- Nhà Tù Kiên Giang
- Tư Long
- Gặp Lại Nhị Hà
- Sáu Phận
Nhà Tù Kiên Giang
1.
Nhà tù Kiên Giang buổi tối. Những cánh cửa sắt mở ra đóng lại vội vàng. Cả đám người bơ phờ, bụng đói, tay không đồng hồ, chân không giày dép, đầu óc hoang mang lo lắng sợ hãi ngồi chồm hổm giữa sân nhà giam.
Đêm đang xuống.
Tôi không thấy Kiệt đâu. Cả Hiệp cũng bị đẩy về một phía nào. Đêm tối ám, không thấy rõ mặt người. Cả đám ngồi lổn nhổn như những hòn đá. Một ngọn đèn vàng hắt xuống từ một mái nhà trước mặt chiếu sáng vừa đủ ba chữ "Cải Hối Thất."
Một vài bóng đen đi lướt qua, lặng lẽ. Mưa lất phất vừa đủ ướt mặt. Người ngồi trước quay lại hỏi tôi:
"Bị bắt ở đâu vậy?"
"Rạch Sỏi." Tôi trả lời cho xong chuyện.
"Xuống ghe chưa?"
"Chưa. Còn ông?" Tôi hỏi lấy lệ.
"Ôi! Tôi hả?" Tôi lên xuống như cơm bữa." Rồi ông ta quay hẳn mặt lại: "Lần đầu hả?"
"Lần đầu." Tôi trả lời.
"Đừng sợ. Ông tên gì?"
Có cần nói tên mình cho người lạ mặt này nghe không? Tôi thoáng nhớ lại những lời dặn của ông Công. Đi có giấy công tác cứ nói thật, cứ khai địa chỉ chỗ làm việc. Phần còn lại để ổng lo. Tôi cũng nhớ lời dặn của Tâm Khô-Khốc-Thiền-Sư. Mày phải khai tên giả, địa chỉ giả, lý lịch giả. Tụi nó không cách nào điều tra được. Phải nhớ mày là dân ít học, làm nghề chân tay, trốn quân dịch, có cảm tình với cách mạng… Càng ở gần tận cùng đáy của xã hội càng tốt. Tôi hiểu lời dặn dò của Tâm. Cái đáy vực của chế độ này là đỉnh cao của chế độ kia và ngược lại. Nhưng đó có phải là chân lý không?
Tôi không tin một sự đổi đời và lộn ngược như thế. Sấp-Ngửa. Trắng-Đen. Phải-Trái. Tôi đã nhìn thấy những điều đó đang diễn ra quanh tôi. Cái hôm qua được coi là đạo đức, bữa nay đã bị coi là tội lỗi. Một ngôi nhà to, một chức tước cao, một địa vị lớn, một sự quen biết rộng…của bữa trước, rất là bất lợi cho bữa nay. Mới hôm qua còn là "ông," bây giờ đã là "thằng."
Còn "thằng" hôm qua có là "ông" hôm nay không thì không rõ.
Tội ác như một thứ ruồi nhặng mà những người cầm quyền mới cố gắng dán lên đầu những con người của chế độ cũ, tưởng chừng như…Nhưng mà những con người cùng khổ của hôm qua, sau mấy năm dưới chế độ mới cũng vẫn không thơm tho gì hơn. Căn nhà bằng bìa cạc-tông, mái lợp tôn hay fibro xi măng bữa trước ra sao bây giờ vẫn vậy. Có đổi mới chăng là xiêu vẹo hơn, và dột nát hơn. Người cùng khổ vẫn sống, tiếp tục sống dưới đáy xã hội. Chỉ có những kẻ khốn nạn hôm qua mới chiếm được một chỗ sạch sẽ dưới ánh đèn ấm cúng trong một ngôi nhà mới. Vậy thì tôi có cần nói tên tôi cho người lạ mặt này không. Nhưng mà tôi là cái thá gì chớ! Nói thì sao. Đã sao?
"Thăng. Tôi tên Thăng. Mà ông hỏi chi vậy?"
"Hỏi vậy thôi. Tôi tên Bình. Tôi bảo đảm là trước sau gì ông cũng nhớ đến tôi!"
"Im lặng! Im lặng!" Tù không được nói chuyện." Bất ngờ một giọng nói vang lên rất gần chỗ tôi. Tôi ngước mắt nhìn chưa kịp ngạc nhiên về lời nói của người bạn tù, thì cái bóng đen lướt qua choán trước tầm ngó của tôi.
"Anh kia tên gì?" Bóng đen hỏi.
"Thăng." Tôi trả lời gọn.
"Cái gì Thăng."
"Trần Lâm Thăng."
"Bị bắt vì tội gì?"
"Không biết."
"Không biết?" Bóng đen hỏi lại.
"Không biết." Tôi lặp lại.
"Đứng dậy!" Hắn ra lệnh.
Tôi chống hai tay dưới mặt sân ướt lấy thế đứng dậy. Tôi nghe cả hai chân tê điếng.
"Anh biết tại sao tôi bắt anh đứng dậy không?"
"Không biết."
"Anh theo tôi. Cần phải nhốt anh ở một chỗ riêng. Anh biết tại sao không?"
"Không biết."
"Anh có biết là ngồi trong đám tù này mà anh cao hơn nhiều người tù khác không?"
"Không biết." Tôi bắt đầu ương ngạnh.
"Vậy bây giờ biết rồi. Theo tôi!"
Bất thình lình hắn đẩy chúi tôi về phía trước. Tôi tưởng mình bị ngã sấp xuống. Cái chân đau của tôi bị nhói thấu xương.
Chỉ mấy bước ngắn hắn xô tôi qua một bên tra chìa khóa vào cánh cửa gỗ mở toang ra. Một mùi hôi nồng nặc xông lên. Tôi đang chần chờ. Hắn đập mạnh vào ót tôi bằng một vật cứng. Tôi ngã xuống.
Tôi không nhớ mình nằm dưới mặt đất ẩm hôi hám này trong bao lâu, nhưng khi tôi tỉnh dậy, bắt đầu quen bóng tối, tôi thấy lờ mờ còn có một người tù khác đang ngồi tựa lưng vào tường. Phòng chật, tôi nghĩ vậy, bởi vì chân tôi đụng vách và tay tôi chạm vào chân một người. Không, nói đúng hơn tôi chạm vào sợi xích sắt buộc vòng cổ chân người tù kia. Có lẽ ông ta còn thức, bởi vì thỉnh thoảng tôi nghe thấy tiếng khua động của sợi xích. Bọn cán bộ đang điểm danh tù bên ngoài. Xà lim tối om.
