- GẶP GỠ TRÊN ĐẤT MỸ (Tiêu Dao Bảo Cự)
- THỂ LOẠI THƠ TRONG TÙ (Viên Linh)
- Nguyễn-Xuân Hoàng và hành trình đi tìm/chuẩn bị tiểu thuyết
Gặp gỡ trên đất Mỹ (Kỳ 41)
Wednesday, May 25, 2011 2:32:18 PM
LTS: Ðược sự chấp thuận của tác giả Tiêu Dao Bảo Cự, nhật báo Người Việt xin giới thiệu đến quý vị độc giả tập bút ký “Gặp gỡ trên đất Mỹ” kể lại cuộc hành trình xuyên nước Mỹ của tác giả hồi năm 2009. Tiêu Dao Bảo Cự là nhà giáo tốt nghiệp Ðại Học Sư Phạm Huế và dạy học tại Ban Mê Thuột từ 1967 đến 1975. Vì có khuynh hướng chống chính quyền lúc còn làm việc cho chính phủ Việt Nam Cộng Hòa nên sau Tháng Tư, 1975 ông được tiếp tục dạy học và làm việc trong Mặt Trận Tổ Quốc Bảo Lộc. Ông vào Ðảng CSVN năm 1974. Năm 1988, ông cùng với một số văn nghệ sĩ lập kiến nghị yêu cầu Ðảng CSVN thực thi dân chủ và đổi mới thực sự. Sau đó, ông bị trục xuất khỏi đảng. Tập bút ký này được đăng tải trên Diễn Ðàn Thế Kỷ Tháng Giêng năm 2011.
Lời đầu của tác giả: Năm 2009, tôi có chuyến đi Mỹ kéo dài trong 6 tháng, có cơ hội thăm 12 tiểu bang và thủ đô Washington DC. Sau đó tôi đã viết “Mỹ du ký” (phổ biến trên website Danchimviet.com) với tính cách hết sức khái quát. Tuy nhiên vì tôi nghĩ đây là một chuyến đi hữu ích về nhiều mặt nên tôi viết lại bút ký về chuyến đi với tựa đề “Gặp gỡ trên đất Mỹ.” Bút ký lần này khá đầy đủ, chi tiết, theo thể tường thuật và thứ tự thời gian, hoàn toàn khác hẳn với “Mỹ du ký.”
Tôi hiểu gặp gỡ ở đây là gặp gỡ con người, cảnh vật và sự việc. Dĩ nhiên gặp gỡ sẽ phát sinh tình cảm, nhận thức. Tôi lần đầu ra nước ngoài và qua Mỹ, nhìn mọi sự một cách “hồn nhiên,” không thiên kiến và với ý hướng học hỏi nên tôi sẽ trình bày một cách chân thành, trung thực những gì mình thấy, nghe và nghĩ.
Tôi hy vọng bút ký này sẽ giúp đôi chút cho người trong nước hiểu biết thêm về người Việt ở Mỹ và nước Mỹ, người Việt ở Mỹ thấy được cách nhìn nhận của một người trong nước về mình, và biết đâu cũng có thể phần nào giữa người Việt với nhau ở Mỹ nhờ soi rọi qua một trung gian khách quan, từ đó có thể cùng nhau chiêm nghiệm về những vấn đề chung của dân tộc, đất nước. Ðó là ước vọng của tác giả khi dành công sức để hoàn thành bút ký này.
Bút ký có 10 phần:
1. California những ngày đầu.
2. Texas: Dallas và Houston.
3. Miền Ðông: Washington DC, Virginia, Maryland, Pennsylvania.
4. Cali những ngày kế tiếp.
5. Seattle, Washington.
6. Colorado.
7. Ði Miền Ðông lần 2: North - South Carolina, Washington DC, Virginia, Maryland, New York.
8. Minnesota.
9. Cali những ngày còn lại.
10. Lời cuối: Ðôi điều suy nghĩ.
Kỳ 41
... Thời gian ở Cali, chúng tôi còn có dịp gặp lại những người quen biết cũ và những người mới quen. Ðối với những người mới quen mà chúng tôi không biết rõ về họ nhưng thấy họ tỏ ra quý mến mình, mời đến nhà, đi chơi đây đó hay đi uống café, chúng tôi cũng nhận lời.
