Thân Hữu 2

Chung quanh... Bụi, Rác, Và Nỗi Đau! - Phan Nhật Nam

Nguyễn Xuân Hoàng không còn nữa - Bùi Văn Phú

Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đã ra đi - T.Vấn

Giã biệt Nhà Văn Nguyễn Xuân Hoàng- Trần Chí Phúc

Nghe Hung Tin - Từ Kế Tường

Những Đứa Con - Đình Nguyên

1963- Trường Trung Học Ngô Quyền, Biên Hòa vào giờ tan học buổi trưa. Đám học sinh khi qua cổng mất cách huyên náo thường lệ, cụ thể với những nữ sinh đệ nhị cấp, lớp thiếu nữ đang thành những nhân dáng riêng với tuổi học trò đang độ lớn, đến mức trưởng thành, rộ nở. Bởi ngay cổng đang đứng trấn bởi một gã sĩ quan cấp thiếu úy. Áo quần hoa nhảy dù với những hình khối màu nâu, đỏ ngang dọc mạnh mẽ, độc đáo, chiếc mũ đỏ đội lệch và điếu thuốc lá trên môi.. Gã trẻ tuổi còn nguyên vẻ của người mới rời khỏi giảng đường, trường học, dẫu cố làm ra dáng cứng rắn, lính tráng. Viên thiếu úy nhìn săm sắp, tìm kiếm... Đám học sinh chợt ngưng câu chuyện, hạ thấp giọng thì thầm khi đi qua. Cũng bởi, người tỉnh nhỏ đã nhiều lần chứng kiến những hành vi mạnh mẽ quá độ của những gã lính trẻ sống nay, chết mai. Thành phố nằm trong khu bản lề của chiến khu D, chiến khu Hắc Dịch, Rừng Lá, vùng xôi đậu Tân Uyên, Tân Tịch.. của những tỉnh Bình Dương-Biên Hòa- Long Khánh-Phước Tuy, nên dân chúng thường chứng kiến xe GMC chở quan tài lính phủ Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ qua thành phố. Cảnh tượng gây nên thương cảm xót xa.. Người chết trận phần đông là con em gia đình trong khu phố. Người ta báo cho nhau những tin chết chóc.. Trung sĩ X Biệt Động Quân cháu ông Tám Mg đầu đường Công Lý. Thiếu Úy Q, anh cả con của gia đình em bác Hai L ngoài Cù Lao Phố.. Tuy nhiên gã thiếu úy hẳn là người xứ lạ đến đây tìm kiếm một điều gì. Hiệu Trưởng Bảo thân hình chắc nịch vạm vỡ, nhân dáng của một võ sĩ hơn là nhà giáo tiến tới tự tin.. Xin lỗi, thiếu úy tìm ai? Gã sĩ quan đổi sắc mặt, vất vội điếu thuốc, lột chiếc nón đỏ xuống cầm tay ấp úng.. Thưa thầy! Hiệu trưởng Bảo thoáng ngạc nhiên.. Anh học tôi ở đâu? Thưa, thưa em không học thầy, nhưng em học thầy B, thầy H.. bạn của thầy; em học Phan Châu Trinh, nhưng thầy hỏi oral em kỳ thi Trung Học Đệ Nhất Cấp đầu tiên ở Đà Nẵng năm 1958. Hiệu Trưởng Bảo cười vui.. Thế hôm nay cậu đến đây có việc gì? Em đến tìm anh Hoàng, Nguyễn Xuân Hoàng, người Nha Trang, học trên Đà Lạt đến đây dạy.

Vào đến văn phòng, Hiệu Trưởng Bảo lớn tiếng.. Hoàng à, có ông thiếu úy nhảy dù nầy đến tìm toa.

Khi đã ngồi nơi quán T.Hg ở bờ sông, giáo sư Hoàng rạng rỡ.. Quái, tôi đi đâu cũng gặp cậu (Chữ “cậu” có nghĩa thân mật, ngang hàng, không có ý kẻ cả, đàn anh. Hoàng không hề có tính nầy). Ngày xưa sáng tắm biển ở Nha Trang cũng thấy cậu; lên Đà Lạt cũng có, rồi nay gặp lại ở Biên Hòa nầy. Làm sao cậu biết tôi dạy ở Ngô Quyền?

Tôi (Anh hơi ngần ngại trước xưng hộ “anh/em” do biết rõ Hoàng không thích làm “đàn anh” với bất cứ ai. Anh nhớ danh xưng “thầy” với Hiệu Trưởng Bảo).. Tôi đọc thơ của thầy từ học trò của thầy..

- Học trò nào của tôi mà cậu quen?

- Cô học trò giỏi Việt Văn nhất trường Ngô Quyền do được thầy dạy nên đoạt giải thưởng văn chương Lễ Hai Bà Trưng!

- A! Lê Th. Dg

- Đấy cô nhỏ đó, cô ấy đọc thơ của thầy nên tôi mới hỏi ra..

-Thơ làm sao? Hoàng có vẻ thú vị.

Thơ làm từ ngày thầy và tôi còn trên Đà Lạt... Bài, “Đà Lạt mưa hoài nên Đà Lạt buồn. Tôi mang mối sầu trong lòng hiu quạnh...”

