Thầy Tôi, “NGƯỜI ĐI TRÊN MÂY” (NXH) - H. Nguyễn
Vĩnh Biệt Thầy - Andrew Nhân Lưu
Tưởng Nhớ Thầy Nguyễn Xuân Hoàng - Song Lam
Nhà Văn Nguyễn Xuân Hoàng, "Người Đi Trên Mây" Đã Về Với Mây Trời! - Việt Hải
Vĩnh biệt thầy NGUYỄN XUÂN HOÀNG - TháiNC
Thầy Tôi, “NGƯỜI ĐI TRÊN MÂY” (NXH)
Thành Kính Chia Buồn Cùng Cô Trương Gia Vy
Lá thư viết vội vàng để gởi Thầy, cố gắng bắt kịp, sợ không còn kịp nữa, sợ phải hối hận, cố chạy đuổi theo thời gian hụt hơi. Thầy ơi, thời gian vô tình quá. Vẫn biết việc gì đến phải đến, nhưng em cũng vẫn ngỡ ngàng, xúc động và bây giờ đang tự trách mình sao quá chậm chạp. Thế gian vẫn là thế phải không Thầy ạ? Đủ mọi thứ để lo toan, rồi cũng chẳng đi về đâu. Thầy đã phải “bị cưỡng bức” vất bỏ tất cả những đớn đau, dằng xéo thân xác cả tinh thần Thầy chỉ vì sự hụt hẫng kiến thức của y khoa, của sự chiến đấu không thể thành công của những vị “lương y như từ mẫu” và vì “kẻ thù không đội Trời chung” của nhân loại vẫn còn quá hung hăng không chịu nhường bước, cho dù, trước sự đau thương, mất mát, cả lời cầu nguyện van xin vô cùng tha thiết và vô vọng của gia đình, thân nhân và con người. Đành cúi mặt, tìm an ủi trong những giọt nước mắt chảy dài “chấp nhận” và trong đôi hàm răng cắn chặt, nuốt nghẹn ngào những thương đau không sao tránh được. Giờ thì Thầy em đang “... Đi Trên Mây”, đi vào cõi mộng của Thầy, em chúc Thầy lên đường bình an và Thầy sẽ tìm được “thiên đường lý tưởng của Thầy” trên đó. Vất hết tất cả mọi khổ hạnh lại cho trần gian và cõi vô thường....
Lá Thư gởi muộn màng
Kính Thầy,
Thầy ơi! Thầy còn nhớ nhóm “TNHCN-TS” năm xưa không?
Nhóm “Tinh Nghịch Hết Chổ Nói-Trường Sơn”- đám “học trò nữ cưng” của Thầy đó?
“Thủy, Nga, Hồng, Chúc, Ninh”. Em, H. là đứa mà Thầy bảo hiền nhất trong đám.
Mấy đứa nó tản mạn, em H. cũng tản mạn sau tụi nó. Em đang đi tìm tụi nó , nhưng chưa có tin Thầy ơi!
Gặp lại chắc sẽ tìm cách đến thăm Thầy. Lại “quậy” nữa cho đời vẫn như xưa?!?! …..
