- Nhân đọc bài thơ Những Chiếc Ghế Bỏ Trống của Trần Kiêu Bạc
- San Francisco thoáng qua…
Nhân đọc bài thơ Những Chiếc Ghế Bỏ Trống của Trần Kiêu Bạc
Nguyễn Xuân Hoàng Thứ Sáu, 18 tháng 3 2011
Tôi đã đọc Những Chiếc Ghế Còn Bỏ Trống của Trần Kiêu Bạc vào những ngày tháng Ba 2011, những ngày “không như mọi ngày”. Bạn tôi, nhạc sĩ du ca Nguyễn Đức Quang, vừa hôm trước còn gọi điện thoại hẹn tôi sẽ lên San Jose, nhưng hôm sau đã vào bệnh viện ở Quận Cam, hoàn toàn hôn mê không nhận ra người quen, không nói được lời nào. Tuần sau, ngày 8 tháng Ba, Giáo sư – thi sĩ Phạm Công Thiện vừa qua đời ở Houston, Texas. Ông ra đi nhẹ nhàng, nhưng đầy bất ngờ. Tôi chưa kịp hoàn hồn trước hai tin trong màu trời “mùa động xám” của tháng Ba thì ngay liền bốn hôm sau, 12 tháng Ba, một tin khác đến với tôi từ Úc châu, bạn tôi giáo sư môn Triết và Đức văn ở trường Petrus Ký, Phạm Ngọc Đảnh cũng vừa ra đi… Đó là những người bạn mà chúng tôi mới vừa hẹn nhau qua điện thoại sẽ gặp nhau trong một quán cà phê ở San Jose [NĐQ], ở Houston [PCT], ở Bolsa hay ở Đức [PNĐ]… Trước sau gì tôi sẽ đến nơi đã hẹn, nhưng những chiếc ghế bên tôi giờ đã bỏ trống…Phạm Công Thiện, Phạm Ngọc Đãnh đã ra đi, Nguyễn Đức Quang còn trên giường bệnh…
Những chiếc ghế con còn bỏ trống
Xích lại gần nhau cũng lạnh thôi
Trong đời người bất ngờ một hôm thấy mình đang ngồi bên Những chiếc ghế bỏ trống… Và tôi chợt nghĩ ra các bạn tôi rồi một hôm cũng sẽ chợt khám phá ra chiếc ghế dành cho tôi trong buổi hẹn bên ly rượu ở một nơi nào đó sẽ không có tôi… Những chiếc ghế bỏ trống của bạn bè và một chiếc ghế bỏ trống cho chính mình!
Bài thơ của Trần Kiêu Bạc đến với tôi không chỉ là cái tựa, nó là những dòng chữ của một thi sĩ, khi anh nhìn ra cái khoảng trống của một người mà mình biết rõ và đang chờ đợi, một người mà không có họ, mình vẫn có thể hình dung ra đôi mắt và nụ cười, có thể thấy màu tóc và giọng nói, có thể…
Đối với tôi, Trần Kiêu Bạc còn quá trẻ, nhưng thơ anh đã bước vào thế giới của thi ca bằng những bước đi vững chải của người đồng điệu. Thơ không có tuổi và người làm thơ Trần Kiêu Bạc đã cho thấy tiếng nói của một thi sĩ nhìn ra được kiếp người.
Tuổi cũng chưa cao, chân chưa mỏi
Tình bạn còn nguyên chẳng bốc hơi
Sương sớm chưa tan trời buổi sáng
Đã chiều ớn lạnh tái vành môi
Đọc thơ Trần Kiêu Bạc trong một buổi chiều lạnh ở bắc California, giữa những tin bạn bè đứa vừa nằm bệnh viện, đứa vừa ra đi, giữa những breaking news về trận động đất và tsunami ở Nhật, về lửa và nước, về tan hoang, đổ nát và chết chóc, tôi thấy Những chiếc ghế còn bỏ trống không chỉ là một tiếng nói, mà còn là một thông điệp cho những người sống. Bài thơ không chỉ viết cho một người mà cho nhiều người…
Trong khi Trần Kiêu Bạc viết:
Đưa tay vớt tuổi non xanh biếc
Còn tôi thì
Thấy lá vàng khô sắp rụng rồi
Cám ơn Trần Kiêu Bạc. Cám ơn những dòng chữ trong bài thơ của anh.