Hoàng cười trống vắng... Vớ vẩn bỏ xừ. À nầy cũng lạ, tôi với cậu là hai tuổi khác nhau, làm hai việc khác nhau, mà lại hay gặp nhau và mỗi lần gặp là một lần có chuyện.

- Chưa chắc, lần nầy có chuyện gì đâu? Anh cũng nghĩ đến một chuyện gì đó nhưng không rõ?

- Có rồi! Tôi sắp đổi về dạy Sài Gòn!

- Như vậy là chuyện tốt vì Biên Hòa, Sài Gòn cách nhau chỉ 30 cây số. Biên Hòa chỉ là ngoại ô của Sài Gòn. Biết đâu tôi lại đổi về những tiểu đoàn ở Sài Gòn thì lại gặp thầy mấy hồi.

Khi đưa anh về cổng Căn Cứ Không Đoàn 33, cổng chung vào Tiều Đoàn 7 Nhẩy Dù, giọng Hoàng bỗng nhiên chùng xuống ân cần: Cậu cẩn thận nghe không. Súng đạn vô tình. Tội lắm. Tôi ăn cà-rem V.Hg. nhà ông Đg. H, anh họ của cậu từ 1950! Cẩn thận nghe cậu Nam.

Anh không có anh trai. Không chị gái. Nên anh cần thương yêu huynh đệ/bằng hữu như một an ủi, bù trừ.

1973- Sau thời gian trầy thân khắp mọi vùng đất của miền Nam với cách người lính tác chiến thực thụ, nay anh được về làm lính thành phố với nhiệm vụ trong Ban Liên Hợp Quân Sự, Tân Sơn Nhất. Từ Tháng 10, 1973, Hà Nội phổ biến Nghị Quyết 21 công khai đánh chiếm Miền Nam bằng vũ lực, xé bỏ Hiệp Định Ba Lệ 1973. Phái đoàn gọi là Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam VN tức chính phủ của Mặt Trận giải phóng miền Nam theo lệnh Hà Nội kéo dài những phiên họp không mục đích, không nội dung. Anh được rảnh rỗi nên thường về Sài Gòn tiếp tục sự nghiệp “cầm cái ly” thay vì cầm khẩu súng. Quán Chợ Đũi với những bạn rượu thuộc thành phần khác hẳn với những hảo hớn giang hồ nhà binh từ bao lâu quen mặt, quen tính. Đấy là ông Đoàn “càn” nổi tiếng “càn” từ hồi Trại Định Cư Phú Thọ sau di cư năm 1954; người thành danh từ Đại Học Xá Minh Mạng; đấy là giáo sư Thảo với cách ăn nói thắm thiết đôn hậu; là ông thầy dạy toán lừng lẫy do đã có Chứng Chỉ Toán Đại Cương (MG) từ trước năm 1960... Danh sĩ quanh bàn rượu còn có những tên tuổi kiệt liệt như nhà giáo thi sĩ Tạ Ký, đến chai bia thứ ba thì xỏa đầu tóc bạc, nhìn trân ra khoảng tối với đôi mắt ráo hoảnh thay tiếng thét im lặng; đấy là nhà vận động cách mạng (cách mạng thứ thiệt/rất bản lãnh) Nguyễn Liệu, Hiệu Trưởng Quảng Ngãi Nghĩa Thục, một cơ sở giáo dục hoàn toàn miễn phí, thách đố chế độ gọi là “xã hội chủ nghĩa” của cộng sản Hà Nội. Bàn rượu cũng có người điên sáng suốt một cách thông tuệ mà một thế kỷ văn chương/thi ca/triết học Việt Nam khó có người ngang tầm, cân sức (kể cả “sức điên/tỉnh” rất đáng kính phục), Bùi Giáng. Tay ôm con mèo và tay cầm ly rượu không phân biệt. Và cuối cùng người thường xuyên ngồi bên anh với nét mặt hòa nhã, vui hòa nhưng cách biệt; tham dự nhưng đứng ngoài; nồng nàn góp chuyện nhưng kín đáo giữ lại phần riêng tư. Hoàng hay ngồi cạnh anh nói câu ân tình vừa phải: Rồi tôi với cậu thế nào cũng gặp nhau mà thiệt.

Chúng tôi luôn có với nhau. Sáng 30 Tháng 4, 1975, từ Công Trường Lam Sơn, trước Tòa Đô Chánh anh lên yên, nhấn mạnh bàn đạp, động tác không chủ đích đi dọc đường Lê Văn Duyệt, qua Chợ Đũi, nơi các bạn hôm qua hằng vui vầy, sống động... Anh nhìn vào bàn ghế lổng chổng trống không. Anh đạp dài theo Lê Văn Duyệt giữa giòng âm động dồn dập của Sài Gòn đang hồi tẩm liệm với nhịp chày vồ dộng mạnh xuống trăm, ngàn quan tài. Mà quả thật có nhiều quan tài của những người vừa chết.. Đến trước cổng trại Nguyễn Trung Hiếu, hậu cứ Tiểu Đoàn 1 Dù có một xác con trẻ trần truồng không biết ai ném ra từ bao giờ lên mặt đường. Một cô gái mặc áo dài trắng nữ sinh đi đến, gác chiếc xe đạp mini cạnh lề đường, bình thản, thành thạo đưa máy ảnh lên, lấy góc cạnh chụp thây đứa trẻ chết. Cô gái nhỏ giải thích sành sõi: Chụp để làm chứng tội ác Mỹ-Ngụy trước khi bọn chúng rẫy chết!

