- Bụi Và Rác
- Hà Nội, Năm Tôi 16 Tuổi
- Nhatrang, Thành Phố Của Tuổi Thơ Tôi
- Một Tinh Cầu Khác
BỤI VÀ RÁC
Sài Gòn tháng Tư 1975
Tưởng niệm ngày 30/4 năm nay, hội ái hữu Biên Hòa California xin gửi đến quý đồng hương và thân hữu một trích đoạn trong Bụi Và Rác của Thầy Nguyễn Xuân Hoàng, tác phẩm viết về Những Ngày Sài Gòn sau 30 tháng Tư 1975. Sách viết xong năm 1986 sau ngày tác giả đến Mỹ. Nhà xuất bản Thanh Văn, California, in năm 1992. Theo Thầy Nguyễn Xuân Hoàng, Bụi Và Rác mặc dù có những nhân vật và sự kiện có vẻ như người thật việc thật, nhưng đây là tiểu thuyết, không phải là hồi ký.
Trân Trọng,
Hội ái hữu Biên Hòa California
1.
Những trái pháo đầu tiên từ vùng ven đô nã vào thành phố rơi trúng ngay xóm nhà lá trong khu Mã Lạng nơi tôi và Quỳnh đã dọn về sống chung từ hơn hai năm nay. Cây kim dạ quang trên chiếc đồng hồ đeo tay của tôi chỉ ba giờ rưỡi sáng. Tôi quơ chân dưới gậm giường tìm đôi dép. Và ngay khi vừa đỡ Quỳnh đứng dậy tôi nghe thấy tiếng chân người chạy rầm rập, tiếng la khóc inh tai, tiếng gọi nhau thất thần ơi ới. Tôi bật công tắc đèn, nhưng điện đã mất. Đi qua phòng khách đến cửa lớn, tôi nhấc cây đà ngang mở ra, hơi nóng thổi ào vào cùng với luồng khói khét mùi cao su thốc tới làm Quỳnh ho sặc sụa. Con ngõ hẹp trước nhà tôi chật ních những người trong xóm tụ tập chỉ trỏ đám khói đang bốc lên trong xóm nhà tôn. Quỳnh ôm cánh tay tôi, nói mệt nhọc:
“Em sợ! Em sợ quá!”
Tôi nắm tay Quỳnh, trấn an:
“Không sao đâu! Không sao đâu!”
Thật ra tôi cũng đang lo sợ. Sợ lắm.
“Pháo trúng nhà Tư Chơi, cậu Thăng ơi!”, chị Sáu trong xóm tay xách nách mang đứng giữa sàn nhà mếu máo tiếp, “Nhà tôi cháy rồi!”
“Tư Chơi có sao không? Nhà chị cháy? Còn anh Sáu đâu? Bọn nhỏ đâu?”
“Trời ơi là trời!.” Chị Sáu khóc to lên.
“Chị Sáu!” Quỳnh nắm tay chị. Tôi nói:
“Em ở đây với chị Sáu, anh chạy vô trong xóm nghe.”
Tôi ra sau nhà xách cái xô nước chạy về phía đám cháy. Bác Tư và bác Tốt chạy theo tôi. Mỗi người xách một xô.
“Có ai bị gì không?”
“Không biết! Không biết ai sống ai chết!”
Cả xóm Mã Lạng bên trong nằm chen với mồ mã. Những mái nhà lợp tôn, vách cũng bằng tôn, trống thốc. Khói bốc ngụt lên, nhưng lửa chưa bén.Tôi nghe tiếng anh Sáu la to:
“Mền đâu? Chiếu đâu? Quần áo đâu?”
“Chi vậy?” Có người hỏi.
“Nước không đủ đâu. Lấy mền chụp lên đi. Quần áo chụp lên đi! Trời ơi! Đâu rồi? Đâu hết rồi?”
Tôi đổ xô nước xong chạy ngược lại nhà quơ đại mấy cái mền. Con nhỏ Tám giúp việc chạy theo tôi cầm tấm ra trải giường. May quá, chỉ còn khói bốc lên ở nhà Tư Chơi… Trái pháo đâm xuống ngôi mã bên hông nhà. Không ai bị gì. Nhưng căn nhà Tư Chơi cũng trống trơn. Tư Chơi đi suốt mấy ngày nay chưa về. Có thể nói xóm Mã Lạng là một trong những xóm nghèo nhất của Sài Gòn. Nghèo đến độ nếu cứ để nó cháy hết đi cũng chẳng sao, vì đâu có tài sản gì mà phải cứu ngoài những tấm tôn, tấm thiếc, đống giẻ rách và nền nhà là đám mồ mả không ai thừa nhận.
Sài Gòn hấp hối. Cả một thành phố hoảng hốt với dòng người ngược xuôi, quần áo xốc xếch, mặt mũi thất thần, di động trên đường phố như những hình nộm.
Ngày hôm qua khi đứng ở đầu hẻm tôi đã thấy những người chạy ngược trên đường Võ Tánh từ rạp chiếu bóng Khải Hoàn về phía rạp cải lương Quốc Thanh đổ xuống Chợ Lớn, những người lính đã cởi áo trận, vất bỏ nón sắt, thân thể bị băng bó vội vàng, người đầy máu và bùn, những đôi mắt không còn sinh khí trên những khuôn mặt hốc hác… Họ chạy nhưng rõ ràng là không biết mình đang chạy đi đâu, về đâu.…
Người ta chờ đợi “ông tướng hoa lan” Dương Văn Minh lên tình hình sẽ thay đổi hẳn. Bởi vì tin đồn Mặt Trận Giải Phóng chỉ muốn nói chuyện với Minh Cồ. Ngoài Minh ra họ không muốn nói với nhân vật nào khác. Và nếu đúng là tướng Minh lên thật, có lẽ Sài Gòn sẽ vẫn là Sài Gòn. Trận mưa bom sẽ không dội xuống đầu bốn triệu con người sống trong nỗi kinh hoàng đang bị ám ảnh trước một biển máu. Nhưng tại Dinh Độc Lập sau khi run rẩy đọc bài diễn văn bàn giao trách nhiệm cho tướng Dương Văn Minh, ông giáo Hương bước xuống đã vấp chân vào một bậc thềm như một điềm gỡ. Và sau những câu trong bài diễn văn dũng cảm của tướng Minh “Hỡi người anh em phía bên kia, tôi thành thật muốn hòa giải, và các bạn biết rõ điều ấy…” là những trái hỏa tiễn của “người anh em phía bên kia” đua nhau rớt xuống Saigon như một câu trả lời. Hà Nội không muốn nói chuyện với bất cứ một người nào, dù nhân vật đó là Minh Cồ.
Quỳnh suốt ngày đi ra đi vào, xem lại đống giấy tờ và hình ảnh của tôi, cái nào nghi ngờ có thể rắc rối là cô đốt bỏ vất hết vào xọt rác. Những tấm ảnh thời học quân sự chín tuần ở Quang Trung, với quần áo treillis, nón sắt, với khẩu M-79, chụp làm cảnh kỷ niệm cũng bị Quỳnh xé nát liệng vào cầu xí.
Tôi chịu không nổi cái cảnh bó gối ngồi trong rọ. Bao nhiêu gia đình đã tìm đường chạy khỏi Saigon và đã chạy được khỏi Việt Nam. Tại sao tôi không làm như họ?
Người đại diện hãng CAL hứa cho Quỳnh hai chỗ trên chuyến bay cuối. Nhưng chúng tôi đã không đến kịp đúng điểm hẹn. Tôi chở Quỳnh đến tòa đại sứ Hoa Kỳ, cả một rừng người chen chúc ngoài cổng sắt. Tại bến Bạch Đằng tôi không thấy chút dấu hiệu nào có chuyến tàu sắp nhổ neo. Quỳnh thì bụng mang dạ chửa, không biết sanh nở giờ nào. Tôi không thể nào đẩy Quỳnh vào cái giòng người cuồn cuộn chen lấn xô đẩy, dẫm lên nhau để tìm cái sống. Cái cảnh di tản ở miền Trung làm tôi hãi sợ quá. Tôi không muốn mình là nạn nhân của một cuộc vượt thoát lối đó. Tôi tìm những lý lẽ riêng để biện minh cho sự an toàn của bản thân nếu Hà Nội chiếm Saigon.
Tôi không biết mình sẽ làm gì trong những ngày tới. Tôi lo sợ. Rồi lại tự giam mình trong nhà, tự an ủi không nên ra đường vì phải canh cho Quỳnh chờ đưa cô đi nhà Bảo Sanh. Tôi quanh quẩn ra vào trong căn nhà hẹp. Quỳnh thì lo xa kiểu đàn bà: trữ sữa, gạo, đường, muối mắm cho cái gia đình ba người có thể sống vài tháng nếu chẳng may không còn chợ búa.
Giống như một người tử tội chờ đợi bản án thi hành, tôi lo sợ và hồi hộp. Tôi hình dung ra một tương lai đầy đe dọa và hồi tưởng một quá khứ không có đầu đuôi. Tôi rảnh rang một cách bận rộn. Tôi cố đọc sách để quên nỗi khắc khoải của một thứ thời gian không phải tâm lý mà cũng không phải vật lý, nhưng tôi hoàn toàn thất bại.
Tôi đến ở trong cái khu xóm Mã Lạng nghèo nàn này của Saigon ngay sau khi Quỳnh quyết định hủy bỏ chuyến đi Âu châu do hãng hàng không CAL đài thọ. Tôi nhớ lại buổi tối sinh nhật của Uyên ở nhà ông bà Phan. Cái ngã đầu của Quỳnh trên vai tôi ngay giữa đường phố Saigon trong đêm giới nghiêm sau cùng khi chúng tôi vừa bước qua cánh cổng sắt nặng nề của nhà ông Phan như bản hôn thú của tôi và Quỳnh. Ở căn nhà này chừng một tháng sau, tôi và Quỳnh đã có dịp đón bà Phan và Uyên đến thăm chơi, khi cả hai chuẩn bị lên đường đi Mỹ.