"Có thuốc lá không?" Bất ngờ ông ta hỏi.
"Không." Tôi trả lời thật nhanh.
Tôi nhớ khi ở Rạch Sỏi, hai tên công an đã thu hết mọi thứ trên người tôi, đồng hồ, giấy tờ tùy thân, kể cả gói thuốc, và cái hộp quẹt zippo.
"Mới hả?"
"Mới."
"Tội gì?"
"Tình nghi vượt biên."
"Tình nghi?"
"Phải. Tình nghi."
"Vậy, chắc sẽ ở lâu."
"Tại sao?"
"Tình nghi thì phải ở lâu, tại vì có biết tội gì mà buộc mà xử."
"Vậy có tội thì về sớm sao?"
"Tùy tội chớ. Lâu hay mau là tùy tội nặng hay là nhẹ."
"Còn ông, tội gì?" Tôi hỏi.
"Không phải chuyện vượt biên đâu."
Ông ta nói chưa hết câu, tôi chống tay ngồi dậy, dựa lưng vào vách chờ đợi ông nói tiếp. Tôi có cảm tưởng như ông sắp nói thêm một điều gì nữa. Nhưng ông ta vẫn im lặng. Tôi duỗi chân. Căn phòng này không thể giam quá một người, không khí khó thở. Mùi hôi mỗi lúc một nồng nặc.
Tại sao tôi đến chốn này? Ban đêm thì tối, ban ngày thì đen.
Tôi tuyệt vọng.
Tôi như một người đi trong đường hầm. Hầm thì hun hút tối tăm đi hoài không dứt. Còn tôi thì giống như người bị chặt hết hai tay và hai chân, chỉ còn có cái đầu và thân hình bị lăn lông lốc trong đường hầm trơn trợt.
"Nè, người anh em…" Người tù bỗng gọi tôi.
Tôi không lên tiếng. Tôi chờ đợi.
"Bao nhiêu tuổi?"
"Ba mươi bảy." Tôi trả lời.
"Coi là bốn mươi đi. Tứ thập nhi bất hoặc! Ông nhỏ hơn tôi một con giáp."
Tôi vẫn có cảm tưởng như ông chưa nói điều ông định nói. Một đỗi lâu, ông tiếp:
"Ông có biết trong tù người ta dùng một người tù khác để khai thác một người hiện bị giam gọi là gì không?"
"Không!" Tôi trả lời, vì thật sự tôi không hiểu gì cả.
"Nó gọi là đặc tình."
"Đặc tình?"
"Phải. Nó gọi là đặc tình…Ông có phải là đặc tình không?"
Câu hỏi của ông làm tôi sửng sốt.
Vậy là sao? Trong tù còn có đặc công nằm vùng sao? Tôi chồm về phía trước, nhướng to mắt nhìn người đối diện. Tôi không cách nào thấy rõ mặt ông ta. Tôi muốn biết sắc diện ông ra sao khi hỏi tôi và tôi cũng muốn biết phản ứng của ông khi tôi trả lời. Chịu thôi.
"Ông nghĩ tôi là đặc tình sao?"
"Tôi không nghĩ ngợi gì hết. Tôi nói trước để đề cao cảnh giác."
"Ông khỏi cần đề cao cảnh giác. Tôi tên Trần Lâm Thăng, bị bắt ở Rạch Sỏi…" Tôi nói một hơi. Thật tình trong thâm tâm tôi, tôi muốn mở lòng mình ra cho người cùng tù biết tôi không phải là chó săn. Tôi căm thù bọn chó săn.
"Thôi, thôi… không phải khai. Tôi đâu phải công an chấp pháp. Đủ rồi! Tôi không phải là người dễ tin đâu." Người tù nói giọng nhỏ, chậm, đã bớt hoài nghi. "Nè, người anh em. Cần phải bình tĩnh. Ở đâu cũng vậy. Cần bình tĩnh, luôn luôn bình tĩnh. Không sợ hãi. Không căm thù…"
Tôi không hiểu ông ta muốn nói gì. Tôi chợt thấy toàn thân ê ẩm mệt mỏi. Tôi nhắm mắt lại, nghe rõ hơi thở của mình bắt đầu đều đặn.
"Rượu đã rót ra rồi phải uống, uống cho đến cặn."
Tôi tưởng chừng nghe tiếng một người nào đó nói bên tai tôi một câu gần như vô nghĩa, chẳng ăn nhập gì với câu chuyện của tôi cả.
Trích Bụi Và Rác – Chương Mười Hai / Phần 1
Tư Long
2.
Những tia sáng của mặt trời chiếu qua song khung cửa đánh thức tôi dậy.
Suốt đêm tôi đã ngủ theo kiểu duỗi chân và lưng tựa tường. Người cùng tù cũng ngủ theo cách đó. Nếu không có thêm một người thứ hai có thể ông ta đã nằm co gối ngủ được. Tôi thấy ông đang nhìn mình. Hai con mắt thụt sâu vào như hai cái hố. Cả khuôn mặt như cái đầu lâu của người chết nếu bóc đi làn da nhăn nheo. Đầu ông ta không có lấy một sợi tóc. Tôi gần bốn mươi tuổi. Ông gần năm mươi hai. Hơn nhau một con giáp, ông ta nói như vậy đêm qua, nhưng nhìn ông tôi tưởng đó là người của trăm năm. Hay đúng hơn, một người đã chết vừa đội mồ đứng dậy. Hai cánh tay khẳng khiu da bọc xương của ông xếp lại đặt lên bụng, cả hai bàn tay ấp lên sợi xích sắt. Ông mặc quần đùi. Hai ống xương chân như hai cây que. Và một sợi xích sắt khác buộc vào sát cổ chân. Mùi hôi từ thân thể ông ta bốc ra cùng với cái thùng nhỏ bằng nhựa đặt ở phía tay phải tôi.
"Nè, người anh em…" Ông nói.
Tôi nhìn thấy quai hàm ông cử động. Quả thật đêm qua tôi đã hình dung ông ta khác hẳn con người bằng xương - chớ không bằng thịt trước mắt tôi.
