- Tư Mã Vòng
- Những Esope Thời Đại
- Không Nơi Ẩn Nấp
- Người Dẫn Chỗ Ngồi
- Ngã Ở Rạch Sỏi
1.
Trạm công an buổi sáng vắng. Người công an chấp pháp còn khá trẻ, nhưng hút thuốc dữ, chưa hết điếu này đã châm ngay điếu khác. Y ngồi kiểu nước lụt, hai chân bỏ cả trên ghế, hai đầu gối sát nách, đầu chồm về phía trước.
“Không có gì qua mắt được chúng tôi đâu. Anh có quen biết Tư Mã Vòng không?” Y hỏi một câu bất ngờ.
Tư Mã Vòng là ai? Tôi chưa nghe bao giờ. Gần mười lăm năm trời xa Nha Trang, tôi chỉ về nhà có đôi ba lần. Mỗi lần về là để đưa tiễn người thân ra đi vĩnh viễn. Thành phố này chỉ còn trong trí nhớ tôi như một kỷ niệm. Nó là tuổi thơ tôi. Biển xanh. Rừng dương xanh. Những bụi cây dọc ven đường từ nhà bưu điện xuống Cầu Đá cũng xanh. Bầu trời xanh. Thành phố này chứa trong tôi cái thời xanh xao vàng vọt của một đứa bé bị hất hủi. Tôi muốn quên nó đi. Tư Mã Vòng? Không, tôi không thể nào nhớ ra một cái tên kỳ lạ như vậy.
“Tôi không biết ai là Tư Mã Vòng.”
“Nhưng mà Tư Mã Vòng biết anh thì sao?
Mã Vòng. Nếu đi hướng từ Diên Khánh xuống, Mã Vòng là đầu con đường vào thành phố. Tôi nhớ ngôi nhà lợp mái dừa của cô tôi nằm trên một con đường hẹp gần chùa. Nơi tôi đã sống với cô tôi, một người đàn bà đã luống tuổi, ăn mặc nâu sồng, sống khắc khổ, không bao giờ đụng đến chất tanh. Bữa cơm của cô chỉ có rau, rau và rau. Có lần tôi ngồi nhìn cô ăn, trước mặt là hai con thằn lằn bò quanh những hột cơm cô rải xuống. Thỉnh thoảng tôi nghe tiếng cô nói như thể đang trò chuyện với một người nào đó nhưng tôi không nhìn thấy ai. Ngoài hai con thằn lằn. Những hột cơm rải trên mặt bàn. Một tô rau luộc. Một hũ chao. Hai con thằn lằn. Đó là tất cả cuộc đời cô tôi. Một lu nước mưa đằng sau nhà, dưới một cây khế ngọt. Cây chùm ruột sai quả phía trước sân. Hàng rào là những bụi dâm bụt. Những chùm hoa tỉ muội trắng và nhỏ như chiếc bông tai của các cô gái quê, hương thơm ngào ngạt. Sau lưng nhà cô tôi là một ngọn đồi, trên cao là Tháp nước của thành phố. Con đường leo lên Tháp đi lòng vòng theo trôn ốc. Một vài ngôi mộ, có lẽ của người Chàm, dọc theo đường đi với những lùm cây dại. Đó là Mã Vòng thời tuổi nhỏ của tôi. Thơ mộng. Tôi nghĩ như vậy. Đó là thời kỳ tôi học hành dong chơi Cao, Lưu, Lân, Trung, Goering, Odette Bouquet, Marthe Thúy, Bích, Bạch Mai… Nhưng mà Tư Mã Vòng là ai? Tôi không biết.
“Chúng tôi vừa bắt được một tổ chức vượt biên. Tư Mã Vòng khai có tên anh và gia đình sẽ đi trong chuyến này.”
Người công an cúi xuống tờ giấy màu vàng xỉn mỏng đọc những hàng chữ nhỏ li ti. Tôi có cảm tưởng như y đang xem tờ cẩm nang vẽ cách bức bách tôi như thế nào cho có hiệu quả. Một lúc, y ngửng mặt lên:
“Anh nên khai báo thành thật, chuyến vượt biên này, gia đình anh đóng cho Tư Mã Vòng mấy lượng?”
“Không. Tôi không biết Tư Mã Vòng là ai cả. Tôi về đây là để dự tang lễ anh tôi.”
“Ông Thăng. Ông tưởng ông ngoan cố, chúng tôi không làm gì ông được hay sao?”
Y bỗng đổi cách ngồi, thả một chân xuống ghế, mặt chồm về phía tôi, và gọi tôi bằng ông. Hơi thở y nồng nặc mùi thuốc lá nặng.
“Cái thẻ công nhân viên của ông là thẻ giả. Chúng tôi đã hội ý với nhau tối hôm qua. Đồng chí bên Ban Kiểm Tra với trưởng công an quận và đồng chí Hòe đều nhất trí thẻ công nhân viên của ông là thẻ do bọn phản động ngụy tạo nhằm phá rối cách mạng. Ông Thăng, nếu ông nhất định không khai báo số vàng mang theo, chúng tôi được lệnh trên bắt ông.”
“Bắt tôi?” Tôi ngạc nhiên. “Tôi phạm tội gì?”
“Ông thật tình không biết tội gì à? Di chuyển ra thành phố miền biển mà không có giấy phép đi đường. Cư trú bất hợp pháp vì không khai báo công an khu vực. Xài thẻ giả do bọn phản động cấp! Tổ chức cho người khác vượt biên để lấy vàng và bản thân có ý đồ sẽ vượt biên. Sao? Từng đó đủ tội chưa? Ông có muốn tôi kể thêm vài thứ nữa không? Mà ông có biết vượt biên là phản quốc không?”
Tôi giận run lên. Hai tay tôi bấu chặt mép ghế. Lúc đầu y nói tôi có ý đồ vượt biên, bây giờ y gán thêm cho tôi cái tội tổ chức vượt biên. Y trói tôi bằng một sợi dây xích buộc tội mà y đang nắm. Không có giấy đi đường? Đúng quá chớ còn gì nữa. Thành phố này là nơi có nhiều người tìm đường vượt biên. Nhưng mà ý đồ vượt biên? Cả gia đình tôi, bạn bè tôi, ai mà chẳng có. Tôi nhìn ngó xung quanh. Đồn công an phường này là một ngôi nhà khá rộng nằm ở góc ngã tư đường, có lẽ đây là biệt thự của một người di tản trước ngày quân cộng sản lấn tới vào tháng Ba Bảy Lăm. Chỗ tôi ngồi là phòng khách. Hai bên là phòng ngủ. Một dãy ghế sắt xếp được đặt dọc sát tường, đã có khách ngồi chờ. Tôi thấy trên tay người nào cũng cầm một tờ giấy. Thỉnh thoảng cánh cửa phòng bên mở, một người bước ra với khuôn mặt buồn thảm, đầu cúi thấp. Một tiếng gọi tên người từ bên trong vọng ra. Một người bên ngoài nhổm dậy, hấp tấp đi vào. Tôi ngó người công an áo vàng. Y ngó tôi. Sau cùng y đứng dậy ra lệnh:
“Đi theo tôi!”
Y bước lên cầu thang. Mặt gỗ xỉn đen. Tay vịn nhớp nhúa. Y đưa tôi vào một căn phòng nhỏ trống trơn. Không bàn ghế giường tủ. Cửa sổ lá sách có khóa. Ngọn đèn bóng giữa trần nhà chiếu ánh sáng vàng vọt xuống mặt sàn một vòng tròn. Y đưa cho tôi một tờ giấy mỏng vàng xỉn và một cây bút bic đã nhòe mực ở đầu viên bi.
“Viết lời khai báo vào tờ này. Cần giấy thêm cứ gõ cửa tôi đưa thêm. Nếu thành thật sẽ được trên xét khoan hồng.”
Và y bỏ đi. Cánh cửa sau lưng khép lại. Tôi nghe tiếng tra chìa vào ổ khóa. Tiếng kêu lách cách của một vòng quay. Tôi đứng ngay giữa phòng, cầm trên tay một cây bút và một tờ giấy. Tất cả đều vàng ám. Như màu tường. Như những tháng ngày tôi đang sống.