Anh vào Cư Xá Sĩ Quan Bắc Hải nay đặt dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu, trước 1972 là Tư lệnh phó Sư đoàn Dù. Chuẩn Tướng Hậu đang trải bản đồ trên mui xe jeep, bàn tính với viên sĩ quan nhảy dù có nhiệm vụ an ninh cư xá. Khi biết lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh, ông vất tung chiếc bản đồ, gầm lên lời nguyền rủa. Nhưng viên thiếu úy trả lời quyết liệt: "Tôi không đầu hàng, tôi với trung đội sẽ ra bến tàu tiếp tục chiến đấu". Thiếu úy Huỳnh Văn Thái tập họp trung đội, hô nghiêm, xếp hàng, ra lệnh di chuyển. Trung đội lính ra khỏi cư xá theo lối cổng Đường Tô Hiến Thành, rẽ vào Nguyễn Tri Phương, đi về phía chợ Cá Trần Quốc Toản, hướng bến tàu. Nhưng những Người Lính Nhẩy Dù của Thiếu Úy Huỳnh Văn Thái không ra đến bến Bạch Đằng, khi tới đến bùng binh Ngã Sáu Chợ Lớn, họ xếp thành vòng tròn, đưa súng lên trời đồng hô lớn.. Việt Nam Cộng Hoà Muôn Năm! Con chết đây cha ơi! Và những trái lựu đạn tiếp nhau bừng bực nổ sau lời hô vĩnh quyết cùng đất nước Miền Nam. Anh chụp hình những người lính nhảy dù của Thiếu Úy Thái với mùi máu người đọng trên cánh mũi, nơi tròng mắt.

Anh đi qua biên giới tử sinh nầy với mặc cảm phạm tội - Tội sống sót. Không hiểu anh đã về đến nhà theo lối nào, nhưng quả thật đây thật là đoạn đường dài nhất, gớm ghê nhất anh vừa đi qua với cổ đắng, miệng khô rốc, trí óc vỡ loãng trỗng không. Có bóng người đứng trước nhà đường Hồ Biểu Chánh, Phú Nhuận. Hoàng lao tới, chụp ghi-đông xe anh rít lên tiếng kêu không che dấu.. Tại sao! Tại sao... Mầy còn lại ở đây! Tại sao! Anh biết Hoàng lo sợ cho anh chứ không phải vì bản thân. Anh nhìn xuống che dấu giọt nước mắt muốn rơi. Gió thổi những tấm giấy căn cước bọc nhựa của những người di tản lăn lóc trên mặt đường.

Những năm sau khi yên lành ở Mỹ, mỗi dịp Tháng Tư anh nhớ lại Lần Thật Chết Quê Hương. Cũng chỉ một lần Hoàng “mầy/tao” với với anh.

Ba. 2013/2014. Anh không thể nghĩ đây là dạng hình sáng/đẹp/vững chắc/cân đối của người thanh niên đứng trước biển Nha Trang sáng sớm trong thập niên 50. Anh phải tự chứng nhận lại về Người Viết Văn/Làm Báo/Dạy Học với dánh dấp rất đàn ông mà cũng thuần hậu, giản dị của thập niên 60, 70. Nhân dáng mà phần đông những nhân sự trong báo giới/văn giới/học giới Sàigòn thường ngụy trang dưới những hình thái quá độ/dáng kịch/rất dễ nhận. Còn chăng là ánh mắt bình thản của một người biết mình là ai. Người rất biết rõ mình ở nơi đâu. Anh cầm cánh tay gầy yếu của bạn. Anh nghe Hoàng kêu lên tiếng đau trong Ngày 7 Tháng 9: Đau quá! Đau nơi sườn! Nam gọi Vy hộ mình! Đau quá! Anh nghe bạn kêu đau và đột nhiên nhớ rất rõ những lời viết về bằng hữu mà anh làm trong đêm tuyết phủ ở Minnesota mười mấy năm trước...

Bạn đã mang tiếng Kẻ Tà Đạo

Cho Đi Trên Mây cũng chưa cao

Hãy Ngồi Lên Cỏ

Ngôi Nhà Ngói Đỏ

Chung quanh,

Bụi,

Rác,

Và..

Nỗi Đau!

Hóa ra, anh và Nguyễn Xuân Hoàng dù rất khác nhau về nhiều điểm nhưng quả đã chung một điều - Cả hai chưa hề nói với nhau về văn chương, chữ nghĩa, có lẽ trong thâm tâm anh và Bạn đều hiểu rõ tính giới hạn/phù hư/không thực của văn tự - Không đủ sức chuyên chở, bày tỏ Sự Thật Vô Hạn của Nỗi Đau. Đau quá!

Phan Nhật Nam

Nha Trang-Đà Lạt-Biên Hòa-Sàigòn-Cali)

(Sáu- mươi năm trước của 13/9/2014)

Nguyễn Xuân Hoàng không còn nữa

Ông Nguyễn Xuân Hoàng từng là Tổng thư ký báo Văn, một tạp chí văn học thời VNCH.