"Không sợ hãi. Không căm thù." Ông ta tiếp, "Rượu đã rót ra rồi phải uống, uống cho đến cặn." Ông ta lặp lại những lời tôi đã nghe đêm qua.
Nhưng mà tôi không hiểu gì hết. Tôi nhớ Quỳnh, nhớ con tôi, nhớ khuôn mặt của Tâm Khô-Khốc-Thiền-Sư khi nhắc đến chuyện vợ con đã bị làm mồi cho biển cả trong chuyến vượt biên. Cái hình ảnh Nam đứng với tôi trên con đường nhỏ trước một ngôi nhà ở Phú Nhuận, dưới chân đầy những sổ thông hành, bỗng nhiên hiện ra trong trí tôi. Năm năm rồi, Nam đã bị chế độ mới bắt nhốt giam giữ tù đày ra tận miền Bắc. Những tin tức vọng về cho biết Mùa Hè Đỏ Lửa luôn luôn dũng cảm. Bố là đảng viên trung kiên không thuyết phục được Nam "phản tỉnh" về những gì anh đã viết. Bố anh không cứu được anh, hay không dám cứu anh. Mà Nam cũng chẳng cần kêu cứu. Sự can đảm của người trong tù luôn luôn là liều thuốc khích lệ những kẻ ngoài tù. Kỳ lạ không, chính những con người như tôi đã sống bằng hy vọng của những người đang bị giam hãm. Ký cũng đi tù chỉ để bên ngoài mối "sầu ở lại." Lộc trình diện quân quản mang theo những kỷ niệm tình ái của Sorbonne Paris, những đêm say ngất trời Chợ Đủi. Yvonne, Denise, Catherine, Rosalie, Dominique…tóc vàng sợi nhỏ…, hắn mang tuốt luốt theo vào nhà giam. Nghĩa biến mất. Phùng biệt tăm. Đình thu mình vào khu làng báo chí Thủ Đức. Những chuyến vượt biên hụt, những lời nói mở ra đóng lại, hoài nghi cả người thân ruột thịt…Kiệt đâu? Tôi chợt nhớ đến người học trò đã đưa tôi đi xem ghe. Tôi lo cho Kiệt. Tôi sợ chú nhỏ không chịu nỗi những nhục nhằn. Nỗi đau khổ về cái chết của người cha chưa nguôi trong trái tim chú, bây giờ chính chú gánh thêm trên vai những điều đau đớn khác. Những điều tôi từng giảng trong lớp học, tôi nghiệm ra chưa đủ giải tỏa cho tôi, liệu nó có giải tỏa được gì cho Kiệt. Đau khổ sẽ tăng lên nếu nó đi sau một hạnh phúc. Niềm vui lúc nào cũng lớn sau một điều bất hạnh. Hạnh phúc chỉ là khoảnh khắc, và tình yêu cũng không là vĩnh cửu. Và Niccolo Machiavelli? A, tôi nhớ ra rồi, "kẻ thiết lập một nền độc tài mà không giết Brutus, thì chắc chắn ba bảy hai mươi mốt ngày…" Nhưng nó là cái gì. Chế độ mới nó là bá đạo hay vương đạo? Vương thế nào được! Machiavélisme.
Cánh cửa phòng bỗng xịch mở. Mở hé thôi. Một bàn tay đẩy vào hai chén cơm. Cơm không, không có thứ gì khác. Cánh cửa đóng lại. Bây giờ tôi mới nghe tiếng khóa. Tôi bưng chén cơm đưa cho người cùng tù. Ông ta không buồn cầm. Hai con mắt ông ngó chén cơm, chân phải ông co lại, duỗi ra, sau đó chân trái ông làm một động tác y như vậy. Tôi nhìn ông, đặt chén cơm xuống đất. Tôi thấy đói, đói lắm. Tôi dúm tay bốc cơm. Tôi ăn bằng những ngón tay. Tôi nghe vị ngọt ở đầu lưỡi. Những hột cơm đi qua cuống họng, sau khi đã bị răng nghiền nát, thơm như mùi chả ram. Mắt tôi, cả thân thể tôi chằm chằm vào chén cơm. Tôi đói như chưa bao giờ đói như thế. Bỗng nhiên có một cái gì đó nhói trong đầu tôi. Tôi ngước nhìn lên, người tù già đang nhìn tôi. Tôi đặt chén cơm xuống đất. Nhưng ngón tay tôi còn dính một hột cơm. Tôi không biết để vào đâu bàn tay của mình.
"Ông không đói sao?"
"Không." Ông ta lắc đầu. "Chưa tới giờ ăn của tôi." Ông tiếp tục nhìn tôi đỗi lâu, tiếp, "Mà người anh em chưa ăn uống mấy bữa rồi?"
Tôi nhớ lại lúc bước chân xuống xe lam ở Rạch Sỏi. Hình như hai ngày tôi không có gì bỏ bụng. Tôi có được uống nước, nhưng ăn thì không. Tôi không muốn trả lời người tù già. Tôi thấy đói. Tôi đang đói. Người ta không chỉ sống bằng bánh mì. Ai nói vậy? Người ta đâu chỉ sống bằng cơm gạo. Đúng vậy. Nhưng không có bánh mì, cơm gạo thì trước hết người ta sống bằng cái gì? Tôi cúi xuống vét tiếp những hột cơm còn thừa trong chén. Tôi làm sạch không còn một hột. Tôi xòe bàn tay ra. Tôi gặm những ngón tay còn vướng cơm. Tôi biết người tù già đang nhìn tôi. Mặc kệ. Tôi phủi tay, tựa lưng vào vách nhà giam. Tôi thở.
"Nè, người anh em…" Người tù gọi.
Tôi nhìn ông. Chiếc đầu không sợi tóc của ông như cái đầu lâu. Những hốc mắt, hố mũi, hố miệng, răng. Một xác chết biết nói.
"Kêu tôi là Tư Long."