Ông Quý đưa chúng tôi đến xem trung tâm thương mại Santana Row của người Mỹ da trắng ở San Jose, toàn những cửa hiệu sang trọng, khác hẳn khu đông người Việt. Ông Trí thích nói chuyện chính trị và có những phân tích rất sâu sắc, hơn hẳn một số người chuyên hoạt động có tiếng tăm. Anh Thượng lại không thích nói chuyện chính trị, chỉ nói về những công việc ngày trước anh đã làm ở trong nước. Ông Ngô Ðình Chương, một nhà thơ, có ngôi vườn rộng với những cây lê, cây táo trĩu quả quyến rũ, tha hồ cho cô Blue Hương Giang và BY hái ăn tại chỗ và mang về.
Ông Ngô Văn Bằng, người đã từng dạy tôi ở Ðại Học Sư Phạm. Ông cũng học ở Ðại Học Sư Phạm Huế, trước tôi 5 khóa, tốt nghiệp loại xuất sắc, được giữ lại làm phụ giảng. Tôi mới liên lạc với ông cách đây vài năm nhân việc cựu sinh viên và giáo sư tổ chức đại hội và làm tập kỷ yếu kỷ niệm 50 năm thành lập Ðại Học Sư Phạm Huế ở Mỹ. Nghe ông đau yếu, tôi đã giới thiệu với ông phương pháp “Năm thức Tây Tạng” trong cuốn sách “Suối nguồn tươi trẻ” mà tôi đã từng tập. Ông tập có hiệu quả rõ rệt, sau một thời gian 6 tháng, ông có thể bay những chuyến bay đường dài như trước kia mà có lúc ông đã phải giã từ phương tiện này đến 5, 6 năm. Ông vẫn thường trao đổi với tôi về kết quả tập luyện và sự kiên trì trong việc giữ gìn sức khỏe và thỉnh thoảng thăm hỏi các sinh viên cũ. Ông qua đây, trước có làm tờ báo Phật Giáo là tờ Chánh Ðạo, nay vì mắt kém, phải “nghỉ hưu,” chỉ phụ giúp việc nhà để bà xã có toàn thời gian làm tờ Phụ Nữ Cali. Có lần ông mời chúng tôi về nhà dùng cơm và cùng đi chơi với một bạn học cũ của tôi ở Ðại Học Sư Phạm là Nguyễn Kim Chương, sang đây đi học lại và cũng tiếp tục làm thầy giáo.
Tờ Phụ Nữ Cali mấy năm trước có đăng một số trích đoạn trong tác phẩm “Mảnh trời xanh...” và một hồi ký của tôi về thời sinh viên. Hồi ký này tôi gởi cho Kỷ yếu Ðại Học Sư Phạm Huế nhưng không được chọn đăng, có lẽ do không hợp với tính chất “mô phạm” của ấn phẩm này, dù tôi đã từng là chủ tịch Ban Ðại Diện Sinh Viên ÐHSP. Trong hồi ký, tôi có nhắc đến việc tôi tỏ tình với một nữ giáo sư Anh văn ở Ðại Học Văn Khoa lúc tôi học thêm các chứng chỉ bên Văn Khoa. Nữ giáo sư của tôi là một phụ nữ trí thức xinh đẹp, mảnh mai, thanh lịch, tốt nghiệp ở nước ngoài và nói tiếng Anh lảnh lót như tiếng chim rừng. Năm đó là năm cuối ở đại học và tôi bị tù hơn nửa niên khóa. Khi ra tù đi học lại, ngay trong giờ học đầu tiên, tôi “trình” lên giáo sư một bức thư tình. Tôi viết lá thư này khi nằm trên sàn nhà ẩm ướt lạnh cắt thịt của trại giam mùa Ðông xứ Huế, tôi không ngủ được và mơ về những giấc mơ hư ảo với những ước muốn điên rồ để thoát ra khỏi thực tại khốn cùng. Bà chăm chú đọc xong thư, không nói gì, chỉ nhìn tôi một lúc lâu sau cặp kính cận thị màu xanh nhạt với vẻ dò hỏi và một chút xúc động rồi lặng lẽ cất lá thư vào trong cuốn sách. May mà tôi không rớt chứng chỉ này, lại còn đỗ thứ hạng khá cao. Nữ giáo sư Anh văn của tôi là phu nhân của giáo sư khoa trưởng. Ôi, một thời tuổi trẻ ngang tàng và lãng mạn.
