp giọng dịu lại.

- Con gọi chú Tư đánh xe đưa anh Thăng ra phố, nhân tiện con ghé bác Phán trả hộ me chiếc vòng cẩm thạch nhé!

-Vâng, thưa me! Giọng Uyên vui hẳn lên

-Ði, anh! Cô nắm tay tôi lắc lắc thúc giục. Tôi chần chừ.

-Thưa bác, xin cám ơn bác. Nhưng cháu lung tung lắm. Ðể cháu đi cái Lambretta của cháu cho tiện!

-Cháu ngại à? Ừ, thì tùy cháu!

Bà Phan đẩy ly nước cam qua một bên, mở trang trong của tờ báo, cúi xuống đọc chăm chú.

Uyên theo tôi xuống sân. Khi tôi vừa cho máy nổ, cô đã ngồi sau yên, tay đặt lên vai tôi:

-Sao anh hấp tấp vậy? Sợ trễ hẹn hả?

-Hẹn ai?

-Làm sao Uyên biết được. Nhưng Uyên theo được không?

-Sao không? Nhưng cô muốn đi đâu?

-Anh đi đâu Uyên theo đó.

Tôi cho xe chạy qua Phan Ðình Phùng, đường mát dưới bóng cây. Một chiếc xe nhà binh vút qua bay lên những tiếng hát trầm hùng. Tôi vòng xuống Nhà Thờ Ðức Bà, dừng xe trước cửa Bưu Ðiện mua một gói thuốc lá. Tôi phóng nhanh, Uyên ôm chặt tôi cười khúc khích nhột ở cổ.

-Cười gì vậy?

-Ðừng dọa Uyên. Uyên không sợ tốc độ đâu!

Tôi cho xe chạy nhanh hơn, bỏ đường Duy Tân, phóng như bay trên những con lộ vắng. Ðường Gia Long với vòm me lá xanh mướt chạy dài đến cuối là nhà thờ Saint Paul gợi ta cái cảm giác đang đi trên một hành lang. Ðường Nguyễn Du có trường Quốc Gia Âm Nhạc tắm nắng dưới những hàng cây cao ngó xéo bên phải là tòa đại sứ Nam Hàn. Ðường Lê Quý Ðôn với những ngôi biệt thự xinh xắn, mái ngói đỏ, vườn cây xanh, sân trải sỏi.

Ở một ngã tư, đang chạy tôi chợt giật mình, đèn đỏ bất ngờ, tôi đạp chân thắng gấp. Uyên ôm chầm lấy tôi.

-Chết khiếp! Anh chạy ẩu quá trời!

-Sợ hả?

-Không bao giờ!

Uyên ôm chầm tôi, những ngón tay cô bấu trên vai tôi.

Ðèn xanh. Tôi lượn lại một vòng Nhà Thờ Ðức Bà. Nắng lóa mặt đồng hồ trên cao. Ðường Tự Do mát, hẹp và nắng. Ðến quán Cái Chùa, tôi chậm chậm, Uyên thúc hông kêu chạy tiếp. Tới Givral tôi rề rề.

-Thôi anh, Uyên không vào đâu, bạn anh ông nào ông nấy dễ sợ thấy mồ!

-Vậy muốn đi đâu?

-Hoàng Gia!

-Cô ghiền trà Hoàng Cúc à? Không sợ lựu đạn cay sao?

-Sao? Chứ anh không thích trà Hoàng Cúc sao?

-Thôi. Hay là mình đi về đi?

-Về làm chi?

Uyên nhổm người lên nói sát vào tai tôi.

-Ông mát rồi, ông ơi!

Ðến đầu đường Nguyễn Huệ, tôi tấp vào một quán bán hoa.

-Một chục bông hồng cho người tên Uyên!

-Cho Uyên? Cô ngạc nhiên.

-Chưa bao giờ nhận hoa của đàn ông tặng à?

-Chưa bao giờ!

-Thật không?

-Thật một trăm phần trăm!

-Vậy tập nhận một lần cho quen!

-Cám ơn anh. Rồi sao nữa anh?

Uyên hỏi khi tôi đã cho xe chạy.

-Về nhà!