“Nhà cửa gì mà như cái lỗ mũi!” Tôi nhớ bà Phan đã kêu lên như vậy. “Tài xế phải đậu xe tuốt ngoài kia.”
Bà Phan và Uyên kêu cũng phải. Họ đến thăm tôi đúng vào hôm con hẻm ngập nước mưa. Ngồi trong chiếc ghế mây ở phòng khách nhìn mực nước đục ngầu ngấp nghé tận thềm cửa, bà Phan và Uyên ngó tôi ngao ngán. Hôm đó bà đã nói với tôi điều gì? Bà tiếc rẻ chuyện tôi từ chối cái học bổng bên Mỹ. Bà cười khi nhìn thấy Quỳnh đứng sau lưng tôi mặc chiếc áo bà ba màu nâu, tóc bím đuôi sam ngắn, có gắn một chiếc hoa tỉ muội màu trắng. Phần Uyên, cô không nói với tôi lấy một lời. Cô đứng bên Quỳnh, cười cười nói nói với Quỳnh như hai người bạn thân lâu năm và xem tôi như thể một người chưa hề quen biết bao giờ. Trước khi ra về bà Phan nói “rất tiếc nếu hôn nhân đối với cậu như một nhà tù thì cậu đang trốn từ nhà tù này tự trói tay chui vào nhà tù khác.”
Bà Phan và Uyên đã đi Mỹ đúng vào sáng thứ Bảy, Hăm bảy tháng Giêng, Bảy Ba. Tôi còn nhớ rõ số ngày tháng này bởi vì Hăm bảy tháng Giêng, Bảy Ba là ngày chấm dứt cuộc chiến tranh dài nhất thế kỷ. Chấm dứt trên lý thuyết thì đúng hơn. Bởi vì trong ngày đó – mà sau này đọc trên tờ Chính Luận tôi mới biết thêm rằng trong khi Tổng thống Nixon mở đầu bài diễn văn gửi nhân dân Mỹ bằng câu “một kỷ nguyên mới của hòa bình cho nhân loại bắt đầu …”; khi mà tại căn cứ Tân Sơn Nhất các phi công Mỹ xô nhau tung mũ phi hành lên trời, vỗ vào lưng nhau, chuyền cho nhau chai rượu Cognac để vừa tu vừa la lên: Chiến tranh hết rồi, chúng ta trở về nhà…; khi mà tại Saigon hàng chục ngàn tín đồ Phật giáo và Thiên Chúa giáo đến chùa chiền và thánh đường cầu nguyện cho hòa bình… thì con đường quốc lộ từ tỉnh về thủ đô Saigon bị cắt trên ba chục cây số, và cả chục xe vận tải đụng phải mìn,… tại Tây Ninh cuộc đụng độ kéo dài ba mươi tiếng đồng hồ đã khiến quân Bắc Việt để lại trên chiến trường ba trăm xác chết,… tại cửa bể Sa Huỳnh, tại vùng đồng bằng gần Đồng Tháp và rừng U Minh, tại đồn Ban Hét… nơi nào cũng có chạm súng. Chỉ hai ngày sau cuộc ngưng bắn chính thức được loan báo quân Cộng sản đã mở ba trăm ba mươi bốn cuộc tấn công.
Sau ngày bà Phan và Uyên bỏ Việt Nam ra đi hơn hai năm trời nay, tôi chỉ nhận được có hai lá thư viết từ tiểu bang Virginia thuộc thành phố có tên là McLean. Tôi không có dịp trả lời. Và sau đó tôi cũng không có dịp nhận thêm một dòng chữ nào khác.
Buổi sáng đầu tiên của một Saigon vừa chết, cái thói quen mở radio đã làm tôi giật thót. Một âm điệu hoàn toàn khác lạ chói tai buốt óc vang lên. Tôi có cảm tưởng như mình đang nghe một ca khúc Trung Hoa được người Tàu hát bằng tiếng “Việt chệt”. Nó lơ lớ ngọng ngọng. Nó là một bài ca của kẻ chiến thắng đòi người thua trận phải trả bằng máu, xương, và nước mắt.
Tất cả đều đã đổi khác.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG
Trích Bụi Và Rác, Chương Một A
Hà Nội,
Năm Tôi 16 Tuổi
Chắc bạn sẽ nghĩ rằng tôi là người Hà Nội và tôi đang viết về những ngày tôi mười sáu tuổi ở Hà Nội? Không phải. Tôi không phải là người Hà Nội. Tôi chưa bao giờ là người Hà Nội. Tôi chỉ muốn nói Hà Nội đã để lại trong tôi vết thương “ngọt ngào” năm tôi vừa mười sáu tuổi.
Hồi đó tôi học lớp đệ tam trường trung học công lập Nhatrang. Cha mẹ tôi ở một làng quê, xa thành phố. Tôi sống nhờ nhà một người chú, nhưng gia đình chú thiếm tôi đông con, có thêm tôi trong nhà là thêm một miệng ăn. Do đó, tôi không ở nơi nào cố định. Trong một niên học, đôi khi tôi phải ở qua nhiều nhà. Khi thì ở nhà ông chú, khi thì ở nhà bà cô. Có thời gian không biết nương tựa vào đâu, tôi chạy theo Tôn, một người bạn cùng lớp. Tôn đưa tôi đến sống trong nhà mình. Dì của Tôn thương con, nên nhận tôi cho tôi ở như con. (Chính ra Tôn phải gọi Dì là mẹ mới phải vì bà là người sanh ra Tôn, nhưng tôi không hiểu tại sao Tôn gọi mẹ là Dì.) Bà chia xẻ cho tôi tất cả những gì bà dành cho Tôn: từ những đồng bạc quà sáng, sự chăm sóc trìu mến hơn cả thuốc men khi tôi bị ốm đau và hơn tất cả những thứ đó, tình thương của một bà mẹ và đứa con xa lạ từ đâu lạc vào nhà bà.
Nhà Tôn ở ngay mặt đường Hoàng Tử Cảnh. Chiếm trọn hai gian. Một gian làm quán ăn và một gian dùng để ở. Những sĩ quan, sinh viên sĩ quan, khóa sinh thuộc các binh chủng Không Quân, Hải Quân, Biệt Kích, Biệt Động …đang trấn đóng hay thụ huấn tại đây vẫn thường tới lui ăn uống ở quán của Dì. Có nhiều lý do để tôi nghĩ rằng họ thích cái quán này. Thứ nhất là vì nhà hàng tiếp đãi lịch sự và thức ăn đặc biệt ngon hơn các tiệm khác trong thành phố. Thứ hai nữa, theo tôi có lẽ là vì quán còn có Vân, một thiếu nữ Bắc kỳ, xinh đẹp, sắc sảo, và quyến rũ.
Không biết chị Vân quen Dì trong hoàn cảnh nào, chỉ biết một hôm đi học về Dì gọi Tôn và tôi qua nhà hàng ăn giới thiệu chị với chúng tôi và nói từ nay tiệm mình đã có người quản lý. Dì nói, chị Vân là người Hà Nội, và di cư vào Nam một mình từ hai năm nay. Chị sẽ tạm thời thay Dì lo tiệm ăn, vì Dì có nhiều việc phải làm. Vân trở thành thỏi nam châm của nhà hàng, nếu không muốn nói là thỏi nam châm của cả thành phố. Quán mỗi ngày một đông khách. Các sĩ quan và thanh niên trong cái thị trấn miền biển này là những mảnh sắt vụn nằm trong từ trường của chị.
Những tối, khi khách ăn đã về hết, quán đóng cửa, tôi và Tôn thường mang sách vở sang học bài ở một bàn ăn. Chị Vân đôi khi đến ngồi với chúng tôi. Chị thường kể chuyện Hà Nội của chị cho chúng tôi nghe. Chị kêu chị nhớ quay quắt Hà Nội, nhớ từng gốc cây phượng vĩ nghiêng đầu xuống mặt đường Quan Thánh, nhớ tiếng chuông tàu điện leng keng qua vườn hoa Hàng Đậu, nhớ cái màn sương trắng đục phủ kín chân cầu Long Biên, nhớ cái mặt đồng hồ lớn trên nóc ga Hàng Cỏ..., nhớ người anh trai đã ở lại ngoài đó không biết bây giờ sống chết ra sao, nhớ người cha đã biệt tích từ lâu không tin tức, nhớ khuôn mặt của mẹ lần cuối cùng xanh xao, khi người ta liệm bà trong quan tài.
Và hơn tất cả những nổi nhớ nhung đó là tình yêu của chị dành cho anh Thạc. Chị nhắc mãi tên anh Thạc, người đã hẹn thề cùng chị dắt nhau vào Nam. Thế nhưng, trong cuộc di cư hỗn loạn, chị và anh đã thất lạc nhau. Năm 1954, khi vừa đặt chân xuống Nha trang cùng với đoàn người di cư, chị tìm anh khắp nơi nhưng không thấy anh đâu. Chị nói gần hai năm nay chị không được một tin tức gì về anh. Có người nói anh vẫn còn ở Hà Nội. Cũng có người nói anh hiện đang ở Sài Gòn. Có người nói anh đã vào lính. Nhưng cũng có tin đồn là anh đã chết. Chị Vân không tin chuyện anh Thạc chết. Chị nói: “Không, anh Thạc không bao giờ chết. Anh ấy vẫn còn sống.” Hình như càng buồn chị Vân càng đẹp. Tôi thấy được nỗi khắc khoải của chị, nhưng tôi không biết làm sao an ủi chị. Những tối tôi mang sách qua tiệm ăn nói là học bài, nhưng thật ra chỉ là để nhìn chị. Tôi kể cho chị nghe đủ thứ chuyện trên trời dưới đất, những câu chuyện cười trong lớp, những trò quấy phá mà lũ bạn của tôi đã gây ra cho nhà trường và các giám thị. Nhưng tôi biết mình vụng về và giọng nói ngắn ngủn cộc cằn của tôi đã không làm bay đi được chút bụi phấn buồn bã nào trên mặt chị. Tôi không bao giờ thấy chị cười.