Dù biết rằng anh sẽ bước lên chuyến xe luân hồi. Nhưng sớm hay muộn thì quỹ thời gian Thượng Đế dành cho anh còn bao lâu nữa nào ai biết được.

Nghe tin anh mất tôi vẫn ngỡ ngàng và tiếc vì chưa kịp thăm, từ khi anh vào nhà dưỡng lão vài tuần trước.

Lần sau cùng gặp anh là một hôm đầu mùa hè ở căn nhà thứ hai anh chị dọn đến cũng trên đường Edsner, Milpitas, từ đầu năm nay. Anh vẫn nói năng, kể lại vài mẩu chuyện vui cùng bạn bè cũ, bàn ít chuyện World Cup đang diễn ra ở Brazil.

Từ phòng anh, nhìn xéo qua phòng chị Vy đầy những dụng cụ y khoa. Anh nằm bệnh, còn hiền thê của anh trông bề ngoài thì khoẻ và rất năng động, nhưng mỗi tối về vẫn phải một thân một mình tự lo việc lọc thận.

Anh nói với giọng buồn buồn. Anh sẵn sàng rồi. Có ra đi chỉ lo cho chị Vy thôi.

Những ngày anh còn khoẻ hơn, anh đưa chị đi bác sĩ, đi nhà thương thử máu, khám bệnh. Hơn năm qua, anh nằm đó, chị Vy lo cho anh và bản thân chị vẫn phải liên tục vào nhà thương, có khi tự lái xe, có khi phải nhờ con. Anh không còn đưa chị đi được nữa.

Cách đây chừng nửa năm, một lần nói chuyện với bác Vũ Văn Lộc, tức nhà văn Giao Chỉ và cũng là một cây bút thường xuyên của Việt Tribune, chúng tôi chia sẻ với nhau về bệnh tình của anh chị Hoàng-Vy, bác nói, cô Vy coi vậy chứ mà còn khoẻ, không chừng Hoàng sẽ đi trước.

Vài tuần trước anh phải đicấp cứu vì mê mê tỉnh tỉnh, như chị Trương-gia Vy báo qua email. Từ bệnh viện Đại học Stanford, anh được đưa vào nhà dưỡng lão Mission de la Casa trên đường Avin, gần khu Lion Plaza quen thuộc. Đây là nơi cư trú cuối đời của nhiều người Việt ở San Jose.

Chị Vy đã cho số phòng, định thứ Ba tuần tới tôi sẽ vào thăm anh. Nhưng đã không còn cơ hội.

Nguyễn Xuân Hoàng, nhà giáo, nhà văn và nhà báo, đã trút hơi thở cuối cùng tại đây vào lúc 10 giờ 50 sáng thứ Bảy 13/9/2014 trước sự hiện diện của hiền thê và các con, cháu.

Anh sinh ngày 7/7/1940 tại Nha Trang, gia đình gốc phủ Xuân Trường, Nam Định. Thời niên thiếu học trung học Võ Tánh Nha Trang và Petrus Ký Sài Gòn. Tốt nghiệp Đại học Đà Lạt năm 1961. Bước vào nghề giáo tại trường Ngô Quyền Biên Hòa, sau đó về Sài Gòn dạy triết ở Petrus Ký từ năm 1962 đến 1975.

Ngoài nghề giáo, Nguyễn Xuân Hoàng được biết đến nhiều hơn qua vai trò tổng thư ký báo Văn, từ năm 1972 đến 1974, là một tạp chí văn học giá trị thời Việt Nam Cộng Hòa.

Sau tháng 4-1975, ông không còn dạy học. Đến Hoa Kỳ định cư năm 1985 và đã tham gia vào sinh hoạt báo chí, văn học của người Việt hải ngoại qua vài trò tổng thư ký nhật báo Người Việt, tạp chí Thế Kỷ 21, tuần báo Việt Mercury; chủ bút tạp chí Văn (hải ngoại) và sau cùng làm chủ bút tuần báo Việt Tribune ở San Jose và là một blogger của VOA Tiếng Việt.

Ông ra đi để lại một số tác phẩm gồm nhiều thể loại, đáng chú ý là Kẻ tà đạo (1973), Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu (1974), Người đi trên mây (1987), Căn nhà ngói đỏ (1989).

Mãi mãi nhớ anh.

Bùi Văn Phú

Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đã ra đi

Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng

Buổi sáng thứ bảy bận rộn. Những cú điện thoại vội vã gọi, vội vã gác. Từng tuổi này rồi mà cuộc mưu sinh ra chừng vẫn còn nặng gánh. Dự định về hưu trong vài năm nữa vẫn cứ treo đấy chưa được dứt khóat. Trong mớ hỗn độn của chuông điện thọai reo, tôi nhìn thấy cái tên Ngộ Không Phí Ngọc Hùng trên mặt máy đi động. Hơn nửa năm nay tôi và ông chưa có dịp chuyện trò.