Tôi ngó lên trần nhà. Tôi đặt tờ giấy và cây bút xuống sàn. Tôi thọc hai tay vào túi quần. Tôi nhìn xuống đôi dép dưới chân. Tôi không hiểu mình sẽ phải làm gì. Tôi không hề chờ đợi chuyện sẽ xảy ra sáng hôm nay. Tôi không tìm ra lý lẽ để cắt nghĩa những diễn biến mà tôi đang phải đương đầu. Tôi khai gì? Tôi có gì mà khai? Những ngọn đèn bạch lạp còn cháy trên bàn thờ người anh tôi. Tiếng đọc kinh của nhà sư còn vang đọng trong trái tim tôi. Tiếng khóc của bà chị dâu tôi và các cháu gái tôi còn thổn thức trong lồng ngực tôi. Những giọt nước mắt của Quỳnh khi thấy bọn ruồi nhặng hoạch họe xông vào nhà đang có tang chay. Tôi thấy tôi hèn nhát. Nếu tôi là người nằm trong mồ, và anh Thúc tôi là người đứng đây, tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra? Ừ, chuyện gì sẽ xảy ra? Tôi chưa biết, nhưng tôi tin là nó sẽ không xảy ra giống cái cảnh tượng mà tôi đang chịu đựng. Có thể anh đập vào mặt tên công an, Có thể anh sẽ tung cửa nhảy xuống lầu. Có thể… có thể…Nhưng anh đã chết. Cha tôi đã chết. Mẹ tôi đã chết. Tôi có cần sống không?
Tôi đi dọc đi ngang, đếm từng viên gạch dưới chân. Tôi đi qua đi lại, đếm tiếng động trong đầu. Tôi cộng trừ nhân chia những ý nghĩ. Cả nhà có biết là tôi đang bị giam trong trạm công an khu vực này không? Tôi không biết Quỳnh đang làm gì khi tôi bỗng nhiên biệt tích. Tôi thấy vô số hình ảnh đang chiếu trên tấm màn trí tưởng tôi. Tuấn luật sư, nhà cách mạng Ba Mươi Tháng Tư, thầy giáo Nguyên “nằm vùng”, Hiên hiệu trưởng của chế độ mới, cô nữ sinh Nhị Hà từ Bắc vào… Tôi thấy Kiệt, người học sinh xuất sắc nhất lớp, hai con mắt đỏ hoe báo tin cha cậu đã tự tử, Tâm “khô khốc thiền sư” ngồi uống ly cà phê với tôi ở lề đường Nguyễn Du, nói về chuyện vợ con đã mất tích trên biển nhưng phải viết một bản “thu hoạch” chính trị phản tỉnh về những gì mình đã cầm bút trước đây. Tôi nghe lại tiếng nói của ông Mười Tân lạnh và bén. Rất tiếc! Rất tiếc! Như một lưỡi dao treo lơ lửng trên đầu tôi. Nòng súng của tên công an áo vàng dí vào đầu tôi vì tôi đeo kính đen khi nói chuyện với hắn. Cả một thời phong kiến trước đây trong các tác phẩm của Ngô Tất Tố, Bùi Hiển, Nam Cao… bây giờ đang sống lại một cách rực rỡ như chưa từng thấy. Đời sống mới mẻ minh họa cho những trang tiểu thuyết của xã hội trước năm Bốn Mươi Lăm. Cai tổng, Lý trưởng, ông Cò, thầy đội… tái sinh trong những bộ quần áo mới, ngôn ngữ mới.
Tôi ngồi bệt xuống sàn gạch bông, thứ gạch bông đã từ lâu không được lau chùi đang rít nháp xỉn đen cáu bẩn. Tôi thấy thèm một điếu thuốc. Tôi nghe thoảng mùi cà phê. Tôi đứng dậy bước đến cửa cầm tay nắm vặn thử. Cửa đã khóa trái. Tôi đi về phía cửa sổ. Cửa lá sách có chấn song đã khóa. Tôi ngó xuống phía dưới mặt đường. Bất ngờ tôi thấy Quỳnh đứng bên cạnh chị dâu tôi và cháu Thùy. Cả ba người đàn bà đang chụm đầu vào nhau. Tôi muốn kêu to lên cho Quỳnh biết là tôi đang ở đây, Tôi muốn đập bể cánh cửa sổ nhảy xuống phía dưới kia. Tôi có thể làm được không? “Không được! Không được! Phải bình tĩnh! Phải rất bình tĩnh!” Tôi tự nói với mình như vậy.
Tôi bước lại giữa phòng, cúi xuống lấy tờ giấy và cây bút trên sàn. Tôi nguệch ngoạc mấy chữ:
“Q. Anh đang ở ngay trong căn phòng trên lầu này.”
“T.”
Tôi xếp tờ giấy làm tư, đến bên cửa sổ, nhìn xuống. Cả ba người đàn bà vẫn còn đứng đó. Ba cái đầu không còn chụm vào nhau. Cả ba khuôn mặt đều nhìn về một phía cánh cửa chính của đồn công an khu vực. Tôi đẩy tờ giấy qua kẽ lá sách. Tờ giấy mỏng chao lượn trong không làm trái tim tôi cũng chao lượn theo. Rất chậm, nó đáp xuống gần chân của bà chị dâu tôi. Không ai nhìn thấy tờ giấy tôi vừa thả xuống. Một đỗi lâu, Quỳnh sửa thế, quả quyết bước thẳng. Bà chị dâu tôi và cháu Thùy theo sau. Tôi thấy chân chị tôi dẫm lên tờ giấy.
“Cả thế giới này đã bỏ quên tôi rồi!”
Bụi Và Rác – Chương Chín / Phần 1
2.
“Cả thế giới này đã bỏ quên tôi rồi!”
Tôi nghĩ trong đầu như vậy. Hai tay tôi nắm chặt. Tôi muốn đập nát cánh cửa này. Tôi đi qua đi lại. Tôi ngó lên trần nhà. Tôi ngồi bệt xuống sàn. Tôi thấy mình như một con thú. “Bình tĩnh! Bình tĩnh!” Tôi nhớ giáo sư Linh mục Alexis Cras ở Viện Đại học Đà Lạt. Ba năm trời học với Cha, tôi nghiệm ra một điều: môn Siêu hình học mà Cha dạy bọn tôi có thể đã trôi tuột như nước chảy qua cầu, nhưng cái dáng điệu khoan thai, trầm tĩnh, từ tốn của Cha, cái cách nhìn mọi vấn đề dưới con mắt không chút thành kiến của một tấm lòng bác ái như Cha Cras, vẫn còn đọng lại trong trí nhớ tôi. Tôi tưởng những gì Cha nói đã tan biến trong tôi, nhưng hôm nay, nó như cây kim chọc thủng trí nhớ mưng mủ của tôi, làm vọt ra những điều không thuộc về tôi. Cha Cras, dòng Đa Minh, áo chùng trắng, tóc trắng thưa, nụ cười hiền. “Ông Cố đạo”, cha hay tự gọi mình như vậy, giảng triết học hiện sinh, nói chuyện Hồn Bướm Mơ Tiên của Khái Hưng, đọc Truyện Kiều Nguyễn Du giọng Tây, bình thơ Đỗ Phủ, kể chuyện Esope theo một tác phẩm Con cáo và chùm nho của một kịch tác gia Nam Mỹ. Esope trong vở kịch là một người nô lệ nhưng đồng thời cũng là một nhà ngụ ngôn. Cha nói ngụ ngôn không phải là một câu chuyện bịa đặt. Ngụ ngôn là chân lý. Mà chân lý là mục tiêu duy nhất chúng ta sống vì nó, chết cũng vì nó. Đó là một bài giảng của Cha về nô lệ và tự do. Trong vở kịch, người “nô lệ” Esope bị buộc tội vì đã giấu cái chén vàng trong bọc của mình. Theo luật pháp Hy Lạp, nếu kẻ phạm tội là người tự do thì sẽ bị đưa lên núi cao đẩy xuống nơi vực thẳm sâu nhất. Nhưng nếu kẻ phạm tội là người nô lệ thì người chủ sẽ cân nhắc tội phạm mà trừng phạt. Người chủ của Esope muốn cứu tính mạng của ông, muốn xác nhận “giả vờ” ông là người “nô lệ”, để dễ tha tội cho ông. Nhưng, Esope nói, “Đối với tình yêu và đời sống ta còn trẻ quá, còn xanh non quá. Nhưng đối với tự do thì ta đã chín rồi. Vực thẳm mà các ông đã chọn sẵn cho người tự do ở đâu? Ở đâu? Ở đâu?” Người ta thường chỉ nhớ Esope với chuyện ngụ ngôn cái lưỡi là món ngon nhất cũng là món dở nhất. Người ta cũng thường nhớ Esope với chuyện Con Cáo thấy Chùm Nho trên dàn cao, muốn hái nhưng không với tới bèn nói “Nho hãy còn xanh”, nhưng ít ai nghe nói Esope và tự do.