Tôi muốn chép lại hai câu thơ này gửi đến các bạn tôi: Phạm Công Thiện, Phạm Ngọc Đãnh đã ra đi. Và làm sao đọc cho Nguyễn Đức Quang nghe được những câu thơ này khi anh còn nằm trên giường bệnh?
Chỉ thương chiếc ghế còn bỏ trống
Bạn không về nữa biết ai ngồi?
…..
[NXH]
NHỮNG CHIẾC GHẾ CÒN BỎ TRỐNG
Gặp nhau, đêm gió đẩy ngược xuôi
Ngồi xa một chút cũng thấy vui
Nhìn nét thân quen từng khuôn mặt
Đã thấy đổi thay giữa cuộc đời
Bạn của năm xưa không về được
Bạn của ngày nay cũng vắng rồi
Những chiếc ghế con còn bỏ trống
Xích lại gần nhau cũng lạnh thôi
Ly rượu mừng nhau vơi phân nửa
Chìm tận đáy ly những khóc cười
Thủy tinh trong suốt qua tầm mắt
Rượu một dòng lại chảy nhiều nơi
Tuổi cũng chưa cao, chân chưa mỏi
Tình bạn còn nguyên chẳng bốc hơi
Sương sớm chưa tan trời buổi sáng
Đã chiều ớn lạnh tái vành môi
Rót rượu cho nhau lòng đau buốt
Bưng ly rượu nhớ mắt ai cười
Gởi đến bạn xa tình chưa gởi
Chỉ còn hương rượu đã phai phôi
Có tiếc có thương dù ngắn ngủi
Cũng đành cho gió cuốn mây trôi
Đưa tay vớt tuổi non xanh biếc
Thấy lá vàng khô sắp rụng rồi
Ngợp trời muà Hạ hoa rung nắng
Lại chớm mây Thu xám đất trời
Biết đâu sẽ ập muà Đông đến
Để lá bay theo những ngậm ngùi
Dẫu biết ngàn năm sông vẫn chảy
Một bờ sông lở, một bên bồi
Vẫn nghe trong đám phù sa ấy
Một dây thân ái đã đâm chồi
Gặp nhau siết mạnh tay một chút
Thiêng liêng tình bạn đã lên ngôi
Giá như chưa hết bao nuớc mắt
Chắc ngàn giọt lệ vội tuôn rơi
Chỉ thương chiếc ghế còn bỏ trống
Bạn không về nữa biết ai ngồi
Biết đến khi nao mà hò hẹn
Hay là tay trắng sẽ buông xuôi?
Tôi viết bài thơ buồn độc vận
Như một mình giữa bóng trăng soi
Tôi nhặt miếng trăng rơi xuống cỏ
Kết nên tình bạn sáng muôn đời.
TRẦN KIÊU BẠC
San Francisco thoáng qua…
Nguyễn Xuân Hoàng Thứ Tư, 26 tháng 1 2011
Hình: VOA – Stephanie Tu
Đó là một thành phố của nhiều thành phố.
Một chút “phố núi” Pleiku.
Một chút mù sương Đà Lạt.
Một chút gió biển Nha Trang.
Một chút phố Tàu trái cây Chợ Lớn.
Một chút vỉa hè Paris…
Một thành phố không ngủ….
Đêm sáng rực ánh đèn của đường Tự Do Sài Gòn những ngày trước 75. Những quán cà phê như nhà lồng ngó xuống mặt đường. Những tiệm ăn đặc biệt đủ mọi sắc tộc. Thành phố lúc nào cũng thở, đầy âm thanh, màu sắc, mùi vị,… rộn rã trong một trái tim cuồng nhiệt. Tôi cứ bước theo chân những người bạn trẻ, những người đã từng sống và trưởng thành trong thành phố này, những người biết rõ từng ngã tư đường, từng quán cà phê, từng góc phố, hiểu rõ cái bất thường thấm thía của thời tiết, cái nắng sáng, mưa trưa; cái lạnh chiều, buốt tối. Phố dốc ngược. Những bực cấp bắt ta “phải rướn người lên mới vươn tới được”.