Một hôm ông Ðoàn Thanh Liêm mời chúng tôi đi uống café. Tôi đã biết tiếng ông Liêm qua những bài viết của ông về công tác xã hội và cả những hoạt động xã hội ngày xưa của ông ở Sài Gòn lúc còn sinh viên. Ông ở Nam Cali nhưng có con gái ở Milpitas gần chỗ chúng tôi ở nên khi lên thăm con, ông liên lạc đến đón chúng tôi đi. Ông có một người bạn cũ cũng vừa ở Việt Nam sang chơi. Ông đưa chúng tôi đến quán café M hình như khá nổi tiếng ở San Jose, phía trước có hai con sư tử đá. Quán có hai phần, trong nhà và ngoài hiên nhưng khách thích ngồi phía ngoài hơn vì có thể hút thuốc. Quán có mấy màn hình lớn đang chiếu các trận đấu bóng đá và người ta chơi cá độ. Khách đông đến nỗi kiếm được chỗ ngồi cũng khó khăn. Khói thuốc mù mịt và tiếng nhạc ầm ĩ. Giới viết lách, làm báo tập trung ở đây khá đông. Chúng tôi được giới thiệu với nhiều người nhưng chỉ bắt tay hay chào hỏi qua loa chứ không chuyện trò gì được vì rất ồn ào chật chội. Có ông Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khánh tôi đã nghe tiếng, đã đọc một số bài viết của ông trước đây, có vẻ là người cao niên nhất. Ông Cao Sơn làm chủ bút một tờ báo. Ông Cao Sơn ngồi cạnh tôi, nói chuyện nhiều. Hóa ra ông Ðoàn Thanh Liêm và ông đều có gặp rắc rối trong vụ liên quan đến Câu Lạc Bộ Kháng Chiến của ông Nguyễn Hộ ở Sài Gòn, người bị tù có án, người không có án.
Quan điểm khác nhau không ngăn cản người ta ngồi bên nhau trò chuyện thân ái (từ trái, Nguyễn Hữu Liêm, Trương Vũ, Nguyễn Xuân Hoàng, TDBC). (Hình: Tác giả cung cấp)
Nhân một buổi đi xem triển lãm tranh của họa sĩ Ðào Hải Triều cùng với Nguyễn Hữu Liêm, chúng tôi gặp lại ông Trương Vũ. Ông có con gái ở San Jose. Các con ông Trương Vũ rất thành đạt và sống ở nhiều tiểu bang nên ông bà thỉnh thoảng đi đây đó thăm các con. Nghe nói trong nhà ông các con và dâu, rể có đến 6 tiến sĩ và bác sĩ. Ở đây tôi cũng gặp anh Trương Xuân Mẫn, trước là nhạc sĩ ở Sài Gòn chuyên sáng tác nhạc cho thiếu nhi, đã có lần cùng bạn đến thăm tôi ở Ðà Lạt. Anh Mẫn hiện là phóng viên ảnh của báo Việt Tribune.