... Em vẫn chưa quên được nét mặt Thầy, giọng nói Thầy, cái nhìn của Thầy - trong lớp học - khi Thầy thao thao bất tuyệt giảng những quan niệm và triết lý sâu sắc … em say sưa lắng nghe lời giảng của Thầy em đến quên mất hẳn đi là “em đã dám cả gan” mà ghi danh “lớp Triết”. Ai cũng bảo là lớp Triết “khó dàng mây”, tư tưởng phải cao siêu mới đi học được lớp nầy. Triết khó lắm, không hiểu gì đâu, chán lắm, nuốt không vô đâu, ... Thầy ơi! Thầy có biết không, nhờ Thầy mà em đã tương đối khá tiếng Việt. Ngày đó vốn em không rành tiếng Việt lắm. Vừa đậu bằng Tú Tài đôi Pháp là em phải đi tìm Đại Học để tiếp tục việc học vấn mình cho đến nơi hết chốn. Em giật mình bẵng đi vì sau chương trình lớp Trung Học Pháp, chưa có Đại Học Pháp ở Sài Gòn (VN) để tiếp nối. Em từ chối những học bổng đi ra nước ngoài để học tiếp (vì sợ xa Mẹ em), do đó chỉ còn lại những Đại Học Văn Khoa, Luật Khoa, Khoa Học … (tất cả đều thì là Tiếng Việt hết - chương trình Việt) do đó em “được bày” đi học một năm trướng Việt, thi Tú Tài II ban Văn Chương, rồi lên học Đại Học Văn Khoa …. Em cả tin, lững thững bước vào Trường Trường Sơn (gần nhà), học môn Triết học với Thầy, quên những lời khuyên ban đầu còn ngơ ngác, bỡ ngỡ. Cơ duyên được gặp Thầy. Chắc Thầy có lẽ còn nhớ mang máng nhóm học sinh nữ nghịch ngợm (TNHCN-TS) nhưng “được Thầy cưng” của tụi em - cách đây rất nhiều năm về trước. Có ai ngờ, sau những giờ giảng dạy say sưa, nghiêm nghị trong lớp của Thầy, sau giờ học đến nhà Thầy phá phách Thầy của tụi em?. Thầy “hiền như Ông Bụt”, Thầy vui đùa với tụi em thân mật như Anh Cả trong nhà (không có lằn ranh của Thầy và Trò ở lớp – hay ? tại tụi em quên mất?). Rồi vì “Quỷ quái” quá đôi lúc, Thầy bảo: “đứa nào phá quá, Thầy không ký tên tặng sách cho”. Thế là cả bọn ngồi im re xếp bằng chờ Thầy ký tên tặng sách để được sách của Thầy đem về nhà làm “báu vật” quí hơn mọi thứ trên đời lúc bấy giờ và dấu dưới gối để đêm đêm nằm đọc nghĩ đến Thầy. Thầy dạy Triết (được biết khô cằn như sỏi đá). Cớ sao mà học trò Thầy lại lãng mạn thế?
… Xa quê hương cũng khá lâu, mọi liên lạc bạn bè người thân đều biến tan như sương khói. Tình cờ được biết Thầy đang ở California, qua cô em Thầy - Chị Đoàn Hải Yến - trong mỗi lần đi sinh hoạt. Em mừng vô kể. Được biết Thầy đang bịnh nhưng đang khá dần (lúc bấy giờ). Em vẫn hỏi thăm và nhận được tin tức về sức khoẻ của Thầy. Dự định viết vài dòng thăm gởi Thầy, nhắc lại phút “vô tư, ngây thơ ngày xưa ấy có Thầy với 1 trong những nhóm “học trò cưng, tinh nghịch của Thầy của một thời”. Có thể Thầy cũng chưa hẵn quên, nhưng còn chút mang máng nhớ nào đó. Có dịp em sẽ thu xếp sang California thăm Thầy. Em đang cách xa Thầy khoảng bề ngang của nước Mỹ. Thầy đang ở bên Tây, em đang ở bên Đông. Nhưng hy vọng còn được gặp lại Thầy, chắc chắn sẽ không còn tinh nghịch “quái quắt” như khi xưa còn bé - bảo đảm Thầy. Vì em là H., chứ không phải nhỏ T., … & Ninh đâu. Vã lại đã qua hết thời thơ bé rồi còn gì?! Và Thầy đã không từng là người bảo chỉ có H. là đứa hiền nhất trong đám?
