- Nguyễn Xuân Hoàng, chàng tỳ kheo giữa phố đông người
- Đoạn ghi khi mới về lại nhà sau một tuần đi Cali.thăm bạn, nhớ chiếc mũ đen rơi đâu mất
- Phạm Phú Minh - Ði thăm Nguyễn-Xuân Hoàng
- Nguyễn-Xuân Hoàng và mỹ học của cái phù phiếm
- Thơ ĐINH CƯỜNG Chiều Nguyễn-Xuân Hoàng phone từ San Jose- Thôi Kệ!
- Hà Nội, Và Hoàng Anh Tuấn, Và…
- Nguyên Sa, Thơ Tình Không Tuổi Tác
- Một Chút Kỷ Niệm Với Nghiêu Đề
Khoảng giữa thập niên 60, sinh hoạt âm nhạc và thi ca trong giới sinh viên đại học Saigon tưng bừng nở rộ. Cũng trong thời gian này, tư tưởng thiền học ảnh hưởng rộng khắp trong văn chương, thi ca và âm nhạc miền nam.
Cali Today News - Trong một mẫu giai thoại thiền, hai chú tiểu ở hai thiền viện lân cận ngày nào cũng gặp nhau trên đường đi chợ. Đối thoại giữa các thiền sinh, nhiều khi được xem như một định mức về trình độ chứng ngộ trong quá trình tu tập. Một sáng gặp nhau, chú thứ nhất hỏi:
“Sư huynh đi đâu?”
Chú tiểu kia đáp: “Tôi đi đến nơi nào hai bàn chân đưa tôi tới.”
Không biết cách trả lời, chú tiểu thứ nhất về hỏi sư phụ mình, sư bảo: “Lần tới con hỏi hắn nếu không có chân thì hắn sẽ đi về đâu?”
Chú tiểu hí hửng chờ sáng hôm sau, vừa gặp nhau đã lên tiếng:
“Sư huynh đi đâu?”
“Tôi đi đến nơi nào gió dẫn tôi đi.”
Chú tiểu lúng túng, quay về hỏi thầy. Sư mắng: “Sao con ngu thế, sao không hỏi nếu không có gió thì hắn sẽ đi đâu?”
Sáng hôm sau, vừa gặp thiền sinh kia, chú tiểu vồn vã:
“Sư huynh đi đâu?”
Thiền sinh đáp hồn nhiên:
“Tôi đi chợ mua rau.”
*****
Tôi được biết nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng khi anh là giáo sư dạy môn triết tại trường Pétrus Ký. Lúc ấy, anh Hoàng tuổi ngoài hai mươi, còn trẻ lắm. Đám học trò chúng tôi còn được biết ngoài việc giảng dạy, anh còn viết văn, làm thơ, làm báo. Chúng tôi rất ngưỡng mộ ông thầy tài hoa và phong độ ấy, ngay cả những đứa không phải là học trò anh, như tôi chẳng hạn.
Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng trầm ngâm bên cốc café trong một quán lề đường ở San Jose.
Photo: Nguyễn Dương
Khoảng giữa thập niên 60, sinh hoạt âm nhạc và thi ca trong giới sinh viên đại học Saigon tưng bừng nở rộ. Cũng trong thời gian này, tư tưởng thiền học ảnh hưởng rộng khắp trong văn chương, thi ca và âm nhạc miền nam. Theo giòng lũ của phong trào, tôi tìm đọc Thiền Luận của Suzuki, đọc Bát Nhã, đọc A Hàm, Lăng Nghiêm qua diễn giải của Tuệ Sỹ và vài thiền giả khác. Đọc thì nhiều nhưng khi ấy chẳng hiểu bao nhiêu. Tôi như một chú tiểu quét sân chùa đi lạc vào Tàng Kinh Các, thấy sách nào cũng ham cũng đọc, rồi bị hội chứng đa thư loạn tâm, sách nhiều tâm rối. Tôi bị tẩu hỏa nhập ma mà không biết.
Cuộc hành trình tư tưởng tự nhiên đưa tôi đi tìm lối thoát qua thơ văn thiền học. Tôi đọc Phạm Thiên Thư, Bùi Giáng … Và tôi đọc Nguyễn Xuân Hoàng.
Từ xa phố chợ đến giờ
Chân quen bỏ lệ gõ bờ lộ quen
Hoang vu chín đến độ thèm
Lạnh tàn nhẫn rót vào đêm lên đường
Mù sương phố núi mù sương
Nhịp buồn hút gió hồn nương núi rừng
Chuyện linh hồn với bản thân
Bàn tay thượng đế mộ phần chiêm bao…
Giai điệu thơ làm thư giãn những quanh co trong ý thức, nhưng nỗi băn khoăn vẫn đó. Tôi như một sa di còn quanh quẩn với câu hỏi tham sân tranh thắng “sư huynh đi đâu?” Và câu trả lời dường như không, như có. Tôi đi theo bàn chân tôi bước, vào núi mù sương, vào rừng hút gió…
Những nhà văn, nhà nghiên cứu ở hai miền Nam Bắc California đến thăm anh Nguyễn Xuân Hoàng.
Photo: Nguyễn Dương
*****
Sang Mỹ, tôi lại được đọc văn anh Nguyễn Xuân Hoàng trong bối cảnh khác. Một lần xuống quận Cam, Nam California, anh Đinh Quang Anh Thái trao tôi mấy quyển sách và tạp chí. Ở những trang cuối của Tháng Ba Gãy Súng, tôi đọc thấy lời bạt anh Hoàng viết cho Cao Xuân Huy. Hỏi thăm, Thái cho biết anh Hoàng đã qua đến Mỹ, có lẽ cùng khoảng thời gian Thái và tôi được định cư tại Mỹ từ đảo Galang, Indonesia. Thái hỏi tôi có quen anh Hoàng? Tôi đáp tôi biết anh, chứ không quen. Thái cho biết anh Hoàng lúc ấy đang làm tổng thư ký cho báo Người Việt và Thái tìm thêm cho tôi những tạp chí có bài anh viết.
Sau bao thăng trầm dâu bể, nơi chốn và thời gian có khác, nhưng giọng văn miên man của anh vẫn thế. Anh viết về mọi người mọi việc, về một người bạn cũ, về một cô bé không quen, về một gã không tử tế làm mất ngon ly cà phê và làm muộn phiền một buổi chiều thứ sáu, về một cuộc chia xa, tất cả với cái văn phong tự tung tự tại của anh. Anh gợi tôi nhớ đến một câu hát lời Việt của nhạc sĩ Phạm Duy: “…Đời sẽ thấy chúng ta sống không cầu, cho tình cứ úa phai mau, cho người cứ mãi phụ nhau.”
Trong một bài viết của anh, anh có trích hai câu thơ của Đỗ Trung Quân:
Những chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng
Em chở mùa hè của tôi đi đâu?
Câu hỏi ấy cũng là câu hỏi ngu ngơ tôi muốn hỏi anh: qua mạch suối văn mang mang bất tuyệt, anh chở những loanh quanh khúc mắc của tôi về bến bờ nào?
*****
Mãi đến những năm đầu của thập kỷ 2000, tôi mới có cơ duyên gặp anh. Trong khoảng thời gian anh Hoàng là Tổng Thư Ký của tờ Việt Mercury, rồi kế là chủ bút của tờ Việt Tribune, qua những lần trao đổi về những bài tôi viết cho hai tờ báo này, tôi có nhiều dịp để trò chuyện, và qua đó biết về anh.
Anh lớn lên trong thế giới của những người làm báo viết văn, nhưng anh cho tôi cái cảm giác anh là một người rất giản dị, rất đời thường. Bằng hữu và những người quen biết anh hầu như ai cũng chia sẻ điều cảm nghĩ này. Anh đối đãi mọi người, thân cũng như sơ, bằng một trìu mến rất thật, rất trong sáng. Theo cách nói của Đinh Quang Anh Thái, thì anh Hoàng là một người tử tế.
Vài lần, tôi muốn hỏi anh về những điều anh viết, nhưng câu chuyện cứ theo dòng chảy tự nhiên, nên câu hỏi “sư huynh đi đâu?” chưa lần nào tôi có dịp hỏi. Theo ngày tháng dần dà, biết về anh nhiều hơn, một hôm chợt nhận ra câu hỏi trên không còn cần thiết nữa. Qua cung cách bình thản, thái độ an hòa dung dị của anh, tôi chợt nhìn thấy vóc dáng của một tỳ kheo thõng tay vào chợ. Giá có hỏi, tôi sẽ như chú sa di hụt hẫng với câu trả lời rất hồn nhiên của anh - “tôi đi chợ mua rau.”
Hôm đến thăm anh cùng với các anh trong tờ Người Việt đến từ Quận Cam, anh Đỗ Quý Toàn có mang theo tặng anh một ấn bản “Đứng Vững Ngàn Năm” mà anh Toàn mới vừa xuất bản. Hôm ấy anh không được khỏe, nhưng tình bằng hữu đã khiến anh vui, tiếng anh cười nói vang vang. Anh em muốn chụp ảnh lưu niệm, anh không chịu ngồi, và đứng lên, tay nâng quyển sách và nói: “Phải Đứng Vững Ngàn Năm cho có khí thế chứ!”