Ông Trương Vũ mời chúng tôi đến ăn trưa ở nhà con gái, có thêm mấy người khách là ông bà Nguyễn Xuân Hoàng và Nguyễn Hữu Liêm. Tôi đã đọc Nguyễn Xuân Hoàng từ hồi ông viết văn, làm báo ở Sài Gòn. Hiện nay ông đang làm tờ Việt Tribune. Vợ ông là chủ nhiệm của báo này. Ở Mỹ tôi đã gặp mấy cặp vợ chồng đều làm báo, người chủ nhiệm, người chủ bút, quả thật tiện lợi. Nói chuyện, hóa ra Ông Hoàng đã từng học ở đại học Ðà Lạt. Ông kể kỷ niệm thời sinh viên, lúc mới lên Ðà Lạt, đã phải đánh lộn với bọn “xã hội đen” và suýt trở thành “đại ca.” Mấy năm trước, lúc ông qua Pháp, bị tai biến nặng, tưởng không qua khỏi, chỉ qua một đêm mà tóc bạc trắng nhưng bây giờ ông đã khỏe lại và làm việc bình thường. Tôi nghĩ giữa các ông Trương Vũ, Nguyễn Xuân Hoàng và Nguyễn Hữu Liêm có thể có những quan điểm khác nhau nhưng không vì thế mà họ không phải là bạn bè. Tự do tư tưởng, tôn trọng những ý kiến khác biệt là điều mà nhiều người Việt Nam đã học được khi ở Mỹ nhưng cũng không ít người vẫn muốn độc tài tư tưởng chẳng khác gì cộng sản, chỉ muốn áp đặt chính kiến của mình lên mọi người và đả kích, bôi nhọ, chụp mũ người khác quan điểm.
Vì tiện đường, ông Nguyễn Xuân Hoàng chở chúng tôi về nhà. Trên đường đi, ông bà ghé qua trụ sở tòa soạn Việt Tribune. Tòa soạn nằm trên gác, có hai phòng khá bề thế, chứa đầy máy móc, sách báo. Ông Hoàng tặng chúng tôi một số tờ báo tiêu biểu. Một phóng viên ảnh của tòa soạn đang ở đây cũng chụp một số hình của chúng tôi một cách rất chuyên nghiệp, nói là để làm tư liệu.
Tiêu Dao Bảo Cự
Thể Loại Thơ Trong Tù
Trong một ngày cuối tuần hồi giữa tháng 5, 2012, tại Little Saigon có hai cuộc họp mặt văn nghệ, một do nhà thơ Thành Tôn mời vào buổi sáng, một do nhà thơ Trần Minh mời vào buổi chiều.
Anh hùng tử tội chống Pháp Trần Cao Vân. (1866-1916)
Cuộc họp mặt buổi sáng tổ chức tại Cafe Gypsy trong trung tâm thuơng mại Catinat để đón tiếp nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng từ San Jose xuống Little Saigon tham dự hai cuộc ra mắt sách tại Hội trường Lê Ðình Ðiểu báo Người Việt, còn cuộc họp mặt buổi chiều tại một tư gia ở Garden Grove, để đón tiếp một nhà thơ từ Saigon Việt Nam qua Little Saigon của dân tị nạn.
Người viết bài này được mời trong cả hai dịp, song chỉ tham dự được vào buổi sáng. Nhưng về nội dung họp mặt, chắc có khác biệt. Trong buổi sáng, chúng tôi nói về nhiều chuyện, trong có “Văn chương Việt Nam trên mạng lưới Internet,” và một chủ đề về “Chân dung văn học miền Nam,” nhất là khi miền Nam được hiểu là miền Nam của giai đoạn 1954-1975. Mấy ngày hôm sau một vấn đề nổi lên trong đầu: đề tài thứ hai của tôi về các nhà văn nhà thơ miền Nam chắc hẳn sẽ khó nói khi có mặt các cây bút từ trong nước ra, nhất là cây bút ấy đang cộng tác, ở vai trò cấp cao, với một số báo chí lề phải, tức lề đảng, khác hẳn những người đang sống bên hữu ngạn của con đường, tức lề trái, lề nhân dân.
Hãy đưa ra một ví dụ.