Tôi nhớ Quỳnh. Tôi hình dung cô đang ngồi trong sở giữa những giấy tờ và lịch chuyến bay của hãng. Phía sau lưng Quỳnh, chiếm trọn tấm vách là tấm bản đồ lớn với chi chít những đường bay của hãng CAL đến các thủ đô trên thế giới.

Bàn đối diện Quỳnh là Châu Khả Tú. Cô bé người Hoa này là một đồng nghiệp rất gần gũi Quỳnh. Cô hiểu mối liên hệ giữa Quỳnh và tôi. Và chúng tôi cũng biết đôi điều về cô Tú. Cô xinh đẹp, nói tiếng Anh giỏi, tế nhị và khả ái. Tôi thường gọi cô là Miêu Khả Tú, tên một diễn viên điện ảnh Tàu đang ăn khách. Cô yêu Trí, một thanh niên Việt Nam, nhưng ba cô, một thương gia có máu mặt ở Chợ Lớn, cực lực phản đối. Ông kéo cả gia đình đứng về phía ông. Anh chị của Tú và các đứa em cô đều phản đối mối tình Hoa-Việt kia. Trí nhà nghèo, tính bộc trực, học giỏi. Anh không chịu được phong cách chủng tộc của ông cụ nhà Tú, nên không bao giờ anh đến thăm gia đình người yêu. Cả hai chỉ gặp nhau ở các quán nước và đôi khi đi ăn cơm với chúng tôi.

Chính sáng hôm qua khi nghe tôi nói chuyện đổi chỗ ở, Tú tỏ vẻ không đồng ý. Cô nói với Quỳnh, chị coi chừng anh ấy sẽ vào bẫy bà Uyên. Quỳnh đã cười nói, “Em biết anh Thăng đa cảm, nhưng em tin, rất tin anh ấy!” Khi Quỳnh hỏi tôi cần gì để cô lo, tôi đã trả lời, “Cần em! Rất cần em!” thì Quỳnh ngó chăm xuống tấm bản đồ đường bay trên mặt bàn. Mãi một lúc sau cô ngửa mặt lên “Nhưng anh đâu để em lo cho anh!” Quỳnh cười, chiếc răng khểnh làm tôi bối rối. Tôi nhớ Quỳnh. Tôi nhớ mái tóc cơ thơm mùi cỏ của dầu gội đầu, nhớ mùi da thịt lôi cuốn, nhớ mắt long lanh tình ái khi hai chúng tôi gần nhau, nhớ giọng bướng bỉnh, nhớ tiếng kêu ư ư trong cổ họng…

Tôi nằm yên trên giường trong căn phòng sáng sủa tiện nghi. Tôi nhìn bức tranh của Quỳnh trên vách. Tôi ngó ra cửa sổ, cành mận len qua chấn song. Có phải tôi là người tù sung sướng trong một chiếc pháo đài mà không viên đạn nào có thể xuyên qua? Hay tôi là người tự do đi tìm quyền lực? Liệu có phải vì Uyên mà tôi đến đây? Hay chỉ là cái cớ để tìm lại dấu vết của cha tôi.

Ngày đầu tiên của một người đi trên mây trong căn nhà quyền thế sao mà thừa mứa thời gian và trống rỗng đầu óc đến thế!

Chương 10

Suốt một tuần lễ, tôi tự nhốt mình trong ngôi biệt thự ông Phan, không gặp ai cũng chẳng liên lạc với ai, ngoài một lần gọi dây nói cho Quỳnh.

Tôi nằm khềnh trên giường đọc sách, xem Tivi, nghe nhạc. Báo mới thì Uyên mang cho tôi mỗi ngày, không thiếu một tờ nào. Những biến động chính trị và quân sự trong nước vẫn chiếm hàng đầu trên các trang nhất. Chuyến đi của ông Phan có vẻ như bị chìm trong những tin thời sự nóng bỏng khác. Thế nhưng, sáng hôm nay, tờ Chính Luận chạy ở trang nhất một bài phân tích về chuyến đi Hoa Kỳ của ông Phan. Dưới tựa đề “Rạn Nứt Trong Hội Ðồng Nội Các”, tay bỉnh bút của Chính Luận cho rằng sự sắp xếp để ông Phan ra đi như là cách tống khứ một nhân vật mà các phe đang gầm ghè nhau để giành quyền chiếm chiếc ghế cao nhất trong chính phủ.