Hồi đó tôi không hiểu tại sao mình cần chị đến thế. Tôi muốn mỗi ngày phải được nhìn thấy chị. Tôi không muốn xa chị. Tôi sợ phải xa chị. Những buổi học của tôi từ khi có mặt của chị Vân bỗng như dài ra, trong khi những giây phút ngồi bên chị thì thời gian sao mà cứ ngắn lại. Tôi là học sinh khá toán nhưng điểm toán của tôi bắt đầu xuống dốc thảm hại. Nhà trường gửi giấy báo về cho gia đình và mẹ tôi vội vã biên thư cho chú tôi, nhờ ông nhắc nhở chuyện học hành của tôi.
Nhưng tôi làm gì được? Tôi chìm trong một cơn mê không tên. Nhiều lúc, tôi trốn học, xuống biển, nằm trên cát, ngửa mặt nhìn trời và tự hỏi thế giới này có trái tim ai như trái tim tôi, luôn đập một nhịp bất thường kỳ lạ…Tôi nộp đơn vào lính, nhưng 16 tuổi, đơn xin nhập ngũ của tôi bị từ chối. Tôi muốn vào binh chủng Không quân. Tưởng tượng mình là phi công, bay trên trời cao. Tôi cũng muốn vào binh chủng Hải Quân, suốt đời trên biển cả. Cuộc sống tôi hoàn toàn xáo trộn từ khi chị Vân có mặt trong đời tôi. Khuôn mặt chị, đôi mắt chị, mái tóc chị, bàn tay chị,… lúc nào như cũng vờn trước mặt tôi.
Hình ảnh chị Vân đứng ở quầy hàng, nhắc nhà bếp làm thức ăn, biên giấy tính tiền, hơi nghiêng đầu chào một thực khách quen, hay vào những lúc nhà hàng vắng người, chị cúi nhìn chăm chú vào một quyển vở chép tay mà tôi không bao giờ biết được những dòng chữ trong tập vở ấy viết điều gì… luôn ở trong trí nhớ tôi. Chị hay nói đến tên những tác giả TTKh, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, ... Chị thuộc nhiều thơ và nói trong quyển sổ tay này chị chép đầy những bài thơ của những tác giả mà chị yêu thích.
Một buổi tối, Tôn phải chở Dì đi công việc, và như thường lệ tôi một mình mang sách sang quán ăn học bài. Tôi ngồi ở chiếc bàn quen, mở tập ra, đọc lại bài toán thầy cho làm ở nhà, nhưng không hiểu gì. Tôi chờ chị Vân, nhưng chờ mãi không thấy chị bước ra. Cửa buồng chị đóng kín, ánh đèn sáng chui qua khe cửa. Tôi ra sân trước, ngồi trên bậc cấp, buồn bã nhìn những ngôi sao trên trời và nghe thấm lạnh những ngọn gió biển thổi lùa qua thành phố. Không biết tôi ngồi đó được bao lâu, chỉ biết khi tôi nghe thấy mùi hương tóc của chị phả xuống và cái mát rượi của bàn tay chị chụp lên mắt tôi, tôi mới sực tỉnh.
“Sao lại ngồi đây?” Chị hỏi.
Thấy tôi không trả lời, chị lại hỏi:
“Chờ ai vậy?”
“Chờ chị.”
“Chờ chị? Tại sao?”
“Hôm nay chị làm sao thế?”
“Có làm sao đâu. Nhưng mà…”, chị tiếp, “hôm nay cậu thế nào ấy. Lạ quá!”
“Không, chị mới là lạ đấy!”
“Lạ cái gì chứ?”
“Thật mà. Chị không thấy vậy sao?”
“Không. Chị không thấy gì hết! Nhưng chị biết là cậu buồn. Đúng không?”
“Sao chị biết?”
“Nhìn mặt thì biết chứ! Thôi vào nhà đi!”
“Chị vào trước đi.”
“Vào nhà, chị kể cho cậu nghe chuyện này! Bí mật nhé!”
Chị nắm tay tôi. Chúng tôi bước vào quán.
“Vào đây!” Chị đưa thẳng tôi vào buồng riêng của chị, nơi tôi chưa từng một lần đặt chân vào kể từ khi chị ở đây. Chị cúi xuống, đánh diêm châm một ngọn nến cắm trên một chiếc bánh sinh nhật và với tay tắt ngọn điện trên trần nhà. Tôi nghe hơi thở chị thơm ngọt, hai bàn tay chị đặt trên vai tôi. Chị nói:
“Hôm nay là sinh nhật chị. Thế là chị đúng hai mươi tuổi rồi đấy.”
“Sinh nhật chị? Hai mươi tuổi? Thật không? Sao không nghe chị nói?”
“Thì bây giờ nói rồi đấy!”
“Rồi sao?”
“Cậu ngồi xuống đi. Cuối tháng này chị sẽ không còn ở đây nữa.”
“Tại sao?” Tôi nghe nhói ở tim.
Tôi như ngửi thấy một mùi cháy khét toả ra trong căn phòng, toát ra từ mái tóc chị, từ chiếc khăn quàng màu tím quấn trên ghế, từ mấy cái kẹp tóc và thỏi son trên mặt bàn, từ bức ảnh chụp cảnh Chùa Một Cột treo trên vách... Khuôn mặt chị chìm trong bóng đêm. Nhưng đôi mắt chị sáng long lanh như hai ngôi sao nhỏ lấp lánh liêu trai trong một bầu trời đầy mây xám.
“Tại sao?” Tôi lập lại.
“Chị vừa được tin anh Thạc. Có người nói anh ấy đang ở Sài Gòn và đang sống với một người đàn bà.”
“Một người đàn bà?”
“Một người đàn bà khác!”
“Nhưng có chắc người đó là anh Thạc không?”
“Không có gì là chắc. Nhưng chị cần gặp anh ấy. Chị phải tìm cho ra anh Thạc.”
Tôi thấy mắt chị sáng lên khi nhắc đến tên anh. Bỗng nhiên tôi bật cười thành tiếng.
Chị ngơ ngác nhìn tôi. Hình như tôi có giọng cười bất bình thường. Một tiếng cười mất dạy. Chị rót rượu ra hai chiếc cốc, cúi xuống thổi tắt ngọn nến. Căn buồng chìm ngập trong bóng đêm. Và tôi cảm được vòng tay chị quấn lấy cổ tôi. Tôi run rẩy ôm chị. Tôi cảm được mùi da mặt mịn màng của chị áp vào mặt tôi. Tôi run rẩy đặt môi lên môi chị. Và răng chị cắn nát môi tôi. Đột nhiên trái tim tôi như một lò thuốc súng nổ tung, bốc lửa, cháy bùng lên. Tưởng là thiên thu, nhưng chỉ là một khoảnh khắc
Thuở đó, tôi yêu chị bằng tất cả trái tim vừa mới lớn của mình.
Tôi gọi Vân là Hà Nội của tôi: Hà Nội năm tôi mười sáu tuổi.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG
Nhatrang,
Thành Phố Của Tuổi Thơ Tôi
Tặng những người Nhatrang,
Tặng những người vẫn còn Nhatrang trong trí nhớ
1.
Mỗi chúng ta ai mà chẳng có một quê hương. Khi bỏ nước ra đi, chúng ta mang theo trong lòng một [những] khuôn mặt, một giọng nói, một màu áo, một tiếng rao quà … mà chúng ta không hề ngờ tới. Chỉ khi nào trái tim ta đau buốt vì thương cảm, hoặc nổ tung ra vì hạnh phúc ta mới chợt nhớ ra quê hương đang ở trong lòng ta. Cũng có khi quê hương sống dậy vì một chút nắng, hay một giọt mưa, một bãi cát [vàng] hay một con sóng biển, một mầu trời hay một tiếng nói mang âm hưởng của vùng quê ta, …lúc đó ta biết rằng không có chi ngăn nổi trí nhớ nóng bỏng của ta làm hiện ra những hình ảnh cũ. Bởi vì thật bất ngờ, đôi khi chỉ thoảng một “mùi hương” cũng đủ khơi dậy trong ta biết bao kỷ niệm quê hương.
Đối với tôi, thời tiết giá buốt những ngày cuối đông đầu xuân ở California gợi lại trong tôi biết bao điều về thành phố quê hương, nơi đã nhìn tôi lớn lên, đã thêu dệt trong tôi biết bao mộng ảo, đã đày đọa tôi tới chín tầng địa ngục.
Nhatrang, đó là một thành phố của tình yêu và chia biệt, thành phố của những mối tình mùa hè, của những con sóng biển vô tình, những con dã tràng trên cát, những dấu chân bị nước cuốn đi không để lại một vết tích nào như thể trước đó nó không hề tồn tại …
2.
