- Bụi Và Rác của Nguyễn-Xuân Hoàng_Nguyên Sa
- Kẻ Lạ Trong Cơn Lốc Thời Cuộc_ Nguyễn Mạnh Trinh
- Những Trang Văn Xuôi Lương Thiện Và Giản Dị Về Con Người_Nguyễn-Xuân Hoàng
“Nhân vật người kể chuyện” Trong Bụi Và Rác của Nguyễn-Xuân Hoàng
“Bụi Và Rác” của Nguyễn-Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc cách đây bốn năm năm. Bối cảnh của những sự kiện trong cốt truyện cũng đã xẩy ngót hai mươi năm. Điều đó có nghĩa là, dù muộn, tiếp xúc với “Bụi Và Rác” của tác giả trong thời điểm hiện nay, tôi được thêm một dịp nghiệm lại khả năng vượt thời gian của một tác phẩm văn chương.
Tôi đọc như một kẻ nhàn hưởng hơn là một người phê bình, nghĩa là cố gạt ra ngoài những công thức, những phạm trù kinh viện, cốt sao có thể chia xẻ hồn nhiên với người trong cuộc.
Điều thú vị là khi đọc đến những dòng cuối, lại có sẵn một bài phê bình tác phẩm này của Phạm Công Thiện dưới nhan đề: “Đôi chút nhàn tưởng về nghệ thuật viết tiểu thuyết: Chữ nghĩa hoài vọng và tình yêu tuyệt vọng trong tiểu thuyết của Marguerite Duras và của Nguyễn-Xuân Hoàng”. Thật may mắn chả khác gì “buồn ngủ lại gặp chiếu manh”. Và tôi lại cũng chăm chú đọc và cố hiểu theo cách hiểu có thể của tôi bài phê bình ngắn này.
Tuy nhiên tôi đã hoang mang và thiếu tự tin ở mình thực sự sau khi đọc bài “giải mã” này. Tôi đành kiểm tra lại cách đọc của mình, nghiền ngẫm “Bụi Và Rác” chậm và kỹ hơn.
Kết quả của những lần đọc sau không giúp tôi được gì nhiều.
Điều an ủi tôi là, tình cờ cùng dịp này có bài phê bình bài “thơ con cóc” của Nguyễn Ngọc Tuấn đăng trên Hợp Lưu. Tôi chia xẻ tâm đắc với tác giả bài phê bình này qua câu chuyện ngụ ngôn “sờ voi”. Những điều tôi sắp viết ra may lắm chỉ là một dịp làm sinh động thêm ý nghĩa của triết lý “sờ voi” kể trên chăng?
Nếu tôi hiểu không nhầm thì trong tập đầu tiên cuốn tiểu thuyết này có một tên khác: “Người Đi Trên Mây” (xem Phạm Công Thiện, Bụi Và Rác, tr. 251) và đến phần hai lại có tên là “Bụi Và Rác”. Rất tiếc là tôi không có trong tay “Người Đi Trên Mây” nên bài viết này chủ yếu dành riêng cho “Bụi Và Rác” như là một tác phẩm trọn vẹn. Riêng tôi, tôi không tin rằng câu chuyện tình yêu thơ mộng của nhân vật trong truyện lại là “linh hồn” của cuốn tiểu thuyết này. Có thể ý tưởng về tình yêu mà Phạm Công Thiện phân tích trong lời bạt chủ yếu dành cho phần một, phần đã ra mắt bạn đọc gần mười năm về trước chăng?
Theo ý tôi, cách đặt tên “Người Đi Trên Mây” tập đầu của tác giả, thực ra chỉ là cách diễn đạt khả năng phân thân của tác giả và nhân vật người kể chuyện trong nghệ thuật viết văn xuôi hiện đại. Điều này đã được Phạm Công Thiện diễn giải theo cách hiểu của ông: “Trước hết, đôi điểm di động và bất động trên mây: Thăng, người tình đàn ông, tạm gọi là nhân vật chính trong người đi trên mây, tình cờ gặp Uyên, đồng thời đâu đó tình cờ gặp Quỳnh, rồi cũng có những liên hệ rình cảm nào đó với Quỳnh. Thăng cũng đã tình cờ gặp Lan và cũng có những liên hệ tình cảm nào đó với Lan, rồi lấy Lan làm vợ, đẻ ra hai con, rồi trong tình trạng ly thân, rồi ly dị với Lan thì Thăng đi trên mây với Uyên và với Quỳnh. Sau cùng, Thăng phải tạm quyết định giữa sự mâu thuẩn cùng cực trong cái hiểu và trong cái không hiểu: “Tôi hiểu tôi phải làm gì” (Thăng tự nói như thế nơi trang 247 của Người Đi Trên Mây) và Thăng đã chọn lựa Quỳnh và “dứt khoát” với Uyên: “Tôi hiểu rằng tôi sẽ chia tay Uyên mãi mãi (247). Có hẳn là chia tay mãi mãi? (sách đã dẫn, trang 253).
Không nghi ngờ gì nữa những chuyện tình này đã chiếm một số lượng trang không nhỏ và cũng không nghi ngờ gì nữa tác giả đã có ý thức phân thân với nhân vật người kể chuyện của mình như một phương tiện nghệ thuật để chọn “giọng điệu” trần thuật thích hợp. Tuy nhiên, theo tôi hiểu, tất cả đó chỉ mới là tiểu tiết.
Sự lựa chọn của tác giả “vị trí” của người trần thuật với “ngôi” kể xác định, trong bối cảnh được xác định thường nhằm mục đích tăng cường sự xác tín của nội dung được trần thuật trong độc giả. Từ đó người đọc bị rủ rê vào cuộc chơi chữ nghĩa và bị “thôi miên” trong trận đồ bát quái của các tình tiết hư cấu mà cứ tin như thật. Nguyễn-Xuân Hoàng đã làm được điều đó. Ông hoá thân thành công trong nhân vật phân thân, nhân vật “người kể chuyện” của mình. Chuyện xảy ra ở Sài Gòn và một số tỉnh phía Nam trước và sau biến cố lịch sử đẫm máu và nước mắt 1975. Trên bối cảnh đó, người kể chuyện “vừa là nhân chứng, vừa là nạn nhân”. Nhân vật người kể chuyện được xác định là một giáo sư dạy triết ở một trường trung học. Một trí thức nhạy cảm biết đánh giá những biến cố xung quanh mình bằng một nhãn quan không định kiến. Nhân vật phân thân và tác giả vì thế không có một khoảng cách, một độ chênh lệch đáng kể như trong các trường hợp nhập vai khác. Xác định được giọng điệu và điểm nhìn của người kể chuyện thích hợp là ưu điểm dễ thấy đầu tiên của cuốn tiểu thuyết này.
Từ điểm xuất phát đó, người kể chuyện bắt đầu nghiền ngẫm phân tích chính mình, những người ruột thịt, bạn bè, những người không quen, trước bước ngoặt mang màu sắc định mệnh mới: miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản.
Trong suốt mạch kể, trừ một vài đoạn tác giả trực tiếp tham gia bình luận, đánh giá, phần lớn còn lại đều do nhân vật người kể chuyện đảm trách. Người xưng tôi khi thì kể lại thật thà các biến cố, khi thì phân tích so sánh như một triết gia, khi thì hồi ức nuối tiếc như một người đa cảm, khi thì bất lực như một tên vô tích sự. Xác định vị trí trần thuật ở ngôi thứ nhất, nhân vật tôi chỉ có thể mổ xẻ kinh nghiệm tâm lý và kinh nghiệm xã hội của mình và của người khác thông qua những biến cố được quan sát từ bên ngoài. Trong trường hợp này, tác giả đứng trước một thử thách nghề nghiệp: tác giả không thể có điều kiện thâm nhập phân tích từ bên trong những nhân vật khác ngoài nhân vật “tôi”. Tác giả đã tự tước đi khả năng cùng một lúc có thể hoá thân vào nhiều nhân vật khác nhau để biết hết, hiểu hết. Bù vào đó, “nhân vật kể ngôi thứ nhất” có sức cuốn hút của lối kể khách quan, của cách tự mổ xẻ chứng minh, của cách sử dụng chi tiết bên ngoài để làm bật nổi tính cách, tâm lý bên trong của nhân vật. Ngoài nhân vật “tôi” ra hầu hết tính cách các nhân vật còn lại của “Bụi Và Rác” đều được khái quát hoá, cá tính hoá qua những cách diễn đạt khẩu ngữ, cách mô tả hành động, ngoại hình hoặc mượn lời bình của một nhân vật trung gian. Đa số các trường hợp đó, cách quan sát từ bên ngoài của Nguyễn-Xuân Hoàng tỏ ra tinh tế và “chở” đưọc ý đồ nghệ thuật của tác giả.