… Hôm nay, nếu còn cơ hội được, Em muốn nói với Thầy rằng điều em cảm kích và luôn phấn chấn mỗi lần em viết được một bài văn bằng Việt Ngữ, phần là do những ngày dài học Triết trong lớp 12C với Thầy, những lời giảng dạy say sưa của Thầy, những tình cảm thân tình Thầy dành cho học trò của Thầy thấm dần vào trong tim óc em làm nhòa đi mặc cảm “Em không rành tiếng Việt”, em sẽ không học được Triết học, em không thể thi Tú Tài II tiếng Việt để vào Đại Học Việt được,… Em đã vào Đại Học Việt, em đã tốt nghiệp Đại Học Việt và em viết được tiếng Việt, dù vẫn còn luộm thuộm ?!?!, nhưng em đã làm được như và những gì Thầy đã từng luôn nhắc nhở em: “Không có gì khó. Cố gắng sẽ được”. Em cảm ơn Thầy và vẫn luôn nhớ lời Thầy. Em nghĩ Thầy sẽ mừng vui khi Thầy khám phá ra được những điều em tỏ bày hôm nay ….
……………………………………….
“Cố gắng là sẽ được”.
Em sẽ không thể quên được Thầy,
Thầy Nguyễn Xuân Hoàng và khả năng tiếng Việt của Em.
Ngậm ngùi, Maryland, 13 Tháng 9 Năm 2014
H. Nguyễn.
Kính tặng Cô Trương Gia Vy & Chị Đoàn Hải Yến – em gái Thầy Nguyễn Xuân Hoàng
Vĩnh Biệt Thầy
Trưa thứ Bảy 13 tháng 9 vừa qua, tôi bàng hoàng khi nhận được “email” của nhà báo độc lập Phạm Bằng Tường báo tin thầy tôi – nhà văn, nhà báo Nguyễn Xuân Hoàng – vừa qua đời lúc 10:50 sáng sau một thời gian dài chiến đấu với bệnh ung thư cột xương sống. Thầy đã bị căn bệnh này hoành hành từ lâu, nhưng mãi đến gần một năm nay bác sĩ mới chẩn đoán ra căn bệnh.
Tôi còn nhớ hơn một năm trước, chúng tôi đến rước thầy tại nhà của thầy để tham dự một đêm họp mặt văn nghệ tại tư gia của nhạc sĩ Hải Nguyên và chị Thụy Dung. Trên xe, thầy than đang đau lưng rất nhiều nhưng cứ ngỡ là vì khuân vác nặng. Sau này, thầy ra vào bệnh viện Stanford nhiều lần nhưng bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Tôi đến thăm thầy tại Vista Manor Nursing Center trên đường Jose Figueres Ave khi thầy xuất viện Stanford lần đầu. Không thấy thầy trong phòng, tôi đi tìm thầy tại phòng tập “Physical Therapy”. Nhìn thấy một ông lão ốm o, tiều tụy, tóc bạc phơ ngồi trên xe lăn, tôi lặng người và xúc động nói gần như không ra lời; tuy nhiên tôi nhận ra ông lão ấy chính là thầy tôi nhờ đôi mắt tinh anh của người.