Trong văn thơ miền Nam, và trong văn thơ chống thực dân cộng sản, có một thể loại (cả thể lẫn loại) đặc biệt chỉ có ở Việt Nam, vô cùng đặc sắc và phong phú, đó là “Thơ Trong Tù.” So với văn thơ thế giới nói chung, Việt Nam có thể không sút kém, vì tài năng sáng tạo, sự mẫn cảm của vốn người, cái tinh tế của nguồn gốc, quá khứ của nòi giống, kinh nghiệm của lịch sử kinh qua truyền thống sinh tồn, các nghệ sĩ sáng tạo Việt Nam sẽ không thua các nghệ sĩ thế giới. Mà có một thứ chắc chắn các nghệ sĩ Việt Nam vượt hẳn các nghệ sĩ thế giới: về tiềm năng quá khứ lẫn số lượng từ thời đại cổ sơ, qua thời Trung đại và Cận đại hay Hiện đại, lúc nào chúng ta cũng đông đảo phong phú lượng và phẩm: Thơ-Trong-Tù và Thi Sĩ-Trong-Tù. Việt Nam có bao nhiêu danh sĩ, sĩ phu, anh hùng, liệt nữ làm thơ? Việt Nam có bao nhiêu nhân vật lịch sử làm thơ trong tù?
Thơ Trong Tù, hay Ngục Trung Thư đã là nhan đề liệt hạng của lịch sử, đến nỗi có nhiều nhân vật lịch sử bị đi tù, nhưng không làm được thơ, đã phải lấy thơ tù của người khác rồi ghi tên mình lên đó? Chẳng thế mà ông Giáo Sư Lê Hữu Mục đã viết một cuốn sách để trả lời những nghi vấn tương tự; ông còn xác định, chứ không hỏi nữa: “Ngục Trung Thư không phải do Hồ Chí Minh viết.”
Cuộc họp mặt văn nghệ tại Cafe Gypsy với Thành Tôn, Nguyễn Văn Sâm, Phạm Xuân Ðài, Nguyễn-Xuân Hoàng,
Nguyễn Tà Cúc, Viên Linh, Việt Anh, Yên Hòa, Trần Văn Nam, Trúc Chi. (Hình: Trần Yên Hòa)
Trả lời hai câu hỏi nêu trên, chúng ta cần viết một bộ sách lớn. Tạm thời chỉ xin trích dẫn một vài bài, và vài nét ghi chú về Thơ Trong Tù.
1. Nguyễn Hữu Huân:
Muôn việc cho hay số ở trời
Cái thân chìm nổi biết là nơi
Mấy hồi tên đạn ra tay thử
Ngàn dặm non sông dạo gót chơi
(Khi bị lưu đày, Văn Ðàn Bảo Giám, III-22)
2. Phan Châu Trinh:
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn
Lừng lẫy làm cho lở núi non
Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi
Mưa nắng chi sờn dạ sắt son
Những kẻ vá trời khi lỡ bước
Gian nan nào xá sự con con.
(Ðập đá Côn Lôn)
4. Phan Bội Châu
Nếu chết phăng đi cái cũng hay
Còn ta ta lại nghĩ sao đây?
Trời đâu có ngục chôn thần thánh
Ðất há không đường ruổi gió mây?
Tát cạn bể Ðông chìu tấc lưỡi
Phá tan rừng Bắc vẫy đôi tay
Anh em ai nấy xin thêm gắng
Công nghiệp ngàn thu há một ngày?
(Ngồi tù cảm tác)
5. Trần Cao Vân
Ðứa nào muốn chết chết như chơi
Chết vị non sông chết vị trời
Chết thảo bao nài xương thịt nát
Chết ngay há ngại cổ đầu rơi
Chết trung tiếng để ngoài muôn dặm
Chết nghĩa danh lưu đến vạn đời
Chết được như vầy là hả lắm
Ta không sợ chết hỡi ai ơi.
(Chết chém)
Bài này Trần Cao Vân, anh hùng chống Pháp, làm trước khi bị hành hình. Bài thơ và thực tế có khác biệt. Ông biết là Pháp xử mình chết chém, nên làm câu thơ “Chết ngay há ngại cổ đầu rơi.” Có lẽ biết được bài thơ này, giặc Pháp (hay tay sai của giặc) đã làm khác đi, là khi xử ông ở Cống Chém, An Hòa, năm 1916, đã không chém ông ở cổ (cổ đầu rơi), mà tàn nhẫn hơn, chém ông ở ngang lưng. Chúng ta có nên tổ chức một cuộc họp mặt văn nghệ khác lấy chủ đề là “Soạn thảo một thi tập Thơ Trong Tù Việt Nam?”