***
Nếu tiếp cận “Bụi Và Rác” ở cấp độ khái quát, thì toàn bộ câu chuyện hướng tới nỗ lực phơi bày trước độc giả ý nghĩa nạn nhân của con người và xã hội miền Nam sau ngày giải phóng.
Ý đồ này, “nhân vật người kể chuyện” không giấu diếm. Nhưng điều đó không quan trọng, cái quan trọng là làm sao để ý đồ đó đồng thời là ý nghĩa khách quan của hình tượng nghệ thuật. Làm sao để bạn đọc không giải mã nhầm sang những giả định thẩm mỹ khác. Bởi vì “bụi và rác” vẫn có thể được tiếp nhận từ góc độ một câu chuyện tình tay ba, hoặc từ góc độ một nhân vật đa cảm lãng tử, lúc nào cũng như “người đi trên mây”.
Nỗ lực của “nhân vật người kể chuyện” ngay từ đầu đã phác hoạ chân dung một “Sài gòn hấp hối”. Để phân tích con người như nạn nhân của bạo lực tàn khốc, nhiều trang viết đã đặc tả về sự hủy diệt ghê gớm của đạn bom, cảnh những người dân nghèo khốn trong xóm Mã Lạng tơi bời trong khói lửa, những loạt AK nổ bất thần trong đêm v.v… Người dân miền Nam hiểu rằng tai hoạ đang ập xuống đầu họ. Tuy vậy sự tàn bạo của đạn bom chưa thấm vào đâu so với sự tàn bạo của những thủ đoạn đểu cáng nhân danh “cái mới”, nhân danh ý thức hệ. Nhưng để nhận thức được đích thực tai hoạ đó như thế nào không phải là đơn giản. Họ chưa có một tí kinh nghiệm nào về những người cộng sản ngoài những thông tin một chiều của cơ quan truyền thông của chính quyền Sài Gòn trước đây. Nhân vật “tôi” trong “Bụi Và Rác” cũng vậy. Một linh cảm mơ hồ về tai họa được vỡ ra dần dần qua những ngày “sống chung” với chính quyền “cách mạng”. Theo tôi, cái thần thái đặc biệt thành công của tác phẩm là tâm trạng thường xuyên bị bức bách, ức chế của con người nạn nhân, nhân vật “tôi”; từ đây soi sáng lên những số phận khác, bi đát theo những kiểu khác nhau. Không khí tù hãm, bức bách này là một kinh nghiệm xã hội mới lạ của người dân phía Nam. “Nhân vật người kể chuyện” mang tên Thăng mỗi ngày mỗi vỡ ra những cạm bẫy vô hình đang rình rập anh hàng ngày. Từ ánh mắt của cô học trò di cư mang tên Nhị Hà đến dáng dấp và “cách phát âm từng chữ từng tiếng chậm rãi nhẹ nhàng của Hiên (hiệu trưởng, tr. 34), đến câu than phiền bâng quơ của Mười Tân “rất tiếc! rất tiếc!” (tr. 52) đều có ý nghĩa dự báo những trang đời đen tối đang đợi nhân vật “tôi” ở phía trước. Những ví dụ tương tự như thế, độc giả có thể bắt gặp trên từng trang viết, từng số phận khác nhau trong “bụi và rác”.
Nhưng, hình như vấn đề không chỉ dừng lại ở đó. Xét từ góc độ “nạn nhân”, ranh giới định mệnh nghiệt ngã không chỉ khoanh vùng ở những con người thuộc chế độ cũ. Đây cũng là một cách nhìn có chiều sâu triết lý của “nhân vật người kể chuyện”, cách nhìn này có ý nghĩa “dự báo” nhiều hơn là “phát giác”. Nhân vật Mười Tân, nhà cách mạng hãnh tiến, xét trong thời điểm đó vẫn đang là người gặp thời (dù có một vài nhược điểm theo như nhận xét của các “đồng chí” của ông). Ông đi đâu cũng được những kẻ - hoặc là ngây thơ cả tin, hoặc là xu thời tung hô ve vãn. Ông tự tin trong tư thế của một kẻ nhân danh đạo đức, chính nghĩa để “khai sáng” và “răn dạy” bọn “cặn bã xã hội”. Nhưng, dưới cách phân tích nghiền ngẫm triết lý của người kể chuyện, Mười Tân chỉ là một chân dung biếm họa. Ông là nạn nhân của một niềm tin mù quáng mang sắc thái tín ngưỡng. Cách kiêu ngạo, tự phụ của ông chỉ là lối hành xử của những kẻ ngộ nhận, hẹp hòi, thiển cận về tri thức nhưng lại nắm quá nhiều quyền lực trong tay. Đó cũng là bi kịch của ông cũng như ý thức hệ và cơ chế mà ông tôn thờ. Ông chỉ là nạn nhân của cái chủ nghĩa mà ông bị thôi miên. Con người riêng tư của ông đã bị cắt xén đến mức thảm hại cho con người “công cộng”. Khác với những “đồng chí” lưu manh của ông, Mười Tân không biết “phân thân”, không dùng “mặt nạ” và vì thế lần lượt bị các “đồng chí” em út tép riu của mình “vượt mặt”. Các nhân vật đồng dạng ở tầm nhỏ hơn Mười Tân như Ba Trương Phi, Tư Long, hiệu trưởng Lê Hiên lại còn chịu số phận bi đát hơn. Họ bị các đồng chí của mình sau ngày “vinh quang” “thanh trừng nội bộ”, và khi kịp mở mắt ra thì tất cả chỉ còn là quá khứ. Điều đáng chú ý là “nhân vật ngưòi kể chuyện” ít dùng “lý thuyết” suông, hoặc những ngôn từ mang sắc màu chính thống của phía này hoặc phía kia. Bình thản quan sát để so sánh kinh nghiệm tâm lý của chính mình với tha nhân. Chỉ trong những trường hợp cần thiết trong một không khí thích hợp cho phép triết lý, nhân vật “tôi” mới giải bày: “Nhìn Ba Trương Phi tôi nhớ Tư Long và càng nhớ Tư Long tôi càng nhớ Mười Tân. Thật là kỳ lạ, cứ cái gì người ta càng cố quên thì lại càng bị bắt nhớ. Tôi không muốn giữ trong đầu tôi cái hình ảnh Mười Tân chút nào. Đối với tôi, những ngày tháng qua đã quá chật chội trong ký ức tôi. Tôi đã sống được với một người con gái mà tôi vẫn nghĩ là tôi yêu cô ta và cô ta cũng yêu tôi. Cô đã cho tôi một đứa con. Nhưng cô cũng đã đưa đến cho tôi một người bà con “khủng khiếp”. Ai nói với tôi ông Mười Tân là lá chắn che cho tôi khỏi tù tội? Ai nói với tôi rằng Mười Tân là thần hộ mạng đưa tôi ra khỏi những cơn nguy biến của chế độ mới? Chủ nghĩa mà Mười tân theo đuổi, tranh đấu, đổ máu để mà xây dựng, chắc chắn Mười Tân sẽ không bao giờ để yên cho ai làm hư nó, chống lại nó. Mười Tân lên án tôn giáo, Mười Tân đang tôn thờ một tôn giáo khác. Cứ cầu nguyện đi Phật Chúa có đem gạo đến không? Phải lao động thì mới có vinh quang. Nhưng Mười Tân cũng đưa ra một thứ giáo điều mới: kinh thánh Mac-Lênin. Chống lại một giáo điều bằng cách đưa ra một giáo điều khác, Mười Tân, Mười Tân có biết rằng ông đang đi trong vònhg tròn không?” (tr. 163). Cho đến hôm nay, những lời cảnh tỉnh đó của tác giả vẫn còn nguyên ý nghĩa thời sự của nó.