Tư Long kể ông ta là đảng viên, là cựu thành viên Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng. Tư Long hoạt động nội thành, làm nghề lái tắc xi. Trong vụ Tổng tấn công Tết Mậu Thân, quân "giải phóng" bị bại nặng khi quân lực Việt Nam Cộng Hòa phản công mạnh. Bộ đội vừa đánh vừa tháo chạy. Nhiều tên lạc đường bị bắt. Lúc đó Tư Long phụ trách một đường dây. Tư Long chở hai người bộ đội bị thương đi "ém" ở một địa điểm gần xã Bình Chánh. Tư Long quen một bác sĩ quân y Saigon. Tư Long đến than với người y sĩ là vợ mình bị bệnh nặng sắp chết. Người y sĩ bị cấm trại, vừa xếp đặt với một đồng nghiệp về thăm nhà mấy tiếng đồng hồ, thấy tình cảnh đáng thương của Tư Long nhận lời. Tư Long chở ông ta đến chỗ ém mấy người bộ đội bị thương, bắt điều trị. Sau khi Tư Long đưa bác sĩ quân y trở về, một người bộ đội được cứu đưa ra bưng trở lại. Người kia đang hấp hối. Khi người bác sĩ quân y trở về anh ta cũng vừa tắt thở. Tư Long đành chôn người bộ đội tại chỗ. Tư Long bị nghi là cấu kết với "sĩ quan ngụy" giết bộ đội. Tư Long bị gọi vô bưng, bị bắt giam một nơi trong rừng. Nhà tù của "quân giải phóng" là một cái hầm sâu trên ba thước, bên trên được đậy bằng một tấm phên tre và phủ bằng các nhánh cây. Ban đêm tù nhân bị còng dính chung vào một thanh sắt dài và nặng, không cách nào đứng dậy được. Muốn tiểu tiện gì phải "đi" tại chỗ. Phần ăn mỗi ngày một bữa, khoai mì và muối. Đói là căn bản. Cho nên ban ngày hay ban đêm, bất cứ lúc nào vồ được con nhái, con cào cào là bỏ ngay vào miệng ngấu nghiến. Tư Long bị tù từ trong rừng tù ra. Tư Long nói tù ở đây sướng hơn tù ở rừng. Mặc dầu cơm chỉ được ngày một bữa, nhưng là cơm chớ không phải khoai mì. Vả lại tuy bị cùm chân còng tay, nhưng là cùm chân một mình chứ không phải cùm chung bằng một thanh sắt dài. Tư Long nói có lần đau khổ quá không chịu nổi, Tư Long buột miệng niệm Phật Quán Thế Âm Bồ Tát, tên bộ đội canh giữ tình cờ nghe được đập cho một báng súng AK. Tư Long bị quy thêm tội tư sản, lạc hậu, mê tín, dị đoan!...
Người ta muốn đem Tư Long ra xử, nhưng không biết xử như thế nào cho phải. Tư Long có thành tích cách mạng, có tuổi đảng, nhưng Tư Long chỉ có một tội là bị tình nghi. Lúc đầu Tư Long lý luận mình không có làm gì sai trái, trước sau chi rồi "đảng" cũng sẽ rõ, sẽ thấu, sẽ trả tự do cho mình, sẽ được minh oan. Cá nhân mình có phải gánh chịu một vài đau khổ thì có sá gì với nỗi khổ đau của cả dân tộc. Tư Long lý luận kiểu đó để an ủi mình nhưng dần dà niềm tin được ngọn đèn "công lý cách mạng" chiếu rọi bị lung lay. Tư Long nhiều lần nói với người coi tù xin được đưa ra tòa án xét xử. Nhưng lời kêu xin của ông như tiếng kêu trong sa mạc. Có lần Tư Long nài nỉ xin được tờ giấy cây bút, Tư Long làm đơn gửi lên trên xin sớm được đem ra xét xử. Nhưng một lần nữa tiếng kêu của ông không hề được vọng lại. Tư Long mòn mỏi chờ, mỗi ngày thêm một tuyệt vọng. Tư Long bắt đầu chửi, chửi từ trên xuống dưới. Tư Long đem tên tuổi tất cả lãnh đạo đảng ra phỉ báng. Có lần Tư Long đánh người coi tù đưa cơm, vì "câm miệng hến" nhất định không trả lời bất cứ câu hỏi nào của Tư Long. Tư Long bị cùm tay cùm chân, nhốt riêng. Ít lâu sau Tư Long không chửi nữa. Người ta tháo cùm cho Tư Long. Tư Long bóp cổ người coi tù. Tư Long vượt ngục hụt. Tư Long bị cùm cả tay chân trở lại. Tư Long đang chết mòn trong chờ đợi thứ ánh sáng công lý mà có lúc Tư Long tin tưởng.
Tôi hiểu tại sao Tư Long nói với tôi "tội tình nghi" chắc là sẽ ở lâu.
Tư Long hỏi:
"Nè, người anh em…ở đâu vậy?"
" Sài Gòn."
"Đường nào?"
"Đường Võ Tánh. Khu Mã Lạng."
"Gần rạp Quốc Thanh phải không?"
"Sao ông rành vậy?"
"Trời, dân tắc-xi mà!"
Ông nhắc thời kỳ chạy tắc-xi ở Sài Gòn. Nghề tắc-xi có nhiều kỷ niệm.
"Tội nghiệp cái ông đại uý bác sĩ có lần bị tôi gạt. Không biết ổng có đi vượt biên được không?"
"Nếu đi không được cách mạng cũng phải đền ơn đáp nghĩa ổng chớ! Ổng đã từng cứu người của cách mạng mà!"
"Mà ai làm chứng là ổng có cứu người của cách mạng? Người nào? Ở đâu? Hồi nào?"
"Thì ông làm chứng."
Tư Long khua sợi xích sắt cười không ra tiếng.
"Nè, người anh em…Tổ mẹ nó, tui như vầy tôi còn làm chứng cho ai!"
Tôi không ở lâu với Tư Long. Một tuần sau tôi được cho ra ngoài. Chân tôi đã hết đau từ hôm nào tôi cũng không rõ. Tôi có một chỗ nằm bên rãnh nước chảy từ nơi rửa chén của cái giếng giữa nhà giam. Tôi hít thở được khí trời. Thỉnh thoảng trong đêm tôi nghe tiếng xích sắt khua trong xà lim của Tư Long.
Tôi không biết bao giờ mình được đem ra xét xử. Tôi không biết Quỳnh và con bây giờ sống chết ra sao. Tôi ở đây cứ cho là yên thân đi. Tôi thấy mình lo cho người thân ở ngoài hơn là lo cho chính bản thân tôi.
Cũng như Tư Long, tôi chờ đợi.
Tôi không phải chờ đợi lâu. Một tuần sau khi được đưa ra nằm bên rãnh nước rữa chén, tôi bị tên coi ngục đánh thức đi "làm việc" vào lúc nửa khuya về sáng. Người công an chấp pháp ngồi trước mặt tôi khá quen. Cô tên Nhị Hà.