Viên Linh
(Liên lạc tác giả: phamcongkh@yahoo.com)
Nguyễn-Xuân Hoàng và hành trình đi tìm/chuẩn bị tiểu thuyết
■ Maurice Blanchot mô tả sự chuyển hướng viết của riêng mình, một sự chuyển hướng vừa tuyệt vọng vừa rũ bỏ “Có một lúc nào đó trong đời của một người – do đó cũng là của mọi người – khi mà mọi thứ đã xong xuôi, những quyển sách đã được viết ra, vũ trụ đã im tiếng, mọi sinh linh đã yên nghỉ. Lúc đó chỉ còn có mỗi một nhiệm vụ là tuyên bố điều đó ra: Cái đó dễ thôi. Nhưng như thể lời nói thêm vào này có nguy cơ làm mất sự quân bình – và tìm ở đâu ra sức mạnh để nói lời đó ra? và lại còn tìm ở đâu được một chỗ cho lời nói này? -, người ta không nói câu đó ra, và như vậy là nhiệm vụ hóa ra chưa hoàn thành. Người ta chỉ viết cái mà tôi vừa viết ra, cuối cùng thì người ta cũng chẳng viết lời nói đó ra nữa.”* Tôi mượn đoạn văn này của Blanchot coi như một lời tâm sự với Nguyễn Xuân Hoàng về viết – trên hết là viết tiểu thuyết – vì tôi hiểu trong đời văn của Nguyễn Xuân Hoàng bạn tôi luôn tìm kiếm một sự thay đổi cho việc viết tiểu thuyết. Nguyễn Xuân Hoàng đã chẳng bao giờ nói điều đó ra. Nhưng tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Hoàng lại như một trả lời, một thí nghiêm giải đáp cho niềm đam mê tuyệt vọng ẩn chứa sự thao thức trong bóng tối khi chạm mặt với nan đề này.
■ Ở trên tôi nói Nguyễn Xuân Hoàng không trực tiếp nói ra nỗ lực tìm kiếm con đường để đi tới tiểu thuyết. Nhưng bạn tôi dù thận trọng cách mấy cũng không tránh khỏi việc nói ra phần nào quan niệm của mình về tiểu thuyết một cách gián tiếp. Chứng cớ: Nguyễn Xuân Hoàng tìm thấy một điểm tâm đắc khi viết về quyển Tháng Ba Gẫy Súng của Cao Xuân Huy: “Với Tháng Ba Gãy Súng, Cao Xuân Huy đã viết được ‘những trang văn xuôi lương thiện và giản dị về con người’, điều mà Ernest Hemingway gọi là ‘trên đời này thật không có gì khó khăn hơn’.” Điểm tâm đắc này được giải thích ở đoạn văn trước đó: “Thật vậy, văn chương vốn cần hư cấu, nhưng hiện thực tự nó cũng thừa sự lớn lao và sâu sắc mà một trí tưởng tượng khiêm tốn đôi khi còn nghèo nàn và nông cạn hơn. Nói cách khác, hư cấu trong một tác phẩm tuy cần thiết, nhưng hiện thực bao giờ cũng là nền tảng để từ đó hư cấu có thể thành hình và đứng vững.” Tuy trích dẫn hai đoạn văn trên nhưng tôi vẫn nghi ngờ phán đoán của mình về quan niệm về thực tại và hư cấu trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Hoàng. Vì cách nói nước đôi/hai mặt của bạn tôi. Đó cũng chính là cái hai mặt/nước đôi của hiện thực và hư cấu trong tiểu thuyết. Và nhà tiểu thuyết phù thủy chính là kẻ bày cuộc chơi giữa hiện thực và hư cấu trong trang viết. Về điểm này tôi nghiêng về quan điểm đọc văn của Jacques Derrida: tính chất biệt phân của ý nghĩa trong bản văn.