Một mình giữa bốn bức tường. Cái mụt nhọt của lãng quên đã bị phá. Trí nhớ đã được phục hồi. Nhưng tôi không đủ trầm tĩnh để cái đầu tôi có phút giây yên ổn. Như một trận động đất lớn cả một đất nước sụp xuống, sụm xuống, lún xuống, chìm xuống. Và ngôi nhà tôi ở cũng bị chôn vùi trong lòng đất. Cha mẹ tôi lần lượt qua đời. Các cháu tôi bị đưa vào trại cải tạo. Anh tôi vừa nằm xuống. Cả gia đình vừa đưa anh ra nghĩa địa về thì tôi bị giữ lại ở đây. Chúng tôi không ai nghĩ một điều gì khác hơn là con thuyền và biển cả. Làm mồi cho cá mập, làm nạn nhân cho bọn hải tặc Thái, làm người tù trong các nông trường… hoặc là đến bến bờ tự do! Trời ơi, tôi hiểu ra rồi, cả một đất nước chúng ta đầy những Esope. Thời cổ Hy Lạp có một Esope, còn thời đại của chúng ta biết bao nhiêu là Esope. Tự do hay là chết! Không phải người ta bỏ nước ra đi vì muốn làm một cuộc phiêu lưu. Người ta phải ra đi vì người ta không thể ở lại. Đi hay ở? Câu hỏi ấy là câu hỏi lớn nhất chiếm đầy đầu óc mọi người.
Cánh cửa bỗng bật mở. Người công an áo vàng đứng ở ngưỡng cửa.
“Ông Thăng. Có người nhà muốn gặp.” Y nói.
Tôi đứng dậy.
“Theo tôi!”
Y đi trước, bước từng bước xuống cầu thang.
Quỳnh, bà chị dâu tôi và Thùy đã ngồi sẵn quanh bàn làm việc của y.
“Ngồi xuống đây!” Y ra lệnh cho tôi.
Y ung dung châm một điếu thuốc, ngồi xuống chiếc ghế phía sau bàn. Y hết nhìn bà chị tôi, đến nhìn Quỳnh rồi nhìn tôi. Sau cùng y đẩy cây bút và tờ giấy trước mặt y về phía chị.
Chị Thúc nhìn tờ giấy và nhìn tên công an như thể mắt chị đang đo lường cái chiều dài của hai sự vật. Rồi chị nhìn tôi và nhìn Quỳnh, cái nhìn như hỏi phải làm sao bây giờ. Chị cầm cây bút lên, xoay qua xoay lại, xong đặt cây bút xuống.
“Như đã nói với chị…”. Tên công an có vẻ sốt ruột, “Tình trạng của anh Thăng đây hoàn toàn tùy thuộc vào một chữ ký của chị. Nếu chị không đồng ý giao trả căn nhà chị đang ở cho nhà nước quản lý thì trước sau gì nhà nước sẽ quản lý nhà chị thôi. Chị phải khẩn trương lên, tôi còn phải giải quyết biết bao nhiêu là công chuyện. Nếu chị ký sớm sẽ có hai điều lợi: Thứ nhất là anh Thăng đây sẽ được trở về ngay, nếu không chúng tôi buộc lòng phải giải anh lên quận để trên làm việc và giải quyết. Thứ hai là chị có thể được trên cấp cho một chỗ ở dưới Chợ Đầm, nếu không…” - y ngập ngừng – “trong tình hình nhà đất khan hiếm như hiện nay, mặc dù rất nhiều người phản quốc bỏ nước ra đi, vẫn không đủ nhà đất cung cấp cho cán bộ đang còn xếp hàng dài chờ đợi…”
Hai tay đặt trên mặt bàn, chị Thúc nhìn chăm vào tờ giấy. Tôi có cảm tưởng như chị không còn nghe thấy gì ngoài những dòng chữ trên tờ giấy đã viết sẵn kia đang ám ảnh đầu óc chị.
“Rồi mẹ con tôi phải sống làm sao đây?” Chị nói rất nhỏ.
Tôi nghiêng người qua vai chị Thúc. Tay tôi nắm tay chị.
“Chị không nên ký. Nhà của chị thì chị cứ ở. Phần em, em thấy mình không có tội, chị không phải sợ cho em.”
Tên công an đứng bật dậy. Y dụi điếu thuốc đang hút giữa chừng xuống cái gạt tàn. Y cầm tờ giấy và cây bút, kéo hộc bàn bỏ vào trong đóng lại.
“Được thôi. Chị và cô đây có thể về. Công an chấp pháp quận sẽ làm việc với ông Thăng. Phận sự của tôi tới đây coi như là xong.”
Chị Thúc vẫn ngồi yên. Quỳnh đứng dậy, vòng ra sau lưng chị.
Tôi nhìn chị Thúc.
“Đừng ký. Không việc gì mà chị phải ký.” Tôi nhắc lại.
“Tôi muốn coi lại tờ giấy!” Đột nhiên chị Thúc đứng dậy nói.
Tên công an chống hai tay lên mặt bàn, chồm về phía chị, giọng gay gắt:
“Tôi muốn nghe câu trả lời dứt khoát của chị là ký hay không ký. Vậy thôi. Tôi có nhiều việc phải giải quyết.”
“Tôi ký!” Chị Thúc trả lời nhanh đến nỗi tôi không kịp phản ứng.
“Đừng, chị Thúc, đừng!”
Tôi nói to, nhưng chị Thúc dường như không muốn nghe tôi.
Tên công an kéo hộc tủ, lấy tờ giấy và cây bút đẩy về phía chị:
“Chị ký vào đây!” Ngón tay y trỏ một chỗ phía dưới trang giấy.
Chị Thúc chụp cây bút, cúi xuống nguệch ngoạc mấy nét. Xong chị quày quả bỏ đi như chạy trốn.
Tên công an cầm tờ giấy lên sát mặt săm soi. Tôi thấy y mỉm cười xếp tờ giấy làm tư bỏ vào túi áo. Bàn tay phải của y đập nhẹ vào túi. Và khi mắt y đụng vào mắt tôi, tôi nghe tiếng y hét lên:
“Anh kia! Sao chưa đi về đi còn chờ đợi gì nữa? Hay là muốn tôi giải anh lên quận làm việc?”
“Cám ơn!”
Tôi không hiểu tại sao tôi nói cám ơn với cái tên vừa mới ăn cướp ngôi nhà của anh chị tôi.
Tôi bước ra khỏi trạm công an. Quỳnh đang ôm chị Thúc đứng chờ tôi trước cửa. Tôi nhìn thấy khuôn mặt bà chị dâu tôi ràn rụa nước mắt:
“Chú Thăng ơi, sao đời tôi khổ quá!”
Tôi không dám nhìn chị. Tiếng nói của chị như những mũi tên bắn vào tim tôi. Tôi ngước mắt nhìn lên căn phòng mà mấy phút trước đây tôi vừa bị giam giữ.