***
Như trên đã nói, xác định vị trí trần thuật của “nhân vật người kể chuyện” trên một mức độ nào đó có thể coi như là một sự phân thân giữa “thân phận xã hội” của nhân vật “tôi” và tác giả. Phân thân giỏi thì đánh được tâm lý “cả tin” của người đọc trong trò chơi chữ nghĩa. Nhưng khi đã vào cuộc rồi thì thì vai trò hoá thân vào nhân vật của chủ thể sáng tạo mới thực sự quyết định số phận thành bại của cuộc chơi. Những nhân vật phân thân của Nguyễn Huy Thiệp chẳng hạn trong Con Gái Thuỷ Thần, trong Thương Nhớ Đồng Quê, Những Bài Học Nông Thôn v.v… (đa số ở ngôi nhân vật người kể chuyện) là những tính cách chất phác và bao dung đến mức có vẻ dại khờ của con người nông thôn so với kinh nghiệm tâm lý của văn minh đô thị. Tuy nhiên, cái sâu sắc bất ngờ tạo nên đặc tính riêng của nhân vật người kể chuyện của Thiệp là đằng sau cái vẻ khờ dại thua thiệt đó là sự hoá thân thần tình của tác giả trong các hành động có ý nghĩa triết lý cao mang nội hàm văn hoá trội vượt ra khỏi tầm của nhân vật phân thân: Đó là sự “phản tỉnh” trong ông Diêu (nhân vật thợ săn), là hành động vứt bỏ cái cặp da kế toán xuống sông (Con gái thuỷ thần). Tâm trạng cô đơn của nhân vật “tôi” sau khi phát giác ra là không có thuỷ thần, không có thần tượng. Những nhận xét sắc sảo chứa trong võ bọc ngây ngô của những người nông thôn khi nói về văn minh đô thị trong các truyện ngắn khác. Đó đích thị là dấu ấn của chính tác giả nhằm nâng cao về tầm của triết lý trong nhân vật phân thân.
Trong Bụi Và Rác của Nguyễn-Xuân Hoàng cũng cho thấy điều đó. Sự hoá thân của tác giả chính là cái sắc sảo trong cách nhìn, cách lựa chọn các chi tiết trong quan sát, cách phân tích mổ xẻ người khác. Đó là sự nắm bắt thần thái của cái ác chẳng hạn đã có mầm ngay trong cái nhân danh đạo đức. Phát hiện ra cái nhà tù vô hình cũng đáng sợ không kém gì cái nhà tù hữu hình. Đó chính là vai trò hoá thân của tác giả trong hoạt động sáng tạo. Nói cách khác, cái mặt nạ “giả trang” lẩn thẩn của “người đi trên mây” không dấu nổi một thằng người khác, thằng người “ranh mãnh” trong cách quan sát như “moi cả ruột gan” của kẻ khác ra. Từ cuộc đối thoại tay tư trong cái võ bọc của quan hệ huyết thống giữa Mười Tân, Quỳnh, Tuấn và nhân vật xưng “tôi”, chân dung chính trị và nhân cách của các bên lần lượt được bầy ra rõ mồn một. Mười Tân có giọng điệu kẻ cả và thói quen quy chụp: “Tại sao xin nghỉ dạy?” “Em có biết là thái độ xin nghỉ việc của thằng Thăng trong tình hình củng cố và xây dựng chính quyền cách mạng là một thái độ mang ý nghĩa phản kháng chế độ hay không?” “Chẳng lẽ anh phải nói là chính các em cũng nên đi học tập cho thông suốt đường lối chánh sách của Nhà Nước.” (tr 49-51). Tuấn, hạng trí thức lưu manh, cơ hội đến không biết thẹn: “Chắc mày dạy cái môn triết lý bá láp này cũng hơn mười năm rồi phải không?” “Duy tâm! Duy tâm! Hỏng hết!” (với Thăng). Hừ! Buôn bán! Chế độ này không có chỗ cho bọn con buôn cân thừa bán thiếu đâu…” (với Quỳnh). Cách lăng xăng trong hành xử của Tuấn trước mặt Mười Tân vừa muốn tỏ “lập trường” cách mạng với “bề trên”, vừa nhằm loè, trộ “kẻ dưới” thật đáng khinh bỉ. Và cách trả đũa sắc lạnh của Quỳnh, chỉ một “mũi tên” mà nhằm hai đích: Hạ bệ nhân cách của Tuấn và vừa thách thức Mười Tân: “Chớ anh quên cái bọn con buôn cân thừa bán thiếu kia lâu nay nuôi anh ăn học nên người như thế này à?” “Buôn bán là tội lỗi à? Cả cái thế giới này đều là tội lỗi hết trơn hết trọi sao? Còn mấy người trong sạch sống với ai?” (tr 49-51). Những ví dụ tương tự như thế trong cách lột tả bộ mặt thật của những tên công an canh tù kiểu Sáu Phận, những tên công an quản lý hộ khẩu như tên Hoè, là nhưng mẫu người đã bị thú tính hoá vì những ham muốn vật chất tầm thường… là những trang viết thành công.
Tuy nhiên, cũng cần nói thêm rằng, ngay cả trong cái “ranh mãnh” thông minh của tác giả tôi vẫn thấy một khoảng trống thiếu vắng trong nhận thức về những con người thuộc “chiến tuyến bên kia” không thể bù đắp được nếu chỉ dừng lại ở cách quan sát từ bên ngoài. Vấn đề ở đây không chỉ là ở sự hạn chế tầm nhìn do chỗ đứng trần thuật của nhân vật người kể chuyện. Chỗ khác nhau căn bản giữa Nguyễn-Xuân Hoàng nói riêng và những cây bút thành danh miền Nam nói chung so với những cây bút “đằng ngoài” như Lê Lựu, Bảo Ninh, Nguyễn Huy Thiệp, v.v… theo tôi chủ yếu là mức độ dữ dội trong cách mổ xẻ cái mặt trái, cái bất toàn của con người. Một bên có cái đau đớn lột xác khi chợt nhận ra cái ác, cái tha hoá chẳng phải đâu xa lạ mà chính là những ngộ nhận đắng cay nhân danh ý thức hệ, nhân danh đạo đức mà chính mình đã một thời tôn thờ. Dù trả giá đớn đau, nhưng đây là một sự tự lột xác, sự tự soi sáng từ bên trong. Bên khác chỉ là phản xạ tự vệ của một bảng giá trị phù hợp với tiến bộ xã hội, nhưng lại đang bị một bảng giá trị lỗi thời khác nhân danh “Cách mạng” để cưỡng bức đồng hoá. Dù sắc sảo thì đây cũng chỉ là cách quan sát từ bên ngoài, từ kinh nghiệm gián tiếp của người “ngoài cuộc”. Nói một cách giản dị là cuộc sống, kinh nghiệm xã hội của các tác giả “đằng trong” dù sao cũng “lành” hơn, ít rắc rối hơn.