■ Ta chỉ lên đường, hành trình đi tìm một cái gì đó khi nó chưa định hình rõ nét. Quả thực trong các thể loại văn chương thì tiểu thuyết là thể loại biến đổi không ngừng. Ở hoàn cảnh văn chương Việt Nam sự biến đổi này luôn gặp bất hạnh. Kể từ năm 1925 cho đến 1945 truyên kể/ truyện dài đang dò dẫm trên đường tiến tới tiểu thuyết. Nhưng rồi đại họa lịch sử: quyền lực tuyệt đối của độc tài đảng trị ở Miền Bắc từ 1955 đã bít lối con đường truyện kể để trở thành tiểu thuyết. Suốt giai đoạn 1955-1975 ở Miền Bắc truyện kể cũng như toàn bộ văn chương bị bức tử. Tương tự như vậy ở Miền Nam giai đoạn 1955-1975 truyện kể/truyện dài một lần nữa tưởng chừng có cơ may lên đường tìm cho mình một hình dạng. Nhưng thảm họa trụy thai của tiểu thuyết Việt Nam lại tái diễn: Từ sau tháng Tư 1975 văn chương trong nước, nhất là truyện kể/truyện dài đi vào chung cuộc. Và những người viết hôm nay ở Việt Nam liệu có đủ ý thức văn chương và kiến thức về tiểu thuyết để lên đường tạo dựng một diện mạo cho tiểu thuyết? Những thành công nhất thời của một vài truyện ngắn truyện dài từ sau năm 1986 và trong những năm gần đây xem ra vẫn chưa đủ kích thước sức lực cho một lên đường chuẩn bị cho tiểu thuyết. Cho nên nói rằng Việt Nam chưa có tiểu thuyết cũng không phải là quá đáng hay có thái độ phủ nhận, phủi sạch.
■ Nguyễn Xuân Hoàng cầm bút làm cuộc hành trình chuẩn bị của tiểu thuyết - ở đây tôi lấy cụm từ La Préparation du roman là tên giáo trình cuối cùng của Roland Barthes ở Collège de France 1978/79- 1979-80 – chính thức bắt đầu từ năm 1970 với Khu Rừng Hực Lửa (1972) và Kẻ Tà Đạo (1973) không kể hai tập truyện ngắn được coi như sự chuẩn bị cho truyện dài Mù Sương (1966) và Sinh Nhật (1968). Trong giai đoạn 1965-1975 chủ thuyết hiện sinh được du nhập một cách thô thiển hời hợt – nói thô thiển hời hợt trước hết vì sự du nhập này có tính phong trào, người ta chỉ đọc các triết gia hiện sinh Pháp là chính, thứ đến là trí thức Miền Nam chưa có đủ thời gian nghiên cứu một cách hàn lâm chính quy để tiêu hóa và tra vấn: hai mươi năm là khoảng thời gian quá ngắn để bắt đầu một nền nếp, một truyền thống. Đấy là chưa kể đến sự thiếu vắng những nhà nghiên cứu triết học chuyên nghiệp, “làm nghề” triết. Vì là phong trào cho nên triết lý hiện sinh cộng với đời sống tinh thần bị chiến tranh bủa vây bế tắc cho nên hai ỵếu tố này đã là dung môi cho việc tạo ảnh hưởng nhất định trong giới viết lách thời bấy giờ. Sau hiện sinh là phong trào Tiểu Thuyết Mới của Pháp đã du nhập và tạo ảnh hưởng trên sinh hoạt văn chương Miền Nam. Nếu hiểu Tiểu Thuyết Mới như ý thức văn chương nhằm vận động biến đổi tiểu thuyết thì ý thức văn chương này là điều những người viết thế hệ trưởng thành vào những năm 60s đang mong đợi. Câu hỏi đặt ra là: Nguyễn Xuân Hoàng có “hiện sinh” hay “tiểu thuyết mới” không? Tôi không nghĩ Nguyễn Xuân Hoàng đã để mình bị “phong trào” lôi cuốn. Chung quanh bạn bè viết lách cùng trang lứa không thiếu gì người thí nghiệm cung cách “hiện sinh” hay “tiểu thuyết mới”, chưa kể có những người viết lớp trước tuy không hẳn đã thực sự thấu hiểu “hiện sinh” hay “Tiểu Thuyết Mới” nhưng đã có phản ứng chống đối, tiêu cực. Nguyễn Xuân Hoàng không dửng dưng trước những trào lưu những sinh hoạt này mà có thái độ quan sát tìm hiểu. Tôi gọi đây là một thái độ tự chủ và lương thiện với văn chương.