Bụi Và Rác – Chương Chín Phần 2
Không Nơi Ẩn Nấp
1.
Sau cùng chúng tôi cũng trở lại được Sài Gòn, trở lại căn nhà trong khu Mã Lạng, con hẻm hẹp hôi hám và nhớp nhúa. Chuyến về thăm nhà của tôi để đưa người anh đến nơi an nghỉ cuối cùng không ngờ là chuyến đi đầy kịch tính: không chỉ có nước mắt mà còn có cả nỗi đắng cay. Khi đưa tôi ra bến xe đò, chị Thúc nói: “Chú đừng buồn, không có chú, nó cũng lấy nhà tôi thôi, nó nhắm lâu lắm rồi, trước sau gì nó cũng chiếm thôi.” Tôi nghĩ là chị an ủi tôi. Quỳnh thì không nói năng chi. Suốt những ngày còn lại ở Nha Trang, em bế con ra biển ngồi trên bờ cát nhìn trời và nước. Lần đầu tiên khi nghe Quỳnh nói muốn đi biển, tôi theo em thả bộ xuống bãi. Tôi chỉ cho Quỳnh biết những nơi ngày xưa tôi thường hay đến. Cây dừa này hình như lúc nào cũng vậy, không có vẻ gì như bị già đi vì năm tháng. Những lùm cây này cũng vậy hình như mới vừa hôm qua tôi chui vào trong đó núp trốn những thằng bạn học ở trường về réo gọi tên tôi vì bị thầy giáo gọi tên trong lớp học. Nhà “giây thép” này có vẻ như nhỏ lại. Nó đứng một mình. Xung quanh trống trơn không thấy nhà cửa cây cối nào để che đỡ. Sau lưng là biển. Trước mặt là con đường trải hắc ín vắng tanh. Tôi kể cho Quỳnh nghe những kỷ niệm của tôi về nhà hàng ăn mang tên Fregate, nơi mỗi cuối tuần tôi và Bouquet Odette thường chui dưới gậm bàn nhìn những người lớn nhảy nhót. Và bụi dương, khách sạn Beau Rivage, trường Hải quân, Cầu Đá, Hải học Viện, Hòn Chồng… chỗ nào tôi cũng nhớ có chút dấu vết tôi… Quỳnh chỉ nghe tôi nói mà không hỏi. Những lần sau Quỳnh đi biển một mình. Quỳnh nói em đứng đây để tưởng tượng hồi nhỏ anh đã đứng như thế, với ai, làm cái gì, nói cái gì… Quỳnh nói đứng trước biển để nhớ và để quên. Để nghe tiếng sóng thì thầm, để thấy tâm hồn mình rộng lượng hơn.
Quỳnh trầm lặng suốt những ngày còn lại ở Nha Trang cho đến khi trở về Sài Gòn. Giữa chúng tôi như bị ngăn lại bởi một tấm màn voan mỏng. Tại sao? Tôi không hiểu. Tôi đi tìm ông Công. Tôi muốn xuống Bạc Liêu xem tình hình ra sao. Bác Ngô trước nhà cho biết ông Công có đến tìm tôi mấy lần. Tôi nghĩ có lẽ sắp có chuyến đi.
Tôi ra quán cà phê vỉa hè trước nhà bà luật sư Đại. Nơi đây tôi hy vọng thế nào cũng sẽ gặp mấy “đệ tử” của ông Công. Quán vẫn đông, nhưng không có người của ông Công. Một người ngồi trước ly cà phê đang kể chuyện người trong gia đình anh ta đã đến được bến bờ tự do. Anh khoe lá thư vừa nhận được viết từ Mã Lai. Một người kể chuyện thùng quà vừa lãnh. Và một người kể chuyện tiếu lâm thời đại. Anh nói nhỏ cho vừa đủ mấy người cùng bàn nghe. Và cả đám cười. Những câu chuyện tôi đã từng được nghe, nhưng lần nào nghe lại cũng phải cười cay đắng. Đã qua thời kỳ Sáu Vê: Vội Vã Vào Vơ Vét Về. Bây giờ là chuyện Ô Đi Pi: Ra Đi Trong Trật Tự. Những tờ đơn nộp từ Quận lên thành phố. Những điện tín. Những hình ảnh thư từ….
“Thưa thầy.”
Một người trẻ tuổi dựng vội chiếc xe đạp ở lề đường gọi chào tôi.
“Kiệt! Trời ơi, lâu dữ. Sao nghe nói em về dưới quê? Ngồi xuống đây!”
Kiệt kéo ghế ngồi cạnh tôi. Mới có mấy năm mà Kiệt đã lớn hẳn.
“Em ở dưới mới lên chừng tuần nay. Em vượt biên bị bắt ngã Mỹ Tho. Bị giam cả sáu tháng trời.”
“Rồi lên trên này em ở đâu?”
“Em ở nhà dì em, khu Nancy. Mà lâu nay thầy có vô trường không?”
“Không. Tại sao?”
“Em cũng không vô trường, nhưng đứa em con bà dì của em nói trường cũng đã thay đổi thêm mấy đợt. Nhiều thầy, cô đã xin nghỉ hoặc vượt biên. Ông Hiên hiệu trưởng cách mạng cũng thôi rồi, thấy có biết không?”
“Ông Hiên bị mất chức sao?” Tôi ngạc nhiên.
“Dạ không. Người ta nói ông Hiên đã bị chuyển công tác khác.”
“….”
“Cô Loan dạy Sử địa là em ông Hiên có chồng làm tới Đại úy quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã vượt biên với cả nhà. Người ta nói ông Hiên che chở cho chồng cô Loan khai gian không học tập, bây giờ trốn luôn.”
“Thật vậy sao?”
“Đó là người ta nói vậy. Chớ em thì em nghe bà dì em nói bà vợ ông Hiên mới đây đã tự tử. Thành ra ông Hiên tuyệt vọng, không còn tha thiết cách mạng nữa.”
“Tự tử. Bà vợ ông Hiên tự tử?”
“Dì em nói bả tự tử vì bên Thành ủy được bên công an báo cáo rằng trong thời gian ông Hiên bị tù Côn Đảo, bà Hiên ra vô Tổng Nha Cảnh Sát khai báo điềm chỉ chỗ ở của cán bộ nằm vùng để mong cứu chồng ra sớm. Hồ sơ đó vẫn còn nguyên trong Tổng Nha nên bên công an nắm được. Mặc dù bà Hiên chống án, nói đó là vu cáo. Nhưng chính quyền không nghe bà. Ông Hiên bị hạ tầng công tác. Và bà đã thắt cổ...”
Tôi không biết ông Hiên bây giờ ra sao? Và người đàn bà bao năm nuôi chồng “đi làm cách mạng” nay cũng phải chọn cái chết vì không thể sống trong hoài nghi.
“Chừng nào Kiệt về dưới?”
“Thưa thầy, cuối tháng.”
“Em có tính đi nữa không?”
“Thưa thầy,” Kiệt hơi ngần ngừ, “em có chuyến đi vào cuối tháng, ngõ Rạch Sỏi, Thầy có muốn đi với em không?”
“Tôi cũng đang tính. Một người quen hứa cho một chỗ. Ngã Bạc Liêu. Nhưng mấy hôm nay không gặp ông ta. Điều kiện trong chuyến đi của Kiệt ra sao?”
“Em nghĩ là em có thể dành cho thầy một chỗ được. Nếu cô và em bé cùng đi thì em có thể bàn với chủ ghe. Có thể không đòi hỏi gì thêm đâu. Em bảo đảm mà!”
Kiệt ngập ngừng:
“Em xin phép thầy. Có lẽ em phải đi mua thêm mấy thứ lặt vặt. Thầy suy nghĩ. Chủ nhật em sẽ đến nhà thầy.”