Tôi vốn không mấy chú tâm đến những bài lập trường thời sự, nhưng lần này sự hiện diện của ông Phan những dòng chữ đó khiến tôi không thể không suy nghĩ. Bài viết cũng cho biết những tay “lobbyist” của Việt Nam đã không tranh thủ được các nghị sĩ và dân biểu Quốc Hội Hoa Kỳ. Tôi không nắm bắt được ý nghĩa của những tiếng lóng thời sự chính trị. Hậu trường của những bang giao quốc tế đối với tôi lại càng mù mịt hơn. Tôi chỉ là kẻ đứng bên lề thời cuộc, luôn bị dị ứng với những tin tức loại này. Tôi lớn lên trong chiến tranh, lạc gia đình lúc năm tuổi. Khi quả lựu đạn nội hóa nổ trước sân nhà, mẹ đi chợ xa chưa về, còn cha tôi thì vẫn còn biệt tích mù khơi theo chuyến phiêu lưu của đời ông. Một người đàn bà thấy tôi hoảng hốt đã lôi tôi đi để che chở. Tôi mất liên lạc với mẹ tôi từ ấy. Những gia đình lạ hoắc chia nhau nuôi tôi. Tôi sống từ nhà này sang nhà nọ, từ làng quê này sang làng quê khác. Tôi có nhiều cha nhiều mẹ nhiều anh em.

Nhưng cha mẹ thật của tôi thì hoàn toàn không ở cùng tôi. Những người lính Nam Tiến của bộ đội Nam Long nuôi tôi trong rừng. Tôi được các cô các chú sinh viên Hà Nội dạy những bài hát Phạm Duy, Văn Cao, Phan Huỳnh Ðiểu… Tôi được nghe ngâm thơ Nguyễn Ðình Thi, Hoàng Cầm, Yên Thao, Hữu Loan…

Rồi sau một trận đụng độ giữa Pháp và Việt Minh, tôi bị một tiểu đoàn Lê Dương bắt. Một người Lê Dương già, chuyên viên vũ khí trong tiểu đoàn Commando, nhận tôi làm con nuôi. Tuy cấp bậc thượng sĩ, nhưng với huy chương Sông Rhin, ông được cả tiểu đoàn kính nể và vẫn gọi là “papa Chopin,” có lẽ vì ông là người ưa thích nhạc Chopin, mặc dù tên thật của ông là Max Kaltenmark, gốc Áo. Vào Lê Dương ông là người không gia đình, không tổ quốc. Ông lo cho tôi như một người cha ruột lo cho con. Cái hình ảnh một đứa bé Á Châu chân tay đầy những nốt đỏ ghẻ chốc ngồi trên vai một người Âu Châu cao lớn râu tóc rậm rạp trắng xóa đi giữa đường phố Catinat của Sài Gòn không bao giờ phai mờ trong trí tôi.

Tôi gọi ông là papa, và vì người ta quí ông, tôi cũng được hưởng lây sự chăm sóc ấy của cả tiểu đoàn. Gần năm năm sau ngày lạc gia đình, mẹ tôi mới tìm ra được tung tích con. Bà được một người làm thông ngôn dẫn đến tận tiểu đoàn, trình giấy khai sinh và xin đón tôi. Ngày chia tay, papa ôm tôi thật chặt, nước mắt trên gò má bệu đầy những nốt tàn nhang màu nâu của ông.

Tôi nhớ lại lúc đó tôi đã khóc, khóc dữ lắm. Trước hết là mừng gặp mẹ và kế đó là buồn vì phải xa người cha nuôi. Sau đó bặt đi một thời gian lâu lắm, tôi không được tin tức gì về papa. Mãi đến năm 1955, tôi mới nhận được thư của một người gửi từ Pháp, báo tin papa tôi, ông Max Kaltenmark đã qua đời trong trận Ðiện Biên Phủ. Người viết ký tên là Thiếu tá Henri Duval. Ông nói rằng cuộc chiến tranh Việt Nam đã cướp đi của ông một người bạn tốt mà suốt đời ông không thể nào quên.