Tôi là người có hai quê: cha tôi ở trên Thành, mẹ tôi ở Ninh Hoà. Nhatrang nằm ở giữa. Đường từ Nhatrang lên Thành-Citadelle / Diên Khánh-Quang Thạnh gần, nhưng đường từ Nhatrang đi Ninh Hoà xa hơn, cách nhau tới hai ngọn đèo, đèo Rù Rì và đèo Rọ Tượng. Mẹ tôi người Minh Hương. Và nơi mẹ tôi sống có thể nói là thị trấn của những người Minh Hương. Tính chất Minh Hương ấy hiện lên rất rõ trong những ngày lễ lạc. Cái quận lỵ nhỏ bé chỉ chiếm một khúc ngắn trên quốc lộ Một và tỉnh lộ Hai Mươi Mốt này gặp ngày lễ lớn người ta thấy bay rợp trời những lá cờ Trung Hoa, họa hoằn lắm mới thấy một vài lá cờ Việt Nam. Và ngay cả những người dân sống trên con lộ chính này cũng là những người Hoa. Bà dì tôi đúng là một người Hoa, Hoa một trăm phần trăm, Hoa từ mái tóc ngắn kiểu “bôm bê” đến giọng nói, từ cách sống đến lối nghĩ, từ quần áo của bà mặc đến lối trang trí nhà cửa … Thế nhưng mẹ tôi, lạ thay không có chút mảy may Tàu. Trái lại bà có cái vẻ bề ngoài của một phụ nữ tây phương hơn là một người Á đông. Chỉ có y phục, cách ăn uống, cách dạy con, sự xuề xòa, giọng nói của bà là Việt Nam mà thôi. Bà giống một phụ nữ Việt nghèo khổ hơn là một người Hoa giàu có. [Những người Hoa trong thị trấn nhỏ này chỉ có người giàu chớ không có người nghèo].
Nhưng thời gian tôi ở với mẹ và cha tôi ít hơn là thời gian tôi ở với chú thiếm tôi ở thành phố Nhatrang. Và làng Quang Thạnh, quê của cha tôi, nơi tôi còn có những thân thích ruột thịt khác, những ông chú hiền lành, những ông bác khó tính, những bà cô khắc nghiệt, những người anh em họ hàng cùng lứa tuổi tôi gần gũi một cách nhạt nhẽo,... Tôi là một người khách lạ trong ngôi nhà ruột thịt.
Cô Tám tôi, tên Hương là một người đàn bà khắc nghiệt. Bà có một hàm răng rất trắng, rất nhỏ và rất khít. Bà không ăn trầu như những người phụ nữ cùng thời với bà. Cô có một ngôi nhà lớn năm gian, đầy những bàn ghế tủ trang thờ bằng gỗ cẩn xà cừ, sạch sẽ như lau như ly, với một vườn cây ăn trái rộng như một khu rừng. Bà có hai người con gái, nhưng mỗi lần gặp tôi bao giờ bà cũng bảo “mày có muốn về ở với cô không?”. Tôi thưa với bà là tôi không hề muốn ở với bà, và tôi cũng chưa hề có ý định sống dưới một mái nhà với bà. Tại sao, tôi không biết. Mặc dù cô có hai người con, tôi có cảm tưởng như cô tôi không chồng, bởi vì tôi cũng không bao giờ nhìn thấy bóng ông Dượng tôi, và tôi cũng chẳng bao giờ nghe bà nói về ông Dượng của tôi. Tôi muốn biết tại sao nhưng không bao giờ dám hỏi. Cô tôi thường nói: “Tao muốn một đứa con trai cho nó ấm nhà ấm cửa. Mày có muốn làm con tao không?” Và tôi nhớ câu trả lời dứt khoát của tôi lúc đó là “Không!” “Tại sao?” Tôi không biết trả lời cô tại sao, nhưng tôi biết là tôi rất không thích cô. Hình ảnh của cô còn trong trí nhớ tôi đó là một phụ nữ nhỏ thó, ăn mặc rất sạch sẽ gọn gàng, da dẻ hồng hào và “ưa kiện tụng”. Gần như suốt đời cô là một chuỗi tháng năm lên toà xuống huyện. Hai người con gái của cô, mà tôi gọi là em, là những đứa bé gái xinh đẹp dễ thương. Sau này lớn lên, đôi khi tình cờ gặp lại hai cô em tôi, hai thiếu nữ duyên dáng, lạnh lùng, nhìn tôi như nhìn một người xa lạ.
Gần như cả ngôi làng đó chỉ gồm toàn những người trong dòng họ nhà tôi. Cái bánh xe nước trong phim “Chúng Tôi Muốn Sống” do Lê Quỳnh đóng với Mai Trâm và Thu Trang thuộc vùng đất nhà từ đường phía cha tôi.
Tôi không ở với cha tôi, mà cũng không ở với mẹ tôi. Tôi xa gia đình từ nhỏ. Tôi ở nhà chú thiếm tôi vì mẹ tôi muốn tôi “phải đi học”. Chú tôi làm việc ở toà tỉnh Nhatrang, lúc đầu nhà ở đường Hoàng Tử Cảnh, sau dọn về đường Yersin. Ông chỉ là một công chức thường, lương ba cọc ba đồng, còn thiếm tôi thì vì sức khoẻ kém, gần như chỉ suốt ngày quanh quẩn trong nhà lo cho đàn con. Vậy mà chú thiếm tôi phải nuôi thêm một miệng ăn ngoài một đàn con gần mười đứa, không một lời than vãn. Chú thiếm tôi rất thương tôi, những đứa em tôi, con của chú thiếm tôi, cũng tử tế với tôi như một người anh ruột. Nhưng tôi sớm nhận ra mình chỉ là một đứa bé lạc loài, một kẻ ăn nhờ ở đậu, một miệng ăn gây nhiều khó khăn cho một gia đình đông đúc. Và thế đó mà tôi lớn lên, lớn lên trong một đời sống tâm hồn khốn khổ, giữa một thành phố thơ mộng và đẹp đẽ là Nhatrang. Tôi không ở lâu trong một ngôi nhà nào. Mỗi nhà chứa tôi trong một thời gian ngắn. Tôi là đứa bé báo cơm, một cậu học trò thiếu sách vở, một thằng nhóc lẫn vào những đứa trẻ bụi đời... Ở lớp học ra, tôi không biết về đâu. Ngọn đèn buổi tối vàng om không chiếu sáng những trang chữ. Những bữa cơm nuốt trong vội vã, đôi đuã không biết thế nào là cá và thịt. Đêm luôn luôn dài hơn ngày. Bóng tối bao giờ cũng nhiều hơn ánh sáng. Mọi người cười cười nói nói với tôi, nhưng mỗi câu nói cho tôi biết tôi là gánh nặng của gia đình nơi tôi ở trọ. Ai cũng nói “con ở đây, cứ tự nhiên như nhà của con”, nhưng người nghe đủ thông minh để nhận ra “con là gánh nặng mà ta không bỏ xuống được...” Những cuốn sách mượn của bạn, những tập vở xin của một thầy giáo, những cây bút nhặt được từ một đống rác... và.... Tôi hiểu vì sao tôi yêu những khóm dương trên biển hơn ngôi nhà, yêu bãi cát trên biển hơn chiếc giường tôi nằm chung với một đứa khác mỗi đêm...
3.
Nhatrang, thành phố của biển xanh, và cát trắng, của rừng dương, rừng dừa, của Hòn Chồng, Cầu Đá, của cầu Hà Ra, Xóm Bống, của Tháp Bà, của Lương Sơn, Đồng Đế, ...Nhatrang, thành phố ấy bao giờ cũng dính chặt vào trí nhớ tôi.
Ngôi trường tiểu học là thiên đường của tuổi thơ, nơi đã cho tôi những tình bạn trong sáng mà giờ đây khi hồi tưởng lại tôi vẫn thấy ấm áp cả trái tim. Những Đoàn Lân, Lê Văn Quyền, Tôn Thất Lưu, Trần Lâm Cao, và Hà Thúc Nhơn, Duy Năng, Trần Ngọc Bích, Dương Hồng Ngọc, Trương Hồng Sơn, Nguyễn Đức Sơn, Huỳnh Tấn...những người bạn gái như Bích Ngô, Bích Hường, Hoàng Thị Ngọc Táo, Minh Nguyệt, Phạm Thị Hải, ...những ông anh bà chị như Như Phú, Tuý Hoa, Dạ Khê, Nguyễn Hữu Trí, ...những đứa em Mộng Lan, Mộng Tường, Ngọc Trúc, Liên Châu, Chúc, ...và cả những người “yêu” Odette, Bạch Mai, Bích… nếu tôi được phép gọi như thế. Những bạn ấy có người vẫn còn ở thành phố này nơi tôi đang sống, cũng có người đang ở những tiểu bang khác, những quốc gia khác…. Có người còn sống có người đã chết, nhưng dù đang có mặt tại đây nơi xứ lạ quê người, hay vẫn còn ở quê nhà bao giờ gặp lại hay nhắc đến cũng đều gợi lại trong tôi những tình cảm tốt đẹp, trong sáng, và thơ dại, như thể chỉ có trong những chuyện cổ tích hơn là ngoài đời.
Nhatrang, tên gọi đó với tôi không phải chỉ một thành phố, đó là một gia đình. Không phải gia đình được định nghĩa là một tổ ấm gồm cha mẹ con cái và anh em. Gia đình tôi trong những ngày cắp sách đến trường là những ngôi nhà luôn luôn thay đổi. Có khi là nhà bà Dì trên Xóm Mã Lạng; có khi là nhà bà Cô ở Rạch Rau Muống. Có khi là nhà ông Chú ở Hoàng Tử Cảnh. Nếu những bữa cơm gia đình tôi đói thực phẩm tình thương thì chính những giờ học làm tôi no nê kiến thức và tình cảm. Những ông thầy bà cô tôi là những khuôn mẫu đẹp đẽ không bao giờ phai trong trí nhớ tôi. Cả một thành phố Nhatrang là gia đình tôi. Lớp học, bãi biển, rừng dương, bầu trời, ngọn gió, tình bạn,…. Đó mới chính là gia đình tôi…
4.