Hai mươi năm lẻ trôi đi, bình thản nhìn lại, đánh giá lại các sự kiện lịch sử càng vỡ ra cái tính chất phi lý, phi nhân của cuộc chiến tranh ý thức hệ. Những giá trị mới hôm nào ngỡ là vĩnh cửu thì hôm nay trở nên lỗi thời. Hướng tới, con đường vận động về phiá trước không ngừng của những giá trị nhân văn, văn hoá, nhà sáng tác nghệ thuật có cá tính, bằng trực giác của mình thường đưa ra được những chứng cớ đáng ngờ về tính tuyệt đối hợp lý của các bảng giá trị tinh thần đang thống trị thời đại mình. Giữa không khí trầm mặc uy nghiêm của văn chương cung đình trong thế kỷ Việt Nam, tiếng chửi ngang tàng: “Chem cha cái kiếp lấy chồng chung” của nữ thi sĩ họ Hồ mang ý nghĩa dự báo sự ra đời một bảng định giá khác của một thời đại khác. Tương tự như thế, ý nghĩa xét lại có trong “Nỗi buồn chiến tranh”, “Gió dại” (Bảo Ninh), “Thời xa vắng” (Lê Lựu), truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài v.v…(được đặt tên là văn học phản kháng) thực chất chỉ là một mắt xích trong cuộc đấu tranh liên tục giữa những giá trị nhân văn, văn hoá và những thế lực (dù nhân danh giá trị) đang tha hoá, đang thú tính hoá con người. Các mặt đối lập đó không phải là những lát cắt siêu hình mà có ngay trong mỗi con người. Cuộc chiến tranh ý thực hệ sớm muộn gì rồi cũng sẽ kết thúc, nhưng cuộc đấu tranh với các xu hướng tha hoá trong mỗi con người sẽ là đề tài vô tận của các thế hệ mai sau. Cách đặt vấn đề bi quan về tương lai văn học hải ngoại vì thế sẽ không có cơ sở thực tế nếu chỉ nhìn vào sự phai mầu dần dần của xung đột ý thức hệ. Và ngay cả trong cách nhìn về xung đột ý thức hệ, cách đánh giá quá khứ cũng sẽ thay đổi. Bên cạnh Nguyễn-Xuân Hoàng, Nguyễn Mộng Giác, Thế Uyên, Khánh Trường, Trần Vũ,… những tù nhân lương tâm như Phan Nhật Nam, Trần Doãn Nho… cũng sẽ lần lượt chọn cho mình một điểm tựa nhân văn mới khi nhìn về quá khứ. Tương lai lạc quan hay bi quan của văn học không chỉ phụ thuộc vào tình thế, càng không phải phụ thuộc vào đề tài. Ngay cả khi giả định cái bất toàn của con người rồi sẽ được khắc phục đến mức lý tưởng thì rồi con người đến lượt nó lại phải đối mặt với cái phi lý vĩnh cửu của kiếp người trong cái vũ trụ vô chung vô thuỷ này.
NGUYỄN HỮU LÊ
Chứng Nhân và Người Tình Trần Lâm Thăng
Đọc xong Bụi Và Rác tôi thở phào, nhẹ nhõm.
Tôi không mất thì giờ, không mất tiền.
Bụi Và Rác rất hay.
Trọn một ngày Chủ nhật, tôi đọc gần như liên tục, không ngừng, từ đầu đến cuối.
Lâu lắm tôi mới đưọc đọc một cuốn truyện ưng ý như vậy. Cũng xin nói thêm là có vài cuốn truyện được tung hô rầm rộ hồi gần đây, tôi tò mò đọc, nhưng có khi bỏ dở vì thấy chán.
Cuộc biển dâu không nén vào lòng tác giả Bụi Và Rác đắng cay và thù hận, mặc dù ở dưới chế độ mới, những người thầy dạy học thời cũ, những người “viết lách” và “trí thức lừng khừng” kiểu như ông chỉ là “rác và bụi”.
Trái tim Nguyễn-Xuân Hoàng có khá đủ can đảm để hứng chịu những khổ đau. Để nó không bị rũ liệt hay trở thành chai đá, mất niềm tin ở con người và cuộc sống. Qua các trang sách với bút pháp giản dị, trong sáng, thỉnh thoảng có chêm vài tiếng “chửi thề” rất có duyên (Mẹ, quê hương ai mà chả có một dòng sông…. Chẳng có công lao công láo cái con c… gì hết) tôi thấy chính đời mình, đời những người thân, đời bạn bè tôi, đời của rất nhiều, rất nhiều, người dân miền Nam, trước và sau ngày Saigon mất.
Văn Nguyễn-Xuân Hoàng không giả trá. Hay ít ra thì nó cũng đã cho người đọc cái cảm tưởng đó. Nó không thêu dệt, hoặc tô đậm. Nó không tìm sôi nổi để câu khách. Ông chỉ viết về những người sống gần ông, về những điều mắt thấy tai nghe. Như nhiều người đã nhận xét, cái lằn mức giữa chuyện và truyện, giữa tiểu thuyết và đời sống thật rất khó phân biệt trong các tác phẩm của nhà văn này. Đó là lối viết của ông, hay nếu ta muốn hoa mỹ, bóng bẩy hơn, thì đó là nghệ thuật Nguyễn-Xuân Hoàng. Nói cách khác, Trần Lâm Thăng, nhân vật chính, người kể chuyện và xưng “tôi”, đã có một cái nhìn rất khách quan về thời cuộc và bản thân. Một cái nhìn, tôi thiển nghĩ là rất nhân chứng, rất “người xa lạ” (xin mượn tạm chữ của Albert Camus, tuy trường hợp của “người đi trên mây” Nguyễn-Xuân Hoàng không hẳn thế), chỉ thấy sao nói vậy, không đặt điều, thêm bớt.
Bụi Và Rác trình bày nhiều khuôn mặt mới lạ, chưa từng thấy trong văn chương Việt Nam. Nhưng nó cũng không thiếu những nhân vật điển hình của quê hương mến yêu muôn thuở, của một đất nước ngàn đời với số phận quá hẩm hiu. Nói thế không có nghĩa là Bụi Và Rác kém cỏi trên bình diện sáng tạo. Mà ngược lại, bởi con người, dù ở thời điểm nào cũng vậy, cũng chỉ là một con người bằng xương bằng thịt (hy vọng “người máy” Arnold Schwarzenegger chỉ là … một ngoại lệ) với bấy nhiêu tình cảm mà thôi. Và cuộc đời. Cuộc đời muôn kiếp. Nó dám có thể mãi mãi là một tấn tuồng xưa cũ, với chừng ấy nhân vật trong những tình huống chẳng mấy đổi thay.
Ở đoạn cuối Bụi Và Rác, độc giả có một thích thú bất ngờ: sự xuất hiện đột ngột của một nàng tiên! Một nàng tiên trắng. Như trong bài ca Phạm Duy. Marguerite, một bông cúc trắng. Marguerite Chirac. Ma Chirac, một thiếu nữ Pháp bị ám ảnh vì cuộc chiến tranh Việt Nam. Cô thích nghe nhạc Trịnh Công Sơn. Và có lẽ nỗi ám ảnh trên đã khiến cô tò mò, muốn biết mùi da thịt của một gã đàn ông Việt Nam chăng?
Chẳng biết Trần Lâm Thăng – a, Trần Lâm Thăng, người đi trên mây vai đeo chiếc ba-lô trĩu nặng mớ tình đời! – đã làm gì trong cái đêm hôm ấy trên khách sạn Caravelle trong Saigon cũ nhỉ? Để nàng Giáng Tiên mắt xanh (hay mắt nâu?) kia, còn giữ mãi kỷ niệm xưa, kỷ niệm về một người trần thế, hay đúng hơn, về một người đàn ông Việt Nam tên Tran. Và đã tìm cách giúp anh ta, qua ngã toà Tổng Lãnh Sự Pháp, sớm được lên thiên đường – dĩ nhiên là thiên đường trắng! – lúc Saigon đã đổi chủ!
Tôi xếp sách lại, mĩm cười thích thú.
Nguyễn-Xuân Hoàng đã cho tôi một ngày Chủ nhật cuối thu tuyệt vời!
NGUYỄN ĐĂNG THƯỜNG
Bụi Và Rác của Nguyễn-Xuân Hoàng
Người Đi Trên Mây Trần Lâm Thăng trong Bụi Và Rác, cuốn truyện thứ nhì của bộ tiểu thuyết Người Đi Trên Mây, vẫn tiếp tục đi trên mây. Nhưng những đám mây ở dưới gót chân của Trần Lâm Thăng trong Bụi Và Rác màu đỏ lờm và có hình tượng búa liềm. Có cả những hình tượng súng ống, cùm kẹp, rút cục cũng chỉ là những búa và liềm biến dạng.
Đám mây màu đỏ hất thầy giáo Trần Lâm Thăng ra khỏi trường học, nơi anh dạy Triết, khi mà triết học dưới màu mây đó chỉ còn là “một môn học bá láp”. Mây đỏ đẩy “người đi trên mây” vào nhà giam ở vùng Phan Thiết, ném anh xuống đáy xà lim ở Kiên Giang.
Trần Lâm Thăng bị những đám mây màu đỏ xô đẩy đi từ phi lý này đến phi lý khác, sự phi lý nghẹn họng của các thầy cô trước những giáo án, giáo trình, những lớp học bị dòm ngó, phi lý cuộc đời của Tư Long, phi lý khi trở về nhà sau những năm tháng giam cầm vợ con đã biến đi mất, phi lý bị tống vào xà lim chỉ vì cao hơn những người tù khác một cái đầu.