Lần này, trong không khí vui và thân tình như thế, tôi có dịp hỏi anh một điều mà tôi vẫn thắc mắc, nhưng không phải là câu hỏi “sư huynh đi đâu?” Tính tình khiêm tốn giản dị, anh Hoàng không thích có hình ảnh của anh đăng trên báo chí.
Thế nhưng thời gian tôi viết cho báo của anh, anh cứ thúc tôi gửi hình để anh đăng. Tôi hỏi tại sao như thế, anh chỉ cười huề.
Chàng tỳ kheo trẻ giữa phố đông người, chừng như đã bắt được nhịp nghĩ suy của chú sa di đang tập tành thõng tay vào chợ.
Tháng 9, 2013
Nguyễn Hoàng Duyên
Nguyễn Xuân Hoàng – Trương Gia Vy – Đinh Cường
San Jose, 9 – 2013
Chiếc mũ đen có in mấy nét
của Miró vẽ mặt trời mặt trăng
mua ở Tây Ban Nha lâu rồi
bây giờ đang bay tấp bên góc
đường nào ở Santa Ana – Cali.
người bạn nói nó đã hết thời
đi giang hồ cùng tôi đó đây
Paris Sàigòn Huế Hànội Đàlạt…
chiếc mũ làm rơi đâu mất ở Cali.
chiều gió Santa Ana thổi trên hàng cây
cọ cao có mấy cánh chim biển bay vào
gió trên đường ra phi trường Long Beach
đi chuyến bay đêm giã từ những ngày
bên bè bạn chưa nói hết những ân tình …
năm giờ bay từ Miền Đông qua Miền Tây
đi xe đò Hoàng mất sáu tiếng Miền Nam
lên bắc Cali. thăm Nguyễn Xuân Hoàng
( đọc trên damau.org với bao nhiêu
bài viết cho một nhà văn được nhiều
người yêu mến, khi nhà văn nằm bệnh )
rất mừng gặp thăm bạn thấy bạn tươi cười
ra quán Minh ngồi ăn cùng nhau hai buổi cơm chiều
bạn thích mấy miếng bánh tôm chiên Cổ Ngư
uống ly nước cam không đường
bạn nói ngủ được, gắng ăn cho thêm sức khoẻ
hai tuần nữa bạn sẽ đi chemo. lần thứ tư
mong sao bệnh sẽ thuyên giảm
mong sao chị Vy đỡ lo cho Hoàng để lo thêm cho mình
nhìn chị nhìn ánh mắt chị thấy cả một nghị lực phi thường
chiều Virginia tôi lại đi bộ hai blocks đường qua Starbucks
tiếng còi tàu như nhớ những bước chân âm thầm hụ hồi còi dài
tôi lại phone cho Nguyễn Xuân Hoàng cho Lữ Quỳnh
phone cám ơn những người bạn quý mấy ngày vui bên nhau
rồi sẽ viết tiếp đoạn ghi cùng bao nhiêu ảnh kỷ niệm …
hãy nằm im đâu đó nghe chiếc mũ đen, tạm biệt luôn nhớ
như nhớ thơ Thanh Tâm Tuyền qua mấy nét Miró
chỉ có trời sao là đáng kể
như chỉ có Tình bè bạn yêu quý Người Đi Trên Mây …
Virginia, Sept. 28, 2013
Đinh Cường – Nguyễn Xuân Hoàng – Nguyễn Xuân Thiệp
San Jose, 9 – 2013
Để chuẩn bị cho cuộc hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn vào tháng Bảy 2013 vừa rồi, tôi đã mời nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng tham dự ban điều khiển các buổi hội thảo, và anh đã nhận lời, khoảng nửa năm trước. Tôi rất yên tâm, vì ban điều hành gồm Bùi Bích Hà, Đỗ Quý Toàn và Nguyễn Xuân Hoàng thì coi như là "mạnh"; đề tài nào, tình huống nào những nhà cầm bút lão luyện này cũng có thể lèo lái xuôi chèo mát mái được.
Hoàng, Vy và nhóm anh em Người Việt
Thế nhưng hai tuần trước ngày hội thảo thì Hoàng gọi cho tôi từ San Jose, giọng yếu ớt, cho biết không thể xuống quận Cam tham dự hội thảo được, vì lâm trọng bệnh một cách bất ngờ. Vé máy bay đã mua nay đã phải trả lại, chứng đau lưng tưởng là thông thường hóa ra có nguyên do trầm trọng từ cột sống, và đang chuẩn bị một chương trình chữa chạy dài ngày trong nhà thương. Hoàng tỏ ý tiếc bỏ lỡ một chương trình hội thảo quan trọng và hứa hẹn nhiều hào hứng. Tôi vội trấn an Hoàng là đừng lo gì về cuộc hội thảo, mà hãy lo chữa bệnh, sức khỏe của bạn là cái quan trọng nhất hiện nay. Tuy vậy trong lòng tôi dấy lên một nỗi tiếc nuối và lo lắng về chỗ trống do Hoàng vừa để lại trên bàn chủ tọa đã phác họa, vì Hoàng là một người điều khiển các chương trình hội thảo văn học đầy kinh nghiệm và kiến thức. Cách đây sáu năm, vào năm 2007, khi tổ chức hội thảo về văn học Việt Nam hải ngoại cũng tại Little Saigon, tôi cũng đã mời Hoàng vào ban điều khiển chương trình, và buổi hội thảo đã diễn ra rất tốt đẹp. Hoàng tiếp nhận nội dung thuyết trình nhanh và chính xác, tóm tắt ngắn gọn và thông minh để khán giả nắm vấn đề, từ đó lèo lái cuộc thảo luận lịch sự và xây dựng.
Nghe Hoàng đau, nhóm anh em báo Người Việt nóng lòng muốn đi thăm. Chuyến đi đã được thực hiện ngày thứ Bảy, 10 tháng 8, 2013, chúng tôi sáu người từ quận Cam đi San Jose lúc 6 giờ sáng, phải đi sớm vì còn phải lái xe về trong ngày. Rất thường gặp nhau, nhiều người trong nhóm vì công việc còn gặp nhau hàng ngày, nhưng khi ngồi trên một chiếc xe lái đi xa thì câu chuyện của chúng tôi tự nhiên đổi khác, toàn những đề tài ra khỏi công việc hàng ngày của tòa báo. Nhiều lúc nói về Nguyễn Xuân Hoàng, về các kỷ niệm thời gian 11 năm Hoàng làm Tổng thư ký tòa soạn Người Việt, và quãng sáu năm làm Tổng thư ký tạp chí Thế Kỷ 21. Đinh Quang Anh Thái bỗng lên tiếng hỏi: "Ra hải ngoại, anh Hoàng đã xuất bản thêm được các tác phẩm nào nhỉ?" Một câu có vẻ dễ, nhưng không ai trả lời được đầy đủ, người thì nói Căn Nhà Ngói Đỏ, kẻ nói Người Đi Trên Mây, riêng tôi thêm được Bụi và Rác vì nhớ có một bài điểm sách rất hay của Trần Hồng Châu trên Thế Kỷ 21 về tác phẩm này.
Đến San Jose khoảng hơn 12 giờ trưa chúng tôi ghé ăn tại tiệm phở có tên là "90 độ" giữa một khu thương xá đông đúc ở đây. Các khu thương xá của người Việt Nam tại San Jose khang trang hơn Little Saigon ở quận Cam nhiều. Ở "thủ đô tị nạn" Nam Cali của người Việt chẳng có tiệm phở nào có quy mô như Phở 90 độ, từ nhà cao cửa rộng, lối trang trí tân tiến sáng sủa, đến cách tiếp đãi nhanh chóng lịch sự một cách chuyên nghiệp và thực khách đông đảo như thời điểm trưa thứ bảy chúng tôi tới nơi. Ngoài những tô phở truyền thống, bạn có thể gọi phở đuôi bò, phở bê thui v.v... nghe rất mới lạ. Nói chung Phở 90 độ thuộc loại ngon, có điều chúng tôi không hiểu vì sao nó có tên gọi như thế. Như một bảo đảm cho sự nóng sốt nơi các tô phở của nó chăng? Nếu như vậy thì "độ" ở đây là độ C chứ không phải độ F.
Chúng tôi có hẹn một vài người bạn tại San Jose đến cùng ăn trưa để Đỗ Quý Toàn ký tặng cuốn sách Đứng Vững Ngàn Năm mới xuất bản. Đây là một công trình khảo sát một cách công phu và khoa học các yếu tố giúp dân tộc Việt Nam đứng vững không bị Hán hóa dù đã trải qua một ngàn năm bị Tàu đô hộ. Trao tặng cuốn sách này giữa một hiệu ăn gìn giữ đúng truyền thống ăn uống của người Việt Nam dù đang trôi giạt nơi góc bể chân trời, thì cũng ý nghĩa lắm.
Ăn xong tất cả lên xe trực chỉ thành phố Milpitas là nơi gia đình Hoàng đang cư ngụ. Chỉ độ 20 phút là tới. Vy, vợ Hoàng, đón mọi người vào phòng khách và nói vừa đủ nghe là đang có một nhóm bà con đang thăm Hoàng tại phòng ngủ, nhưng cũng cho biết là Hoàng có thể ra phòng khách nói chuyện được. Vy mô tả qua về bệnh tình của Hoàng, bị ung thư cột sống, hiện ba đốt cuối của xương sống đang bị hủy hoại. Tình hình khó khăn. Ai cũng hình dung được là khó khăn đến mức nào. Bệnh viện Stanford đã chế tạo riêng cho Hoàng một dụng cụ để mang quanh bụng nhằm giữ cho lưng được thẳng trong tình trạng những đốt xương sống quá yếu không giữ vững thăng bằng cho thân thể được nữa. Nhưng Hoàng lười đeo nó vào người mà vẫn đi lại được, chứng tỏ các đốt xương sống vẫn còn tự chống đỡ được.