Kiệt nói đúng. Tôi cần phải suy nghĩ giữa hai chuyến đi. Ông Công hay Kiệt? Tôi sẽ lựa chọn nơi nào tôi tin hơn cả. Chuyến đi Nha Trang, Quỳnh đã mất hết mấy chỉ vàng phụ giúp cho chị Thúc. Quỳnh và tôi cũng đã thăm nuôi ông ngoại của con tôi. Ông gầy hẳn, da xanh mướt. Tôi ít có dịp gặp gỡ và nói chuyện với ông. Trước khi lấy nhau đã thế, sau ngày lấy nhau tôi càng ít gặp ông hơn. Tôi tự xa lánh mọi người không phải chỉ trong ý nghĩ mà cả trong đời sống mỗi ngày của mình. Và giờ đây, càng ngày tôi càng co rút lại. Hình như thế. “Không nơi ẩn nấp.” Tôi chợt nhớ tới tên cuốn tiểu thuyết của Hà Nội in hiện đang bày bán ở các tiệm sách. Đúng, tôi có muốn co rút lại cũng vô ích thôi. Không nơi ẩn nấp. Trong xã hội này không có nơi nào ẩn nấp được đâu. Không nhà tù lớn thì nhà tù nhỏ. Trốn vào đâu chứ? Để giết thì giờ trong những ngày theo ông Công đi công trường An Biên, Bạc Liêu, thỉnh thoảng tôi có mua một số tiểu thuyết mới của Hà Nội in. Cuốn nào cũng như cuốn nấy, giống như những điếu thuốc lá hiệu Phù Đổng vậy, giấy vấn và cọng thuốc rời rạc, bập một hơi đã thấy trống rỗng. Nguyễn Tuân, đâu còn nữa. Tác giả Vang Bóng Một Thời, Chùa Đàn, bây giờ viết “Hà Nội Ta Bắn Mỹ Giỏi”…
“Ê, Thăng. Chờ ai vậy?”
Tâm “khô khốc Thiền Sư” bất ngờ kéo ghế ngồi cạnh tôi.
“Mày tới hồi nào mà tao không biết?”
“Tao ngồi đằng kia. Mày đi đâu biến mất cả tuần nay?”
“Tao đi Nha Trang.”
“À, à, tao nhớ rồi. Ông anh mày bịnh phải không?”
“Phải. Nhưng mà xong rồi.”
“Là sao?”
“Tao về đưa đám tang anh tao!”
Tâm không nói. Anh cúi xuống, cầm cái muỗng quậy quậy ly cà phê của tôi. Tôi chợt nhận ra khi mình nói về cái chết của anh Thúc vô tình đã làm Tâm nhớ lại sự ra đi không vọng lại chút tăm hơi nào của vợ con anh.
Một lúc, Tâm ngửng đầu lên:
“Tao ngồi đằng kia với đám thằng Đình. Tao vừa viết xong một truyện ngắn.”
“Mày viết truyện? Ở đâu đăng truyện mày?”
Tôi ngạc nhiên thật sự. Một phần vì Tâm trước đây là tay chuyên viết phê bình văn học chứ không phải là tay sáng tác; phần nữa báo chí của chế độ Hà Nội vốn là một công cụ của chính quyền, đâu phải ai cũng viết mà đăng được. Ai viết? Viết cái gì? Viết cho ai? Đó là những câu hỏi cửa ải, khó qua nổi.
“Mày không hiểu gì hết. Tao viết trong đầu tao chớ đâu phải viết ra giấy. Đứa nào muốn biết thì tao kể cho nghe. Khỏi đọc.”
“Nói kiểu mày thì tao cũng có cả đống chuyện đây này!”
“Chuyện gì? Kể nghe coi?”
“Mày muốn nghe thật hả?”
“Thiệt chớ, sao không. Nhưng mà uống cà phê mà kể chuyện thì chán chết. Tụi mình tới quán Cây Lý lai rai đi. Tao mới bán được mấy chục cuốn sách cũ cho tụi chợ trời.”
“Mày kêu thằng Đình đi luôn thể.” Tôi nhắc.
“Không. Thằng Đình chỉ cà phê thôi. Rượu là không có nó. Mày quên rồi sao?”
Bụi Và Rác – Chương Mười- phần 1
2.
Quán nhỏ, nằm trong hẽm, có chừng bốn năm chiếc bàn thấp. Tất cả dựa lưng vào vách. Mặt vách bị nước mưa đóng rêu. Khách ngồi chật. Tâm đi thẳng vào bên trong, kéo ra hai chiếc ghế nhựa.
“Sao mày rành chỗ này quá vậy?”
“Thì ngày nào không tới đây mà không rành.”
“Thế mày bỏ quán Cái Chùa … Bà Đanh rồi à?”
Tâm không trả lời. Tôi nhìn bạn. Trước kia Tâm vốn đã xanh xao gầy nhom gầy nhách, giờ đây còn thê thảm hơn. Mặt sạm đen. Hai con mắt sâu. Mái tóc xơ xác. Những ngón tay gầy khẳng khiu. Quần áo nhớp nhúa tả tơi. Người chủ quán mang ra hai xị rượu, hai cái ly, một dĩa lòng và nước chấm.
“Ông uống với tụi này một ly!” Tâm mời người chủ quán.
“Tôi làm mấy trận rồi ông ơi. Cha nào tới đây cũng bắt tôi làm một ly. Sức đâu mà uống. Thôi cám ơn. Bữa nào tôi đóng cửa tiệm nhậu riêng với ông một bữa…”
“Rượu bất khả ép!” Tôi nói.
“Thằng này tên Thăng. Nó là bạn thân của tôi. Còn ông này là ông Cường, chủ quán.”
Tôi bắt tay người đàn ông.
“In hình tôi đã gặp ông ở đâu một lần rồi.” Người chủ quán nói.
“Tôi cũng vậy. Anh trông quen lắm. Chắc là mình có gặp nhau ở đâu rồi.”
“Ê, ông chủ, cho mấy xị nữa coi!”
Tiếng một người khách gọi. Người đàn ông cầm tay tôi lắc lắc.
“Xin lỗi! Xin lỗi!”
Và ông ta quay vào trong lấy rượu.
“Tay này uống dữ lắm!” Tâm giới thiệu.
“Bằng mày không?”
“Tao thì nhằm nhò gì. Cỡ Tạ Ký, Lê Tấn Lộc chớ không phải tay vừa đâu.”
“Mày nhắc tao mới nhớ. Ông Ký, ông Lộc bây giờ ở đâu?”
“Ở đâu? Cả hai ông bị đi cải tạo từ hồi nào tới giờ đã về đâu. Mày không biết à?”
“Sao không biết. Ông Ký và Lộc bị gọi đi trình diện từ đợt đầu mà. Nhưng tao tưởng thầy giáo thì ra sớm chớ!”
“Thì cũng tại hai chữ biệt phái. Mấy tay quân quản cho rằng biệt phái là ghê gớm lắm. Chắc là nhân viên đặc biệt phái tới để theo dõi cô giáo thầy giáo trong trường nên phải giam lâu.”
“Bộ mày với tao không phải là đám biệt phái sao?”
“Thì cũng biệt phái, nhưng tụi mình binh nhì. Học quân sự chín tuần ở Quang Trung thì đâu được sĩ quan. Lộc và ông Ký đi Thủ Đức, đều lên đại úy cả. Mà mày chưa nhận được giấy thăng cấp binh nhất à?”
“Hồi nào?”
“Tao nhận giấy đúng đầu năm bẩy lăm.”
“Trường tao không thấy đưa. Mà như vậy là sao?”
“Là sao? Binh nhì hay binh nhất thì ăn nhậu cái mẹ gì. Cho nên mấy chả lờ. Chớ sĩ quan như Lộc với Ký thì nó ghim. Mà sĩ quan gì kiểu Lộc và Ký chớ. Có bao giờ được bóp cò súng đâu. Ít nhất cũng đụng trận vài ba lần chớ, đằng này…”
“Mày có hiểu đạo đức mới là gì không?”
“Sao tự nhiên nói chuyện đạo đức?”
“Tao nhiều lúc ngẫm nghĩ trong khi bạn bè mình thằng nào cũng tù tội, biệt tích, mà mình lại nhởn nhơ như thế này, thiệt là vô đạo đức.”