Ông Kaltenmark là người đã cứu ông thoát chết trong một trận cận chiến dưới hào. Và cái giá của sự sống ông Duval được trả bằng cái chết của papa Chopin. Ông hỏi tôi cần thứ gì trong khả năng ông, ông sẽ thỏa mãn tôi đúng thứ đó. Bây giờ ông là người thay papa tôi và ông có trách nhiệm với tôi như lời hứa của ông với người quá cố. Tôi giữ tấm thẻ bài của papa Chopin nhưng tôi không trả lời ông Duval. Cuộc chiến đó đã đi vào quá khứ lịch sử của hai dân tộc. Ðất nước chúng tôi đang làm một cuộc chiến khác, tàn bạo hơn, đẫm máu hơn, bi đát hơn. Hiện tại bao giờ cũng hơn dĩ vãng và kém thua tương lai kể cả cái tốt lẫn cái xấu. Chính trong những năm tháng sống với papa Chopin tôi đã theo chân tiểu đoàn Biệt Ðộng di chuyển khắp nơi. Chiến tranh thật là ghê tởm. Nó làm khổ người sống đã đành, người chết cũng không được nó để yên thân. Tôi nghĩ sự rơi rụng của một chiếc lá đôi khi còn có thể hiểu được hơn là cái chết của một người dân vô tội.

Tôi là kẻ đứng bên lề thời cuộc, điều đó đâu có nghĩa tôi là người đứng bên ngoài vận mệnh của đất nước tôi. Các anh tôi, người Không quân, người Biệt động quân. Các em gái tôi đứa làm cô giáo, đứa nữ quân nhân. Nhưng gia đình tôi, tất cả mười hai anh em, đôi người chết bên kia, vài kẻ chết bên này. Tôi là người lính biệt phái chưa ra trận mạc nhưng tai đã nghe tiếng đại bác, mũi đã ngửi mùi thuốc súng, mắt đã thấy máu chảy, đã chứng kiến cái chết… khi mới vừa lên sáu. Làm sao tôi có thể đặt mình ở một cõi riêng mà không thấy được những hệ lụy ấy ngay trong chính gia đình mình.

Tôi ghê tởm chiến tranh. Tôi sợ hãi chính trị. Tôi chỉ là con đà điểu chôn đầu dưới cát trốn sự thực, nhưng sự thực không bao giờ tha tôi. Nhà ông Phan cũng đâu phải pháo đài. Nếu người ta muốn hại tôi, tôi có cánh cũng không bay thoát, hơn nữa nếu người ấy lại là ông Lý. Vậy thì muốn thoát ra ngay lúc này cũng đâu phải chuyện chơi!

Liệu sự náu mình của tôi ở đây có phải là Uyên? Cô đã chăm sóc tôi hơn là lòng tôi mong ước, nhưng cô cũng đã nghiêm chỉnh với tôi hơn là trí tôi tưởng tượng. Ðôi lúc Uyên cư xử như một cô em gái nhỏng nhẻo. Nhiều khi đóng vai bà chị khắc nghiệt. Rất ít tỏ ra là một người tình.

Ở Uyên, đùa cợt là thông thường, lý trí là căn bản. Tình cảm luôn luôn là cân nhắc. Cô muốn gì ở tôi? Rõ ràng là không!

Chúng tôi là anh em. Cô có vẻ trêu tức Quỳnh mà không chút ác ý. Hình như cô muốn tôi nói yêu cô để cô có dịp trả lời thẳng vào mặt tôi là cô không hề có chút mảy may yêu tôi. Cô chân thật hay gian trá? Cô yêu tôi hay ghét tôi? Cũng như ông Phan, Uyên có khả năng gài bẫy, và nếu ai muốn sụp thì xin cứ mời, nhưng ngóc đầu dậy sau khi ngã vào bẫy cô, điều đó có vẻ hơi ảo tưởng. Tôi nhìn tôi như thế và tôi phân tích Uyên như tôi thấy rõ cô trên màn ảnh của trí óc tôi.

Nhưng một tuần trầm mình trong sự u tịch của một căn phòng tiện nghi, sạch sẽ và thơm tho với tôi thế là đủ. Sự thừa mứa thời gian làm tôi bệ rạc. Tôi nhớ Quỳnh. Tôi ngồi dậy. Tôi nghe tiếng Uyên hát một ca khúc Pháp. Giọng cô cười giòn như pháo. Tôi nhấc ống điện thoại. Tôi nghe tiếng chân bà Phan đi trên hành lang. Tôi quay số sở Quỳnh. Tiếng thủy tinh vỡ vang từ phòng khách. Tôi nghe Uyên hét thất thanh. Tiếng chuông reo đầu dây bên kia. Tôi hỏi nhanh:

-Alô! China Airline?