Nhưng thật kỳ lạ, đứng trên những đám mây của quê hương tự do, thầy giáo Triết Trần Lâm Thăng quả thực đi trên mây, nhưng hôm nay, đi trên những đám mây màu đỏ hình tượng búa liềm, “người đi trên mây” Trần Lâm Thăng lại di chuyển bằng những bước thật vững vàng. Trần Lâm Thăng từ chối không dạy học cho một trường trung học đã bị biến thành một nhà giam, từ chối và thúc đẩy bà chị dâu không cho bọn công an cướp sống ngôi nhà, từ chối đứng về phía Mười Tân, một khuôn mặt rất Trần Bạch Đằng của Việt Nam sau bảy mươi lăm.
Đối chiếu “người đi trên mây” Trần Lâm Thăng với những người đi dưới đất, thực tế cùng mình của Việt Nam thời kỳ quốc nạn này, Thăng hiện ra như một con người can đảm, có tự hào và tự tin mà người đi trên mặt đất nhiều người không có được.
Hai trăm sáu mươi hai trang, Bụi Và Rác – do Thanh Vân xuất bản – là một tác phẩm rất lôi cuốn. Tốc độ của bút pháp phù hợp vừa khít với nội dung gồm sự kiện nhiều hơn hồi tưởng hay nội quan, động tác nhiều hơn tâm sự.
Tách rời ra khỏi toàn bộ Người Đi Trên Mây – vì chưa chấm dứt - Bụi Và Rác một mình nó là một cuốn tiểu thuyết có giá trị cao.
Nền tảng triết học khởi đầu của bộ sách vẫn được gìn giữ trong Bụi Và Rác, được phong phú hoá bằng đông đảo những sinh hoạt và sự việc cụ thể, có khi làm buồn, có khi làm khóc, có khi làm cười, thường thì làm đau, làm thành Nguyễn-Xuân Hoàng, một Nguyễn-Xuân Hoàng khác biệt với Võ Phiến, với Mai Thảo, với Tự Lực Văn Đoàn. Khác biệt với những nhà văn Nhà Nước Hà Nội. Khác biệt với cả Nguyễn-Xuân Hoàng của những ngày tháng trước. Nghĩa là làm cho Nguyễn-Xuân Hoàng thành một nhà văn có vóc dáng không phải chỉ trong dòng văn chương hải ngoại, mà còn trong văn chương Việt nam nữa.
Tháng Chín, 1992
Nguyên Sa
Nguyễn-Xuân Hoàng
Người còn Đi tuốt Trên Mây
Bỏ quên biển vắng gió đầy thuỳ dương
Kẻ Tà Đạo có lầm đường
Căn Nhà Ngói Đỏ Mù Sương trở về
NGUYÊN SA
Tháng Mười 1992
Kẻ Lạ Trong Cơn Lốc Thời Cuộc
Mốc thời gian sau năm 1975 trải dài từ Việt Nam quê nhà đến xứ người lưu lạc, từ trại tù phi nhân của cộng sản đến đảo tạm dung chờ đợi, tất cả đã trở thành một cái gì rất đặc thù của văn chương hải ngoại. Và người đọc hình như cảm nhận được một mẫu số chung nào đó trên những trang sách đã in.
Nhưng cảm giác kia đã tan biến trong chủ quan tôi khi đọc xong nhưng dòng chữ cuối cùng của cuốn Người Đi Trên Mây. Có một nếp sống và một nếp suy nghĩ rất khác với nếp sống và nếp suy nghĩ của tôi ở những dòng chữ kia. Người ta không thấy chiến tranh trong những trang sách, nhưng rõ ràng bên dưới những khuôn mặt thành phố kia là thuốc súng, là giầy trận, là thời cuộc, là âm mưu.
Nếu năm 1972, năm của cao độ cuộc chiến, chiến trận khốc liệt trải dài trên nhiều phần đất của một lãnh thổ - với An Lộc, Quảng Trị, Kontum đẫm máu – nơi xác người vùi thây lớp lớp, nơi thơ Lâm Hảo Dũng ghi khắc trên những đoạn đường “Chu Pao ai oán hờn trong gió, Mỗi một khăn tang một tấc đường”, nơi Phan Nhật Nam bừng bừng uất hận ra rứt thế cờ… thì cũng năm 1972 đó là thời gian của Người Đi Trên Mây, nơi có những góc phố Saigon với một khung trời nhỏ hẹp của những cơn đồng thiếp mộng du.
Nói theo tác giả, cuốn sách là “cuộc hành trình của một con người thụ động không biết thích nghi với cuộc sống, phó mình cho thời thế đẩy đưa và bị chính xã hội của y đẩy y xuống vực thẳm.” (trang bià sau của sách).
Với nền phông là những tiếng bom đạn, vọng về từ chiến trường, là những người thân của chính nhân vật “Tôi” đang mịt mù trong gió cát chiến tranh, nổi lên những khuôn mặt thành phố khắc khổ, chập chờn ở những đêm tối Saigon, Chợ Đủi, Ngã Bảy, Givral, Pagode… quấn mình theo cơn sốt thời sự.
Thành thật mà nói, thời gian và không gian trong Người Đi Trên Mây rất xa lạ với đời sống tôi. đời sống một người lính đóng ở đơn vị xa… Tuy vậy, những chi tiết về đời sống Saigon có một hấp dẫn rất đặc biệt đối với tôi, và lôi cuốn tôi.
Đọc và theo dõi từng chương, trong đầu tôi hiện ra những câu hỏi bất chợt. Nhân vật này là ai? Những ông Phan, ông Lý,… có thực ngoài đời không hay chẳng qua chỉ là những sản phẩm thuần tuý của trí tưởng tượng? Ký có phải là Tạ Ký? Nhật có phải là Phan Nhật Nam? Tò mò và dự đoán. Những nhân vật trong Người Đi Trên Mây đối với tôi đang là những câu đố trong tôi.
Có lúc tôi đã lầm lẫn giữa thực tại đời sống và thực tại tiểu thuyết. Tôi không thấy đâu là biên giới giữa hai thực tại kia.
Một bạn văn khi đọc xong cuốn sách đã nói với tôi rằng những chi tiết trong tác phẩm phản ảnh khá trung thực những mãnh đời sống của các nhân vật mà anh từng quen biết. Theo tôi đó là một nét đặc sắc và sống động của tác phẩm Người Đi Trên Mây. Và quả thực tôi đã chạy theo những trang sách trong một hành trình mê đắm.
Khi cánh cổng của ngôi biệt thự của ông Phan mở ra cho nhân vật “Tôi” tên Trần Lâm Thăng bước vào, cuốn truyện đồng thời cũng mở ra cho người đọc cái bối cảnh của một Saigon thời chiến.
Trong mười tám chương sách tiếp theo ta cũng thấy xuất hiện những nhân vật khác, mỗi người một khuôn mặt khác, với cá tính khác bằng những nét phác thảo nhưng điển hình đã tạo ra một không khí nhất quán.
Những rối rắm gia đình, cuộc dàn xếp đầy âm mưu trong vụ án ly dị đã là thắt nút của câu chuyện, từ đó mở ra những ý tưởng, những đời sống độc đáo. Cái bóng nhân vật nữ, người vợ trong tình trạng ly thân chờ ly dị, không xuất hiện, nhưng vẫn bao trùm suốt câu truyện. Tôi thích cái lối dựng nhân vật mờ mờ ảo ảo như thế. Cuộc tình bộ ba: “Tôi”, Uyên và Quỳnh xoay quanh một không khí của lớp người giàu có và quyền thế. Cuốn sách đã khép lại với cái hôn của “Tôi” và Quỳnh, và từ xa là một khuôn mặt đẫm nước mắt của Uyên ngóng về một chia tay đã là mãi mãi.
Những nhân vật phụ trong Người Đi Trên Mây cũng có những nét độc đáo, bóng dáng của họ đôi lúc đã làm chuyển động những tình tiết sống thực. Ông Phan, ông Lý, Ngô Văn Phước, mỗi người một vị trí riêng, một ý nghĩ riêng, nhưng vẫn là những biểu hiện của một phần ý tưởng cho thấy cái xã hội đang rạn vỡ, chờ giờ lụi tàn.