“Tao cũng nghĩ vậy, nhưng có thiệt là mình đang nhởn nhơ không. Nhiều khi tìm cớ ngụy biện cho lương tâm yên ổn. Cứ cho là tụi nó ở trong một nhà tù nhỏ, còn bọn mình chẳng phải ở trong một nhà tù lớn sao? Cũng chỉ là tù, mà tù trong hay tù ngoài. Thế thôi!”
“Ờ, thì nói để mà nói vậy thôi. Bây giờ mày làm gì?”
“Tao lái xe ủi đất dưới Bạc Liêu. Còn mày?”
“Tao làm ở xưởng phim.”
“Trời ơi ! Mày biết mẹ gì phim ảnh mà làm.”
“Vợ con tao mày biết đã mất tích ngoài biển rồi. Ông già bà già tao cũng đã chết. Sách vở là tài sản của tao đã đem hết ra đường Bùi Quang Chiêu bán đổ bán tháo… Nếu tao có thể làm nghề chợ trời…”
“Nhưng mày biết mẹ gì phim ảnh mà làm.” Tôi lặp lại.
“Thì cũng nhờ người này người nọ quen biết giới thiệu. Không biết cầm máy quay phim thì cũng xách đèn chiếu cho thằng ca-mê-ra-men. Nó hỏi tao viết truyện phim được không. Tao nói được. Nhưng mày biết được là được thế nào?”
“Vậy mày được cái gì?”
“Tao được phiếu mua gạo và nhu yếu phẩm hàng tháng. Và cái được nhất là được yên thân.”
“Tụi nó nói là hồi này mày ‘cách mạng’ lắm. Phải không?”
“Cách mạng gì ? Cách cái mạng thì có. Mày nghĩ coi, tao phải làm gì bây giờ?”
Phải làm gì bây giờ? Phải làm sao bây giờ? Nhìn đám người trước mặt, lơ lơ láo láo. Sống không biết ngày mai. Nhìn trước, nhìn sau, ngó lui, ngó tới, ai cũng thấy mình như một con chim trong lồng. Chợt Tâm nhắc:
“Mày kể cái chuyện gì của mày coi.”
“Chuyện gì?”
“Thằng này! Sao mày mau quên vậy?”
“Ừ. Kể thì kể. Nhưng dzô cái đẹp mắt coi.”
Rượu thuốc đục ngầu. Mùi khó thở. Tôi nhắm mắt uống ực một hơi. Tâm cười.
“Mày nhất định không chịu bỏ nghề sao?”
“Bỏ nghề gì? Tao ‘mất dạy’ rồi mà!”
“Thì ai không biết mày ‘mất dạy’. Uống rượu phải uống từ từ chớ! Thôi cha. Kể chuyện nghe coi.”
“Ờ, chuyện thì chuyện. Theo mày thấy thì lúc này làm nghề gì dễ sống nhất?”
“Sao mày cứ nói lãng?”
“Thể thao và văn nghệ. Đúng không?”
“Đúng. Nhưng nói rõ thể thao là đá banh, còn văn nghệ là âm nhạc.”
“Ừ. Coi bộ lái xe ủi đất mà cũng rành sáu câu dữ. Thôi, đừng có giả mù sa mưa nữa. Kể đi cha.”
“Ừ, chuyện đại khái vầy: Có một thằng cha năm nay khoảng ba mươi mấy. Tóc đã bắt đầu muối tiêu. Thằng chả giàu nhờ mở một nhà hàng ăn bên bờ sông. Khách khứa ra vào nườm nượp. Đời chả chỉ biết tối tối đếm tiền. Càng giàu, càng đổ tật. Không biết mắc chứng gì mà chả mê âm nhạc. Chả thích chơi hồ cầm. Thích đứng giữa một dàn đại hợp xướng trên sân khấu. Chả suy đi tính lại, nhất quyết phải trở thành một tay hồ cầm có cỡ. Bạn bè nghe chả nói ai cũng can. Lớn rồi, học nhạc phải học từ nhỏ, chớ từng tuổi này, tay chân cứng đơ, âm nhạc gì. Chả không nghe, ghi danh đi học. Tiệm ăn thiếu người trông coi, mỗi ngày một mất khách, sa sút dần. Đến khi chả ra trường thì tiệm ăn coi như sụp. Không còn tiền bạc, chả bán nhà bán cửa, đi lang thang, cố xin một chân trong ban đại hòa tấu. Nhưng ở đâu người ta cũng từ chối. Nói là ngón đàn chưa ngọt, không đủ điêu luyện để hòa nhập vào ban đại hòa tấu. Cuộc sống chả ngày càng thê thảm. Chả rách rưới nghèo khổ, bẩn thỉu, lang thang, lếch thếch như một hành khất. Nhưng tấm lòng yêu âm nhạc của chả là thực. Chả cứ lui tới ở mấy nơi có các ban đại hòa tấu lớn chơi. Chả xin việc. Người ta nói ban nhạc đã đủ người. Sau cùng để thỏa lòng yêu âm nhạc, chả xin làm người dắt chỗ ngồi trong những đêm có trình diễn âm nhạc…”
“Nhân viên dẫn chỗ ngồi?”
“Ừ, đúng. Làm nhân viên dẫn chỗ ngồi. Nhưng mà đừng tưởng làm nhân viên dẫn chỗ ngồi là dễ đâu nghe!”
“Mày muốn nói cái gì vậy?”
“Mày thông minh có thừa mà. Mày dư biết tao muốn nói gì rồi. Tuổi bọn mình đâu phải là tuổi bắt đầu đi làm cách mạng. Phải không? Vả lại…”
«Có phải mày chửi xéo tao không?»
«Không. Đừng nghĩ vậy. Chỉ là nói chung chung thôi mà!»
Tôi cầm đũa gắp một miếng lòng. Mùi rượu thuốc vẫn làm tôi khó chịu.
Tâm tựa lưng vào vách. Khuôn mặt anh bỗng nhiên nguội lạnh bất ngờ, hai con mắt ướt như sắp khóc. Anh lặng thinh, bất động như một bức tượng.
Bụi Và Rác – Chương Mười - phần 2
Chiếc xe đò đi Rạch Giá chật ních người. Kiệt đã lấy cho tôi một chỗ ngồi cạnh bác tài. Trong túi tôi đang có một tấm giấy công tác do ông Công cấp. Trên tay tôi là tờ Quân Đội Nhân Dân. Bản tin lớn trang nhất mô tả trận đánh ở vùng biên giới Việt Nam – Kăm-pu-chia, tôi đọc thấy lời khai của một tên Khmer Đỏ nói nay mai người Khmer sẽ chiếm lại Sài Gòn, vì Sài Gòn là của dân tộc Khmer. Thế là thế nào? Khmer Đỏ là Cộng Sản, Hà Nội cũng là Cộng Sản. Còn nhớ trên một tờ báo ảnh của Hà Nội mà tôi đọc thấy sau ngày mất Saigon có hình Pol Pot bắt tay Trường Chinh, trang trước Sihanouk ôm hôn Phạm Văn Đồng… Thế là thế nào? Tôi xếp tờ báo lại. Trong đầu tôi lúc nào cũng nghĩ đến một chuyến đi. Đi bất cứ nơi đâu miễn không phải là Sài Gòn, không phải là Việt Nam. Sài Gòn giờ đây là những tổ dân phố, công an phường, công an quận, là những chợ trời, những quán cà phê vỉa hè, những chiếc ghế bằng gỗ tạp thấp tè đóng vội vàng, và cơm nguội bắp rang, vỏ măng cụt trộn lẫn với cà phê. Sài Gòn của hoài nghi. Sài Gòn của những tin đồn. Gặp nhau, người ta hay hỏi thăm về những người vắng mặt. Người đang bị tù thì tưởng là đã đi rồi. Còn người đã đi được rồi thì đôi khi cứ tưởng như vừa mới gặp hôm qua, hay vẫn còn quanh quẩn đâu đây.