Bên kia đầu dây, giọng Ngộ Không buồn buồn. Nguyễn Xuân Hòang đi rồi. Cách đây độ một tiếng (tức khỏang 11 giờ sáng giờ Cali). Cái tin ai cũng chờ đợi nhưng khi nó đến vẫn cứ bàng hòang, hụt hẫng. Tôi gởi ông bài “Tác Giả Tác Phẩm“ mới nhất về Nguyễn Xuân Hoàng vừa biên tập xong cuối tháng 8, như một sự sẵn sàng cho cái tin nhà văn sẽ qua đời. Tôi chẳng quen biết gì Nguyễn Xuân Hòang nhưng vì lòng cảm mến và kính phục nên có lòng tưởng niệm.

Thật hả ông? Tôi hỏi lại mà không biết mình nói gì.

Cách đây độ một tháng, e-mail của tôi gởi đến vị thầy học cũ đã không có hồi đáp. Tôi biết ngày này rồi sẽ đến không lâu. Trước đó, những cuộc trao đổi qua e-mail của thầy trò chúng tôi diễn ra đều đặn. Dường như ông lúc nào cũng ngồi bên máy để sẵn sàng trả lời các bức điện thư. Cho đến lúc ông không trả lời nữa, tôi biết rằng ngày của ông đã hết. Hỏi lại người bạn trẻ Lưu Na, LN bảo rằng đúng vậy

Như vậy là tôi không bao giờ có dịp “ghé qua San Jose mình đi cà phê nhé T.Vấn!“.

Ai cũng một lần sẽ đến ngày cuối của mình. Người thầy học cũ của tôi không là ngọai lệ. Tôi đã từng an ủi ông rằng “thầy đã sống một đời đáng sống. Như thế đã quá đủ để thanh thản ra đi!“

Hồi đầu năm nay, nhóm cựu học sinh Petrus Ký ở Bắc Cali đã thực hiện một đặc san chuyên đề “Nguyễn Xuân Hoàng trên dòng sông Petrus Ký“. Tôi cũng được mời tham gia. Lúc ấy, ông vừa qua cuộc giải phẫu, ra vào bệnh viện mỗi ngày. Tưởng ông không có dịp cầm tờ đặc san trên tay. Nhưng sau đó, qua điện thư, ông cho biết rất vui sướng nhận được sự thương yêu của mọi người, nhất là từ những người ở Petrus Ký năm xưa. Ông kể lể: “ . . . tôi phụ trách môn Triết ờ Petrus Ký từ năm 1963 đến năm 1975 coi như gần 13 năm đấy!!!!! Con số 13 dính vào đời tôi nhiều lần lắm!

13 năm làm TTK nhật báo NV

13 năm sống và làm việc ở San Jose

13 năm làm tap chí Văn

13 năm chờ ngày ra đi

13 năm chờ sống và chết!!!!!! “

nv NXH (1986, Calif)

Cuối tháng 8 năm 2013, trang mạng văn học Da Màu thực hiện một chuyên đề về nhà văn Nguyễn Xuân Hòang. Lúc ấy, tôi có viết cho ông “ . . . Điều em viết trong bài ghi chép của mình, về các đồng nghiệp viết lách của thầy, đã . . . sai. Họ không để dành những lời xưng tụng của họ đối với nhà văn NXH. Theo em biết, Damau đang làm một chuyên đề về NXH. Một việc làm rất hiếm với một nhà văn còn sống. . . “. Nhà văn đã trả lời bằng cách đặt câu hỏi như sau: “Chuyên đề về một tác giả còn sống, theo em là điều tốt hay xấu ????” , tôi đã trả lời ông: “với một tác giả, thì một "chuyên đề" về văn chương của mình được làm khi còn sống thì tốt hơn nhiều so với "tưởng niệm". Người nằm xuống rồi thì chỉ còn (hoặc không còn) cái tên. Trường hợp nhà văn NXH, ít nhất, vị tác giả ấy biết mình đã làm được những gì khi còn sống. Đó là một cảm giác không phải ai cũng được hưởng. . . “

Đầu tháng 3 năm 2014, tôi nhận được bức thư mới của ông hồi âm lời thăm hỏi “. . . Bệnh càng ngày càng tồi tệ. Theo chủ nghĩa MACKENO. Vì ngày ra đi cũng gần kề . . .“

Hôm nay, 13 tháng 9 năm 2014, ngày ra đi của nhà văn Nguyễn Xuân Hòang đã đến. Xin kính chúc người thầy học cũ của tôi thượng lộ bình an.

Nào còn gì đâu cầm lấy tay tôi

Nào còn gì đâu cầm lấy hồn tôi

Này đây những lời yêu thương sau cuối

Chia nhau mỗi người làm vốn đi xa.

T.Vấn

13 tháng 9 năm 2014

Giã biệt Nhà Văn Nguyễn Xuân Hoàng

Buổi sáng Thứ Bảy ngồi uống cà phê với bạn thì nhận được tin nhắn nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng vừa từ giã nhân thế lúc 10 giờ 50 phút sáng ngày 13 tháng 9 năm 2014 tại viện dưỡng lão Mission De La Casa quen thuộc với giới cao niên Việt Nam trên đường Alvin, thành phố San Jose, trước sự chứng kiến của người thân gồm vợ là chị Trương Gia Vy và con cháu cùng bằng hữu. Anh ra đi thanh thản phút lâm chung sau hơn một năm lâm bệnh, chứng ung thư cột xương sống gây nên những cơn đau kịch liệt và phải ra vào nhà thương Stanford nhiều lần để chữa trị.