Trích Bụi Và Rác – Chương Mười Hai /Phần 2
1.
Tôi biết chắc người ngồi trước mặt tôi là Nhị Hà, cô học sinh những ngày đầu tiên của một Saigon vừa thất thủ. Có tất cả ba người tù cùng ngồi với tôi trên băng ghế dài chờ hỏi cung. Nhị Hà mặc quần áo công an. Cô đang chăm chú đọc một tờ giấy, thỉnh thoảng cô quay sang người công an bên cạnh, đã trọng tuổi, trao đổi điều gì đó rồi lại tiếp tục cúi xuống tờ giấy. Tôi cúi xuống nhìn hai bàn tay mình. Những ngón gầy, đen. Những móng tay dài cáu bẩn. Tôi nhìn xuống chân. Hai bàn chân không dép còn đen đúa hơn cả hai bàn tay. Khi bắt đầu đi chân không, tôi nhói lên khi dẫm phải một viên sỏi, nhưng bây giờ chỉ một thời gian ngắn, tôi thấy gan bàn chân mình đã quen với các vật cứng nhọn. Da chân đã tương đối dày đủ để chống với sức nóng mặt đường và những hòn sỏi cứng. Tôi chợt nhớ tới lớp học những buổi đầu sau ngày Ba mươi tháng Tư. Nhị Hà ngồi một mình ở bàn đầu, mặc áo may theo kiểu nửa sơ mi, nửa bà ba, hai con mắt sắc, giọng nói đặc biệt của những người Bắc bảy lăm. Bài giảng là một đoạn trích trong tiểu thuyết "Cái Sân Gạch" của Đào Vũ,…Và tôi đã giảng bài như một con vẹt. Nhị Hà hồi đó giống như cái phong vũ biểu của tôi. Tôi nhìn mắt của cô bé này để đo lường bài giảng tôi chính xác đến mức độ nào. Tôi không nghĩ là cô ta giỏi, nhưng tôi tin là cô bé thuộc lòng quan điểm chính trị mà bố cô có lẽ là một đảng viên và cô đang là một đoàn viên. Cái cánh đưa tay lên xin phát biểu ý kiến của Nhị Hà cũng khác cách đưa tay của các em học sinh Saigon.
Tôi nhớ Nhị Hà nói "Thưa thầy, em nghĩ rằng nhân vật trong Cái Sân Gạch là một nhân vật lạc hậu…" Hồi đó tôi luôn luôn nhận biết là không cách gì còn có thể đứng nổi trên cái bục giảng nữa. Bục giảng đã không còn là của tôi. Những học sinh Saigon của tôi không làm sao có thể chấp nhận được thứ ngôn ngữ hay lập luận của một người thầy mà mới vừa hôm qua còn là xanh mà hôm nay đã là đỏ. Còn những học sinh từ ngoài Bắc vô hay từ chiến khu về, chắc cũng chẳng thể nào chấp nhận được cái ngọng nghịu ngượng ngập của một người thầy mà mỗi lần nói cứ phải cầm chặt lấy tờ giáo án, soi rọi từng chữ, từng nghĩa, lo lắng trước từng phản ứng của từng ánh mắt người học trò để xem mình có nói đúng hay sai quan điểm, lập trường. Nhị Hà luôn luôn nhìn vào mắt tôi khi tôi giảng bài. Tôi có cảm tưởng cô như một người được chỉ định để theo dõi tôi. Mỗi lớp học cần có một đoàn viên "nắm" những ông thầy bà cô “ngụy”, nhất là những người "có vấn đề". Hình như có lần một đồng nghiệp cũ nói với tôi như vậy.
"Nè, có phải ông tên là Thăng không?" Người tù ngồi bên thúc cùi chỏ vào hông tôi làm tôi giật mình.
"Phải! Sao?" Tôi nhìn ông ta.
"Công an gọi ông kìa!" Ông ta hướng mắt về phía Nhị Hà.
Tôi thấy cô không ngồi chỗ cũ nữa. Cô đang đi về phía tôi, trên tay vẫn còn cầm tờ giấy và cây bút. Nhị Hà đi chậm rãi. Mái tóc cô đã uốn quăn, chải khéo, khiến khuôn mặt cô có vẻ trẻ hơn hồi năm Bảy Lăm. Tuy nhiên, bộ quần áo công an màu vàng làm cho Nhị Hà có cái dáng vẻ của một người bộ đội khi mới vào Saigon hơn là của một cô gái đã ở thành phố hơn năm năm.
"Có phải là thầy không? Thầy Thăng?" Nhị Hà hỏi vừa khi đứng sát cạnh tôi.
Tôi nhìn thẳng vào mắt Nhị Hà. Tôi nói:
"Phải. Tôi là Trần Lâm Thăng."
"Thầy không nhận ra em sao?" Nhị Hà hỏi rất nhỏ. "Thầy theo em. Em muốn nói chuyện với thầy." Cô quay lưng, đi thẳng đến một bàn trống ở góc phòng.
Tôi đứng dậy bước theo. Tôi không nghĩ là có điều gì tốt cho tôi, nhưng tôi cũng không nghĩ là tôi đang gặp điều gì xấu.
"Đây là tờ giấy để thầy khai. Thầy cứ điền vào chỗ trống trả lời các câu hỏi. Chỗ nào không rõ xin thầy cứ hỏi em." Nhị Hà nói giọng nhỏ nhẹ.
Tôi cúi xuống tờ giấy, bản khai của người tù, tôi đọc lướt qua. Quá nhiều mục. Tôi bắt đầu điền vào những chỗ trống. Ngắn và gọn. Tôi không hỏi Nhị Hà. Tôi cứ thế mà ghi. Tôi chờ xem. Ở mục học lực, tôi ghi là biết đọc biết viết. Ở chỗ liên hệ với gia đình cách mạng, tôi ghi không. Ở chỗ lý do bị bắt, tôi viết tình nghi vượt biên. Tôi trả tờ giấy lại cho Nhị Hà sau khi ký. Tôi ký bằng một chữ ký khác với chữ ký tôi vẫn dùng. Nhị Hà cầm lên đọc bằng mắt. Có một đôi chỗ cô dừng lại, hơi nhíu mày. Nhìn mắt cô, tôi đoán ra được, cô đang ngừng lại ở đâu. Biết đọc biết viết, chắc cô không muốn như vậy. Nghề nghiệp: lái xe ủi đất đào giếng ở công trường An Biên. Đây chỗ này cũng làm cho Nhị Hà dừng hơi lâu.