Nguyễn Xuân Hoàng và Đỗ Quý Toàn
Từ buồng ngủ Hoàng xuất hiện như một tiên ông, tóc dài trắng xóa, người gầy, mặt trắng, đôi mắt mở to vẫn linh hoạt, chống gậy bước đi rất chậm có Vy đỡ bên cạnh. Nhìn một lượt các bạn đến thăm từ xa, Hoàng tỏ ra cảm động. Từ giã báo Người Việt đã gần hai thập niên để đi làm tờ Mercury tiếng Việt tại San Jose, bây giờ nhìn lại anh em cũ thì vẫn bấy nhiêu người, trừ Phạm Phú Thiện Giao thuộc thế hệ trẻ mới vào sau, và đã vắng đi Trần Đại Lộc, Lê Đình Điểu, Đỗ Ngọc Yến... San Jose với quận Cam thì có xa xôi gì, anh em vẫn có dịp lên xuống gặp nhau luôn, nhưng buổi gặp gỡ hôm nay bỗng mang một không khí khác hẳn, khi Phan Huy Đạt trao cho Vy món quà của anh em Người Việt, khi Đỗ Quý Toàn ký tặng Hoàng cuốn Đứng Vững Ngàn Năm, và những lời hỏi han ân cần khác hẳn bình thường của mỗi người. Thì đúng rồi, đây là đi thăm người bệnh chứ đâu phải gặp nhau ở Cà phê Factory hay một cuộc hội thảo nào. Thế nhưng không khí hình thức chóng qua đi, nhường chỗ cho những trao đổi quen thân lệ thường. Con người văn học, con người báo chí giữa chủ và khách trở về rất nhanh, với những câu hỏi, câu nói đùa làm vang lên tiếng cười khiến căn phòng khách trở nên ấm cúng. Và vẻ mặt của Hoàng cũng linh động hẳn.
Tôi nhắc lại câu hỏi trên xe của Đinh Quang Anh Thái. Hoàng ngửng mặt nhìn trần nhà nhẩm tính, sau 75 truyện dài có Người Đi Trên Mây, Sa Mạc; truyện ngắn và tùy bút thì có Căn Nhà Ngói Đỏ; Bụi và Rác cũng là truyện dài, coi như là Người Đi Trên Mây 2...
Tôi hỏi tiếp: "Năm 1993, từ tháng Tư cho đến tháng 12, tạp chí Thế Kỷ 21 có đăng một loạt bài chín kỳ có tên gọi là 'Một hoàn cảnh mới cho sáng tác văn nghệ', ký tên hai người: Võ Phiến và Nguyễn Xuân Hoàng. Các bài đều dưới hình thức đàm thoại. Vậy cách thức hình thành của loạt bài này như thế nào?"
Sở dĩ tôi đặt câu hỏi này là vì gần đây tôi tìm những bài cũ có giá trị của Thế Kỷ 21 để đăng lại trên báo mạng Diễn Đàn Thế Kỷ, và đã đăng gần trọn loạt bài này. Hai nhà văn này đã nhìn ra lắm cái hoàn cảnh mới cho sáng tác văn nghệ, ví dụ sự tương quan giữa sách và người, ngày nay con người không còn chịu nhiều ảnh hưởng của sách như các thế kỷ trước, mà chịu ảnh hưởng của tin tức, của TV, của đời sống xã hội nhiều hơn. Rồi đề tài sách và nhà, rồi cuộc sống vội vàng v.v... Câu chuyện đối thoại nào cũng hấp dẫn, cũng thấu tình đạt lý. Và một hôm tôi bỗng nhận ra điều này: dù là dưới dạng đàm thoại, văn phong tất cả các bài này là của Võ Phiến, vậy cuộc chuyện trò đã diễn ra như thế nào giữa hai nhà văn? Tôi định đến thăm nhà văn Võ Phiến để hỏi vấn đề này, nhưng sực nhớ ra từ mấy năm nay trí nhớ của nhà văn lão thành này đã lãng đãng lắm, chắc là khó có được câu trả lời chính xác. Và định bụng hỏi Nguyễn Xuân Hoàng. May quá trong chuyến đi thăm Hoàng lần này, cái trí nhớ cũng đã bắt đầu lãng đãng của tôi lại nhớ ra chuyện này, và tôi vội vàng đem ra hỏi Hoàng. Chứ lỡ không còn dịp để hỏi nữa thì làm sao? Thì tôi lại ân hận như đã lỡ dịp hỏi nhiều điều tôi cần biết, với Lê Trọng Nguyễn, với Đỗ Ngọc Yến, với Phạm Duy... May quá, Hoàng đã trả lời một cách rõ ràng.
"Hồi đó ông Võ Phiến và tôi có trao đổi với nhau về tình hình văn nghệ, tình hình viết lách. Và nhận ra mình đang ở trong một thời đại có quá nhiều đổi thay. Chúng tôi quyết định sẽ quan sát về các đổi thay ấy, trao đổi cùng nhau, rồi ông Võ Phiến sẽ là người chấp bút viết lại các trao đổi của chúng tôi. Trong thực tế, chúng tôi không có mấy dịp chuyện trò trực tiếp, mà tôi viết xuống các ý tưởng hay quan sát của tôi về một vấn đề nào đấy rồi gửi cho ông Võ Phiến, từ đó ông nghiên cứu thêm và viết nên một bài đàm thoại."
Tôi nói: "Đó là những bài đọc rất thú vị, chắc hẳn nhà văn Võ Phiến đã thêm thắt ý tình, tạo ra những câu trao đổi thật là duyên dáng và dí dỏm giữa hai người..."
"Đó là cái tài của ông ấy," Hoàng cười nói.
Như vậy, lần này tôi đã giải được một thắc mắc của chính tôi, và tôi ghi lại đây để tặng cho những ai có cùng thắc mắc như tôi. Tên các tác phẩm đã xuất bản thì có thể tìm biết dễ dàng ở nhiều nguồn, nhưng những vấn đề chìm sâu trong việc sáng tác như thế này, không hỏi thì không thể biết được.
Cuộc đối thoại dù có phần hào hứng nhưng chúng tôi cũng nhận ra vẻ mệt mỏi của Hoàng sau gần một giờ trò chuyện. Đôi chân của bạn bắt đầu run run, giọng nói trở nên nhẹ nhàng, đó là cách nói của một người bắt đầu cảm thấy mệt nhọc nhưng cố giấu sự mệt nhọc. Nhớ lại dặm về còn xa mà bóng chiều xem chừng đã ngã, chúng tôi đứng dậy từ giã Hoàng và Vy. Trả lại ngôi nhà vắng vẻ chỉ có hai người như phần đông chúng tôi hiện nay: con cái đã ở riêng cả, vào ra lại chỉ có hai người.
Rồi sẽ đến lúc chỉ còn một. Và đến một lúc nữa, sẽ không còn ai cả.
Phạm Phú Minh
15 tháng 8, 2013
Nguyễn-Xuân Hoàng và mỹ học của cái phù phiếm
Thursday, August 15, 2013 4:45:29 PM
Nguyễn Hưng Quốc
(Nguồn: VOA)
Nếu tôi phải làm một tuyển tập những truyện ngắn hay nhất ở hải ngoại sau năm 1975, trong số các tác phẩm được chọn, nhất định phải có truyện ngắn “Tự truyện một người vô tích sự” của Nguyễn Xuân Hoàng.
Ðó là một cuốn tiểu thuyết được nén lại thành một truyện ngắn. Nó rất cô đọng và vì cô đọng nên vô cùng mạnh mẽ. Nó là một thứ bonsai. Lại là thứ bonsai không có hoa, thậm chí, không có lá. Chỉ có cành thôi. Cành, xương xẩu và gai góc, đâm tua tủa nhưng nhìn chung, lại theo một trật tự khá hài hòa. Không những hay, đó là một trong những truyện ngắn tiêu biểu; ngay trong nhan đề, đã thâu tóm được hai yếu tố vốn là đặc trưng nổi bật nhất trong phong cách của Nguyễn Xuân Hoàng: “tự truyện” và “vô tích sự.”
Từ trái, nhà văn Nguyễn Mộng Giác, họa sĩ Nguyễn Ðồng, họa sĩ Nguyễn Thị Hợp, Nguyễn Khoa Diệu Chi (phu nhân nhà văn Nguyễn Mộng Giác), nhà phê bình văn học Thụy Khuê và nhà báo Nguyễn Xuân Hoàng, tại tòa soạn báo Người Việt. (Hình: Thụy Khuê gởi cho VOA Tháng Tư, 1990)
Theo tôi, mọi tác phẩm của Nguyễn Xuân Hoàng, từ truyện dài đến truyện ngắn, đều bàng bạc tính chất tự truyện. Ðã đành tính chất tự truyện, với những mức độ nhiều ít khác nhau, rất dễ tìm thấy ở hầu hết các tác giả văn xuôi, nhưng có lẽ ít có ở đâu, nó lại nhiều và đậm đặc như ở Nguyễn Xuân Hoàng. Ở phương diện này, Nguyễn Xuân Hoàng rất gần với Mai Thảo: Các nhân vật nam trong tác phẩm của cả hai thường là những người đàn ông đẹp trai, hào hoa và đào hoa. Chỉ khác một điểm: bao quanh các nhân vật ấy, ở Mai Thảo, là một không khí thấp thoáng màu sắc lãng mạn chủ nghĩa, với những tình yêu nhiều say đắm; ở Nguyễn Xuân Hoàng, lại có chút hiện sinh chủ nghĩa, lúc nào cũng xa cách, chán nản, dửng dưng, nói chung, “vô tích sự.”