Nhatrang, thành phố đó đã dạy cho tôi bài học đầu tiên về lòng nhân ái. Ông chú bà thiếm tôi là những người nhân ái như thế. Những người con của chú thiếm tôi cũng là những người nhân ái như thế. Nhưng tôi giống như một con vật bị săn đuổi vì thiếu cha, thiếu mẹ, chui rúc vào những hang động của tuổi thơ. Bãi biển đẹp nhất trên thế giới là nơi tôi tìm đến những ngày trốn học. Núp dưới bóng những gốc cây dừa, nằm giữa lùm cây trong rừng dương, hay ẩn mình trong hốc đá Hòn Chồng, tôi khám phá ra đời sống là một chuỗi những hạnh phúc và đớn đau, hay những đớn đau-hạnh phúc. Tôi thấy sự cô đơn trong đám đông và thấy cả nỗi ấm áp tình người trong sự cô độc. Tôi không phải là học sinh giỏi. Tôi càng không phải là một học sinh thông minh. Tôi chỉ là một đứa bé thấy thích thứ gì thì cố mà đi tìm hiểu cho ra thứ đó. Thủa đó tôi không tìm ra chữ nào phù hợp với suy nghĩ của tôi, nhưng gần đây tôi giật mình đọc được tựa đề một cuốn truyện dịch từ tác phẩm của Colleen McCullogh, The Thorn Birds, mà tôi rất “thích”: Tôi là một trong “Những con chim ẩn mình chờ chết”.
Tôi vẫn còn nhớ những ông thầy bà cô của tôi, những người đầu tiên dạy tôi đọc chữ, những người dạy tôi cách hiểu nghĩa và nhắc đến Nhatrang là nhắc đến một thành phố với lòng biết ơn của những đứa con. Thầy Cung Giũ Nguyên dạy tôi lòng yêu văn chương, thầy Điểm hội hoạ dạy tôi lòng yêu mầu sắc, thầy Dưỡng dạy tôi thế nào là âm nhạc, ...biển Nhatrang dạy tôi thế nào là vẻ đẹp và sự tàn bạo của thiên nhiên. Nó cũng dạy cho tôi sự nhỏ bé của con người trước sự vĩ đại của trời đất. Biển Nhatrang là một cuốn sách mà tôi sẽ đọc hoài trong suốt cuộc đời tôi. Đọc tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung tôi thích nhất là câu “ngoài trời còn có trời”, tôi nhìn ra “ngoài biển còn có biển.”
5.
Tôi xa Nhatrang đã lâu. Lâu lắm. Tôi đã đi nhiều nơi, nhiều thành phố, nhiều nước. Tôi đã gặp gỡ nhiều người. Những người thông minh, khôn ngoan, đẹp đẽ, giàu có, sang trọng. Những người nghèo khó, vô gia cư, vô nghề nghiệp. Những người tha phương cầu thực. Tôi đã sống với họ, đã chia xẻ nỗi đau với họ. Tôi khám phá ra hình như tôi gần gũi với những ngưòi cùng khổ hơn những người sang trọng. Tôi cũng là nạn nhân của bọn người hãnh tiến, bọn ăn xổi ở thì. Nhưng thật ra, họ giàu hay họ nghèo, họ có chức tước danh vọng hay họ chỉ là những người thường dân vô danh ...bao giờ tôi cũng yêu thương họ. Yêu thương những con người bị đọa đày và tội nghiệp cho sự hãnh tiến của những kẻ số đỏ. Yêu thương sự chân thật lòng nhân ái của người này, và tha thứ những dối trá lọc lừa của người kia. Yêu thương cả những người trước đây từng chà đạp lên nỗi khổ đau của tôi. Cũng như tôi đã từng yêu thương những lằn roi xé thịt của cha tôi nhiều lần giáng xuống thân thể run rẩy của tôi, yêu thương những giọt nước mắt của mẹ tôi từng khóc vì tôi làm mẹ khổ.
Chính thành phố Nhatrang với biển khơi mênh mông của nó, rừng dương xanh đầy gai góc của nó, ...đã trở lại với tôi. Nhatrang ở trong trái tim tôi. Nó nhắc tôi nhìn ra sự phù du và phù phiếm, nó chỉ cho tôi “ngoài trời có trời”, “ngoài biển có biển”. Chiều nay, tôi đi một mình đến Huntington Beach, một chút biển ở Cali để tìm ra một chút biển Nhatrang. Trên chiếc cầu bắc cao trên bờ cát một buổi tối tôi đã nhìn thấy biển đêm, nhìn thấy quê hương tôi mờ mịt. Tôi quên mất quá khứ, tôi không có tương lai. Và hiện tại? Tôi là “con chim ẩn mình chờ chết”...
Nguyễn Xuân Hoàng
California 1 tháng Ba, 1996
Tặng những người Nha Trang,
Tặng những người vẫn còn Nha Trang trong trí nhớ…
1.
Mỗi chúng ta ai mà chẳng có một quê hương. Khi bỏ nước ra đi, chúng ta mang theo trong lòng một giọng nói, một nụ cười, một khuôn mặt, một màu áo, một mùi vị … mà chúng ta không hề ngờ tới. Chỉ khi nào một hôm bất ngờ vì một “cơn gió” nào đó thoảng qua… , ta bỗng giật mình nhớ lại một người tưởng đã quên, một kỷ niệm tưởng đã mất, một nơi tưởng đã biến mất….. “Cơn gió” đó có khi chỉ là một vệt nắng, hay một giọt mưa, một bờ cát hay một con sóng biển, một mầu trời hay một tiếng nói mang âm hưởng của vùng quê ta, …lúc đó ta chợt nhớ lại, thấy hiện ra những hình ảnh cũ.…
2.
Tôi là người có hai quê: cha tôi ở trên Thành, mẹ tôi ở làng Mỹ Hiệp, N.H.. Nha Trang nằm ở giữa. Đường từ Nha Trang lên Thành-Citadelle / Diên Khánh-Quang Thạnh gần, nhưng đường từ Nha Trang đi Mỹ Hiệp xa hơn, cách nhau tới hai ngọn đèo, đèo Rù Rì và đèo Rọ Tượng. Mẹ tôi người Minh Hương. Và nơi mẹ tôi sống có thể nói là thị trấn của những người Minh Hương. Tính chất Minh Hương ấy hiện lên rất rõ trong những ngày lễ lạc. Cái quận lỵ nhỏ bé chỉ chiếm một khúc ngắn trên quốc lộ Một và tỉnh lộ Hai Mươi Mốt này gặp những ngày lễ lớn người ta thấy bay rợp những lá cờ Trung Hoa-Đài Loan. Bởi vì những người dân sống trên con lộ chính này hầu hết là người Hoa, những người Hoa giàu có giữa những người Việt nghèo khó. Bà dì tôi đúng là một người Hoa, Hoa một trăm phần trăm. Hoa từ mái tóc ngắn kiểu “bôm bê” đến giọng nói, từ cách sống đến lối nghĩ, từ quần áo của bà mặc đến lối trang trí nhà cửa … Thế nhưng mẹ tôi, lạ thay không có chút mảy may Tàu. Trái lại y phục, giọng nói, cách sống của bà là Việt một trăm phần trăm. Có thể nói bà là một phụ nữ Việt nghèo khó hơn là một người Hoa giàu có.
Thời gian tôi ở với mẹ và cha giữa cái quận lỵ đó ít hơn rất nhiều so với thời gian tôi sống lạc gia đình khi tôi vừa lên 4 tuổi. Một đứa bé bơ vơ được cưu mang bởi những người xa lạ…Một đứa bé được chuyền tay từ gia đình này đến gia đình khác, từ đồng quê đến rừng rậm… Tôi đã lớn lên trong tiếng súng giữa cuộc chiến vừa bùng nổ… Và khi tìm lại đưọc cha mẹ thì cũng vừa đến tuổi cắp sách đến trường. Và tôi lại phải được gửi đến nhà những ông chú bà thím tôi ở Nha Trang.
Chú tôi làm việc ở toà tỉnh, lúc đầu ở đường Hoàng Tử Cảnh, sau dọn về đường Yersin, một ngôi nhà đẹp trên một con đường đầy những cây muồng hoa vàng. Chú thím tôi coi tôi như con ruột, những đứa em tôi, con của chú thím tôi, cũng tử tế với tôi như một người anh ruột. Nhưng tôi luôn luôn nhận ra mình chỉ là một đứa bé lạc loài, một kẻ ăn nhờ ở đậu, một miệng ăn gây nhiều khó khăn cho một gia đình đông đúc. Và thế đó tôi lớn lên, lớn lên trong mặc cảm của tâm hồn khốn khổ, giữa một biệt thự gọn nhỏ trong một thành phố thơ mộng và đẹp đẽ. Nhưng tôi không ở thường trực trong nhà chú thím tôi. Tôi sống di chuyển từ nhà ông chú này đến nhà bà thím khác. Mỗi nơi một vài tháng, ít khi nhà nào “chứa” tôi quá một năm. Có lúc tôi đến ở nhà một bà dì tôi trên xóm Mã Vòng, gần một ngôi chùa. Căn nhà lá nhỏ, ba gian có cây khế ngọt và chum đựng nước mưa với chiếc gáo dừa. Tôi là đứa bé báo cơm, một cậu học trò thiếu sách vở, một thằng nhóc ăn mặc nhớp nhúa - một đứa trẻ bụi đời lẫn giữa những học sinh con nhà đàng hoàng gia giáo... Ở lớp học ra, nhiều khi tôi không biết về đâu. Tôi sợ ngọn đèn buổi tối trên bàn cơm vàng om không chiếu sáng những trang chữ. Những bữa cơm nuốt trong vội vã, đôi đũa không dám đụng vào những thứ có tên gọi là thịt và cá. Đêm luôn luôn dài hơn ngày. Bóng tối bao giờ cũng nhiều hơn ánh sáng. Mọi người cười cười nói nói với tôi, nhưng trong mỗi tiếng cười, mỗi câu nói tôi tưởng tượng đó là tin nhắn cho tôi biết tôi là gánh nặng của gia đình nơi tôi ở trọ. Những cuốn sách mượn của bạn, những tập vở xin của một thầy cô giáo, những cây bút nhặt được từ một đống rác... và.... Đó là lý do tôi đọc, đọc và đọc… Tôi ngấu nghiến những trang sách, bất cứ quyển nào, bất cứ tác giả nào… Đọc để thấy là mình đang có một người nào đó đang ở bên cạnh, đang trò chuyện như một người bạn… Tôi hiểu vì sao tôi yêu những bụi dương trên biển hơn ngôi nhà tôi ở, yêu bãi cát trên biển hơn chiếc giường tôi nằm chung với một đứa trẻ khác mỗi đêm, yêu những trang chữ hơn những chiếc bánh – mà tôi không có...