Khi đặt tờ giấy xuống mặt bàn, Nhị Hà hỏi:
"Sao thầy không khai là có liên hệ với đồng chí Mười Tân?"
Câu hỏi của Nhị Hà làm tôi giật mình. Tôi không nghĩ là cô sẽ hỏi tôi câu đó. Mười Tân? Tôi đã gặp ông ta ít nhất là một lần khi ông đến thăm Quỳnh, ngay sau ngày Sài Gòn vừa mất. Nhưng tôi có nhiều dịp nghe nói về ông ta. Những buổi nói chuyện của ông ở Thành Đoàn lôi cuốn một số đông người nghe, những người trẻ tin tưởng vào lý thuyết của chế độ mới, những người trí thức khuynh tả, những người hôm qua bị đè nén áp bức, những người lo sợ chế độ mới sẽ làm mình mất đi những gì mà mình đã tạo ở chế độ cũ. Các bạn tôi, ngồi ở quán cà phê, vẫn thường nhắc đến ông Mười Tân, lúc đầu với một thái độ nể sợ, về sau với một thái độ lo lắng. Kết buộc, lên án, đanh thép… gần như là toàn bộ luận điệu trong những bài nói của Mười Tân. Người ta nói Mười Tân của miền Nam cũng giống như Tố Hữu của miền Bắc. Trong thơ văn của hai ông này có chứa đựng quyền uy và sắt thép. Người ta luôn nhắc tới một bài nói chuyện của ông Mười Tân hơn một tháng sau khi Sài Gòn bị mất. Đó là một bài nói lên án văn nghệ Sài Gòn trước Bảy Lăm, nền văn nghệ mà đồng loạt cả Hà Nội lẫn trong "bưng" ra gán cho cái tên là phản động và đồi trụy. Văn chương chống cộng thì gọi là phản động và văn chương viết về tình yêu thì bị gọi là đồi trụy. Cách nào thì cách, không có một chỗ đứng nào cho nền văn nghệ này. … Người ta nói những bài viết của Mười Tân như những nhát búa chứ không phải những bông hoa. Có lần Mười Tân nói với Quỳnh rằng “chồng em cũng là một chướng ngại vật của cách mạng, nói với nó cứ im đi thì sống còn ngo ngoe là không tồn tại đâu. Đừng nói chi xa, tên nào vượt biên thì vài tháng về, còn nó cứ cầm chắc bốn chục năm cho phải lẽ”.
Cách nói của Mười Tân cho người nghe hiểu rằng tất cả cái gì thuộc chế độ cũ đều xấu xa và đáng phải bị tiêu diệt, đặc biệt là nền văn học nghệ thuật miền Nam.
Tôi còn nhớ tháng trước tình cờ gặp nhạc sĩ Trịnh ở một quán cà phê vỉa hè nhà bà luật sư Đại, Trịnh vô tình nhắc đến Mười Tân khi anh hỏi tôi có bao giờ nghe những ca khúc mới của anh không. Trịnh nói mặc dù âm nhạc của anh luôn luôn được quần chúng ưa thích, nhưng ông Mười Tân đã có lúc cho người gọi anh đến và nói rằng âm nhạc của anh chẳng qua là thứ "nhân đạo chủ nghĩa". Đó là một loại hình văn học "kết án chiến tranh mà không cần phân biệt loại chiến tranh nào, kết án bạo lực mà không cần hiểu xuất xứ, tính chất mục đích của mỗi thứ bạo lực."
"Theo ông Mười, âm nhạc của mình", Trịnh nói, "có chứa đựng những lời than thở phản chiến, nhưng nó cũng làm đảo lộn mọi thứ, nó lẫn lộn trắng đen, trung và nịnh, yêu nước và cướp nước." Trịnh rùng mình khi nhắc lại chuyện trên. Lúc đó tôi nhìn thấy hai bàn tay anh run giật lên như người mắc kinh phong. "Ông ta làm cho mình có cảm tưởng chỗ nào cũng tội lỗi, cái gì cũng tội ác. Cõi tạm. Mình phải xem đời sống này chỉ là cõi tạm, trăm năm chẳng qua cũng chỉ là kẻ ở trọ của ngàn năm thôi."
Con chim ở đậu cành tre,
Con cá ở trọ trong khe nước nguồn
……..
Tôi nay ở trọ trần gian
Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời
……..
hoặc
Em đi qua chuyến đò
Thấy con trăng đang nằm ngủ
Con sông là quán trọ
Và vầng trăng tên lãng du.
……
Ừ thì cũng chỉ là trọ thôi. Có lúc Trịnh thở ra, "Tôi như đứa trẻ tìm nơi nương tựa mà sao vẫn cứ lạc loài…. Đừng tin tôi nhé, vì tiếng cười." Đó là những lúc tôi thấy khuôn mặt Trịnh vốn nhỏ và nhô xương, hai con mắt sâu núp dưới đôi kính trắng, tối sầm lại. "Dường như quanh đây có điều gì tuyệt vọng." Trịnh nói lửng lơ. Tôi hiểu bạn.
"Thầy Thăng!" Tiếng gọi tên tôi làm tôi giật mình.
"Thầy có sao không?" Nhị Hà hỏi tiếp.
"Không. Không có gì!"
"Em muốn hỏi sao thầy không ghi có liên hệ gia đình với đồng chí Mười Tân?"
Tôi nhìn thẳng vào mặt Nhị Hà. Tôi không trả lời.
"Thầy tốn bao nhiêu vàng trong chuyến vượt biên này?"
"Tôi có vượt biên đâu mà tốn vàng!"
"Thầy là người tổ chức hay sao?"
"Không."
"Thế thì ai là người tổ chức? Thầy ghi vào đây, chỗ này."
Nhị Hà đặt tờ giấy xuống mặt bàn, để thuận chiều về phía tôi.
"Đó là cách duy nhất để thầy sớm được khoan hồng."
"Tôi không biết."
"Tại sao?" Phải có người tổ chức vượt biên thì mới vượt biên được chứ!"
"Tôi không vượt biên. Chuyến đi Rạch Sỏi này là đi công tác đào giếng ở công trường An Biên." Tôi nhắc lại những lời của ông Công dặn.