Tôi liên tưởng đến cũng đôi mắt ấy nhưng 40 năm về trước khi thầy đứng trên bục giảng của trường trung học Pétrus Ký, Sài Gòn thao thao bất tuyệt về Triết Tây. Với dóc người cao ráo và khuôn mặt điển trai rất đàn ông, thầy là người hùng thần tượng của đám học sinh chúng tôi, những chàng trai đang tập tễnh làm người lớn. Học sinh từ trường tỉnh lên, tôi choáng ngộp với nét uy nghi, kiêu kỳ của trường nam trung học lớn nhất thủ đô, cũng như lớn nhất nước, và nhất là với một đội ngũ giáo sư danh tiếng, toàn là những tác giả của những sách giáo khoa phổ biến nhất thời bấy giờ, nhưng đối với tôi không ai có thể qua mặt thầy Nguyễn Xuân Hoàng! Tuy sống tại Cần Thơ và học tại trường trung học Phan Thanh Giản đến năm lớp 11, tôi “biết” nhiều về nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng vì tôi đọc tạp chí “Văn” hàng tuần và thỉnh thoảng đọc được những truyện ngắn của ông đăng trong ấy. Ngoài ra, “Kẻ Tà Đạo” của ông là một trong những quyển tiểu thuyết gối đầu giường của tôi năm tôi 16 tuổi. Khi vào học lớp 12B1 (niên khóa 1974-1975) tại trường Pétrus Ký, bạn thử tưởng tượng xem tôi ngạc nhiên và sung sướng đến mức nào khi thần tượng văn chương của tôi nay lại xuất hiện bằng xương, bằng thịt trên bục giảng trước mặt mình! Sau giờ Triết hàng tuần của thầy, tôi thường nán lại nói chuyện với thầy để hỏi về những chi tiết trong các tác phẩm của thầy, như trận đánh lộn trên đồi Cù tại Đà Lạt, chứ chẳng hỏi han gì về bài giảng. Thầy tỏ vẻ rất ngạc nhiên khi biết tôi đọc hầu hết những sáng tác của thầy, nhưng khi biết ra ba tôi là ai thầy cười xòa và vỗ vai tôi, “Con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh.”
Sau ngày 30 tháng 4, 1975, thảm cảnh “nước mất, nhà tan” đưa đến Sài Gòn “phải mang tên xác người” (Phạm Duy, “1954-1975”), trường Pétrus Ký đổi tên thành trường Lê Hồng Phong, thầy “mất dạy”, và bọn học sinh chúng tôi phải cố gắng nhồi nhét thứ được gọi là “văn chương cách mạng” vào đầu để chuẩn bị cho kỳ thi “tú tài 3 môn” được tổ chức vài tháng sau đó. Cũng kể từ đó, không còn tạp chí “Văn”, không còn “Kẻ Tà Đạo”, không còn “Ý Nghĩ Trên Cỏ”, không còn “Khu Rừng Hực Lửa”, cũng không còn những bài giảng về Luận Lý Học, về Đạo Đức Học, về Socrates, Plato và Aristotle; nhà văn/thầy Nguyễn Xuân Hoàng đã âm thầm đi xa khỏi cuộc đời của tôi hồi nào tôi không hay.
Cuối năm 1998, thầy trò tôi bắt lại mối liên lạc khi thầy lên San Jose để đảm nhận chức vụ Tổng Thư Ký Tòa Soạn (Managing Editor) của tuần báo “Việt Mercury” (trực thuộc nhật báo “San Jose Mercury News”). Dạo thời gian trước đó, tôi đã bắt đầu tập tễnh viết bài điểm phim (movie reviews) như một thú vui (hobby) cho tuần báo “Việt Magazine” của anh Phạm Phú Nam, và thầy mời tôi cộng tác với “Việt Mercury” trong mục điểm phim. Thầy trò mỗi tuần gặp nhau một lần khi tôi đến tòa soạn để nộp bài. Thầy có già đi, nhưng trông vẫn còn phong độ như xưa. Tuy xa cách hơn 20 năm, tôi vẫn cảm thấy gần gũi với thầy vì tôi đọc gần như không sót những tác phẩm mới của thầy xuất bản tại Hoa Kỳ như “Người Đi Trên Mây” (một trong những tiểu thuyết tiếng Việt tôi yêu thích nhất), “Sa Mạc”, “Căn Nhà Ngói Đỏ” và “Bất Cứ Lúc Nào, Bất Cứ Ở Đâu” (tái bản). Sự đồng cảm giữa tôi và thầy dường như không hề bị sứt mẻ gì cả sau bao nhiêu thăng trầm của đời sống, cũng như bao xa cách của thời gian và không gian.