-Alô! China Airline nghe đây?

-Chào cô! Tôi muốn nói chuyện với cô Quỳnh.

-Anh Thăng hả? Miêu Khả Tú đây! Anh chờ một tí nhá!

-…

-Alô! Em đây. Anh ở đâu vậy?

-Quỳnh! Tôi đang ở nhà bác Phan. Tôi muốn gặp em?

-Ngay bây giờ hả? Không được đâu. Em nhiều việc kinh khủng!

-Thế chiều nhé?

-Vâng, em chờ anh ở nhà đúng năm giờ!

Căn phòng Quỳnh nhỏ mà gọn, nằm ngay trên lầu hai thương xá Eden. Cửa sổ mở, ngó qua rạp Rex. Tôi tra chìa khóa bước vào. Quỳnh đang ở trong buồng tắm. Tôi ngả lưng trên mặt nệm, nhắm mắt duỗi dài tay chân. Tôi thấy thoải mái.

Bao giờ cũng vậy, khi bước vào phòng Quỳnh, tôi luôn có cảm tưởng như đang ở nhà mình. Chăn nệm cô thơm ngát sự tươi mát của một buổi rạng đông. Cửa sổ lớn mở rộng đón gió thổi từ sông Saigon. Tất cả những thứ ấy dễ làm tôi buồn ngủ.

Phòng Quỳnh có nhiều tạp chí thời trang. Những cuốn Elle và Marie-Claire màu sắc rực rỡ. Những thiếu nữ Pháp xinh đẹp trong những y phục loại-mốt-nhất. Tôi loáng thoáng nghe tiếng động của máy xay trái cây. Tôi thấy bóng Quỳnh di chuyển mờ ảo,… và tiếng loạt xoạt của của những trang báo bị lật, cái kẹp tóc, chiếc khăn tắm lớn của Quỳnh rơi trên nền nhà, mùi xà phòng thơm, khuôn mặt Quỳnh, đôi mắt to, chiếc răng khểnh, và cả tấm thân mềm mại quen thuộc cô ập xuống thần trí tôi… rồi hết thảy phút chốc tan loãng, kéo lướt đi như mây khói…

Tôi thấy ông Phan trở về trên một chiếc phi cơ đặc biệt. Khi máy bay sắp đáp xuống phi đạo thì hai chiếc phản lực cơ chiến đấu không biết từ một hướng nào phóng tới bắn xối xả vào máy bay ông Phan. Tôi thấy khói bốc lên sau đuôi. Máy bay ông Phan vụt lên trở lại. Ðám hành khách đặc biệt hốt hoảng bên trong phi cơ. Máy bay mất thăng bằng. Phi công chánh đã bị đạn gục trước cần lái. Phi công phụ đang thay thế. Tôi thấy ông Phan vẫn ngồi yên trên ghế. Da mặt ông sạm lại. Hai con mắt ông nhỏ nhưng sáng một cách kỳ lạ. Máy bay ông Phan vẫn nằm giữa hai lằn đạn. Và “ầm!” một tiếng lớn, máy bay ông bốc cháy. Một đám khói đen trên bầu trời chúi xuống và nổ tung. Tôi la to lên:

-Bác Phan! Bác Phan!

Và tôi choàng tỉnh dậy. Mồ hôi vã ra như tắm.

-Anh, anh sao vậy?

Quỳnh ngồi trên giường, mắt lo lắng, hai tay lay vai tôi. Tôi thấy những sợi tóc ướt bám trên trán cô. Bộ ngực nặng nề phập phồng sau làn vải mỏng.

-Anh làm sao vậy?

Quỳnh lặp lại câu hỏi. Mặt cô cúi thấp gần mặt tôi. Tôi nghe hơi thở cô nóng bỏng, gấp gáp.

Quỳnh lau mồ hôi trên mặt, mũi, cổ và ngực tôi.

Tôi kể cho cô nghe giấc mơ.

-Tại sao anh lo lắng cho ông Phan quá vậy?