3.
Thuở đó có lúc tôi thấy mình giống như một con vật bị săn đuổi vì thiếu cha, thiếu mẹ, thiếu anh em. Tôi chui rúc vào những hang động của tuổi thơ. Bãi biển là nơi tôi tìm đến những ngày nghỉ học và những ngày trốn học. Núp dưới bóng những gốc cây dừa, nằm giữa lùm cây trong rừng dương, hay ẩn mình trong hốc đá Hòn Chồng, tôi khám phá ra thế nào là sự cô đơn trong đám đông và thấy cả nỗi ấm áp trong sự cô độc. Tôi không phải là học sinh giỏi. Tôi chỉ là một đứa bé thấy thích thứ gì thì cố mà đi tìm hiểu cho ra thứ đó. Tôi là ai? Thuở đó tôi không tìm ra chữ nào phù hợp với suy nghĩ của tôi, nhưng gần đây có lần tôi giật mình đọc được tựa đề một cuốn truyện dịch từ tác phẩm của Colleen McCullogh, The Thorn Birds: Tôi là một trong “Những con chim ẩn mình chờ chết”.
Tôi vẫn còn nhớ những ông thầy bà cô của tôi, những người đầu tiên dạy tôi đọc chữ, những người dạy tôi cách hiểu nghĩa và nhắc đến Nha Trang là nhắc đến một thành phố với lòng biết ơn của những đứa con. Thầy Cung Giũ Nguyên, thầy Phạm Thế Ngũ dạy tôi lòng yêu văn chương, thầy Điểm hội hoạ dạy tôi lòng yêu mầu sắc, thầy Dưỡng dạy tôi thế nào là âm nhạc, ...biển Nha Trang dạy tôi thế nào là vẻ đẹp và sự tàn bạo của thiên nhiên. Nó cũng dạy cho tôi sự nhỏ bé của con người trước sự vĩ đại của trời đất. Biển Nha Trang là một cuốn sách mà tôi sẽ đọc hoài trong suốt cuộc đời tôi.
4.
Nhưng rồi tôi cũng phải xa Nha Trang. Tôi theo gia đình anh tôi vào Sài Gòn. Bỏ lại trường Võ Tánh, tôi vào Petrus Ký. Rồi vào đại học. Lên Dalat. Ra trường, tôi xuống Biên Hoà nhận việc. Rồi lại trở về Petrus Ký với phấn trắng bảng đen. Bạn tôi, có đứa đã du học, đã trở về, có danh phận; có đứa đã vào quân đội, đã ra chiến trường, đã mất tích, …. Rồi chiến tranh chấm dứt. Nhiều đứa đã vượt thoát, nhưng nhiều đứa cũng đã bỏ thây trong tù, trên biển, trong rừng…Cũng như bao gia đình khác, gia đình tôi ly tán. Tôi trở lại Nha Trang, tôi ra Phan Thiết, tôi xuống Cà Mâu: tôi tìm đường đi. Tôi lái xe ủi đất. Tôi làm ruộng. Tôi phải “vào” U Minh khi vừa đặt chân xuống ghe. Và sau mười năm, chạy từ nơi này đến nơi khác, tôi cũng đến được nơi muốn đến. Từ quê hương thứ hai, tôi đã được đi nhiều nơi, đến nhiều thành phố, … Tôi đã gặp gỡ nhiều người. Những người quen và không quen. Những người thông minh, khôn ngoan, đẹp đẽ, giàu có, sang trọng. Những người nghèo khó, vô gia cư, vô nghề nghiệp. Tôi đã sống với họ, đã chia sẻ nỗi đau và niềm vui của họ. Tôi đã khám phá ra tôi chính là họ và họ chính là tôi. Yêu thương sự chân thật lòng nhân ái của người này, và “quên đi” những dối trá lọc lừa của người nọ. Yêu thương những người trước đây từng cưu mang tôi; yêu thương cả những người từng chà đạp lên nỗi khổ đau của tôi. Yêu thương những người hôm qua là bạn và hôm nay bất ngờ khám phá ra họ chỉ là những người trước đây mình tưởng họ là bạn thôi!
5.
California năm nay, thời tiết giá buốt những ngày cuối đông đầu xuân gợi lại trong tôi biết bao điều về thành phố quê hương, nơi đã nuôi tôi lớn lên, đã khắc vào trí nhớ tôi biết bao mộng tưởng, thiên đường và…địa ngục.
Nha Trang của tôi, đó là thành phố của thời mới lớn [của tôi], của những con sóng biển ầm ì, những con dã tràng trên cát, những dấu chân bị nước cuốn đi, thành phố của những mối tình mùa hè, thành phố của những gặp gỡ vội vàng và chia ly đột ngột …
5bis.
Chiều cuốì năm lạnh buốt, tôi lái xe một mình đến Huntington Beach, thả bộ trên bờ cát. Trên chiếc cầu bắc cao ngó xuống mặt cát một buổi tối mùa đông, trước mặt là biển đêm mờ mịt, tôi thoáng nghe thấy tiếng sóng vỗ rì rào vào bờ cát, và bất ngờ một làn gió lạnh buốt thổi lùa qua mặt cóng rát và… chợt tôi thấy mình như đang đứng trước biển Nha Trang. Thấy lại những bụi dương, thấy lại con đường Độc Lập, rạp xi nê Tân Tân, thấy xóm Mã Vòng, Phường Cũi, thấy Chợ Đầm, cầu Hà Ra, cầu Xóm Bóng, thấy đường Yersin, thấy lại ngôi trường cũ… cảm thấy cái rát của ngọn roi cha tôi quật vào mông tôi, thấy lại giọt nước mắt của mẹ, hiện lên khuôn mặt lạnh của ông anh tôi trước ngày anh ra đi và đôi mắt buồn xa xăm của các em tôi ….. Tôi tưởng mình đã quên mất quá khứ, nhưng cơn gió biển chiều nay đã thổi lại trong tôi hơi thở màu sắc mùi vị, nụ cười và nước mắt, thổi lại trong tôi thành phố Nha Trang của một thời tuổi nhỏ. Nha Trang vẫn còn nguyên vẹn trong trái tim tôi. …
Tôi là “con chim ẩn mình chờ chết” chiều nay thức dậy nhờ tiếng sóng của một thành phố quê hương thứ hai...
Nguyễn Xuân Hoàng
Huntington Beach 10 tháng Hai, 1996
San Jose 19 tháng Giêng, 2012
Ý Kiến Độc Giả:
Bài viết gây xúc động. Nhà văn là người sống quá số phận, cảm xúc cũng vượt qua những biên độ của người thường. Lúc nào cũng buồn trước và vui sau thiên hạ. Những dòng chữ hiền hòa của ông cũng là những cơn sóng vỗ vào những tâm hồn vô cảm hôm nay..
Đọc và cảm động. Ai cũng có một nơi để nhớ về. Nhưng làm sao để biến nơi nầy thành ra chốn thuở nọ thì thật là vạn nan. Phải yêu khúc sông, vùng biển cũ...nhiều lắm thì mới có thể mượn tạm quê người làm nhà mình cho đở nhớ. Vì nhìn quanh quất, đâu đâu cũng vướng vất mang chút dấu quê nhà.
"Tôi đã khám phá ra tôi chính là họ và họ chính là tôi." Câu văn này nói lên tác giả mới chính là nhà văn. LKT - O.C.
"Tôi đã khám phá ra tôi chính là họ và họ chính là tôi. Yêu thương sự chân thật lòng nhân ái của người này, và “quên đi” những dối trá lọc lừa của người nọ. Yêu thương những người trước đây từng cưu mang tôi; yêu thương cả những người từng chà đạp lên nỗi khổ đau của tôi. Yêu thương những người hôm qua là bạn và hôm nay bất ngờ khám phá ra họ chỉ là những người trước đây mình tưởng họ là bạn thôi!"- NXH bắt đầu lẩm cẩm rồi chăng?
Thảm kịch lớn nhất của con người không phải là cái chết, mà là chờ chết. Sau tháng Tư đen 1975, NXH bị chế độ vùi dập, lòng không nao núng trước biển lớn sóng to. Nay, sao lại đầu hàng nơi nước Mỹ phồn vinh.