Những tình tiết trong câu chuyện có đời sống riêng và sống thực của nó. Sự gặp gỡ giữa “Tôi” và Quỳnh, giữa cậu bé Thăng và người lính già Lê Dương, hội ngộ bất ngờ giữa “Tôi” và Phước, chuyện đụng độ giữa Nhật và tay trùm anh chị Hồ Tam Kỳ… sẽ giữ lại rất lâu trong tâm trí người đọc.
Một điều rất đậm nét và gây nhiều ấn tượng cho người đọc là những câu đối thoại… Chuyên chở tư tuởng bằng đối thoại không phải là một công việc dễ dàng. Nếu phóng bút quá độ, đối thoại có thể sẽ trở thành những lời kịch nhạt nhẽo. Tôi thích những câu đối thoại ngắn và linh động của Nguyễn-Xuân Hoàng. Nó rất gần với đời sống. Nó sống. Và nó tạo thành nét đặc thù của tác giả và tác phẩm. Những câu đối thoại ấy còn hằn lại trong tôi khi gấp lại cuốn sách và nó hiện ra rất rõ ràng khi viết lại những dòng chữ này. Tôi tin vào nhận xét tôi.
Người Đi Trên Mây mới chỉ là cuốn đầu trong bộ ba của tác phẩm dài hơi trải qua nhiều không gian. Theo tác giả, cuốn sách khởi đầu ở Saigon, Việt Nam trước năm 1975 và sẽ chấm dứt vào thập niên sau 1985 tại một nơi nào đó trên đất Mỹ, vì vậy sẽ là một điều hết sức khó khăn khi đưa một cái nhìn về tác phẩm. Tuy vậy, với cuốn đầu của bộ ba này, người đọc có thể thấy nhân vật “Tôi” , kẻ bị coi là “tên tà đạo” , là “người đi trên mây” khi chọn một quyết định thuần tình cảm, là bằng lòng ở lại Việt Nam, từ chối một chuyến xuất ngoại vốn là niềm mong ước của khá nhiều người, đã là một thái độ rất con người, rất nhân bản, trong một xã hội đang bên bờ vực thẳm của sự băng hoại. Tôi có cảm giác Người Đi Trên Mây như bản tự phê của một ngòi bút chân thật viết về những kẻ đứng bên lề cuộc chiến.
Mười tám chương sách, tôi đã đọc một hơi với những ý nghĩ tuôn trào như thác đổ. Cái hồi kết thúc cuốn sách trở thành một một thứ hạnh phúc mong manh vừa tìm lại được.
“…Cánh cửa sắt đóng lại sau lưng tôi đã khép vĩnh viễn một con đường vào xứ Thục.
Ngoài trời, đêm Saigon mát lạnh. Những hạt mưa rất nhỏ đang bắt đầu rơi trên thành phố… Chúng tôi hôn nhau cái hôn nhoà nhạt nước mưa dưới một bầu trời thấp, ẩm đục, giữa một thành phố vắng vẻ và lạnh lẽo, trong tiếng còi hụ của đêm giới nghiêm sau cùng.”
Cuốn sách xếp lại cùng với cơn mưa Saigon. Mưa của thành phố tối tăm khuất lấp. Mưa của giọt lệ bâng khuâng, của những con đường chẳng biết sẽ về đâu. Trang sách đã đóng lại, nhưng mở ra trong tôi nhiều ý nghĩ. Văn chương có cái mê lực của nó. Nó là tấm gương soi nhìn lại chính mình. Cuộc hành trình tìm lại quá khứ đôi khi chính là một ngóng trông về tương lai.
Có mấy ai dám chắc là trong suốt cuộc đời mình chẳng bao giờ có lúc mộng du trên mây mù như nhân vật Thăng? “Người Đi Trên Mây” là hành trình hẩng hụt của một con người qua những dòng chữ rất sắc nét, bằng ngôn ngữ đẹp như những trang tùy bút với những ý tưởng nồng thắm như những vần lục bát ca dao.
Cuối tháng Sáu, 1987
NGUYỄN MẠNH TRINH
Nguyễn Xuân Hoàng, người thật, là một con người vui vẻ, ý tứ, kín đáo. Ít ra là trong lần duy nhất tôi gặp ông. Ngoài ra, tôi chỉ thỉnh thoảng giữ liên lạc với ông qua điện thư. Nhưng ông luôn là một người thân thiện, vui vẻ, và lịch sự. Chưa bao giờ ông chậm hồi âm. Chỉ trừ khi tôi gửi email đến địa chỉ đã rơi khỏi quỹ đạo sinh hoạt của ông.
Bẵng sáu năm mất liên lạc. Tôi vẫn giữ những tác phẩm của ông ký tặng. Ông tặng cho tôi những tác phẩm in của ông, như tất cả những tác giả muốn tìm cha mẹ nuôi cho những đứa con tinh thần của mình. Và tôi nuôi ba đứa con của ông thật kỹ. Chúng vẫn tinh tươi, nõn nà, như những quyển sách tặng khác, ngay cả trong những khi tôi phải chống chọi với ba đào.
Tôi có thử đến “Căn nhà ngói đỏ.” Lần đầu đi ngang, ngập ngừng chưa dám vào. Có vẻ ảm đạm quá. Tâm hồn trẻ con của tôi lưỡng lự. Thời khóa biểu của tôi quá đầy. Tôi không gõ cửa.
Vài năm sau, tôi trở lại. Tôi đã đi qua những miền đất cổ của Việt Nam cận đại, đã thu nhận chứng từ của người Việt tha hương cho các dự án nghiên cứu. Tôi đã lưu vong, không tự toại với sự dễ chịu của Little Saigon. Tôi đủ can đảm để đối diện với cái ảm đạm của “Căn nhà ngói đỏ,” mà trong đó, NXH-nhà-văn ẩn hiện như một bóng ma: khi thì là người kể chuyện, khi thì là kẻ chứng kiến, lúc thì là triết nhân rách óc để thấu đời, và cũng là một sử gia, ghi lại cái manh mún của người và đất Việt giữa bể dầu sôi lịch sử.
NXH-nhà-văn viết từ tiềm thức, một tiềm thức khá cô đơn ‘và buồn thảm’ (cái chữ buồn thảm này, ông đã bao nhiêu lần lạm dụng nó?). Có phải NXH đã cố tình chọn cho mình cái tâm thức cô đơn, để làm một người viết đúng nghĩa? Vì để viết, thì người cầm bút cần một khoảng trống tâm linh và tâm thức. Để cho chữ thở. Để được một mình.
Tôi chưa bao giờ đọc các tiểu thuyết ghê rợn của Stephen King, vì tôi không quan tâm đến thể loại này, nhưng tôi đã tham khảo quyển “On Writing” và đồng ý với ông về điều tiên quyết của quá trình viết. Đóng cửa để viết.
NXH-nhà-văn đóng cửa, dựng cô đơn, tránh tiếng động của nhân gian. Ông viết.
Ông viết. Từ đổ nát của đời sống xung quanh. Từ thất vọng với cuộc đời, với thế sự, với ngòi nổ của chết chóc. Ông viết, với cái chân thành của trẻ thơ, và cái xót xa của người lớn. Cái nhãn quan lưỡng mạch ấy cho ông giàu có trong nhận xét và vô hạn trong cảm xúc.
Tôi tự hỏi, có phải khi viết về cái đổ nát, thì chính ông tìm được sự thanh thản nào đó? Viết về hy vọng, là tìm được cho mình niềm hy vọng trên trang sách. Viết về tình yêu (mà ông gọi là ‘một xa xí phẩm’ giữa thời chiến), là nắm lấy tình yêu vốn đang bị “con yêu quái ăn thịt người” mang tên Chiến Tranh thắt cổ?
Ông viết. Viết từ những gót chân của quá khứ, xiêu vẹo trong chiến tranh, rổn rảng mùi cay đắng. Văn của ông có thể là người ở chỗ ông đặt mình vào hoàn cảnh, tâm trạng của nhiều người khác. Người = bản thân ông. Người = tha nhân. Ông dám đi vào những “Căn nhà ngói đỏ” không quen, và ở lỳ trong đó, cho dù có những bóng ma hay yêu quái đang làm ông kinh động.