Anh sinh ngày 7/7/1940 tại thành phố Nha Trang tỉnh Khánh Hòa, học trung học Võ Tánh (Nha Trang ), rồi Petrus Ký (Sài Gòn ). Tốt nghiệp Đại học Sư Phạm Đà Lạt môn Triết (1958-1961), rồi dạy môn Triết tại trung học Ngô Quyền Biên Hòa (1961-1962), trung học Petrus Ký Sài Gòn (1962- 1975). Ngoài ra anh còn làm Thư ký cho tòa soạn tạp chí Văn ở Sài Gòn (1972- 1974).

Năm 1985 đến Quận Cam, Hoa Kỳ. Làm Tổng thư ký nhật báo Người Việt (1986-1997). Làm Tổng thư ký tạp chí Thế Kỷ 21 (1989- 1994). Năm 1996 làm chủ bút tạp chí Văn do Mai Thảo bàn giao.

Sau đó sang cộng tác với tờ Viễn Đông cùng với Nguyễn Đức Quang được vài năm rồi dời về San Jose để nhận chức Tổng Thư Ký tuần báo Việt Mercury, một chi nhánh của công ty báo San Jose Mercury (1998- 2005).

Chủ bút tuần báo Viet Tribune ở San Jose do vợ anh là Trương Gia Vy làm chủ nhiệm từ năm 2006 cho đến khi lâm bệnh.

Anh có giữ một trang Blog trên trang mạng của VOA lấy tên là Nguyễn Xuân Hoàng Blog viết về các chủ đề văn học.

Sự nghiệp văn chương của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng gồm các tác phẩm đã in: Mù Sương, Sinh Nhật ,Bụi Và Rác, Kẻ Tà Đạo, Khu Rừng Hực Lửa, Người Đi Trên Mây, Sa Mạc...

Trong lúc làm chủ bút tờ Văn, Nguyễn Xuân Hoàng có viết những bài Sổ Tay Văn Học. Trong vài năm cuối đời, anh ước muốn in lại những bài này thành sách nhưng chưa được thực hiện thì anh đã ra đi. Theo tôi thì đây là những bài có giá trị về lịch sử văn học với cái nhìn của anh, một nhà văn và cũng là nhà báo.

Tôi quen với nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng vì một bài báo của nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn có dòng chữ: "tôi rất thích cái tựa đề cuốn truyện dài Người Đi Trên Mây của ông. Bởi vì mỗi lần nhắc đến nó, tôi đều liên tưởng tới người bạn trẻ gặp gỡ trên đường tị nạn: Trần Chí Phúc."

Lần đầu gặp anh ở tòa soạn Người Việt tôi nhắc câu này và anh cười thú vị. Năm 1995 với bút hiệu Trần Củng Sơn tôi có viết những bài tường thuật về phiên tòa ở San Jose vụ xử Mặt Trận Hoàng Cơ Minh kiện báo Văn Nghệ Tiền Phong, Cao Thế Dung và Nguyên Vũ Vũ Ngự Chiêu và chính anh đã đưa cho tôi tấm chi phiếu 100 mỹ kim của báo Người Việt vì đã đăng những bài viết này. Nhận số tiền nhuận bút dù là không nhiều nhưng lòng vui vì bất ngờ và cảm phục lối làm việc chu đáo của anh.

Từ đó mỗi lần xuống Quận Cam là tôi hay mời anh đi ăn tối ở Home Town Buffet góc đường Chapman và Brookhurst. Có thể anh muốn nghe tôi kể chuyện văn nghệ báo chí ở San Jose.

Trung tâm băng nhạc Làng Văn có mời nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng làm MC một vài cuốn băng hình ca nhạc. Anh có kể chuyện Vô Thượng Sư Thanh Hải muốn mời anh làm MC cho cuốn băng thu hình nhạc thơ của bà nhưng anh từ chối, mặc dù thù lao hậu hỉ và có một số ca nhạc sĩ tên tuổi đã tham gia. Tôi đùa rằng nếu bà ta trả thù lao cho anh vài chục ngàn đô la thì anh có nhận lời không thì anh bật cười.

Khi anh về làm tổng thư ký cho tờ tuần báo Việt Mercury của công ty truyền thông Mercury News ở San Jose thì trong những năm đó chúng tôi không gặp nhau. Cho đến khi tôi ra mắt cuốn sách Một Thoáng 26 Năm vào năm 2012 thì tôi có hẹn gặp anh để tặng cuốn này và ngồi nói chuyện cả hai tiếng đồng hồ để nghe anh tâm sự một số điều ẩn khuất trong lòng liên quan đến sinh hoạt báo chí và bảo tôi không được phổ biến.

Thỉnh thoảng tôi gởi một số bản tin sinh hoạt cộng đồng và hình ảnh cho tuần báo Việt Tribune, một tờ báo in đẹp và bài vở tươm tất, nhất là những bài về văn học do Nguyễn Xuân Hoàng chăm sóc, được độc giả ưa chuộng.