■ Nguyễn Xuân Hoàng là nhà văn “hiện đại” hay “cổ điển”? Đọc truyện kể của Nguyễn Xuân Hoàng tôi cho rằng Nguyễn Xuân Hoàng vừa “hiện đại” vừa “cổ điển” trong cách cấu trúc truyện, xây dựng nhân vật, gọi tên nhân vật, và cấu trúc câu văn. Nếu coi truyện kể giai đoạn 1925-1945 là hiện đại thì Nguyễn Xuân Hoàng trong trang viết của mình đã dứt khoát gạt bỏ kiểu tự sự hiện thực với người kể truyện ngôi thứ ba là kẻ bàng quan ngụy tín khuất mặt đứng ngoài, nấp sau “cánh gà” thế giới truyện, trong khi kẻ tự sự trong truyện của Nguyễn Xuân Hoàng dù tạm thời ẩn nấp, tàng hình nhưng cuối cùng cũng bị phát hiện đã đi vào truyện kể ngay từ đầu; không trình bày nhân vật truyện qua những biểu lộ tâm lý mà qua những ứng xử; chữ “chàng” và “nàng” là những danh từ chung để gọi tên nhân vật nam và nữ là điều cấm kỵ đối với Nguyễn Xuân Hoàng; câu văn thuyết thoại cũng như đối thoại sắc gọn đột ngột nhưng hàm ngụ, khi thì ấm áp nồng nhiệt theo trạng thái tình cảm của nhân vật, khi thì dửng dưng như lời lẽ của những kẻ vừa thân thuộc vừa xa cách trong cuộc chơi mệt mỏi và tuyệt vọng.
■ Trong đám tang nhà văn Mai Thảo, nhân sự khiêng quan tài từ trong lòng nhà quàn ra cửa để xe đòn đưa ra huyệt mộ, qua sự sắp xếp của Đỗ Ngọc Yến và gia đình nhà văn như sau: tôi và Nguyễn Xuân Hoàng được xếp song hành vào hàng thứ tư sau chót: hàng thứ nhất là hai nhà văn lớn tuổi của Sáng Tạo Nguyễn Sĩ Tế/Doãn Quốc Sĩ, hàng thứ hai là nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn và tài tử ca sĩ Anh Ngọc, hàng thứ ba là hai họa sĩ Duy Thanh/Ngọc Dũng, và hàng thứ tư là Nguyễn Xuân Hoàng/Đào Trung Đạo. Cho đến hôm nay cả ba hàng đầu đều đã lẻ loi, kẻ mất người còn. Chỉ có hàng thứ tư là vẫn nguyên vẹn! Tôi viết bài này cho Nguyễn Xuân Hoàng hôm nay để tạ ơn sự nguyên vẹn này. Cũng là sự nguyên vẹn của tình bạn ngoài đời sống cũng như trong văn tự.
■ Lời sau cùng là: Chúc bạn ta giữ trọn niềm đam mê mệt mỏi tuổi già để đi tiếp cuộc hành trình chuẩn bị tiểu thuyết. Nghĩa là viết lại tập chót của bộ trường thiên (đã viết xong nhưng rồi đốt bản thảo) nối vào Người Đi Trên Mây, Bụi và Rác, và Sa Mạc để hoàn thành như dự tính. Est-il facile?
__________________
(*) Maurice Blanchot: Il y a un moment dans la vie d’un homme - par consequent des hommes – où tout est achevé, les livres écrits, l’univers silencieux, les êtres en repos. Il ne reste plus que la tâche de l’annoncer: c’est facile. Mais comme cette parole supplémentaire risque de romper l’équilibre – et où trouver la force pour la dire? où trouver encore une place pour elle? -, on ne la prononce pas, et la tâche reste inachevée. On écrit seulement ce que je viens d’écrire, finalement on ne l’écrit pas non plus. (Entretien infini/Kết Đàm vô tận, XII, Gallimard 1969).
Đào Trung Đạo
12.11.2012