Trong tiểu thuyết truyền thống, các nhân vật thường theo đuổi một cái gì đó hay ít nhất cũng làm một cái gì đó, một cách lý thú hay dằn vặt khổ sở. Ngay cả Chí Phèo cũng làm một cái gì đó, chẳng hạn, đòi nợ và ăn vạ; sau đó, cũng theo đuổi một cái gì đó, chẳng hạn, tình yêu với Thị Nở; và một ước mơ, ước mơ làm một người lương thiện. Ngay anh Bốn Thôi trong truyện của Võ Phiến, tuy bị bệnh bất lực, cũng không ngớt theo đuổi mùi hương của phụ nữ, hết cưới người vợ này đến cưới người vợ khác để lại nhìn cảnh hết người này đến người khác lần lượt ra đi hoặc, nếu không, cũng ngoại tình. Nhân vật các nhà văn khác, bao gồm hầu hết các nhà văn hiện thực, và nhất là, hiện thực xã hội chủ nghĩa, thì lúc nào cũng hùng hục tranh đấu và phản-tranh đấu.
Còn nhân vật của Nguyễn Xuân Hoàng? Thường, họ chẳng làm gì cả. Họ có nghề nghiệp, có tiền bạc, có điều kiện để đi cà phê, đi nhảy đầm, đi du lịch, nhưng dường như họ chẳng gắn bó gì với công việc của họ. Họ là thường là những trí thức hay trăn trở về thời cuộc nhưng dường như họ không bao giờ có được một lựa chọn nào thật dứt khoát. Họ sống lãng đãng, bềnh bồng bên trên dòng chảy của thời cuộc nhưng không bao giờ cố tình bơi ngược hay lặn sâu xuống đáy. Họ hay triết lý nhưng hầu hết đều chỉ triết lý vặt, không theo đuổi hay say mê bất cứ một hệ thống tư tưởng nào. Họ có nhiều tình nhân, thường ăn nằm với các tình nhân ấy, nhưng cũng không thực sự tha thiết lắm. Họ, nói theo chữ của Nguyễn Xuân Hoàng, như những “người đi trên mây.” Tất cả đều phù phiếm. Phù phiếm từ cảm xúc đến ý nghĩ và hành động.
Không có gì thực sự có ý nghĩa chính trị, xã hội hay văn hóa. Mọi thứ đều lơ mơ, phất phơ.
Ngay trong sổ tay thường đăng trên tạp chí Văn trước đây, Nguyễn Xuân Hoàng cũng chỉ quan tâm đến những điều có vẻ như khá phù phiếm. Sổ tay là một hình thức bút ký. Bút ký vốn là một thể loại mang tính báo chí, và với tư cách báo chí, nó gắn liền với thời sự; mà bản chất của thời sự là sự kiện, là biến cố. Sổ tay của Nguyễn Xuân Hoàng lại rất ít biến cố.
Chúng toàn là những chuyện hết sức bâng quơ và vu vơ. Ðọc các bài gọi là sổ tay ấy, chúng ta không mấy khi thấy bức tranh mang tính xã hội học của văn học. Chúng ta thường chỉ bắt gặp một số cảm nghĩ thoáng hiện nhẹ nhàng. Chúng không phải là những tư tưởng lớn, đã đành. Chúng cũng không liên thông được với một hệ thống tư tưởng lớn nào cả.
Chúng lửng lơ. Chúng chơi vơi. Chúng hoàn toàn có tính phù phiếm.
Ở trên, tôi cố tình lặp đi lặp lại chữ “phù phiếm” nhiều lần. Nhưng xin đừng lẫn lộn tính phù phiếm với sự hời hợt. Hời hợt liên quan đến tầm tư duy trong khi phù phiếm liên quan đến ý nghĩa văn hóa. Hời hợt là một khuyết điểm trong khi phù phiếm là một chọn lựa; trước hết, đó là sự lựa chọn một thế đứng: ngoại cuộc; sau nữa, một cách sống: hờ hững; cuối cùng, một giọng điệu: lạnh nhạt. Hai chọn lựa đầu có thể tìm thấy ở khá đông trí thức ở miền Nam trước 1975. Nhưng, ít nhất trong giới cầm bút, không có mấy người đi tiếp đến chọn lựa thứ ba. Nguyễn Xuân Hoàng là một trong số ít ấy. Bằng một giọng văn cố tình tiết chế cảm xúc, ông biến sự phù phiếm từ một trạng thái sống thành một phong cách văn học, ở đó, tính chất phù phiếm bỗng dưng có sức nặng của sự khái quát: Nó thể hiện được tâm trạng của một thế hệ bất lực trước vô số các xung đột dữ dội hầu hết đều vượt ra ngoài tầm nhận thức và kiểm soát của họ. Trong ý nghĩa đó, tính chất phù phiếm, ở Nguyễn Xuân Hoàng, là một phát hiện; trước hết, đó là một phát hiện mang tính lịch sử: nhận diện đặc điểm tâm lý của một thời đại, sau nữa, một phát hiện mang tính mỹ học: biến phù phiếm trở thành một cái đẹp: cái đẹp của sự phù phiếm. Giống cái đẹp của mây. Hay, đúng hơn, của khói.
Sau này, khi bao nhiêu sóng gió của thời cuộc lắng xuống, bình thản hơn, nhìn lại giai đoạn 1954-75 cũng như sau đó, biết đâu người ta sẽ thấy không phải chỉ có những “mùa lũ” hay những “mùa biển động” như những nhan đề hai bộ trường thiên tiểu thuyết của Nguyễn Mộng Giác mà còn có, bên cạnh đó, những khoảng trống, rất rộng, thuộc về thế giới của những “người đi trên mây.” Lúc nào cũng phất phơ, lơ mơ. Và lửng lơ.
Như khói.
Thơ Nguyễn-Xuân Hoàng
Wednesday, August 14, 2013 3:38:56 PM
Viên Linh
Nhiều nhà văn nổi tiếng lúc khởi sự cầm bút đã làm thơ, về sau văn của họ được đời biết đến nhiều, mà quên rằng, hay không hề biết rằng, họ làm thơ từ lúc còn rất trẻ. Tôi đã đọc thơ của Mai Thảo trên Sáng Tạo (nhưng ký tên là Nhị, khoảng 1957), thơ lục bát Thanh Tâm Tuyền trên trang Văn Học Nghệ Thuật nhật báo Dân Chủ của Vũ Ngọc Các (khoảng 1956), và thơ Nguyễn Xuân Hoàng năm 1960.
Từ bài thơ Hoang Vu đến Người Ði Trên Mây Nguyễn Xuân Hoàng (bên mặt). (Hình: Viên Linh cung cấp)
Năm 1959, trong một lúc sa sảy với nghề báo, tôi theo bạn lên dạy học tư ở Ban Mê Thuột. Rời Sài Gòn tạm một thời gian, sách vở đồ đạc nặng gửi lại nhà một đồng nghiệp, thình lình một hôm nhà giáo dạy cùng trường Bạch Ðằng đưa cho tôi xem tờ Tạp chí Hiện Ðại. Trên cùng một trang báo có bài thơ Phượng Liên của tôi đăng dưới bài Mang Mang của Hoang Vu. Tôi không gửi thơ cho Hiện Ðại, mà do người bạn nơi tôi để lại đồ đạc sách vở, đã lấy bài thơ tôi viết cho em Phượng Liên ở Huế, cũng là bạn chung, và là bạn thư từ với tôi, đưa cho Nguyên Sa. Như Võ Phiến nhớ đúng khi anh viết đã đọc thơ phiếm của Thần Ðăng (Ðinh Hùng) và thơ tôi trên Ngôn Luận (giai đoạn 1954). (1) Tới năm 1960 tôi đã có vài chục bài thơ đăng trên các tạp chí Văn Nghệ, Sáng Tạo, Thế Kỷ 20, Gió Mới, nhưng Nguyên Sa viết như đây là những cây bút lần đầu xuất hiện, mặc dù anh có thòng một câu kiểu búa lớn: “Có phải nỗi buồn tập hợp trên mắt những người trẻ tuổi ấy phảng phất niềm đau của thế kỷ bây giờ?” (2) Tôi đã leo lên lầu cao ốc Mai Loan nơi đặt tòa soạn Hiện Ðại để chất vấn, vì không ai chọn thơ của người đã có thơ in từ 6 năm trước, với một anh in thơ lần đầu, nhưng chỉ gặp Thái Thủy.