Xếp tờ báo lại, tôi hỏi bác tài bao giờ sẽ đến Rạch Giá. Ông ta nhìn tôi cười:
“Vượt biên sao mà nôn nóng dữ vậy cha nội!”
“Đừng nói giỡn, tù mọt xương ông à!”
“Thì nói giỡn mà! Đất nước độc lập thống nhất rồi ai ngu dại gì bỏ đi đâu chi cho nó cực.” Ông ta vừa nói vừa nheo mắt nhìn tôi cười mỉm. “Nè, tui hỏi thiệt,” giọng ông nhỏ hẳn lại, “đi Rạch Giá chi vậy?”
“Tôi đi công trường An Biên, đào giếng.”
“Bộ ông là cán bộ à?”
“Không…” Tôi ấp úng.
“Tướng ông khó làm cán bộ lắm. Nhưng…” Ông ta lại cười.
Tôi thấy ông có chiếc răng cửa bị gẫy, khuôn mặt sạm đen, da sần sùi, chiếc cổ bạnh, bàn tay đặt trên vô lăng to bè. Tôi không muốn nói chuyện với ông ta. Tôi đoán ra ông ta định ám chỉ cái gì, nhưng tôi không tin lắm. Tốt hơn là đừng nói. Tôi đưa mắt lơ đãng ngó cảnh tượng trước mắt đang bị chiếc xe nuốt dần. Và tôi chợt thấy cái vẻ đẹp kỳ lạ giữa thiên nhiên và con người. Cả một cánh đồng lớn đang chạy lùi dần là những ngôi mộ và trên mỗi ngôi mộ là những tờ giấy (hay vải?) ngũ sắc cắt dài như những cái tua bay phất phới. Một bức tranh hoành tráng với những màu nóng phơi dưới một mặt trời chiều đỏ ối. Nơi yên nghỉ của người chết cũng đẹp đâu thua gì lâu đài của những người sống. Tôi nghĩ vậy. Đẹp. Trời ơi, sao tôi cứ bị cái đẹp theo đuổi hoài. Nhưng mà đẹp thì giải quyết được cái gì chớ? Bỗng nhiên tôi nhớ Quỳnh và con tôi. Tôi nghĩ nếu hôm nay tôi bị bắt thì sao? Làm sao tôi có thể sống mà không có Quỳnh? Nếu xuống bến gặp chuyến đi liệu tôi có đi không nếu không có Quỳnh? Chưa bước chân xuống thuyền mà sao tôi cứ tưởng như cô em út tôi ở Virginia đang chờ tôi ở phi trường, Tôi tưởng như thấy tay mình đang vốc từng nụm tuyết tung lên trời, há cổ nuốt cái lạnh lẽo chỉ thấy trong tiểu thuyết. Tôi nghe tiếng hành khách trong xe chộn rộn. Xe đã vào bến. Tôi mở cửa bước xuống, Lẫn phía sau những người phu xích lô đón khách, tôi thấy Kiệt đưa tay ngoắc tôi.
“Để em đưa thầy đến nhà chú Chín, ngủ qua đêm. Chú Chín người miền Trung nhưng làm nghề biển, theo gia đình vào Nam sống gần chục năm nay. Chú có ghe nhưng không tính vượt biên. Chú nói còn làm ăn được, nên không vội. Chú đã giới thiệu em với một người chủ ghe khác. Ghe đó hiện ở Rạch Sỏi. Sáng mai anh Hiệp tài công sẽ gặp mình ở quán này, rồi cả ba sẽ đi Rạch Sỏi.”
Có lẽ hàng quán ở bến xe đò nơi nào cũng giống nhau. Cái vẻ tạm bợ thấy rõ trên từng tấm bạt căng trên các “cọng” cây xiêu vẹo. Một tấm phản làm bàn kê trên mấy hòn gạch nung. Chén bát ly tách bẩn thỉu bụi bặm. Người đàn bà chủ quán pha cà phê bít tất đổ vào cái ly nhựa màu ngà sần sùi. Tôi hớp một ngụm, ho sặc sụa. Tôi đói bụng. Tôi muốn tìm cái gì để ăn. Kiệt nói cậu cũng đói. Và cậu dẫn tôi đi luồn ra bến xe, băng qua một chiếc cầu làm bằng xi măng. Chiếc cầu nhỏ có lan can. Nước dưới cầu đã cạn, lấp lánh chút màu vàng ối của mặt trời sắp lặn. Chúng tôi bước vào thành phố. Những tiệm buôn nhỏ. Tiệm thuốc Bắc, tiệm vàng, tiệm vải. Kiệt kéo tôi vào một tiệm mì.
“Coi ghe xong, tuần tới là mình đi. Thầy tính sao?” Kiệt châm thuốc, thở khói sau câu hỏi.
Tôi nhìn Kiệt. Kiệt đã thay đổi nhiều. Vẻ thư sinh của Kiệt ngày nào không còn nữa. Tóc Kiệt cắt ngắn sát da đầu, hai con mắt sáng nhìn thẳng, gò má nhô xương, da sạm đen, vai ngang, tay gân guốc.
“Thầy thấy em bây giờ khác lắm phải không?”
“Phải. Em khác trước nhiều lắm!”
“Em chạy xe ôm mà thầy.” Kiệt cười khi nhìn thấy mắt tôi ngó chăm cậu.
“Chạy xe ôm?” Tôi hỏi lại.
“Em chưa quen, nhưng đỡ nhức đầu. Nếu đi được, em sẽ tiếp tục học. Em thích khoa học hơn…”
“Tôi mong sao tất cả chúng ta đi được. Tương lai đang chờ em trước mặt. Nhưng…”
“Thầy nói sao?”
Nhưng… tôi nghĩ tới những gì sẽ xảy ra cho tôi và Quỳnh và con chúng tôi, nếu tôi bị bắt. Và nếu chuyến đi trót lọt liệu ghe có bị chìm giữa biển, nếu ghe không chìm trên biển liệu ghe có bị hải tặc. …
“Thầy ơi. Năm mươi phần trăm thoát, năm mươi phần trăm cho cá mập hay đồn công an, em biết vậy, nhưng mà… chúng ta chỉ có sự đi chứ không có sự ở…”
Tôi thấy mình như già hẳn đi. Tôi nghĩ đến Quỳnh, đến đứa con của chúng tôi.
“Nếu không đi được, em sẽ làm gì?” Tôi hỏi Kiệt.
Kiệt nhìn tôi, ngập ngừng:
“Em không biết là có một tổ chức kháng chiến nào không. Em muốn…”
Tôi đưa tay nắm bàn tay Kiệt. Bàn tay cậu có những ngón tay chai cứng. Chắc đã lâu Kiệt không cầm bút.
***
Hiệp, Kiệt và tôi gặp nhau ở bến xe Lam. Buổi sáng trời nắng vừa. Chúng tôi ngồi cách nhau như những người không hề quen. Xe chạy đến Rạch Sỏi thả chúng tôi xuống một chợ nhỏ. Chợ loe hoe mấy người đàn bà ngồi xổm bán rau cải thịt cá tươi. Mặt đường hẹp, nước sệt bùn đen quánh, trơn trợt. Hiệp lầm lũi băng qua chợ đi thẳng đến bờ sông. Tôi theo chân Kiệt. Từ bờ, như con rái cá, Kiệt nhảy vọt lên ghe. Tôi phân vân nhìn khoảng cách, nhảy theo, nhưng, hụt chân ngã sấp xuống sông. Bùn đặc quánh. Hai tay chống xuống bùn nước. Tôi nghe chân đau nhói. Nước và bùn mấp máy đến cằm tôi. Tôi nghẹt thở. Kiệt từ trên ghe nhảy xuống, ôm chầm lấy tôi.
“Thầy có sao không?”
Tôi không trả lời. Tôi không thể trả lời được. Tôi đau.
“Thầy có sao không?” Kiệt nắn nắn chân tôi.
“Không, không sao.” Tôi nói dối.
Tôi đau nhức như thể có người cầm dao thọc vào ngực tôi. Tôi bẹp dí như cái bong bóng bị kim đâm. Bùn với nước bết vào tóc tai, quần áo. Tôi lăn trở đau đớn.