Những con dốc ấy gợi lại trong trí nhớ tôi hình ảnh một Đà Lạt những ngày đầu tiên mới từ Sài Gòn lên. Mười tám tuổi. Chạy trốn một thành phố hào nhoáng xô bồ. Chạy trốn cái buồn bã cùng cực của một cuộc sống cô đơn không gia đình không lối thoát. Chạy trốn những câu hỏi thời cuộc không thấy câu trả lời. Chạy trốn sự dày vò của một trái tim quá nhạy cảm. Tôi chạy trốn chính tôi. … Và Đà Lạt đã chào đón tôi trong một buổi tối lạnh lẽo như cái lạnh lẽo mà giờ đây San Francisco đang chích vào cơ thể và trí tưởng tôi.
Quán cà phê ở San Fran mà hôm đó chúng tôi ngồi bên nhau tên gì nhỉ? Tôi đã gọi ngược lại Nguyễn Quý Đức để nhờ anh nhắc lại tên quán, con đường đã đi, cả cái câu ghi trên vách của nhà sách City Lights Books, nơi tôi đã dừng lại khá lâu để thở lại hơi thở của Allen Ginsberg, một trong những thi sĩ lớn, đương đại của Hoa Kỳ. Hình như, Đức nói, quán mang tên Vesuvio thì phải. Và con đường Columbus, có nhà sách City Lights Books, nơi tôi đã mua cuốn truyện Lồng Đèn Đỏ Treo Cao với hình bìa nữ tài tử Củng Lợi, sắc nước hương trời.
Có phải chính nơi đây, ngày 13 tháng 10 năm 1955, Ginsberg đã đọc bài thơ dài có tựa là Howl tại Gallery Six trước một cử tọa cuồng nhiệt? Bài thơ lập đi lập lại nhiều lần câu I’m with you in Rockland…
I’m with you in Rockland
where we hug and kiss the United States under
our bedsheets the United States that coughs all
night and won’t let us sleep
….
I’m with you in Rockland
in my dreams you walk dripping from a sea-
journey on the highway across America in tears
to the door of my cottage in the Western night
Bài thơ được Hiệu sách City Lights của Lawrence Ferlinghetti xuất bản năm 1956 dưới tựa Howl and Other Poems, khiến Ferlinghetti sau đó phải bị ra tòa với tội “văn hóa phẩm bẩn thỉu”. Ngày 3 tháng 10, 1957, quan toà Clayton W. Horn phán bài thơ không phải sản phẩm khiêu dâm đồi trụy. Howl và Những bài thơ sau đó của Ginsberg trở thành bài thơ lừng danh của Beat Generation cùng với On The Road của Jack Kerouac (1957), và Naked Lunch của William S. Burroughs (1959).
Trang Wikipedia viết Ginsberg đã làm thay đổi giọng thơ Mỹ và trở thành bộ mặt trung tâm của trào lưu phản văn hóa thập niên 1960. Allen Ginsberg cũng tham gia những cuộc phản đối chính trị và đưa tinh thần ấy vào thơ (đòi quyền tự do, quyền của những kẻ yếu – nhất là những người đồng tính luyến ái, chống nhà nước, chống Chiến tranh Việt Nam và chống bom hạt nhân).
Chính ở đây tôi đã tìm thấy những cuốn sách có bài viết và những bản dịch sang tiếng Anh của Nguyễn Quí Đức. Sách làm tôi ngợp mắt. Căn phòng nhỏ chứa những cuốn sách lớn làm thành một thế giới kỳ lạ mà lòng tôi không bao giờ ngừng say mê. Chúng tôi leo lên căn gác nhỏ như cái chuồng chim bồ câu. Ghế cao, cửa sổ ngó xuống con hẻm mang tên Jack Kerouac. (Kerouac, nhà viết tiểu thuyết, gốc Canada-Pháp, cùng với thi sĩ Allen Ginsberg, là phát ngôn viên của phong trào tự phát của nhóm Beatnik vào những năm 50, nhằm chống lại những khuôn sáo của xã hội và lối sống Mỹ. Phong trào này thể hiện trong văn hóa bằng những tác phẩm vô chính phủ và cá nhân chủ nghĩa. J. Kerouac sống lang thang khắp nước Mỹ, làm đủ thứ nghề, từ lính thủy đến thợ đầu máy xe lửa, và cuộc sống của ông được phản ánh trong những tiểu thuyết nổi tiếng của ông như On The Road, The Dharma Bums…). Hẻm nhỏ, bức ảnh Jack Kerouac vẽ trên tường với dòng chữ “On January 25, 1988, the City of San Francisco approved by City Lights Books to rename 12 streets of San Francisco writers and artists, including this alley.” Nhưng tôi cũng lấy làm lạ tại sao trên vách nhà sách của con hẻm mang tên Jack Kerouac lại có vẽ thêm ảnh nhà thơ Pháp Charles Baudelaire lớn hơn ảnh J. Kerouac nhiều. Điều này tôi sẽ phải hỏi lại Đức mới được.