Hoang Vu chính là Nguyễn Xuân Hoàng. Và thơ Nguyễn Xuân Hoàng hay không thua gì văn Nguyễn Xuân Hoàng; (khác với trường hợp Mai Thảo: thơ Mai Thảo hay hơn và thật hơn văn Mai Thảo.) (3) Bài thơ ấy nguyên văn như sau, chỉ chú thích thêm tên thật của thi sĩ:
Mang Mang
từ xa phố chợ đến giờ
chân quen bỏ lệ gõ bờ lộ quen
hoang vu chín đến độ thèm
lạnh tàn nhẫn rót vào đêm lên đường
mùa sương phố núi mù sương
nhịp buồn hút gió hồn nương sao rừng
chuyện linh hồn với bản thân
bàn tay thượng đế mộ phần chiêm bao
đồi thông xanh tóc nghẹn ngào
ngập ngừng lạnh xuống từ bao lâu rồi
còn tôi, còn chỉ mình tôi
mây bay đầu núi kéo trời lên xa
bàn tay thoáng nổi da gà
thẳm sâu lòng đất nhà ga luân hồi
Hoang Vu
(Nguyễn Xuân Hoàng)
Bài thơ không viết hoa ở đầu câu, không dấu chấm xuống dòng, từ ngữ hay thi ngữ, đậm đặc nét thơ của giai đoạn '60:
“linh hồn, thượng đế, luân hồi, bản thân, mây kéo trời lên xa và mộ phần chiêm bao, lạnh tàn nhẫn...” Tiếc thay cái tên Hoang Vu không xuất hiện nữa, vì nếu Nguyễn Xuân Hoàng còn làm thơ, bàu trời thi ca Việt Nam sẽ thêm một vì sao sáng.
Bài này cũng như bài Phượng Liên của tôi nằm cùng một trang báo, mà hai tác giả của hai bài thơ trước sau có chung những khó khăn tương tự, những rắc rối tan tác thì đúng hơn, đều rất bi thương. Nguyên Sa vơ vào hai tên trên cùng một trang báo, như sự tình cờ run rủi hai toa tàu xuôi ngược ráp tạm nơi một sân ga xép. Hoàng đậu tú tài xong, thi tuyển thành công vào Quốc Gia Hành Chánh, song bỏ. Ðang học Y khoa - vì bà mẹ muốn con trai thành bác sĩ - thì nhận lời thách đố của bạn học Hà Thúc Nhơn, viên bác sĩ quân y ở Nha Trang sau này chống tham nhũng bằng súng đạn và chết vì súng đạn - chơi trò nghịch ngợm lỗ mãng của con trai thời mới lớn, nên một mặt thắng cuộc thách đố, (Hà Thúc Nhơn thua, sẽ phải trả tiền đãi bạn học ăn phở cả tháng), song Hoàng phải rời Y khoa vì trò dại dột. Cuối cùng anh đi học Sư Phạm, ra làm giáo sư Triết, một nghề anh từng xác định: “Giáo dục không phải ngành thích hợp của tôi. Từ tiểu học, qua trung học, lên đại học, các ông thầy bà cô nhìn tôi như một đối tượng để trút lên đó những bực dọc của cuộc đời khốn nạn của họ. Tôi là tấm bia để họ bắn vào đó những mũi tên mặc cảm.” (4)
Ðây là lời nói thật của Nguyễn Xuân Hoàng, kẻ đã cùng tôi “Ði thật xa với ...” trên báo Văn.* Nhìn Hoàng tôi biết con người của bạn không phải con người của khuôn thước, vâng dạ, mòn sáo, lễ phép vì xã giao, vì một nghề nghiệp phải gương mẫu, ra đường thấy ai cũng cúi đầu nhũn nhặn chào hỏi, mà miệng thì lầm bầm bài bác người ta. Tôi từng phải đi dạy học tư một thời gian, không phải giam thân vào nghề mô phạm như chàng thi sĩ Hoang Vu, nhưng tôi cũng không thích nghề dạy học, nghề nghiệp sau này của các bạn cùng lớp với tôi thời Trung học: các giáo sư Nguyễn Nhật Duật, Hà Mai Phương, và của hầu hết các bạn văn nghệ cùng thời: Nguyễn Văn Sạm, Huỳnh Phan Anh, Ðặng Phùng Quân, Nguyễn Ðông Ngạc, Cao Thoại Châu, Nguyễn Ðịnh, v.v... vì nhiều lý do.
Một trong những lý do “nhãn tiền” là thù lao quá ít ỏi. Không thể sống quá kham khổ, gò bó, hệ lụy: kham khổ về vật chất cũng như kham khổ về thời gian; gò bó hệ lụy về giao tế cũng như về phương cách sống. Người nghệ sĩ sáng tạo mà theo nghề dạy học thì khó thành công, dễ mang tiếng, vì cung cách nghệ sĩ là tự do diễn đạt, tự do phát biểu,... Tôi thật sự không nhìn thấy ở thi sĩ Hoang Vu, (nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng), một nhà giáo khuôn mẫu. Như tôi cũng thật sự không bao giờ nhìn thấy ở các bạn nhà giáo của tôi một phong cách duy nhiên tự do phóng khoáng cởi mở thành thật hồn hậu khôn ngoan thân hữu phục thiện giản dị tinh tế như ở Nguyễn Xuân Hoàng. Làm gì lại có một nhà giáo hiếm hoi như thế, mà chỉ có một nhà văn như thế đi làm nhà giáo mà thôi.
Thuở còn niên thiếu chắc hẳn Nguyễn Xuân Hoàng đã nói ra ba điều ước với một mụ phù thủy mà chàng ta ngỡ là nàng tiên, nên mụ liền thiết kế cho chàng một mê cung, một nẻo đường chông gai trắc trở, gài tác giả Người Ði Trên Mây vào đáy tầng địa đạo, Bụi và Rác, châm chọc Orphee đa tình và chất phác ngứa cổ quay lui, khiến cho Eurydice thân tâm hóa đá, tếch nẻo tây phương, hành hạ người cha thương con yêu dấu ngàn trùng xa cách, trừng phạt tấm lòng hồn hậu phải đeo mặt nạ vô tâm vô tình và bạc bẽo. Không, người đời cứ ngỡ Phan An Tống Ngọc khôi ngô kỳ vĩ thì hẳn đương nhiên hạnh phúc trong chốn tình trường, có biết đâu họ cũng tâm tư nhàu nát, mắt lệ nhiều khi, đêm đêm một mình một bóng chờ đợi người Bích Câu mái tóc bạch kim, hay xuân hạ thu đông cũng nhiều lần nương tai nghe tiếng mãn gào trên mái bỏng?
Bài thơ “Mang Mang” của Hoang Vu mở đường văn chương cho họ Nguyễn năm 1960, thì bài “Phượng Liên” khiến trung niên thi sĩ Bùi Giáng lù lù hiện ra, ôm lấy tôi, ồn ào nói:
“Ông đừng làm thơ tự do nữa nhá, chỉ làm thơ lục bát thôi nhá! Lần đầu tiên thơ lục bát Việt Nam đem tên người yêu vào trong thơ một cách bề thế nghiêm trang số dách là ông đấy nhá. Huy Cận hắn đọc lục bát của ông là hắn sẽ đi tìm ông đấy.”**
Từ đó mà tôi có thêm một người bạn thơ, và không chỉ có một hành lang vây sầu, mà hành lang nào cũng vây sầu cả. Sau này một nàng Huế cười như nắc nẻ, cho tôi biết Phượng Liên là ai... Dù thế nào, nàng cũng đã ở chín suối rồi.
Chú thích:
1.Võ Phiến, Văn học Miền Nam, tổng quan, Văn Nghệ 1986, tr.180.
2. Nguyên Sa, tạp chí Hiện Ðại số 2, 5.1960, tr.102. Có dịp tôi sẽ đăng lại bốn bài thơ khác của NXH và khoảng 6 bài thơ ngoại quốc do Hoàng dịch, đăng trên các báo do tôi trông coi ở VN trước 1975.
3. Viên Linh, nói với Mai Thảo tại quán ăn của thân nhân Thiếu Tá Hùng Sùi ở San Jose, hôm ấy quanh bàn ăn có mặt nhiều văn nghệ sĩ, nếu tôi nhớ không lầm có Khánh Trường, Phan Thị Trọng Tuyến,...
4. Nguyễn Xuân Hoàng, Người Ði Trên Mây, tr.19.
* Một mục của tờ L'Express Nguyễn Xuân Hoàng đã đề nghị với tôi, và chúng tôi đã đồng ý nói hết, nói thật, nói thẳng, trong bài “Ði thật xa với Viên Linh” của báo Văn chủ đề Thơ ở Việt Nam năm 1972.
** Bài Phượng Liên kết bằng hai câu:
Thôi còn giấc ngủ canh thâu
Một hành lang rộng vây sầu Phượng Liên.
Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Công Thiện vẽ
Gắng cho qua đi Hoàng, đã ba tháng nay
đau ở các đốt xương sống
ngồi dậy đi đứng đau chịu không nổi
Hoàng nói, nhưng vẫn lái xe đi cà phê
tôi thì nửa năm nay không lái xe
cũng nhớ, nhưng sao lại nhớ chiếc xe hơi
hiệu gì quên rồi, màu trắng của Cao Đông Khánh
không có máy lạnh, chở tôi đi ở Houston năm nào
dưới trời nóng bức, ghé nhà Trương Đình Luận
uống rượu, nay thì Khánh không còn
Trương Đình Luận bác sĩ - nghệ sĩ , làm thơ rất hay
tôi yêu quý Lụận vô cùng, như Luận yêu quý
Cao Đông Khánh, có nghe Cao Đông Khánh
tự đọc thơ mình mới đã :
em mỗi ngày nói chuyện với biển
bọt nước kinh hoàng vỡ trắng gió
Hãy nói chuyện với biển đi Nguyễn Xuân Hoàng:
Nhatrang
Quê hương của biển, cát và gió
Thành phố của những mối tình mùa hè
Phạm Công Thiện đọc Người đi trên mây
quyển tiểu thuyết như con người bạn
cùng nhắc đến L’Amant của Marguerite Duras
cùng gọi chữ nghĩa hoài vọng và tình yêu tuyệt vọng
thật vậy chăng bạn tôi giữa Bụi và Rác
nhớ bạn rất oai hùng những ngày đầu lên Đà Lạt
như hình ảnh của James Dean, chúng tôi hay gọi bạn
là Don Juan, nhắc lại cho bạn vui nguôi ngoai cơn đau
Chiều nay bạn phone tôi vừa xong bức thiếu nữ bên kia sông
Bên kia sông
sơn dâu trên giấy plast 20 x 22in
đinhcường 6-2013
Virginia, June 17, 2013
Đinh Cường
Những chữ in nghiêng là thơ CĐK, bài hải mã – Lửa đốt ngoài giới hạn 1997
Nha trang, hang động tuổi thơ - Căn nhà ngói đỏ - NXH, xb Văn Nghệ , Calí 1989
Chữ viết của BS Nguyễn Văn Thịnh
Thôi Kệ!
tặng Nguyễn-Xuân Hoàng
Hai chữ Việt. (Viết như tranh. Lồng kính
treo sau anh). Thôi kệ! nhìn tôi
Chân dung của một thời
hay câu chào, đón khách
câu tiễn chân an ủi lúc chia tay
câu tự nghĩ, nhủ thầm, không nói
Mặt nhân gian, thì đấy! khóc hay cười?
Thôi và kệ. Kệ rồi thôi. Thôi kệ!
Sống đã là thôi kệ trăm năm
Cái tặc lưỡi cho thắng thua, còn mất
Chữ như tranh vẽ rõ mặt con người.
Muốn là được nhưng bao giờ được muốn
Người bị giam giam cai ngục. Thời gian
thành sợi xích nối hai đời một phận
Thắng hay thua thì thân cũng tội tù
Ta tự biết là ta không thể biết
chính lòng ta, thôi kệ! tự lòng ta.
Lẽ ra tôi gặp anh từ năm mươi năm trước
khi đời ta là chữ chửa thành câu
Lẽ ra...Lẽ... mà bây giờ giấy hết
mực cạn rồi. Thôi kệ! Còn ta
- Ta thở vào. Đang thở vào, ta thở
- Ta thở ra. Này ta đang thở ra!
Sư ông dạy sống phải là hít thở
Không thành sư thì ta đã thành ông
Các đứa cháu, chúng làm ta hít thở
Các cháu không thôi kệ!. Nó đòi ta:
Ông phải chui vào gậm bàn, tìm bóng
Thì ông chui, mà cũng đáng công chui
Tìm bằng được, ta không thôi, không kệ
Dẫu đời mình thôi kệ! Hoàng ơi!
Thôi kệ gió. Thôi kệ mưa. Mưa gió!
Đi trong mưa thì ta vẫn ngoài mưa
Đứng trước gió nhưng lòng ta đã gió
Gió ngoài kia đâu biết gió trong này.
Ta đã sống cái thời không dễ sống
Những đêm đen nhuộm trắng tóc trên đầu
Không kệ được, thì cũng thôi.
Thôi kệ!
Bức chân dung vẽ lại cả đời người
Tôi thấy anh. Lại thấy mình. Thấy họ
Cái đời này
Thôi kệ!
Chúng mình đi.
VŨ QUẦN PHƯƠNG
Santa Clara, 20-1-2011
Sáng nay San Jose mưa. Mưa nhỏ thôi. Những ngày đầu tháng Mười, mùa Thu miền Bắc Cali không lạnh. Một người bạn quen từ Quận Cam vừa gửi tặng tôi một CD trong đó có ca khúc Mưa Sài Gòn, Mưa Hà Nội. Đây là một bài hát khi mới ra đời, ban hợp ca Thăng Long đã mang đến cho người nghe nhiều ấn tượng. Bài hát đã lâu tôi không nghe. Nhưng lời của ca khúc tôi vẫn nhớ là do Hoàng Anh Tuấn viết cho nhạc của Phạm Đình Chương. Chúng tôi vẫn gọi anh là thi sĩ của Hà Nội. Hà Nội yêu, anh vẫn yêu muốn khóc/ Mấy chục năm, xa đến mấy nghìn năm. Đó là hai câu thơ đã ở lại rất lâu trong tôi.
Tôi nhớ lần cuối gặp anh năm 2006 trong nhà dưỡng lão Mission De La Casa ở San Jose. Hôm đó, anh ngồi xe lăn, cười hỏi tôi. “Đi đâu?” “Thì đi thăm anh, chứ đi đâu!” “Này cậu, thế mà đã hai mươi năm rồi đấy!” Hoàng AnhTuấn không nhớ những lần gặp nhau gần đây, trước ngày anh vào Viện Dưỡng Lão, mà chỉ nhớ chuyện của 20 năm trước, những ngày Đà Lạt , Sài Gòn... Đúng, năm 1986 tôi gặp anh ở Virginia khi vừa đặt chân xuống vùng đất tự do. Hôm đó, uống chưa hết ly rượu, tôi đọc lại hai câu thơ trên và trêu anh:
“Trời ơi, tại sao yêu mà yêu muốn khóc là thế nào?” Hồi đó anh chỉ cười, không trả lời. Bây giờ chính anh nhắc lại, và nói, “Nghe đây, yêu mà không lấy được thì khóc chứ sao? Cậu vớ vẩn bỏ mẹ!” Và chúng tôi đã cười với nhau.
Tôi vớ vẩn thật, đi thăm một người nằm trong nhà dưỡng lão mà trêu chọc, y như ngày ngồi bên anh trong một quán ăn ở Virginia giữa những chai bia. Cái chất gì của Hà Nội khiến anh yêu mê thành phố ấy đến thế? Tôi không biết. Nhưng tôi biết một điều: nhắc đến Hoàng Anh Tuấn là nhắc đến Hà Nội và nhắc đến Hà Nội cũng là nhắc đến Hoàng Anh Tuấn.
Mặc dù, năm 1949, mới 17 tuổi, Hoàng Anh Tuấn đã rời Hà Nội đi Pháp du học. Paris, Sài Gòn, Dalat, rồi lại Paris, Virginia, San Jose … và bao thành phố khác. Chưa một lần trở lại Hà Nội, thế nhưng, Hà Nội lúc nào cũng nguyên vẹn trong anh. Hà Nội tràn ngập trong những trang chữ của anh. Như thể sau năm 1949, ngày anh bỏ Hà Nội ra đi cho đến năm mươi năm sau, Hà Nội vẫn còn đập nhịp trong trái tim anh.
Tôi kiếm hồn tôi xưa Hà Nội
Thuở còn trong vắt gió vào Thu
Thoảng nghe ngọt tiếng cô hàng cốm
Chênh vênh đâu cuối phố Sinh Từ
Xa Hà Nội, Hoàng Anh Tuấn mang theo Ga Hàng Cỏ những sáng sớm ngái ngủ, Hồ Tây những buổi chiều tà, mang theo Hàng Đường, Hàng Gai, mang theo năm cửa ô… Anh không bứt được Hà Nội ra khỏi ký ức mình, không thể quên được những “hoa sấu lẳng lơ” (mà hoa sấu sao lại lẳng lơ nhỉ?) … Trong văn học Việt Nam, có lẽ không một thi sĩ nào dành cho thơ nhiều Hà Nội như Hoàng Anh Tuấn.
Khi Mai Thảo viết Đêm Giã Từ Hà Nội, anh đã chia tay Hà Nội thật sự. Rồi Tháng Giêng Cỏ Non, Để Tưởng Nhớ Mùi Hương, Mười Đêm Ngà Ngọc… và sau cùng với Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền, Hà Nội có vẻ như đã ra khỏi anh.
Khi Thanh Tâm Tuyền viết Bếp Lửa sau ngày vào Nam, rồi Tôi Không Còn Cô Độc, Một Chủ Nhật Khác, có lẽ Hà Nội vẫn còn trong Thanh Tâm Tuyền, nhưng những trang chữ của anh không còn tắm đẫm mùi hương Hà Nội nữa.
Còn ai Hà Nội hơn Nguyên Sa, vậy mà thơ anh tràn ngập Paris, tràn ngập chất sống phương Tây, tắm đẫm hơi thở thời hiện đại hơn là quá khứ. Chỉ có Hoàng Anh Tuấn vẫn chung thủy với thành phố của anh.
Em Hà Nội, Hàng Đường trong giọng nói
Để Hàng Bông êm ái lót cơn mơ
Thương những buổi chiều Bác Cổ ngày xưa
Anh nắn nót một trường thi lãng mạn
…..