-Có gì đâu. Ðó chỉ là một giấc mơ thôi mà!

-Sao anh không mơ thấy em?

-Lúc nào tôi chẳng mơ thấy em!

-Ông lẻo mép quá đi ông ạ!

Tôi choàng tay qua người Quỳnh kéo cô ấp lên người tôi.

-Hôn tôi đi!

Quỳnh cắn môi tôi. Nàng yêu tôi mạnh mẽ như chưa bao giờ yêu.

Căn phòng tối. Quỳnh nằm ngược chiều tôi. Tay cô dang rộng chạm vào gan bàn chân tôi. Chiếc quạt máy ngưng chạy từ hồi nào, nhưng gió thổi qua cửa sổ mát lạnh.

-Cho tôi điếu thuốc Quỳnh!

Tôi nói nhưng không tin là Quỳnh nghe.

Quỳnh nhổm dậy. Tiếng chân đi trên nền nhà, tiếng khua động ở ngăn kéo, tiếng diêm quẹt đánh lên, ánh lửa lóe sáng soi khuôn mặt Quỳnh.

-Thuốc đây anh! Quỳnh đặt điếu thuốc giữa hai môi tôi.

-Anh làm gì suốt một tuần không gặp em?

-Chẳng làm gì cả! Ðọc sách, nghe nhạc.

-Còn cô Uyên?

-Nghe nhạc, đọc sách!

-Chỉ thế thôi?

-Chớ em muốn tôi làm gì khác?

-Anh có phải là một tù nhân hạnh phúc không?

-Không phải tù nhân, và cũng không hạnh phúc!

-Em nghĩ là em đang mất anh!

-Em cho là tôi sắp chết sao?

-Anh đừng nói bậy! Chính anh phải biết là anh không còn là anh như trước đây chứ?

-Tôi đã thay đổi nhiều vậy sao?

-Anh đã thay đổi! Quỳnh nói giọng quả quyết. Cô nhấc điếu thuốc khỏi môi tôi. Quỳnh hút. Ðốm sáng soi mặt cô từng chập. Giọng Quỳnh cay đắng.

-Tôi nghĩ là chính em đang có điều bực dọc nên nhìn chuyện gì cũng thấy không giống như ý em muốn.

-Hôm qua em gặp anh Tuấn ở tòa án. Anh ấy nói Thăng sắp làm phò mã ông Phan thật rồi! Em hỏi sao anh biết, anh ấy nói chính cô Uyên tâm sự với một người bạn.

-Rồi sao nữa?

-Chờ ông Phan đi Mỹ về là làm lễ cưới.

-Chưa đính hôn mà! Tôi đùa.

-Ðính hôn rồi! Quỳnh quả quyết, giọng chắc như bắp.

-Hồi nào vậy? Tôi tiếp tục đùa.

-Tuần rồi! Anh Tuấn nói lễ đính hôn diễn ra trong vòng thân mật. Quỳnh không đùa tí nào.

Tôi thấy hình như câu chuyện đã đi quá xa. Tôi hỏi gặng:

-Em tin thật sao?

-Còn gì nữa mà không tin! Quỳnh nói giữa hai hàm răng.

-Em muốn nghe tôi nói không?

-Chuyện đó chưa đủ sao mà anh còn nói nữa!

-Ðó là bịa! Tôi khó chịu. Tôi ghét đính chính những điều tôi không hề dính dáng.

Quỳnh rúc đầu vào ngực tôi. Mái tóc ngắn của cô làm tôi nhột. Tôi kéo Quỳnh lên, môi tôi tìm môi cô. Da thịt Quỳnh quen thuộc trong tay tôi. Bụng cô nhỏ, lưng ong, thon, lũng thấp. Ngực căng rắn. Ðùi dài tròn lẳn. Trên chiếc giường hẹp, chúng tôi đo nhau. Thân thể tôi trong thân thể Quỳnh.

-Ðừng anh… Ðừng mà anh!

Quỳnh phản ứng chiếu lệ, hai tay vẫn đẩy sâu tôi thêm vào người cô. Hơi thở Quỳnh nóng hổi, bứt rứt như thúc giục những ham muốn trong tôi trào ra. Những ngón tay của cô là những mũi kim châm cứu, nhọn buốt dưới da nhưng làm rung động châu thân tôi trong một niềm hoan lạc khó tả.