Khi nhà văn Võ Hồng sinh trưởng Tuy An Phú Yên nhưng cuối đời ở Nha Trang mất tháng 4 năm 2013 thì tôi có trích những dòng chữ của nhà văn này viết về các quán cà phê ở Tuy Hòa và thêm một vài ý riêng của mình gởi cho Viet Tribune thì anh bảo là sẽ sửa đổi đôi chút và đưa lên trang Blog Nguyễn Xuân Hoàng trên VOA. Bài viết Võ Hồng Và Những Dòng Chữ Kỷ Niệm Tuy Hòa cũng là một kỷ niệm văn chương của tôi với anh.

Tôi nhớ có một lần email bài viết và hỏi thăm sức khỏe thì anh trả lời là thời gian không còn nhiều và đau đớn lắm. Tôi hỏi anh có sợ chết không thì anh bảo là chỉ muốn ra đi sớm vì đau quá. Bạn bè báo chí có tới thăm và chụp hình với anh. Lần cuối cùng cách đây mấy tháng, tôi một mình ghé viện hồi phục sức khỏe thấy mấy người y tá đang chăm sóc anh. Trên cái bàn đầu giường có máy laptop, anh bảo là mặc dù bệnh nhưng vẫn chăm lo bài vở cho Viet Tribune.

Bằng hữu văn nghệ khắp nơi kéo về thăm anh, các học sinh trung học một thời học môn Triết do anh dạy tổ chức những buổi vinh danh thầy giáo Nguyễn Xuân Hoàng. Tôi nhớ câu nói của chị Trần Thị Diễm Phúc chủ bút tuần báo Diễm ở Quận Cam rằng thời còn thanh niên ở Nha Trang và Sài Gòn thì Nguyễn Xuân Hoàng rất được các cô gái mến yêu. Thử tưởng tượng ra thập niên sáu mươi, giáo sư trung học môn Triết đẹp trai và với ngôn ngữ văn chương triết lý trên bục giảng thì anh là thần tượng của bao nhiêu nữ sinh.

Cách đây mấy năm , thấy anh ngồi ăn trưa với một giai nhân, sau đó hỏi thì anh bảo đó là một độc giả ái mộ bay từ phương xa tới San Jose để trò chuyện. Tôi tỏ lời thán phục sự thu hút của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng thì anh mỉm cười.

Tôi nghĩ rằng nếu cuốn Sổ Tay Văn Học được in ra và phát hành với sự chứng kiến của anh thì là một điều hạnh phúc và có đề nghị với chị Trương Gia Vy là thực hiện điều này càng sớm. Nhưng anh lại tỏ vẻ ngần ngừ, có lẽ là sợ in ra bán không thu hồi lại vốn và phải có thời gian sửa chữa những chữ chưa vừa ý. Quả là một điều chưa mãn nguyện trước khi anh đi xa; nhưng có bao giờ có ai được mãn nguyện đâu.

Tờ tuần báo Việt Tribune chỉ còn chị Trương Gia Vy lo toan, mà chị lại phải vào nhà thương hàng tuần để lọc thận. Đó là điều băn khoăn của anh, và câu nói cuối cùng mà bằng hữu nghe được là: "Thương cho cô Vy".

Bản tính hiền lành, thoái mái cho nên nhà văn nhà báo Nguyễn Xuân Hoàng được bằng hữu văn nghệ quí mến. Nhắm mắt lại tôi vẫn nhớ giọng nói của anh mang âm hưởng xứ Nẫu- gồm ba tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa; chất giọng quen thuộc vì tôi là dân Tuy Hòa Phú Yên. Lễ hỏa táng anh sẽ diễn ra, có thể tro cốt sẽ rải ở biển Nha Trang, thành phố du lịch nổi tiếng của Việt Nam.

Có bài ca Nha Trang nổi tiếng của nhạc sĩ Minh Kỳ là người Huế định cư ở vùng này : "Nha Trang là miền quê hương cát trắng, có những đêm đêm vọng về, ầm ầm tiếng sóng xa đưa". Nha Trang Khánh Hòa có nhân tài nghệ thuật là nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng. Anh từ giã nhân thế nhưng tên tuổi còn vang vọng trong lòng người ở lại.

Trần Chí Phúc

(nhận từ email của TTP)