San Francisco, cũng như Paris, thật ra đối với tôi cũng chỉ là một thành phố tôi thấy thoáng qua. Tôi chưa kịp ghi nhận trong trí nhớ về con người và thời tiết, da thịt chưa đủ ngấm hết cái lạnh lẽo của gió biển Vịnh Cựu Kim Sơn, miệng chưa nếm hết những thức ăn quốc tế trên đường có “phố núi cao, phố núi mù sương”, tai chưa nghe hết cái âm thanh của xe cộ và con người trên đại lộ Columbus, mắt chưa nhìn thấy được cái vùng bóng tối của thành phố mà một người nhạc sĩ nào đó đã viết ca khúc “trái tim tôi bỏ lại ở Cựu Kim Sơn…”
Thế nhưng tôi biết chắc chắn một điều là mặc dù chỉ mới thoáng qua, San Francisco sẽ cùng với Sài Gòn, Nha Trang, Paris là những thành phố đã để lại trong tôi nhiều dấu ấn. Khi Đức hỏi tôi thế Chủ nhật tới có định trở lại San Fran không, tôi đáp không do dự rằng, trước sau gì tôi cũng sẽ trở lại thôi. Bởi vì tôi nghĩ chắc chắn là tôi sẽ còn tới đó nhiều lần nữa. Bởi vì tôi biết là quãng đường từ San Jose đến San Fran xa có là bao. Ấy vậy mà, từ ngày trả lời câu hỏi của Đức đến nay đã trên 10 năm, tôi vẫn chưa một lần trở lại San Fran. Tại sao?
San Jose 18/01/2011
Viết thêm….
Khi tôi đọc lại lần cuối bài viết chuẩn bị cho móc lên blog thì cậu em Andrew email kể chuyện Chủ nhật 9 tháng 1 tuần trước cậu và mấy người bạn đã lên San Fran xem triển lãm tranh của Vincent Van Gogh tại viện bảo tàng de Young trong công viên Golden Gate. Cuộc triển lãm mang tên “Van Gogh, Gauguin, Cézanne and Beyond: Post-Impressionist Masterpieces from the Musée d’Orsay”. Theo Andrew đây là cuộc triển lãm phần hai những tác phẩm của trường phái Ấn tượng mà viện bảo tàng Orsay tại Paris cho de Young mượn trong khi viện bảo tàng này đang được trùng tu. Andrew viết cậu không tài nào diễn tả được nỗi xúc động khi chính mắt ngắm tranh thật, chứ không phải hình chụp lại, những tác phẩm lừng danh của Van Gogh như “Starry Night over The Rhone”, và “The Artist’s Room at Arles”. “Nếu anh đã lỡ mất 2 cơ hội vừa qua để xem tranh Ấn tượng, xin đừng bỏ qua cuộc triển lãm tranh của Picasso mang tên “Picasso: Masterpieces from The Musée National Picasso, Paris” sẽ được tổ chức tại viện bảo tàng de Young trong mùa hè này, từ ngày 11 tháng 6 đến ngày 25 tháng 9, năm 2011. Lần này, em sẽ đón anh đi! Nhớ lên lịch nhé!”
Vậy thì câu trả lời Tại Sao của tôi đã có. Thế nào mùa hè năm nay tôi cũng sẽ theo Anndrew lên San Fran xem tranh Picasso. Và chắc chắn là sẽ trở lại quán cà phê trên căn gác nhỏ ngó xuống con hẽm mang tên Jack Kerouac chụp lại chân dung Jack Kerouac và chân dung Charles Baudelaire, sau đó bước vào nhà sách City Lights Books ở đại lộ Columbus tìm mua tập thơ Howl and Other Poems của Allen Ginsberg, và…biết đâu sẽ tìm thấy một cuốn sách khác của một tác giả trẻ tuổi Việt Nam? Tại sao không?…
[NXH]