Gửi NXH: tôi mới từ Nha Trang về cách đây 1 tháng. Biển Nha Trang đẹp và mở mang hơn xưa rất nhiều, từ bãi số 1 xuống Cầu Đá đều được lát gạch. Đường Duy Tân khách sạn mọc lên như nấm, nhưng cũng may 0 xây sát bờ biển mà xây bên kia đường nên hàng dừa bãi biển vẫn còn nhiều. Bãi Bá Ninh có công trường khá đẹp. Đường Độc Lập nhà cửa xây cao nhiều tầng nhưng rạp xi nê Tân Tân vẫn như xưa không thay đổi gì, nhưng đóng cửa 0 còn chiếu nữa.
. Tiệm bánh Hóa Hưng trên đường Phan bội Châu vẫn như xưa, bánh thơm phức. Chợ Đầm đã được xây lại, đằng trước trông được nhưng đằng sau lụp xụp lắm. Bánh căng chợ Đầm vẫn ngon như xưa, có điều đa số khách ăn bánh có trứng chứ không ăn bánh gạo không, mà trứng là trứng gà chứ 0 phải trứng vịt. Chùa Phật Học rác rưởi và rất nhiều ăn mày. Cầu Hà Rá, Xóm Bóng ban đêm có đèn màu chụp hình từ Tháp Bà rất đẹp. ...
Bai viet hay qua ?
Anh Hoàng hình như dề trải lòng với đời. Biết thề, nên đọc bài này, đáng lẽ phải bị xúc động nhiều, thì tôi lại không. Hay tại anh đang viết lên chính những cái lạc loài, bơ vơ mà chính tôi đang muốn né tránh nghĩ tới nên tôi không còn biết cảm nhận nhẹ nhàng nữa. Cuộc sống này hình như không phải là chỗ của tôi, tuy ngược lại với anh: tôi có đủ cha mẹ đùm bọc trong mọi sự đầy đủ. Tôi thích nghĩ tới ngày mình được về với cát bụi, nơi đó là cái nhà thật sự của mình.
Gửi NXH: Trường Võ Tánh đường Bá đa Lộc nay thành trường Lý Tự Trọng ở đường Lý Tự Trọng. Thầy Lạc hiện ở nước ngòai. Trường tư Lê Quý Đôn 0 còn nữa và thầy Thương lùn không biết ở đâu. Nói chung NT có vẻ mở mang, sung túc nhưng đó là mặt ngòai, mặt trong thì có lẽ phải ở lâu mới biết được.
Nhà văn nhà thơ nhà báo là 1 thành phần trong cộng đồng xã hội có đủ loại bạn, kể cả bạn đời, bạn yêu. Vậy mà ô. NXH thảng thốt kêu lên:"Yêu thương những người hôm qua là bạn và hôm nay bất ngờ khám phá ra họ chỉ là những người trước đây mình tưởng họ là bạn thôi!" Tại sao vậy cà??? Thôi thì cứ đổ cho chữ Tài chữ Mệnh chữ Yêu chữ Ghen chữ Ghét chữ Ngờ. Năm mới chúc ông tiếp tục viết cho VOA cho anh em đỡ tủi. LKT
Tháng chạp tây. Những ngày cuối của một năm cũ. Từ một thành phố miền dưới thấp tôi đã bay lên một thành phố miền cao trong một giờ di chuyển; thời tiết biến đổi đột ngột làm tôi ngộp thở. Thủy đón tôi ở sân bay. Buổi chiều xuống nhanh kéo theo đám sương mù bu quanh những ngọn đèn dọc theo đường về khu chợ.
Xe của hãng hàng không thả chúng tôi xuống dưới chân dốc chợ Hòa Bình. Thủy đưa cho tôi chiếc khăn quàng cổ màu tím (chiếc khăn mà cô đã hứa đan tặng tôi khi nghe thấy tiếng ho khan rát bỏng của tôi qua đường dây nói liên tỉnh).
“Anh nhớ uống thuốc đầy đủ theo toa bác sĩ nghe?”
“Không.”
“Không nghe thì đừng nói chuyện với em nữa.”
“Nhớ rồi.”
“Tốt. Em sẽ tặng anh cái khăn quàng cổ rất đẹp, khi nào anh lên thăm em.”
“Khi nào?”
“Em hỏi anh mà!”
“Thì bây giờ anh hỏi em.”
“Ba ngày trước Nouvel An.”
“Tại sao không bốn ngày hay hai ngày?”
“Tại vì em muốn như vậy.”
“Cứ tạm coi là được đi.”
“Đồng ý, nhé ông.”
“Đồng ý, cô nhỏ.”
Tôi khoác áo choàng lên vai. Trời lạnh dữ. Hơi rét lùa qua cổ áo chui vào da thịt. Tôi đốt một điếu thuốc, thở khói.
“Chờ lâu không, cô nhỏ?”
“Lâu. Nhưng sao?”
“Thì hỏi vậy thôi.”
“Chỉ hỏi vậy thôi?”
“Tôi nhớ em.”
Tôi ngó chăm vào mặt Thủy. Đôi mắt màu nâu của cô chìm trong bóng đen. Khuôn mặt nhỏ trắng nhợt lạnh lẽo. Chiếc áo choàng màu da beo, cổ lông gấu đen mướt, tóc xõa cùng với chiều cao của một tấm thân vừa mới lớn, mọc vững vàng trên một đôi chân dài, khiến Thủy có vẻ như là một thiếu nữ Tây Phương hơn là Á Đông. Thủy nhắc cho tôi nhớ là trên con đường chúng tôi đang đi đây, lâu lắm, trước đó, suốt trong ba năm trời ròng rã tôi đã từng đi, dưới bầu trời nặng mây và sương mù này tôi đã từng thở, đã từng ngước nhìn những cánh anh đào nở rộ một cách muộn màng sau lễ Giáng Sinh. Câu nói của cô làm tôi nhớ đến những viên sỏi khua động dưới chân tôi trên triền dốc một buổi tối đánh bi-da trở về căn phòng trọ. Mùi bắp nướng thơm phức bốc lên từ những lò than hồng ở một góc phố. Những gói lạc rang cháy vàng nóng giòn tan lừng trong miệng.
“Em lấy phòng ở khách sạn nào vậy?”
“Ở Thủy Tiên, ông.”
Thủy cho tay vào túi áo choàng lấy ra chiếc chìa khóa rung rung trước mặt. Bỗng nhiên Thủy kêu lên:
“Hành lý của anh đâu?”
“Đây!”
Tôi đưa cái xách tay nhỏ cho Thủy.
“Đừng có giễu, ông!”
“Thật mà!”
“Không đem theo gì hết hả?”
“Chừng này không đủ sao?”
“Đủ cho em nhưng không đủ cho anh.”
“Em cũng đủ cho tôi.”
Tôi choàng tay qua vai Thủy. Phố vắng. Tay Thủy ôm vòng ngang hông tôi. Tôi đốt liên miên hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác. Tôi thấy Thủy cũng thở khói trắng đầy miệng.
Một chiếc xe nhà chạy ngang qua, chậm, dừng lại. Một cái đầu ló ra cửa xe kêu:
“Thủy! Thủy!”
Chúng tôi quay lại. Thủy khom thấp người xuống ngó vào xe, hỏi:
“Ai vậy? Bích đó hả?”
Tôi đứng ra xa, tiếp tục hút thuốc và tiếp tục thở khói. Cái dáng khom người của Thủy làm tôi nhờ ngày đầu tiên chúng tôi quen nhau. Rất tình cờ. Một hôm ở rạp chớp bóng ra, trời đang đổ trận mưa lớn, tôi đứng dưới hàng hiên đợi xe. Cũng khá lâu, hết chiếc này đến chiếc khác, chẳng có chiếc nào trống, cho đến khi, cuối cùng của sự sốt ruột, một taxi trờ tới. Tôi đưa tay ra dấu cho bác tài thấy, xong chạy ra lẹ làng đặt tay lên nắm cửa. Đúng lúc đó, một cô gái từ phía sau tôi cũng chạy tới. Cô nhìn bàn tay tôi đang đặt lên nắm cửa. Rồi cô nghiêng thấp người xuống ngó vào trong xe, chờ đợi. Dưới cơn mưa, hai người khách đón xe đứng sựng lại trước một chiếc xe trống, cảnh tượng ấy ngộ nghĩnh và buồn cười. Bác taxi không nói một lời nào. Ông ta hết đưa mắt nhìn tôi, lại nhìn sang người thiếu nữ. Chắc chắn là ông ta không có ý kiến. Rất nhanh, tôi mở cửa xe và nói với người con gái:
“Mời cô!”