Hàng Vôi đó nồng nàn trong ngây ngất
Ý Hàng Đào chín mộng trái môi chia
Xin Hàng Than rực cháy lửa đam mê
Khi quấn quít trong ái ân Hà Nội
(Bài thơ Hà Nội)
Hoặc
Hà Nội yêu xin cầm tay lần nữa
Một lần thôi cho vừa đủ hai lần
Thêm ngày xưa hạnh phúc rất thiên thần
Anh chết lặng trong tình yêu công chúa
Cho đến tận khi sắp xa lìa ‘cõi tạm’, Hà Nội vẫn là nỗi day dứt không nguôi trong anh. Xin được trích một đoản thi buồn của anh trong những ngày cuối đời:
Hà Nội anh giờ là giấc chiêm bao
Cùng thơ ấu đã già đi trăm tuổi
Buổi sáng nay tâm hồn nghe thơ dại
Một thoáng vui chợt tới chợt bay đi
Rồi nỗi buồn như lũ mọt ngu si
Gậm nhấm nốt nửa linh hồn rữa mục.
Bây giờ ngồi đây, trong căn phòng nhỏ của mình, giữa mùa thu San Jose, nghe lại Mưa Sài Gòn, Mưa Hà Nội cũng chỉ là nghe lại một kỷ niệm:
Mưa hoàng hôn
Trên thành phố buồn gió heo may vào hồn
Thoảng hương tóc em ngày qua
Ôi người em Hồ Gươm về nương chiều tà…
Vũ Ngọc Phan, trong “Hồi Ký Những Năm Tháng Ấy” viết:
“Những người đã ở Hà Nội đến ba, bốn, năm đời, khi đi xa Hà Nội mà nhớ Hà Nội là thường tình, nhưng có người chỉ mới ở Hà Nội được một vài năm, có khi chỉ được mấy tháng, mà khi ra đi vẫn cứ nhớ cảnh, nhớ người, có thể là nhớ người hơn cả, thì đủ thấy Hà Nội có sức quyến rũ thật.”
Có lẽ ông nói đúng, khi nghe ca khúc Có Phải Em Mùa Thu Hà Nội của Trần Quang Lộc người ta đâu biết nhạc sĩ là người Quảng Trị. Nếu những người con của Hà Nội như Trọng Đài mô tả một Hà Nội Đêm Trở Gió với Cành me thì thầm gục đầu vào dĩ vãng, với Cô đơn sấu rụng ngoài ngõ vắng thì nhạc sĩ Trịnh, người con của cố đô Huế cũng dâng tặng Hà nội một ca khúc đầy hình ảnh và xúc cảm:
Hà Nội mùa thu, cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ,
nằm kề bên nhau, phố xưa nhà cổ, mái ngói thâm nâu .
Hà Nội mùa thu, mùa thu Hà Nội,
mùa hoa sữa về thơm từng ngọn gió,
mùa cốm xanh về, thơm bàn tay nhỏ,
cốm sữa vỉa hè, thơm bước chân qua .
Hồ Tây chiều thu, mặt nước vàng lay bờ xa mời gọi .
Màu sương thương nhớ, bầy sâm cầm nhỏ vỗ cánh mặt trời.
(Nhớ Mùa Thu Hà Nội. Trịnh Công Sơn)
Hà Nội giờ đây có còn nguyên vẹn như những gì Hoàng Anh Tuấn, Mai Thảo, Trịnh Công Sơn … đã nhìn thấy không? Hà Nội ngày xưa đó có sẽ chỉ còn là một hoài niệm trong lòng những người nhớ thương nó không? Tôi nhớ những câu thơ của Phan Vũ mà tôi đọc cách đây không lâu
Em ơi! Hà Nội phố!
Ta còn em năm cửa ô
Năm cửa gió
Cơn bão thường niên qua đó
Ba mươi sáu phố,
Bao nhiêu mảnh vỡ?
Ta còn em một màu xanh thời gian.
Một màu xám hư vô,
Chợt nhòe,
Chợt hiện.
Chợt lung linh ngọn nến,
Chợt mong manh
Một dáng,
Một hình,
Nhợt nhạt vàng son,
Đậm đầy cay đắng…
Sao chỉ sống một thời với Hà Nội thôi mà ông viết nên một Hà Nội phố thật đến thế, sâu đến thế, và buồn đến thế? Điều gì đã đưa chân ông trong những chiều lang thang trên các con phố xưa, tìm lại cái hồn sâu lắng còn quanh quất đâu đây của Hà Nội, miên man nghĩ, miên man nhớ đến độ: “bỗng thấy mình chẳng nhớ nổi con đường”.
Thơ, nhạc về Hà Nội dường như thời nào cũng đầy cảm xúc, nhưng sao vẫn thấy chất chứa nhiều nỗi nhớ quá, nhiều day dứt quá, nhiều hoài niệm quá… Và tôi tự hỏi giờ đây nếu Hoàng Anh Tuấn có một lần trở lại Hà Nội, liệu những bài thơ của anh về Hà Nội có còn mang vẻ đẹp như anh vẫn say mê làm cho đến tận ngày giã từ cuộc sống không? Hay kỷ niệm nào về những ngày xưa cũng đẹp, hay kỷ niệm thật ra chỉ đẹp khi đã là chuyện ngày xưa?
Nhớ Hoàng Anh Tuấn, mà tôi đã tản mạn đủ chuyện trên trời dưới đất. Cũng chỉ vì một thành phố trong thơ ông: Hà Nội. [NXH]
Nguyên Sa, Thơ tình không tuổi tác
Nguyễn-Xuân Hoàng Thứ Bảy, 04 tháng 12 2010
Thi sĩ Nguyên Sa và phu nhân trong Vườn Luxembourg, Paris, 1954
Thơ tình không tuổi tác. Người làm thơ [tình] may mắn hơn chúng ta, ông không biết tới sự già nua, ông luôn luôn trẻ. Nhà văn Huỳnh Phan Anh trong một bài viết trên tạp chí Văn, số Thương Nhớ Đinh Hùng cách nay trên 40 năm [1 tháng Mười, 1967] đã viết như thế. Tôi muốn mượn lại ý trên của ông để nói về Nguyên Sa, tác giả những bài thơ tình đã làm thành kỷ niệm cho mỗi chúng ta, nhờ nó chúng ta nhận ra cuộc sống đáng sống biết bao.
Vâng, thơ Nguyên Sa không tuổi. Thơ ông trẻ trung, tươi mát hồn nhiên. Thấp thoáng đằng sau những dòng lục bát, hay những dòng chữ tự do, người đọc nhìn ra thơ tình của ông lấp lánh những nụ cười. Người ta không thấy nước mắt trong những lời tình tự của thơ ông.
Một trong những bài thơ nổi tiếng của Nguyên Sa:
[Hôm nay Nga buồn như một con chó ốm
Như con mèo ngái ngủ trên tay...]
đã đánh dấu mốc trong lịch sử thi ca của văn học Việt Nam, và những người yêu thơ chúng ta chắc sẽ có lúc bật cười trước một so sánh hoàn toàn mới lạ trong ý nghĩ của một người làm thơ rất hiện đại.
Thế giới có bao nhiêu người làm thơ tình, liệu có mấy người viết được những dòng thơ trác tuyệt như Nguyên Sa. Đã hết rồi đôi mắt bồ câu, suối tóc dài tha thướt,… hết luôn những nàng thiếu nữ đẹp như trăng, mắt xanh là bóng dừa hoang dại, âu yếm nhìn tôi không nói năng. Còn đâu nữa cái thời thơ thì mộng như suốt đời mộng ảo, tình thì buồn như tất cả chia ly….
Người làm thơ ngày nay làm gì còn chuyện em là gái trong khung cửa và anh là trai khắp bốn phương trời… Nếu người tình trong thơ Đinh Hùng mang vẻ đẹp của một người nữ ma quái, siêu nhiên và thoát tục, như kiểu:
Cả con đường sao mọc lúc ta đi
Cả chiều sương mây phủ lối ta về
Khắp vũ trụ bỗng vô cùng thương nhớ
thì trong thơ Nguyên Sa, người ta thấy người nữ của ông cụ thể và gần gũi với chúng ta biết là bao. Đó là những con người trần tục, hiện thực và đời thường, như trong bài lục bát mang tên Đầu Gối Cao:
Em nằm coi bộ phim Tầu
Đĩa cơm nằm kế bên đầu gối cao,
Ăn xong hút thuốc phì phào
Trên chăn dưới gối chỗ nào cũng hôi.
Sớm mai em bỏ về rồi,
Anh châm điếu thuốc anh mồi bài thơ.
Bằng những chữ rất “đời thường” xây trên những hình ảnh “bình dị” thơ Nguyên Sa nhắc cho người đọc nhớ rằng người tình của chúng ta trước hết là một con người bình thường như mọi con người bình thường trên thế gian: cũng ăn, uống, nói năng, cũng đi đứng và hít thở và sinh hoạt như chúng ta.
Hãy đọc lại một bài lục bát mang tựa là Âm Nhạc của ông:
Em thơm mùi bưởi da vàng
Ngồi trên đĩa nhạc âm toàn Viễn Tây,
Quần jeans một miếng thịt đầy
Anh ăn nhạc sống mấy ngày hoang mang
Sáng ra nụ cải bông vàng
Nhớ em thay áo trên giường đầy hoa.