Nghe Hung Tin

Sáng nay nghe hung tin nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng từ trần tại Mỹ. Anh mất sau khi đã chống chọi với bạo bệnh kéo dài qua những năm tháng mà có lúc tưởng chừng tử thần đã nắm được tay anh dẫn về một cọi khác, có thể không phải là cõi của văn chương. Tôi không thể không nhắc về vài kỷ niệm nhỏ với anh, như phút giây tưởng nhớ người bạn vong niên, người anh văn chương môt thời. Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng là một giáo sư, một nhà văn nổi tiếng của Sài Gòn trước năm 1975. Tôi đọc những truyện ngắn của anh với sự cảm phục một cây viết có tài và chỉ biết anh khi anh về làm TKTS tạp chí Văn của ông Nguyễn Đình Vượng thời kỳ sau anh Trần Phong Giao. Lúc ấy, tòa soạn Tuổi Ngọc của chúng tôi: Duyên Anh, Từ Kế Tường, Đinh tiến Luyện, Đặng Xuân Côn, Nguyễn Mai rồi Phạm Chu Sa, ở trên căn gác nhà in Nguyễn Đình Vượng số 38 Phạm Ngũ Lão Q1, gần chợ Thái Bình. Anh Nguyễn Xuân Hoàng có mặt ở tòa soạn Văn đều đặn vào mỗi buổi chiều, anh và tôi thường ngồi uống uống trà. Chính anh Nguyễn Xuân Hoàng đã có sáng kiến nhà văn viết giới thiệu 1 truyện ngắn của nhà văn để đăng trên tạp chí Văn. Chỉ là một đoạn chapaux ngắn in chữ đậm, gọi đùa là "đôi nét đan thanh" nhưng thật ấn tượng với truyện ngắn phía dưới.Đó là không khí, màu sắc mới mà anh Nguyễn xuân Hoàng đưa vào những trang văn cho tạp chí Văn. Anh cũng đã gợi ý tôi viết một truyện ngắn để anh giới thiệu và đăng trên tạp chí Văn trong đợt cải tiến này (dù trước đó tôi cũng đã từng đăng thơ và truyện ngắn trên Văn). Và tôi đã viết truyện ngắn "Mưa tháng giêng trên hồ Xuân Hương", một truyện ngắn rất Đà Lạt. Tới khi truyện đăng, lời giới thiệu không phải của anh Nguyễn Xuân Hoàng mà của nhà văn Duyên Anh. Anh Nguyễn Xuân Hoàng giải thích: "Để Duyên Anh viết giới thiệu mày phù hợp hơn, vì Duyên Anh hiểu mày hơn tao, viết về một người mà minh chưa hiểu rõ hết tính cách kể cả trong văn chương e rằng không nghiêm chỉnh, viết cho lấy được". Tôi cảm phục tư cách của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng qua kỷ niệm nhỏ này. Sáng nay được tin anh mất qua nhiều nguồn tin trên facebook và của anh bạn Sarenate Trịnh từ bên Mỹ, tôi thành thật tiếc thương và thành kính chia buồn cùng chị Trương Gia Vy. Chúc linh hồn anh sớm siêu thoát, yên nghĩ ở cõi vĩnh hằng.

TỪ KẾ TƯỜNG

NHỮNG ĐỨA CON

Gửi đến chị Vy và gia đình truyện cực ngắn này,

thay cho nén hương thắp trước linh cữu anh Hoàng.

Anh ngắm lại những đứa con. Theo thời gian, chúng lớn lên trong quy luật thường hằng. Riêng trong ý nghĩ anh thì chúng bao giờ cũng như mới được sinh ra. Anh nhẩm lại, từ khi anh bước vào đời thì chưa có chúng. Khi anh thành gia thất thì chúng chưa được sinh ra. Thế mà như phép mầu, chúng được chính anh thai nghén và sinh ra không kỳ hạn báo trước.

Vợ anh, người phụ nữ dịu dàng cũng không thể nào thay anh mang từng ấy bào thai được. Chị chỉ sinh cho anh và chị những người con thừa hưởng máu huyết và tinh tuý của anh chị. Con của anh, bao năm rồi, đứa trước, đứa sau lần lượt ra đời. Chị cũng can dự một phần trong ấy, tuy không do chính chị sinh ra. Mỗi đứa một vóc dáng, một hình hài và sắc thái riêng. Chúng có một cái chung là khởi đầu từ một chỗ sâu kín trong tâm hồn anh. Chúng thoạt nảy nòi ra từng đoạn xương thịt, sau đó, anh, như tạo hoá, trao cho mỗi đứa một linh hồn. Vất vả và cực nhọc xiết bao, nhưng anh sung sướng vô tận.

Anh hít một hơi dài tràn đầy sinh khí. Anh nâng niu chúng cẩn thận, chăm chút từ khi còn trứng nước. Giờ chúng đã nên vóc dáng, hình hài. Chúng mang theo tinh thần, ý chí và mang theo luôn cả tấm lòng của anh. Nhiệm vụ anh đã thành, còn lại là nhiệm vụ và số phận của mỗi riêng từng đứa.

Anh mặc kệ cái thói đỏng đảnh của đám tế bào hư hỏng. Quậy phá đã đời cả hơn năm nay nhưng đám tế bào ấy chưa bao giờ làm mòn đi, dù một tí xíu nào, tinh thần, trí tuệ và lòng yêu mến con người của anh. Đã đến lúc anh trao những đứa con lại cho cuộc đời. Anh đứng dậy, đi vào giường nằm. Thanh thản từng ngày, từng giờ, từng giây phút. Anh luôn nghĩ về chúng, bấy lâu nay.

Một hơi thở sâu và dài. Dứt bặt tạp niệm. Mây sà xuống vây kín anh. Anh thanh thản, nhẹ nhàng bước hẳn vào, đi luôn trên mây, không trở lại. Ở nhiều nơi khác nhau, mỗi người thấy anh khác nhau theo cách và hướng nhìn của họ. Tuy nhiên ai cũng kể lại y chang nhau là họ thấy anh mỉm cười, nụ cười tao nhã.

Đình Nguyên

15.09.2014