“Tự Truyện” chẳng hạn, bắt người đọc phải giật mình. Bất cứ người đọc nào. Vì ông thiết kế bao tấm gương soi mà trong đó, bất cứ ai cũng có thể tìm thấy một mảnh đời mình. Những bức tranh tả thực não nuột. Những ảnh soi rợn người. Những ảo ảnh mập mờ giữa mong và mất.
“Giáng Sinh, hãy chờ” là một vũ điệu héo hắt của hy vọng đi vào bể tuyệt vọng, đắm đuối trong một tình yêu tức tưởi, một quyết liệt gãy cánh. Thời gian có thể giết người ta bằng cái mòn mỏi và vô vọng. “hãy chờ.” Đến bao giờ? Chờ cho đến khi hy vọng và tình yêu đều đã trầm mình giữa rừng cao su đô hộ?
Còn “Barbara,” ôi, cái lãng đãng buông chùng của điệu thơ, cái chới với hốt hoảng của đất sập người tan. Người ta yêu nhau khi có thể, và ‘hẹn hò’ nhau trong tâm thức khi thế cuộc bắt phải biệt tin. Náo nức tìm, chỉ để hụt hẫng. Hớn hở mong, chỉ được di thư. Cán nát cái nhớ mong, thì chỉ còn một lời “xin mãi mãi chia tay…”
Là một triết nhân, NXH-nhà-văn luôn xây mỗi căn-nhà-truyện của ông với bao giai tầng suy nghĩ, lợp mái ngói đỏ nhưng lại phả sương mù và ném lựu đạn lên nó, để ở cuối nhiều câu truyện, căn-nhà-truyện của ông cũng tan thành mây khói. Có phải đây chính là hệ quả trực tiếp, tàn khốc, mãnh liệt nhất của chiến tranh lên tâm-hồn-nhà-văn-triết-nhân?
Tôi sinh sau chiến tranh, nhưng luôn sống giữa chiến tranh, không chỉ chiến tranh như một ký ức, mà chiến tranh như một thực thể, đã thoát thai từ bom đạn, giờ đang hiện diện trên thân thể, tâm khảm, tư tưởng của những người đã sống trong binh lửa. Tôi không thể tách rời tôi với họ, vì họ là quá khứ và hiện tại của tôi. Họ là tiềm thức của tôi. Là kiếp trước của tôi.
NXH-nhà-văn đã bắt tôi sống với chiến tranh trong “Căn nhà ngói đỏ,” xô tôi vào tuyệt vọng của cái sống đang cố bấu víu vào vạt đất sạt trên vực thẳm chết chóc, phá sập cái bức tường hôm-qua và buộc tôi chứng kiến cái kinh hoàng mà dân tộc tôi đã chịu trong suốt bao năm.
Đi vào “Căn nhà ngói đỏ” là đi vào một Việt Nam đầy binh đao, ly tán, ngậm ngùi, hấp hối. Ở lại “Căn nhà ngói đỏ” là đối mặt với một quá khứ mà thế hệ hậu 1975 chưa từng đối diện khi ở quê nhà, và sẽ không đối diện nếu không có can đảm đi vào những “Căn nhà ngói đỏ” như căn mà NXH-kiến-trúc-sư đã xây (và biết rằng, thời gian và hoàn cảnh sẽ làm cho chúng tàn sập).
Nhưng trong cái bế tắc ấy, NXH-nhà-văn lại được chính NXH-triết-nhân giải thoát. Ông dám nhìn vào hiện thực của chiến tranh, nhưng cũng dám nhìn tới miền nắng lành đất ấm ở bên kia chân trời, nơi mà bom đạn không bay tới được. Một con tằm trong kén mơ. Ông không đánh mất cái di sản quý nhất của một người làm công việc sáng tạo: viễn ảnh.
Ông đóng cửa để viết. Và tuy NXH-nhà-văn đóng cửa, cánh cửa ấy lại chính là thông lộ giữa trái tim nhạy cảm của ông và vạn cảnh đời thật. Cho nên, ông cô đơn vì ông nhuốm cái cô đơn của kiếp người đang hiển lộng trong muôn trùng cuộc đời quanh ông. Ông tránh tiếng động của nhân gian, nhưng lại nghe rất rõ tiếng gào thét từ trong mỗi nhân linh đang cố bay ngược con-gió-chiến-tranh, dấn bước giữa bão-tố-chết-chóc.
NXH đi nhiều, viết về nhiều nơi như viết về chính một phần cơ thể của ông. Ông có lối diễn tả dầy đặc, dính chặt như kẹo kéo, sánh như nhựa đường. Ông trãi những lối đi lạ, vạch những đường mòn chưa có vết chân người. Ông là người cô độc. Nhà-văn-cô-độc. Trên những quang lộ cô độc của riêng ông. Cho đến khi người đọc ghé “Căn nhà ngói đỏ,” thì sự cô độc của ông bị phá vỡ. Ông đã tìm được người chịu lắng nghe những lời tâm sự ngút lòng của ông. Giọng văn của ông luôn là một lời tâm sự. Một lời tâm sự khẩn thiết.
Trangđài Glassey-Trầnguyễn
Nguồn: Tác giả gửi
Những Trang Văn Xuôi Lương Thiện Và Giản Dị Về Con Người
Lời bạt của Nguyễn Xuân Hoàng cho Tháng Ba Gãy Súng – ấn bản đầu tiên
LTG: Sau cuốn Tháng Ba Gẫy Súng ấn hành năm 1986, mùa hè năm nay Cao Xuân Huy vừa cho ra mắt tác phẩm thứ hai: cuốn Vài Mẫu Chuyện. Trước đó Huy đã gửi cho tôi pdf cuốn sách mới của anh và mấy tuần sau, trong ngày Đại Hội Thuỷ Quân Lục Chiến tổ chức tại San Jose, Huy đã mang theo bản in giấy cho tôi. Chúng tôi gặp lại nhau cùng với Trần Như Hùng, một bạn thân của Huy thời Thuỷ Quân Lục Chiến từ Úc qua cùng tham dự đại hội với Huy. Trong bữa gặp riêng, tôi gọi rượu nhưng Huy không uống, chỉ có Hùng, tôi và một bạn khác của Huy cạn ly thôi. Huy nói bác sĩ cấm anh uống rượu từ lâu rồi. Và Huy cho biết anh không còn khoẻ như xưa. Tuy vậy, tôi thấy Huy vẫn bình tĩnh, cười nói, như không có gì xảy ra cho anh. Cao Xuân Huy vốn là người can đảm và nhìn đời bằng một cái nhìn lạc quan – ít ra lạc quan và bình tĩnh hơn tôi nhiều. Tôi nói với Huy trong tập sách mới này tôi muốn viết về truyện Hành Phương Nam của anh. “Tại sao Hành Phương Nam mà không là truyện nào khác?” Tôi nói với Huy: “Chờ đó, rồi tôi sẽ cho cậu biết tại sao tôi thích truyện này.” Nhưng tôi chưa thực hiện lời hứa với Huy thì anh đã ra đi.
Xin gửi đến các bạn lời bạt tôi đã viết cho Tháng Ba Gẫy Súng, tác phẩm đầu tay của Cao Xuân Huy. Tôi muốn nói với Huy lời xin lỗi. Tôi vẫn còn nợ Huy một lời hứa.
Cuối tháng Giêng 85, cùng với một số đồng bào may mắn muộn màng khác ở đảo Bataan, chúng tôi có tên trong danh sách rời trại tỵ nạn Phi Luật Tân, lên đường đi định cư ở một thành phố miền đông bắc Hoa Kỳ, nơi tôi sẽ được gặp lại cô em út sau mười năm xa cách.
Cảnh vật mùa Đông ở Springfield đẹp mà buồn. Cây cối trụi lá trơ cành khẳng khiu in mờ nhạt trên một bầu trời xám xịt. Mặt đất phủ đầy tuyết trắng lạnh giá. Tuy vậy, tôi còn nhớ rõ trong lòng tôi tràn ngập một niềm hạnh phúc ấm áp. Giờ đây khi bước sang mùa Đông thứ hai, tôi nghiệm thêm một điều là không phải bao giờ tuyết cũng trắng sạch, cũng đẹp đẽ và cũng thú vị như cái cảm giác tôi đã có trong những ngày đầu. Dù sao, đó sẽ lại là một chuyện khác.