Mùi thơm của tóc Quỳnh, mùi nồng của da thịt cô làm tôi thêm rạo rực. Tiếng Quỳnh u ư trong cổ họng như con mèo con phơi nắng bên cửa sổ.

-Tôi mở đèn nhé!

-Ðừng anh! Quỳnh giữ tay tôi lại.

Căn phòng tối, nhưng ngoài cửa sổ đêm xanh ánh trăng. Tôi thấy mắt Quỳnh long lanh một thứ ánh sáng kỳ lạ. Chúng tôi áp mặt vào nhau thở chung hơi thở tình ái. Tôi vò tóc Quỳnh trong tay tôi. Im lặng quá! Ðêm như chôn chúng tôi trong chiếc quan tài hạnh phúc.

“Em sợ!”

Bỗng nhiên Quỳnh nói. Giọng cô nhỏ, mỏng như hơi thở.

“Sợ gì?”

Tôi nằm xuống, tay tôi trên ngực Quỳnh.

“Không. Em không sợ. Em muốn có con với anh…”

“Chi vậy?”

“Ðừng hỏi em một câu ngu như thế!”

“Xin lỗi em!”

Tôi ôm riết Quỳnh, mũi tôi cọ lên mũi cô. Tôi làm tối lại thứ ánh sáng long lanh trong mắt cô phản chiếu từ những ngôi sao xa. Tôi quơ tay lên đầu giường, mở núm điều chỉnh của chiếc máy thu thanh. Một giọng ca quen thuộc ấm áp và nồng nàn tình cảm bay khắp phòng…

Với tôi, Mùa Hè vô tận này là kết hợp của một chuỗi những ngày Chủ Nhật buồn và Quỳnh như một “đóa hoa hồng vùi quên trong tay tôi”. Không, chúng tôi là những cục than hồng vùi trong lò gạch nung, chìm dưới lớp tro than xám xịt. Chúng tôi lạnh lẽo một cách bốc cháy. Chúng tôi hực lửa bên nhau nhưng sao vẫn rét buốt tận tâm can. Tại sao Quỳnh muốn có con với tôi? Cô biết tôi sợ hôn nhân. Cô là người đầu tiên đề nghị một cuộc sống chung không cần giá thú. Cô từng nói thà sống với nhau lâu dài không hôn thú hơn là chia tay trong thù hận với hàng đống giấy tờ. Và tôi, cuộc hôn nhân thất bại là một thứ ung nhọt lúc nào cũng tấy mủ trong da thịt tôi. Vết thương lở lói và hôi thối ấy làm tôi ghê tởm cả chính tôi. Một lần về thăm Ðăng và Mai, chị ta cầm tay tôi nói giọng âu yếm là tôi gầy quá, chị muốn được chăm sóc tôi, hầu hạ tôi, và chị ta muốn trở lại với tôi. Tôi đã gỡ những ngón tay chị ta ra và phủi cái dấu vết ô nhục vừa chạm lên đó giống như có con sâu rọm mới bò qua. Kể cho Quỳnh nghe chuyện này, Quỳnh cười:

“Anh cực đoan, bao giờ cũng cực đoan! Anh không nghĩ là đã có thời gian anh từng yêu chị ấy hay sao?”

Không, chưa bao giờ tôi yêu chị ta. Chúng tôi cùng trạc tuổi nhau, cùng học một lớp, chị ta là người đầu tiên dạy tôi bài học ái ân. Nhà trọ nằm trên đường tới Viện Ðại Học. Khí hậu Ðà Lạt lạnh đều suốt năm. Phòng không lò sưởi. Cửa kính mù sương những buổi sáng. Cây ổi không bao giờ ra trái trước mặt nhà. Hàng rào là những cây bông hồng. Dưới cửa sổ đầy bông thược dược và cẩm chướng. Chúng tôi sống bằng những tô phở của người bán rong vào lúc giữa khuya. Họa hoằn lắm mới ăn được miếng bánh mì baguette của tiệm Vĩnh Châu vừa mới ra lò còn nóng hổi.