Nhị Hà không nói thêm. Cô lật lật mấy tờ giấy, trong đó có cái thẻ công nhân viên của tôi do ông Công cấp.
"Thầy không biết cái ‘Tổ Hợp Kiến Tạo’ của ông Công này là một tổ hợp ma chuyên bán giấy đi đường cho người vượt biên sao?"
"Không." Tôi vẫn nhìn vào mặt Nhị Hà.
"Tại sao cô không đi chuyến này với Thầy?"
"Tôi không đi vượt biên. Nhà tôi vẫn còn ở Sài Gòn."
"Nhưng hồ sơ công an xã ghi thầy đi với một nhóm người Hoa, bị bắt vừa lúc xuống ghe mà."
"Không. Tôi không hề đi với nhóm người Hoa nào. Tôi đi một mình."
Nhị Hà cầm tờ khai trước mặt tôi:
"Thầy không gặp Kiệt sao?" Giọng cô nhỏ nhẹ, nhưng giống như cái búa đập lên đầu tôi, làm tôi ngã lăn ra.
Tôi quên khuấy chuyến đi có Kiệt, quên khuấy Kiệt là bạn học của Nhị Hà, dù chỉ là bạn học của một tháng.
"Kiệt đâu rồi?" Cả tuần nay tôi không thấy cậu ấy đâu cả!"
"Kiệt đã được đưa xuống Kinh Làng Thứ Bảy lao động cải tạo trong tuần lễ thầy bị biệt giam."
Tôi nhìn Nhị Hà. Tôi không đọc được tình cảm trong mắt cô khi cô nói đến việc một người bạn cùng lớp bị bắt. Kiệt đã bị đưa đi cải tạo. Còn tôi tại sao tôi còn ở đây? Người tù tên Bình bữa hôm qua mon men đến chỗ nằm của tôi gợi chuyện, hỏi là tôi có muốn về sớm hay không? Tôi hỏi lại muốn thì sao. "Dễ ợt. Đi hai cây thì về cũng hai cây." Tôi nghi ngờ. Bỗng nhiên tôi giật mình nhớ đến lời hắn nói ngay trong đêm đầu tiên ngồi xếp hàng trong cải hối thất Kiên Giang. "Tôi bảo đảm là trước sau gì ông cũng phải nhớ đến tôi."
"Thầy nên khai vượt biên bị bắt thì sẽ tính được ngày thả, nếu không…"
"Tôi muốn nhắn với gia đình tôi là tôi hiện bị giam ở đây. Tôi không vượt biên."
Nhị Hà nhìn tôi lắc đầu. Cô xấp xấp mất tờ giấy cho đồng đều rồi đứng dậy.
"Em muốn giúp thầy. Em ghi là thầy vượt biên nhé! Như vậy thầy sẽ sớm về hơn. Phần thầy đã xong. Chào thầy."
Tôi đứng dậy, hai tay thọc túi quần, đi len qua dãy ghế. Cánh cửa hông nhà giam núp dưới hàng rào kẽm gai. Tên công an theo sau tôi ra dấu tên lính trên chòi gác mở cửa. Tôi bước chân qua thanh gỗ nằm chắn lối đi mà tôi không thấy. Tôi ngã chúi. Đầu tôi va mạnh lên nền đất.
Đêm lạnh lẽo.
Trích Bụi và Rác – Chương Mười Ba / Phần một
2.
Tôi nằm đó, hơi thở của đất trời làm tôi hồi sinh dần. Tôi nhìn thấy lại những ngày đầu của một Sài Gòn lửa đạn. Đám cháy trong khu Mã Lạng. Quỳnh bế con đứng chờ tôi trong căn nhà ngập nước. Những chiếc guốc nổi lềnh bềnh trong nhà. Mùi hôi của cống rãnh tràn ngập cả con hẻm. Tuấn luật sư mang dép râu, chỉ còn thiếu cái nón cối. Nhớ quán Cái Chùa nơi sáng nào cũng gặp Đình, Nhật, Tâm,…. Nhớ chợ Đủi. Nam, Ký, Lộc, Nghĩa… Tôi thấy những hình ảnh lộn xộn tràn ngập trong trí não tôi.
Bỗng nhiên tôi rùng mình. Một cơn lạnh thấu xương vừa thổi qua trong tôi. Cả khu trại giam còn chìm trong bóng đêm. Tôi chống hai tay trên mặt đất lồm cồm bò dậy. Tôi đi đến bên giếng nước, thả chiếc gầu bằng nhôm xuống, kéo sợi dây buộc ở cây xà ngang. Nước buổi sáng lạnh tanh. Tôi chùi cả hai tay vào ngực áo. Tôi đi vào căn nhà giam, dò dẫm từng bước giữa những người cùng tù đang say ngủ. Tôi tìm ra chỗ nằm của tôi gần rãnh nước. Vị linh mục bên phải tôi, hình như không chợp mắt từ khi tôi bị gọi lên chấp pháp "làm việc", ông trở mình nhường chỗ cho tôi:
"Sao? Họ hỏi anh cái gì?"
"Thưa cha, cũng chung chung vậy thôi."
"Mà anh gặp tên công an đàn ông hay đàn bà?"
"Thưa cha, một nữ công an."
"Có phải tên Nhị Hà không?"
"Thưa cha phải. Mà sao cha biết tên cô ta là Nhị Hà?"
"Ở đây ai mà không biết cô ta. Gặp cô này đỡ hơn là gặp thằng Sáu Phận."
Sáu Phận là tên công an hung dữ nhưng có bộ mặt của một thanh niên đẹp trai. Hắn đi đứng nói năng từ tốn, hơi có phần lễ phép nữa là khác. Linh mục Minh cho tôi biết Sáu Phận là một tay chuyên sưu tập đồng hồ. Hắn luôn luôn thay đổi các loại đồng hồ tùy theo đợt người vượt biên bị bắt. Đối với hắn sự chính xác của giờ giấc ăn uống, nghỉ ngơi và "làm việc" rất là quan trọng. Ai bị hắn gọi lên nữa đêm "làm việc" mà đến trễ quá năm phút, coi như người có hồ sơ xấu. Điều đó có nghĩa là Sáu Phận sẽ tự động phê vào hồ sơ người tù những tội mà người này không hề có. Và hắn sẽ bỏ quên luôn người mà lẽ ra hắn đã phải thẩm vấn và xét xử. Theo lời cha Minh nói, có lần Sáu Phận đứng giữa đám tù hát bài Vàm Cỏ Đông, ở tận sông Hồng, em có biết, quê hương anh cũng có giòng sông… Hắn hát hay như một ca sĩ nhà nghề. Và sau mỗi lần hắn hát như vậy là thế nào cũng có người được hắn "tuyển chọn" cho biệt giam, hoặc chia một chỗ nằm với Tư Long.