Tôi muốn nói, chính trong những tháng ngày thong thả tạm thời này, tôi có một niềm vui là được đọc những trang viết đầu tay của một tác giả mà tôi chưa hề quen biết: Tháng Ba Gãy Súng của Cao Xuân Huy.
Tháng Ba Gãy Súng. Hình như tên gọi của truyện kể là điều trước tiên lôi cuốn tôi. Tựa đề của một cuốn sách vốn đơn giản. Tháng Ba Gãy Súng là sự đơn giản quyến rũ. Tháng Ba là tháng thọ nạn của miền Trung, khi cơn lốc đỏ từ miền Bắc lao xuống địa đầu của chúng ta. Phải một thời gian sau nữa nó mới đổ ập tới Sài Gòn yêu dấu cái Tháng Tư Đen hãi hùng và thống khổ. Cao Xuân Huy đặt câu hỏi: Ai đã bẻ gãy súng của quân đội ta, những người lính dũng cảm, có thừa mưu trí và kinh nghiệm chiến trường? Ai đã làm cho người lính chúng ta bó tay, khi súng còn đó mà đạn đã hết ở trong nòng?
Tác giả cho thấy bên dưới những người và việc là sự mất niềm tin của người lính trận trước một số cấp chỉ huy, những đàn anh “khả kính” đã dứt bỏ hàng ngũ trong cơn quẫn bách để chạy lấy thân, còn thì sống chết mặc bay!
Tháng Ba Gãy Súng vẽ lại cơn hồng thủy của một cuộc chiến không thương tiếc, phủ chụp và vùi dập số phận của cả một dân tộc. Trên bờ cát lạnh lẽo của biến cố, người ta nghe thấy tiếng động của những vòng xích sắt nghiến lạo xạo trên sọ người.
Đó là cuốn sách chứa rất ít nụ cười nhưng rất nhiều máu và nước mắt; niềm vui thì khô cằn mà đau thương và bất hạnh thì màu mỡ phì nhiêu; tàn bạo và căm hờn là bình thường nhưng dịu dàng và thuận thảo là điều xa lạ.
Chữ nghĩa trong Tháng Ba Gãy Súng giản dị, tự nhiên và trong sáng. Nhưng người đọc biết rõ một cách mười mươi rằng để có được những dòng chữ “tưởng chừng như dễ dàng” đó, Cao Xuân Huy đã phải trả một giá khá đắt: sự thách đố của anh với tử thần trong những đường tơ kẽ tóc để đổi lấy phẩm giá làm người. Có thể nói Tháng Ba Gãy Súng đã được viết bằng một trái tim nóng bỏng trước khi được gọt dũa và trau chuốt bằng một bút pháp nghề nghiệp. Nhưng điều này không hề làm hạn chế sức sống của tác phẩm.
Những ai ham đọc sách đều biết rằng các nhà văn lừng danh trên thế giới như Flaubert, Hemingway, Dickens, Tolstoi… đều đã viết bằng một thứ ngôn từ tự nhiên và giản dị.
Trong một lần gặp gỡ tác giả, tôi hỏi anh tại sao lại xếp Tháng Ba Gãy Súng vào thể loại Hồi Ký mà không là Truyện Kể hay Truyện Ký, Cao Xuân Huy trả lời “Bởi vì tôi đã không lồng vào đấy bất cứ một hư cấu nhỏ nào. Tôi viết lại hoàn toàn sự thật những điều mắt thấy tai nghe. Chỉ tiếc một điều là tôi đã không đủ khả năng để viết được tất cả những gì tôi cần phải viết.”
Thật vậy, văn chương vốn cần hư cấu, nhưng hiện thực tự nó cũng thừa sự lớn lao và sâu sắc mà một trí tưởng tượng khiêm tốn đôi khi còn nghèo nàn và nông cạn hơn. Nói cách khác, hư cấu trong một tác phẩm tuy cần thiết, nhưng hiện thực bao giờ cũng là nền tảng để từ đó hư cấu có thể thành hình và đứng vững.
Chính cái hiện thực này đã khiến cho ngòi bút của Cao Xuân Huy có được cái sắc sảo đặc biệt, đồng thời cũng làm cho Tháng Ba Gãy Súng giữ được cái vẻ tươi mát nóng bỏng mà mọi thứ hư cấu rắc rối không sao đạt được. Và nghệ thuật của Cao Xuân Huy nằm ở chỗ làm cho tác phẩm của anh có được sức thuyết phục mạnh mẽ hơn cái nó vốn có trong thực tế.
Thích nhất là những mẩu đối thoại trong Tháng Ba Gãy Súng. Nó nguyên chất, nhưng không dư thừa và tầm thường. Nó chưa bị chảy qua cái máy lọc “văn chương triết lý” nào. Nó sống và chát. Và rất gần với chúng ta. Trả lời câu hỏi động cơ nào khiến anh viết Tháng Ba Gãy Súng, Cao Xuân Huy nói “Không ai là không quay lại nhìn chỗ mình vừa ngã, và cũng không ai là không quay lại nhìn đống phân mình vừa thải. Ngã là lỗi của chính mình và phân có thối cũng là phân của mình. Vậy mà tại sao cả chục năm nay vẫn không thấy ai dám quay lại nhìn cái lỗi đã làm cho mình ngã ngay trên đống phân của mình, ngoài những lời chửi bới và đổ lỗi cho người khác.”
Tất nhiên câu nói của anh còn có chỗ phải bàn thảo lại, suy nghĩ thêm, nhưng ở đây trong khung cảnh đặc biệt của Tháng Ba Gãy Súng, câu nói đó có cách lý giải riêng của nó. Trước khi cầm bút viết lại những ngày tháng của lịch sử một trận chiến mà mình là một chứng nhân, Cao Xuân Huy đã là một sĩ quan chiến đấu thuộc một binh chủng lừng danh chiến trường mà mọi người chúng ta đều nghe tiếng: Thủy Quân Lục Chiến.
Chiến trường, sống và viết, Cao Xuân Huy có đủ những yếu tố đó để viết những trang văn xuôi nóng bỏng của mình. Cao Xuân Huy nói: “Đất nước ta đâu phải là một bàn cờ mà hễ đánh thua ván này thì xóa đi xếp quân làm lại bàn khác, mà tướng vẫn là tướng, quân vẫn là quân, đâu phải những con xe, con mã, con chốt đã chết đều có thể dựng đầu dậy để làm lại một trận đấu mới!” Những suy nghĩ đó của anh không hề có ý định dừng lại ở chỗ chỉ là những điều viết ra để ngẫm nghĩ.
Khi trang cuối của Tháng Ba Gãy Súng được gấp lại, người đọc hình như vẫn cảm thấy còn một điều gì đó chưa xong chưa hết. Cái dấu chấm hết của mệnh đề sau cùng vẫn còn là một lời hứa hẹn sẽ mở ra một trang sách khác.
Dù sao những hình ảnh tàn nhẫn và khủng khiếp, những nỗi lo âu và hãi hùng vẫn còn đọng lại trong ta. Vẫn còn đọng lại trong ta những địa danh, địa hình, địa điểm quen thuộc của một vùng đất quê hương khô cằn, cả thời tiết của đất trời mà da thịt ta vốn từng chịu đựng, và nhất là vẫn còn đọng lại trong ta hình ảnh những con người – trong đó có chúng ta – với số phận hẩm hiu cô quạnh bị bủa vây trong cơn cuồng nộ của những biến cố bạo tàn… Tất cả những người và việc ấy chừng như mới xảy ra ngày hôm qua, vẫn còn luẩn quẩn đâu đây…
Với Tháng Ba Gãy Súng, Cao Xuân Huy đã viết được “những trang văn xuôi lương thiện và giản dị về con người”, điều mà Ernest Hemingway gọi là “trên đời này thật không có gì khó khăn hơn”.
Nguyễn-Xuân Hoàng
Santa Ana, tháng Tư 1986