Chúng tôi miên man và mải mê trong thú vui xác thịt. Dù sao phải nói là tôi biết ơn chị ta. Chị ta đã dạy tôi khám phá ra được những bí mật của thân xác. Những niềm bí mật ấy cần được ngợi ca. Thói quen ân ái thật khó bỏ. Nó đeo riết lấy tôi. Nó làm người ta không còn lãng mạng nữa. Cho đến khi tôi muốn rứt ra thì chị ta tìm đến gia đình tôi, mua chuộc em gái tôi, bao vây mẹ tôi. Và chị ta quỳ dưới chân tôi. Cầu khẩn tôi lấy chị ta như cầu khẩn một đấng thần linh. Vấn đề giữa chúng tôi không phải là lấy nhau, lại càng không phải là tình yêu. Vấn đề là chị ta muốn có một tờ giấy xác nhận hôn nhân. Ðám cưới lớn, nhưng cha và mẹ tôi không có mặt.

“Anh nghĩ gì vậy?” Quỳnh hỏi, ngón trỏ của cô di động trên sống mũi tôi.

“Mũi thẳng là mũi bạc tình!” Quỳnh giải thích.

Tôi không trả lời cô. Tôi hỏi Quỳnh một câu khác.

“Em đã tìm đâu ra bức tranh treo phòng hay vậy?”

“Của em.”

“Sao em có điện thoại của Uyên?”

Quỳnh ngồi bật dậy, co chân, hai tay bó gối, đầu hơi chúc xuống phía tôi, giọng ngơ ngác.

“Cô Uyên nào? Làm sao em biết được?”

Và Quỳnh nằm xuống, úp cả thân thể cô lên tôi. Người cô mát nhưng hơi thở nóng. Tiếng cô cười rất nhỏ trong miệng.

“Ðùa anh chơi tí. Em gọi đấy!”

“Tại sao?”

“Thì em muốn gọi. Vậy thôi! Cô ta đâu là gì anh. Và nếu cô ta là gì của anh thì cũng là điều hay!”

“Tại sao hay?”

“Ðể anh có dịp làm một cuộc trắc nghiệm!”

“Trắc nghiệm?”

“Chứ sao! Ðôi khi anh cũng nên xem lại chúng ta còn cần nhau tới chừng nào. Phải không?”

“Lúc nào mà tôi chẳng cần em?”

“Còn cô Uyên?” Quỳnh hỏi ngược bất ngờ…

“Uyên là con gái của ông Phan…” Tôi lúng túng trả lời lẩn quẩn.

“Em biết cô ta học Văn Khoa, nhưng thân đám trường Luật. Em biết cô ta là một người kiêu ngạo. Thứ gì cô cũng đều nhất nước. Em biết cô ta thích anh. Nhưng em còn biết, hơn một điều nữa: Cô ta không hề yêu anh, mà cô ta cũng chả yêu ai…”

“Tôi còn biết nhiều hơn em nữa kìa. Chưa hề có một người trên đời này yêu tôi.”

“Thôi, không nói nữa, lẻo mép ạ!”

Quỳnh rúc đầu vào ngực tôi.

“Có khi nào em ghen không?”

“Còn lâu!”

Những ngón tay Quỳnh bấm sâu trên lưng tôi.

“Em chỉ muốn có một đứa con với anh. Một đứa thôi, rất giống anh và em sẽ không cần anh nữa!”

Gió thổi lộng vào phòng, trong cái mát lạnh tôi nghe như có những giọt nước mưa rất nhỏ bắn vào, dội lên những song sắt và rơi xuống mặt tôi.

“Em ghét anh…” Quỳnh nằm ngửa, dang rộng hai tay, đẩy tôi ra sát mép giường…

“Hôn tôi đi, nhỏ…”

Quỳnh rướn người lên, áp mặt cô lên mặt tôi, trán cô vào trán tôi. Chương trình nhạc đã dứt tự hồi nào. Người xướng ngôn đang đọc bản tin thời sự tóm tắt trong ngày.

Chúng tôi ôm chặt nhau, thở giùm nhau trong tiếng còi báo động giờ giới nghiêm.

Làm thế nào được, cuộc chiến tranh không lối thoát bao giờ cũng chen vào giữa hai làn môi chúng tôi?

Người Đi Trên Mây, hiệu đính từ bản điện tử của Người Việt Online và ấn bản 2014 Người Đi Trên Mây, Người Việt Books, ISBN 978-1-62988-251-2 (TV&BH 2014)