Sáu Phận đã từng "bỏ quên" một người tù tên Ayakawa, một thương gia Nhật Bản, không hiểu vì sao sau Bẩy Lăm còn lạc lõng dưới Rạch Giá, bị bắt vì một cớ nào không rõ. Ông Ayakawa chừng bốn mươi tuổi, người gầy và cao, để ria mép. Một đêm Sáu Phận gọi ông lên. Nghe người bên cạnh đập dậy ra dấu đi "làm việc", Ông Ayakawa từ từ xếp lại chỗ nằm, ra giếng múc nước rửa mặt, đánh răng, chải tóc thay quần áo. Ông lên trình diện Sáu Phận. Nhưng không lâu, chỉ chừng năm phút sau, ông trở về chỗ nằm. Người bạn tù bên cạnh hỏi sao nhanh vậy, Ayakawa lắc đầu. Chuyện đó xảy ra hồi năm Bảy Sáu. Bốn năm sau Ayakawa vẫn cứ ở một chỗ. Ông con cháu của Thái Dương Thần Nữ này hoàn toàn bị rơi vào quên lãng. Trường hợp của cha Minh cũng là một "tác phẩm" của Sáu Phận. Hắn lễ phép với cha y như chính hắn là một con chiên ngoan đạo. Tuy vậy có lần hắn hỏi cha một câu giữa bữa ăn trưa của tù là "Chúa có biết rằng cha đang ở tù không? Và Chúa có ý định gì khi đưa cha vào tù?"
"Còn Nhị Hà thì sao thưa cha?" Tôi tò mò.
"Khá hơn. Có vẻ có học. Nhưng tôi có cảm tưởng là cô có một mối thù với ai đó."
"Suỵt! Tù không được nói chuyện."
Bất ngờ có tiếng người nói rất gần. Tôi quay nhìn. Như một bóng ma, người nói là Bình, nhân vật đã ngồi cạnh tôi ngoài sân khám Rạch Giá đêm đầu tiên tôi bị giải về đây.
"Nhà anh có được tin là anh bị giam ở đây chưa?"
"Chưa."
"Anh có muốn gia đình anh biết là anh hiện ở đây không?"
Câu hỏi của anh ta nhắc tôi nhớ là cả tháng nay tôi không được thăm nuôi. Gần như mọi người trong tù tuần nào cũng có người thăm nuôi. Tôi không biết Quỳnh bây giờ ra sao. Hai mẹ con sống như thế nào? Căn nhà ở khu Mã Lạng. Mùa mưa. Ông Mười Tân có biết tôi bị bắt không. Tuấn luật sư dép râu, áo bỏ ngoài quần. Biệt tăm.
"Nếu tôi muốn thì sao?" Tôi hỏi anh ta.
"Chẳng có làm sao làm siết gì hết. Anh muốn thì tôi giúp cho. Thế thôi!"
"Anh làm ơn…"
Trời chưa sáng hẳn nên tôi không nhìn rõ lắm khuôn mặt của anh ta. Tôi nóng lòng gặp lại Quỳnh và con tôi.
"Anh cứ biên mấy chữ kèm tên bà chị và địa chỉ nhà ở Sài Gòn tới giờ cơm tôi lấy." Anh ta nói xong đứng dậy đi ngược ra phía giếng nước.
"Thưa cha…" Tôi ngập ngừng.
"Anh muốn biết ông Bình này là loại người gì phải không?" Cha Minh hỏi tôi giọng chậm rãi.
"Thưa cha, phải. Ông ta chẳng có vẻ tù chút nào hết. Mà chả lẽ ông ta là cán bộ?"
"Hiểu sao cũng được. Tù cò mồi của Sáu Phận đó mà."
Cha kể chuyện tên Bình này ra vào nhà tù như đi chợ. Tù lâu năm ở đây ai cũng nhẵn mặt anh ta. Anh ta làm tiền cho Sáu Phận bằng cách chuyển thơ của tù mới bị giam về cho thân nhân. Anh ta là trung gian giữa Sáu Phận và người tù. Phần bên ngoài như liên lạc với thân nhân người bị giam thì Sáu Phận lo. Nhiều người bị bắt đợt hai, đợt ba, cho biết gia đình bị Sáu Phận làm tiền trắng trợn. Cái yếu điểm của hắn là đồng hồ. Hắn say mê đồng hồ hơn mê gái. Có lần một người làm nghề sửa đồng hồ ở Sài Gòn vượt biên bị bắt được Sáu Phận đặc biệt ưu đãi, kể lại với cha là nhà Sáu Phận có nhiều đồng hồ đến nỗi có thể mở một chớ hai cửa tiệm cũng được. Người ta đồn Nhị Hà và Sáu Phận yêu nhau. Nhưng tình yêu đó cứ trắc trở vì mấy cái đồng hồ của Sáu Phận. Trời có vẻ sáng hơn. Tôi không dám nằm xuống. Tôi sợ giấc ngủ sẽ bắt tôi nằm bẹp luôn. Tôi tựa lưng vào vách, duỗi dài hai chân, nhắm mắt, thở. Bỗng nhiên tôi nhớ mấy câu thơ của Bùi Giáng mà Ký đã đọc ở Chợ Đủi, những câu thơ làm tôi tức cười đến nôn ruột.
"Người con gái lội qua khe
Bàn chân với nước lạnh đè lên nhau
Nỗi niềm tưởng lại xưa sau
Bàn chân với nước cùng nhau lại đè!"
Đó là lúc tôi nghe tiếng kẻng ở giếng nước vang lên. Tù đang thúc nhau dậy xếp mùng màn và chiếu. Cha Minh đặt tay lên vai tôi, vỗ vỗ mấy cái. Tôi nhìn thấy hai mắt cha hấp háy dưới chiếc kính cận dày. Một ngày tù bắt đầu như mọi ngày.[NXH]
Trích Bụi Và Rác. Chương Mười Ba / Phần hai