Có gì đâu! Chỉ là một cái sẩy chân, tại sao tôi có thể bị chấn thương như vậy.
Tôi nghiêng đầu ngó lên. Môt góc trời xanh với những đám mây trắng xốp đứng sững. Không một chút gió. Tôi thấy nhiều khuôn mặt chụm lại, cúi xuống. Những con mắt hau háu. Những mái tóc xù. Những hàm răng nhọn.
“Anh kia, đứng dậy.” Có tiếng nói như ra lệnh.
Kiệt cúi xuống sát mặt tôi, hai tay vẫn nắn chân tôi.
“Bể rồi, thầy ơi!”
Tôi mở mắt nhìn lên. Tất cả những khuôn mặt vừa chụm lại ngó xuống bỗng giãn ra. Bầu trời lại xanh. Đám mây trắng đang bay qua. Tôi thấy mấy cánh tay dài chìa xuống xốc nách Kiệt.
“Cả tên này nữa!”
Một tiếng nói khác. Một khuôn mặt khá trẻ. Hai cánh tay dài phóng xuống chộp lấy vai tôi.
“Đứng dậy!” Tiếng nói ra lệnh.
“Nè, đừng làm dzậy. Người ta bị gãy chưn rồi!” Tiếng nói lẫn trong đám đông. Nhiều tiếng xì xầm.
Người ra lệnh vừa rồi luồn tay dưới ngực tôi, gần như lôi tôi dậy.
“Đau quá!” Tôi nghe tiếng mình nói rất nhỏ.
“Anh đã bị bắt!” Người thanh niên nắm cổ áo sau ót tôi.
Chân tôi khuỵu xuống, tựa hồ như cái bản lề ở đầu gối và mắt cá bị sút ốc.
“Xin đồng bào giải tán. Bắt bọn vượt biên phản quốc chớ có gì đâu mà coi!”
Người nói là một trung niên tóc bạc, gầy ốm, nhỏ thó, đang đứng trước mặt tôi.
Đám đông tản ra. Còn lại một vài con mắt tò mò.
“Trói lại!” Hắn nói.
Tôi ngạc nhiên khi nhìn thấy không có một tên nào ăn mặc đồng phục công an hay bộ đội. Tất cả đều thường phục. Tên đang trói tôi có khuôn mặt trẻ hơn là lúc đầu tôi tưởng.
“Các anh có biết vượt biên là phản quốc, là liếm gót giày tư bản không?”
Người trung niên nói. Y mặc áo ca rô bỏ ngoài quần rộng thùng thình, dép da kiểu dân Saigon. Tôi bị trói ngoặt tay sau lưng. Tôi nhìn thấy Kiệt cũng bị trói thúc ké. Hiệp không có mặt.
“Đưa họ về trụ sở trước. Tôi sẽ làm việc với họ sau.” Người trung niên ra lệnh.
Đám đông mở ra. Một tên đi trước. Kiệt bị đẩy bước theo. Tôi không giở chân lên nổi. Tên còn trẻ đẩy chúi tôi. Tôi khuỵu chân, lại ngã xuống.
“Có sao không thầy?” Kiệt quay lại hỏi.
“Chắc tôi phải lết quá!” Tôi nói với Kiệt.
“Thầy phải cố lên!”
Tôi nghe hơi lạnh của bùn thấm vào gò má và tai tôi. Tôi gượng dậy. Tôi lết đi trên một chân.
Trạm công an không xa chợ, đứng giữa cánh đồng lúa vừa gặt, trơ trọi. Bên trong chỉ có một cái bàn mấy cái ghế ọp ẹp. Tôi thấy Hiệp và một đám khác ngồi lố nhố bên trong. Trừ mấy đứa bé còn nắm tay mẹ, số còn lại đều bị trói thúc ké.
Nền nhà bằng đất lồi lõm.
Tên trẻ tuổi dùng ngón tay trỏ chỉ vào từng đầu người lẩm nhẩm đếm. Tôi nghe tiếng một đứa bé khóc. Một bà bị trói, đứa bé bò quanh chân. Mấy người ngồi trước mặt nói chuyện bằng tiếng Tàu.
Tôi nhớ Quỳnh. Tôi như nghe tiếng khóc của con tôi. Tôi thấy lại đám tang anh Thúc. Hai đứa cháu đang nằm trong trại tù tập trung cải tạo. Nước mắt bà chị dâu ký vào tờ giấy giao nhà. Những tờ giấy ngũ sắc bay phất phới trên các ngôi mộ dọc đường xuống Rạch Giá. Chiến tranh biên giới Việt-Miên. Pol Pot bạn hôm qua của Hà Nội, kẻ thù ngày nay của Việt Nam.
Tên trung niên tóc bạc, gầy nhom, nhỏ thó bước vào giữa phòng.
“Đồng chí Bảy Ca. Đồng chí cởi trói mấy ông bà này dùm tôi.”
Tên còn trẻ từ cửa hông bước vào. Y đi chậm rãi tới trước mặt từng người một, cúi xuống, tháo gút.
“Tất cả nghe đây!” Tên trung niên đứng giữa phòng nói, “Theo thứ tự trước sau, mọi người ai có đồng hồ mắt kiếng, tiền bạc giấy tờ mang lên đây nộp theo lệnh gọi. Nghe chưa?”
Một người ở hàng đầu bỗng đưa tay lên.
“Anh kia, muốn gì?” Tên trung niên hỏi.
“Tôi muốn đi tiểu.” Người bị bắt nói giọng lớ lớ.
Cả đám bật cười.
“Đứng dậy. Ra chái sau.” Tên trung niên nói.
Tên trẻ đi trước dẫn đường cho người bị bắt. Nhiều người lần lượt đứng dậy bước lên tháo bỏ đồng hồ, tiền bạc và giấy tờ trên mặt bàn.
Tên trung niên cầm từng chiếc đồng hồ lên săm soi. Những tờ giấy bạc y lùa sang một bên không thèm để ý. Tôi ngạc nhiên thấy y không hề liếc mắt trên những tờ giấy đi đường.
Sau Kiệt, tôi đứng lên tháo chiếc đồng hồ Seiko đặt trước mặt y. Tôi móc hết tiền trong túi ra. Tôi lấy tờ giấy công tác do ông Công cấp chậm rãi mở ra, cố ý cho y nhìn.
“Tôi không phải là người vượt biên.” Tôi nói mắt nhìn thẳng vào mặt y.
Y cũng nhìn tôi ngạc nhiên.
“Anh không vượt biên?” Y hỏi. “Vậy chớ anh đi đâu giờ này? Chỗ này? Mà anh là ai?”
“Tôi đi công tác ở An Biên.” Tôi nói y như những gì ông Công dặn.
“Giấy công tác đâu?”
“Đây!” Tôi đặt tờ giấy nhỏ có đóng mộc đỏ xuống mặt bàn. Y cầm lên, chỉ liếc mắt rồi vất sang đống giấy tờ đủ loại.
“Giấy giả!”
“Không phải. Giấy công tác của tôi là thứ thiệt mà!” Tôi cãi.
“Tôi nói giả là giả. Anh xuống trở lại chỗ ngồi đi. Tôi sẽ làm việc với anh sau!” Dừng lại một phút, y đổi giọng: “Bảy Ca! Đồng chí Bảy Ca!”
Tên trẻ tuổi từ chái sau bước lên.
“Làm gì dưới đó mà lâu quá vậy?” Tên trung niên hỏi.
Bảy Ca không trả lời. Hắn đến sát bên lưng tên trung niên, cúi xuống nói rất nhỏ vào tai tên này. Y gật gật đầu mắt sáng lên, nhìn tứ phía.
“Ai là bà con nhà Lâm Diệp đứng dậy!”
Chừng hơn một chục con người ríu rít đứng thẳng lên. Kiệt khều tay tôi. Tôi có cảm giác như có tiếng cười trong đám người đang xí xô xí xào kia. Họ được trả tự do.
Trích Bụi & Rác – Chương Mười Một