Thơ Nguyên Sa hiện đại hơn nhiều bài thơ “bùa chú” đang được mùa ở đâu đó hiện nay rất nhiều. Có người tưởng rằng hễ cứ vẽ rồng vẽ rắn, giọt nước mắt rơi rơi theo từng dòng, mũi tên bay cắm phập vào tim, chữ chạy vòng theo hình ly cà phê cộng với một thứ chữ nghĩa tối tăm là bài thơ nhanh chóng trở thành tối tân, siêu thực và hiện đại.
Phải chăng cái mới trong thơ hôm nay chỉ còn là vấn đề kỹ thuật?
Đừng làm thơ theo lối mòn xưa nữa, phải xóa bỏ những khuôn thước cũ, phải làm mới thơ, phải biết đứng dậy và nói bằng một ngôn ngữ thơ khác, một kiến trúc thơ khác. Nhưng để tìm cho thơ một ngôn ngữ mới để nói, một cấu trúc mới để thể hiện, có vẻ như giờ đây người ta đang lập lại những cái không mới! Có phải nói theo thời thượng đó là “nỗi buồn trong thơ hôm nay”?
Chữ nghĩa trong thơ Nguyên Sa càng về sau càng đơn giản, hình ảnh trong thơ ông càng về sau càng tân kỳ. Sự giản dị của chữ nghĩa, cách ngắt câu những bài tự do hay cách chuyển dòng những câu lục bát của thơ Nguyên Sa cho thấy ông không hề đi trên con đường mòn cũ. Thơ ông về sau càng sâu sắc.
Hình như những bài thơ đơn giản nhất bao giờ cũng là những bài thơ khó viết nhất, và kỳ lạ thay đó thường là những bài thơ tới nhất, hay nhất, dễ đi vào trái tim và trí nhớ chúng ta nhất.
Cũng dễ hiểu thôi, luật bù trừ đôi lúc vẫn còn giá trị khi cần giải thích một vài hiện tượng xã hội và văn học.
Có nhiều điều để nói về thi sĩ Nguyên Sa và thơ Nguyên Sa. Xin cho phép tôi được phát biểu một suy nghĩ nhỏ và rất chủ quan về thơ không tuổi của ông.
[NXH]
Một Chút Kỷ Niệm Với Nghiêu Đề
Tranh Nghiêu Đề
Nghiêu Đề đến với chúng tôi như một người viết những chữ vui đầy âm thanh và màu sắc xuống một trang giấy chi chít những dòng chữ đen buồn bã của đời sống. Anh làm cho cuộc đời những người gần anh có ý nghĩa hơn, hạnh phúc hơn. Những câu nói, những suy nghĩ bình thường của mọi người khi đến với anh đều bị anh lật ngược. Và người nghe ngỡ ngàng khi khám phá ra bên kia cái nghĩa bình thường còn có một ý nghĩa “khác thường hơn”, “thích thú hơn” mà trước đó chưa ai nghĩ ra.
Nghiêu Đề có khuôn mặt, vóc dáng của một kẻ sĩ bất mãn với cuộc đời, nhưng là một kẻ sĩ lạc quan. Anh đặt cho người nghe vào một trạng thái hụt hẫng, mất thăng bằng, và bật cười khi khám phá ra ý nghĩa của điều anh muốn nói.
Tôi gọi Nghiêu Đề là một người bạn thật trong một vài người bạn thật của tôi, bởi có những người bạn tưởng là bạn nhưng là bạn giả, giống như bạc giả vậy. Không nên xài bạc giả, nguy hiểm lắm! Trong những cuộc họp mặt vào cuối tuần ở nhà anh, dưới San Diego, hoặc ở nhà Nguyễn Mộng Giác ở Quận Cam, bao giờ bạn bè cũng bật cười khi nghe anh kể chuyện. Anh nói chậm rải, giọng miền Trung, phát âm rõ, với một nụ cười kín đáo. Nhưng điều anh nói bao giờ cũng khiến chúng tôi giật mình.
Những chiều thứ Bảy nào hẹn nhau ở Quận Cam, mặc dù con đường từ nhà anh đến nhà bọn tôi dài khoảng hai giờ lái xe, và vào những tháng mùa đông con đường còn bị chìm trong một vùng sương mù dày đặc, thế nhưng Nghiêu Đề không bao giờ vắng mặt. Có anh, không khí buổi họp bạn vui, ấm và sáng hẳn lên.
Giữa năm 1998, khi Nghiêu Đề bắt đầu trở bệnh, bọn tôi không còn gặp nhau thường xuyên như trước, nhưng mỗi lần có dịp họp mặt, Nghiêu Đề vẫn luôn mang đến cho chúng tôi tiếng cười. Có lần anh bảo tôi: “Cậu thân ông Mai Thảo hơn tôi phải không?” Tôi không trả lời ngay, vì chưa biết bạn tôi định gài bẫy gì, thì anh tiếp: “Ông ấy muốn sponsor thì cứ việc sponsor cậu trước đi chứ việc gì sponsor tôi?” Anh chưa muốn đi theo Mai Thảo. Nghiêu Đề những ngày sau đó thường nói bệnh như là một phần của đời sống anh. “Mà nói đến chuyện hưởng đời thì tại sao không hưởng luôn cái bệnh của đời.” Bệnh tật có làm anh đau đớn nhưng quả tình anh cũng đã nhìn nó bằng một con mắt đùa cợt nhẹ nhàng như không.
Nghiêu Đề là một trong những họa sĩ đã hình thành nền hội họa đầy tính năng động và sáng tạo Việt Nam trong những năm đầu thập niên 60. Trong một bài viết về Nghiêu Đề* nhà phê bình hội họa Huỳnh Hữu Ủy nhận định “Trong bầu không khí nồng nhiệt đổi mới và khao khát sáng tạo của những thập niên 50 và đầu 60, Nghiêu Đề xuất hiện như một khuôn mặt trẻ trung, phấn chấn tiến đến với nền nghệ thuật mới.” … “Và chính trong không khí rạo rực đầy hứa hẹn ấy, Nghiêu Đề đã góp một tay vào việc thiết kế căn nhà mới của nền nghệ thuật mới.
Anh được tặng thưởng huy chương bạc Hội Hoạ Mùa Xuân năm 1961 với tác phẩm Chân dung sáng tác một năm trước đó, vẽ khuôn mặt một thiếu nữ đầy chất cách tân, vì khuôn mặt của thiếu nữ có thể nói là hơi nhỏ, không cân bằng trên một thân hình khá lớn, lại còn cái cổ áo dựng cao lên làm chúng ta nhớ đến kiểu áo dài của phụ nữ thời đó, vậy mà tất cả lại trở nên rất hoà hợp khi tất cả đều như chìm vào trên một nền sơn dầu mạnh mẽ xanh xám như đá tảng.”*
Biết anh là tác giả tập truyện Ngọn Tóc Trăm Năm tôi hỏi xin anh nột truyện ngắn cho Văn, nhưng anh chỉ cười. Thỉnh thoảng Nghiêu Đề gửi lên cho Văn một bài thơ và tuyệt nhiên không thấy một truyện ngắn mới nào. Tại sao? Nhiều lần tôi hỏi anh và anh nói “màu sắc đủ rồi, thơ cũng là quá một bước, truyện ngắn là lỡ bước thứ hai. Cậu đừng xúi dại tôi mãi như vậy!”
Tối ngày 9 tháng 11, 1998 đang ngồi ở tòa soạn xem lại phần tin trên trang nhất của số báo cuối cùng trước khi chia tay để nhận việc một tờ báo khác ở miền Bắc Cali thì nhận được điện thoại của nữ ca sĩ Quỳnh Giao báo tin Nghiêu Đề vừa ra đi lúc 6 giờ 25 [chiều], tại nhà anh ở San Diego. Tôi nhớ nụ cười của Nghiêu Đề khi hỏi tôi chuyện Mai Thảo sponsor. Tôi không nghĩ là anh ra đi nhanh như vậy. Một tuần sau, ngày các bạn tôi từ Quận Cam kéo nhau xuống phương nam tiễn Nghiêu Đề ra đi cũng là ngày tôi phải từ Quận Cam lên đường ngược chiều về phương bắc nhận việc làm trong một tờ báo mới ở San Jose. Đời sống không bao giờ dễ dãi với một ai. Tôi đã không đến thăm Nghiêu Đề lần cuối. Tôi đã chia tay anh trên một chuyến bay.
San Jose, 16.11, 1998 –11. 11, 2009
• Huỳnh Hữu Ủy, Nghệ Thuật Tạo Hình Việt Nam Hiện Đại, VAALA 2008, tr. 183.
Hoạ sĩ Nghiêu Đề sinh năm 1939 ở Quãng Ngãi, Việt Nam. Được tặng thưởng huy chương bạc Hội Hoạ Mùa Xuân năm 1961 với tác phẩm Chân dung sáng tác năm 1960. Ngoài thì giờ sống với hội họa, Nghiêu Đề cũng viết văn và làm thơ, in thơ rải rác trên các tạp chí Văn, Văn Học, Hợp Lưu. Ông cũng đã cho xuất bản tập truyện ngắn Ngọn Tóc Trăm Năm ở Sài Gòn thập niên 70. Năm 1985, ông cùng gia đình định cư ở San Diego, California, Hoa Kỳ. Và tại thành phố này, ông ra đi vào ngày 9 tháng 11, 1998.
Nguyễn-Xuân Hoàng
nguồn: khắc minh thơ