Không chút do dự, người thiếu nữ bước lên xe một mình, đóng mạnh cánh cửa, nhìn tôi mỉm cười và cho xe chạy. Tôi nhớ lúc đó tôi hơi hối hận vì đã nhường xe cho cô gái. Người gì đâu mà bất nhã. Tại sao không biết nói một lời cảm ơn? (Sau này tôi thấy mình vô lý. Tại sao cứ muốn người ta nói cám ơn?) Buổi sáng hôm sau, như thường lệ, ngồi uống cà phê với mấy tên bạn ở một quán nước quen, tôi gặp lại người thiếu nữ đón xe dưới mưa. Cô không đi một mình. Người thanh niên kéo ghế cho cô ngồi trạc tuổi cô hay lớn hơn cô vài tuổi. Cô có vẻ được chìu chuộng. Hình như cả hai đang ở thời kỳ yêu nhau. Cô gật đầu chào tôi và hỏi thăm tôi là hôm đó đến mấy giờ mới đón được chiếc xe để về nhà. Chúng tôi nói chuyện với nhau như hai người bạn cố tri. Và tôi được biết cô tên là Thủy. Cô đang theo học trường Chính Trị Kinh Doanh ở Viện đại học Đà Lạt. Cô về Sàigòn thăm nhà. Cô đã ở đây một tuần. Cô đang có trong sắc tay cái vé cho chuyến phi cơ ngày mai. Cô ghét cái không khí xô bồ ở Sàigòn. Cô muốn sớm trở lại Đà Lạt. Ngay buổi chiều hôm đó chúng tôi gặp nhau thêm một lần nữa. Tôi còn nhớ đó là quán Hoàng Gia trên đường Tự Do. Quán nhỏ, ít khách. Bàn ghế đẹp. Bức tranh sơn mài làm nổi bật lớp gỗ màu nâu trên vách. Âm nhạc nhảy nhót trên những chai rượu đặt dọc theo kệ gỗ. Chúng tôi đã uống với nhau những chén trà Hoàng Cúc thơm ngào ngạt và nói về thành phố mà Thủy sẽ trở lại. Tôi cho Thủy biết là tôi đã ở trong thành phố ấy ba năm. Tôi từng là sinh viên khóa đầu của Viện Đại học này. Tôi nói cho Thủy nghe những con đường mà tôi vẫn thường đi mỗi ngày. Nhà trọ của tôi gần một trường nữ mà mỗi lần tiếng trống tan học đã lôi tôi ra đứng dựa gốc ổi trước nhà hút thuốc để lòng rung động theo những tà áo xanh phất phới và giọng nói líu lo của những “cô gái Bùi Thị Xuân.” Tôi tả lại cho Thủy nghe ngày thứ nhất thành phố đó đã chào đón tôi như thế nào. Một ly cà phê đen đặc quánh ở quán Tùng, một trận đòn nhừ tử, bò lăn bò càn với máu mũi máu mồm bê bết lảo đảo từ khu chợ Hòa Bình để trở về căn phòng cư xá sinh viên trong Viện. Đó là trận đòn tàn bạo nhất thời tuổi trẻ mà tôi được hưởng. Và đó cũng là trận đòn làm ấm áp thân thể tôi nhất vì tôi đang không chịu nổi cơn giá rét của thành phố cao nguyên này. Thủy nói rất ít, gần như cô chỉ bày tỏ sự xác nhận những điều tôi nói hoặc chỉ để nói lại cho rõ về một vài thay đổi mà trước kia khi còn theo học tôi đã không nhìn thấy. Sau cùng, trước khi chia tay, Thủy hỏi tôi một câu mà cho mãi đến nay tôi hãy còn nhớ như in:
“Nhưng em chưa biết tên anh?”
Câu hỏi đó làm tôi không nín được cười. Chúng tôi quen nhau đã một ngày, đã nói chuyện với nhau như hai người bạn cố tri, và cô không biết tên tôi.
“Tên tôi? Có cần thiết không?”
“Cần chứ anh. Vì anh đã biết tên em.”
“Vậy thì tôi tên là Tâm. T. Â. M. (Tôi đánh vần từng chữ cho cô nghe). Tâm. Có nghĩa là tim, trái tim.”
Tôi đặt tay lên ngực tôi.
Tôi nhìn thấy Thủy cười. Và chúng tôi ra về.
Sáng hôm sau, Thủy trở lên Đà Lạt. Tôi biết giờ đi của cô nhưng không đưa cô ra phi trường. Để làm chi? Tôi nghe thấy tiếng tôi hỏi tôi. Tôi đã lập gia đình, đã có hai cháu, hai đứa bé dễ thương và kháu khỉnh nhất trong những đứa trẻ mà tôi được gặp. Tôi đang có những đau khổ cùng cực về một cuộc sống chung. Tôi không còn một chút tin tưởng nào về cái mà người ta gọi là tình yêu. Tôi thù ghét đám đông ồn ào lô nhô lúc nhúc. Tôi chán nản vô cùng cái đời sống lúc nào cũng đòi hỏi phải thế này thế nọ, thế nọ thế kia. Tôi hút thuốc nhiều hơn. Tôi bắt đầu uống rượu vào mỗi buổi tối. Tôi bỏ sở đi lang thang từ quán rượu này đến quán rượu khác, công việc dồn lên mãi đầy ắp tận mũi, đến nỗi người chủ sở vốn yêu mến tôi đã phải kêu tôi lên dặn dò nhắn nhủ, khuyên đi khuyên lại như một bố già dạy đứa con ngỗ nghịch. Để làm gì? Cuộc sống hôn nhân của tôi đang gặp trục trặc. Đã bắt đầu đổ vỡ thì đúng hơn. Tại sao khi người ta không thể sống chung nhau mà lại không thể chia tay? Và tại sao khi người ta khám phá ra người ta không thể sống nếu phải xa nhau mà người ta lại không thể kết hợp?
Mùa hè Thủy trở về Sài Gòn. Cô gặp lại tôi với hai đứa nhỏ vẫn trong một rạp chiếu bóng. Vẫn người thanh niên ấy đi bên cạnh cô. Tình yêu của họ có lẽ đã lớn hơn trước. Thủy hôn hai đứa con tôi. Cô hỏi “Chị đâu anh?”. Tôi cười, không trả lời. Không có gì để giải thích với Thủy về trường hợp tôi lúc này. Chúng tôi đang ở thời kỳ khó khăn. Người luật sư cho tôi biết việc ly dị sẽ phiền phức và mất nhiều thời gian. Tôi hiểu. Sự phiền phức đó chính là hai đứa bé. Tình cảm chia lìa giữa cha mẹ sẽ gây cho đứa trẻ một xúc động mạnh về mặt tâm lý và chắc chắn là sẽ có ảnh hưởng không nhỏ cho đời sống tinh thần của chúng về sau này. Tất cả chúng tôi kéo nhau vào quán nước gần đó. Thủy ôm đứa con trai của tôi vào lòng và nói: “Mi tôi đi, người tình bé nhỏ của tôi”. Một lúc, cô ngước mắt nhìn tôi: “Em sẽ đến thăm anh”. Người thanh niên đi bên Thủy không nói một lời nào trong buổi cà phê. Tôi tưởng là hai người yêu nhau. Nhưng tôi đã không hiểu gì cả. Và cô đến thăm tôi sớm hơn là tôi tưởng.
Tôi ở một căn phòng cho thuê, lầu hai, trong một cư xá bình dân. Cầu thang hẹp, trần nhà thấp. Thủy đun nước pha cà phê, xếp lại đống quần áo dưới chân giường, thay drap, quét dọn rác rưới, xếp lại đống sách báo dưới sàn nhà, giặt khăn lau mặt, chùi bóng lavabo. Thủy hỏi:
“Tại sao hai người xa nhau?”
“Hai người nào?”
“Anh và chị, chứ còn ai vào đây.”
“Sao em biết?”
“Sao không! Nhìn thấy anh dẫn hai đứa nhỏ đi vào một quán ăn; sao mà thê thảm quá thế!”
“Ăn thua gì đến em.”
“Chả ăn thua gì tới ai. Nhưng em cảm động.”
Hôm sau Thủy ở lại suốt ngày với tôi. Chúng tôi không có gì giấu diếm nhau. Giữa hai đứa chỉ còn là sự trong suốt. Bức tường ngăn đôi đã bị phá vỡ. Tôi cho Thủy biết tình trạng đặc biệt rắc rối của tôi. Vấn đề khó khăn là ở chỗ đó.
“Vấn đề của anh không phải là vấn đề.”
“Em không sợ dư luận sao?”
“Nếu sợ thì em đã không đến anh.”
“Tại sao không sợ?”
“Tại em thương anh.”
“Tại sao thương tôi?”
“Anh biết không, cái hình ảnh một người đàn ông dẫn hai đứa nhỏ đi xem xi nê hay vào tiệm ăn làm em xúc động quá chừng chừng.”
“Vậy thì đâu phải em thương tôi. Em thương cái hình ảnh ba cha con mà.”
“Em thương ba cha con cũng được chứ sao?”
Vậy là chúng tôi dính vào nhau. Tôi đang cố gắng tháo bỏ một sợi dây oan nghiệt, và có phải bây giờ đây tôi đang buộc vào đời tôi một sợi dây oan nghiệt khác? Không, tôi không tin như thế. Khi người ta bắt đầu khám phá ra cái bóng đen ở phía bên kia của cuộc sống chung người ta không còn cách nào khác để nói lời chia tay.
“Đi, anh!”
“Người quen nào vậy, cô nhỏ?”
“Bích, bạn em. Nó hỏi em Tết tây sao không về Sài Gòn?”
“Em nói sao?”
Thủy ngó tôi cười.
“Nói sao? Có anh ở đây, em không đi đâu hết.”
“Thật vậy sao?”
“Chứ bộ anh tưởng em giả à!”
Đến trước thềm rạp chiếu bóng khu chợ Hòa Bình, tôi kéo tay Thủy ngồi xuống. Bóng tối nhờ nhờ đục mù sương đêm. Thành phố như một bức tranh thủy mạc. Một ngày giáp năm buồn tẻ vắng lặng không bóng người. Và chúng tôi hôn nhau, cuồng bạo như một loài thú. Chúng tôi là những chủ nhân của thành phố Hoàng Triều Cương Thổ. Khi chúng tôi nhả nhau ra, Thủy lả người như một chiếc lá khô.
Chúng tôi đã bước qua cánh cửa của thời lãng mạn xưa cũ. Chúng tôi đã khám phá ra nhau cái mùi vị của tình yêu.
“Cám ơn em.”
“Tại sao anh lại cám ơn em?”
“Tại vì,…nếu không có em thì tôi biết cám ơn ai.”
“Đừng nói chuyện huề vốn ông.”
Nếu bạn đang đứng trên thềm chợ Hòa Bình ngó xuống con dốc trong một buổi chiều đầy sương mù, bên cạnh là một thiếu nữ vừa mới lớn, bạn sẽ hiểu tại sao cuộc đời này vô cùng đáng sống.
Nguyễn Xuân Hoàng
Tháng hai 1969