Sau khi “Việt Mercury” ngừng hoạt động năm 2005, thầy và cô Trương Gia Vy thành lập tuần báo “Việt Tribune” năm 2006 cho chính mình. Thoạt đầu, tôi phụ trách mục điểm phim của “Việt Tribune”, nhưng sau đó tôi chuyển sang viết cho “VTimes” của nhà báo Trần Đệ trong một thời gian ngắn để thay đổi không khí. Khi ấy, tôi đang làm việc trong ngành địa ốc sau khi giã từ ngành điện tử. Anh Tâm Quách, “broker” của Tuscany Real Estate Services, đề nghị với thầy và cô Vy mở thêm phụ bản Địa Ốc cho “Việt Tribune” và kể từ đó tôi phụ trách mục “Địa Ốc & Đời Sống” hàng tuần cho đến ngày nay. Tôi có dịp gần gũi với thầy và cô nhiều hơn. Tuy nhiên, tôi rất ân hận đã không sắp xếp thì giờ để đi uống cà phê với thầy nhiều lần thầy mời khi thầy còn mạnh khỏe. Và gần đây nhất, tôi đã không đến thăm thầy khi cơn bệnh ác quái của thầy bộc phát trở lại như tôi tự hứa với lòng.
Ở một nơi xa xôi nào đó, xin thầy tha thứ lỗi cho em, một người học trò 40 năm trước của thầy, đã đôi khi sống quá vô tình. Em biết lúc sinh thời thầy rất thích bài nhạc “Đời Đá Vàng”; nhưng mãi đến bây giờ trước sự ra đi vĩnh viễn của thầy em mới thấm thía cảm nhận được hết những gì nhạc sĩ Vũ Thành An đã gói ghém trong 4 câu ca cuối cùng,
“Có một lần mất mát mới thương người đơn độc
Có oằn mình đớn đau mới hiểu được tình yêu
Qua dầm dề mưa tuyết mới vui ngày nắng về
Có một đời khóc than mới hiểu đời đá vàng.”
Em xin vĩnh biệt thầy và nguyện cầu hương hồn của thầy sớm siêu thoát về cõi vĩnh hằng!
Andrew Nhân Lưu
Tưởng Nhớ Thầy Nguyễn Xuân Hoàng
Nhà giáo, nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng
Trang Vietbao online sáng Thứ Bảy 13/9 thông báo về sự ra đi của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng làm tôi bồi hồi xúc động cả tuần nay. Vậy là thêm "một người đi trên mây", thêm một người "giã từ vũ khí". Nguyễn Xuân Hoàng là một tên tuổi quen thuộc trong văn giới trong nước và cả ở hải ngoại, đặc biêt ở California, San Jose. Ông là nhà báo, nhà văn đồng thời là nhà giáo ở Saigon. Viết về ông hôm nay là tâm tình của người học trò cũ của ông gần nửa thế kỷ, tôi thật sự có nhiều nỗi niềm riêng.
Nếu đúng như phần tiểu sử trong bản cáo phó từ gia đình, thầy Nguyễn Xuân Hoàng tuổi Đinh Sửu. Ba số 7 trùng lập trong ngày tháng năm sinh của thầy làm tôi ngẩn ngơ: 7 tháng 7 năm 1937. Có một chút vui khi người viết nghĩ mình cùng tuổi Sửu với thầy và nhỏ hơn thầy một giáp.
Chúng tôi học môn Triết đạo đức với thầy năm 1967, lúc thầy vừa đúng 30, tôi 18. Nhưng trong giấy khai sinh của tôi, tôi bị sụt đi một tuổi vì làm khai sinh trễ. Tôi trở thành học sinh trẻ nhất lớp, mà lại là lớp trưởng nên có ít nhiều tiếp xúc thân cận với quý thầy để ghi điểm danh, ghi sổ đầu bài, ghi tên học sinh trong lớp trốn học và "nhắc nhở" bạn học về học phí trong tháng.
Xin quý độc giả cho phép tôi được nói về lớp 12C1 của tôi ở trường Trường Sơn năm 1967. Đó là trường tư thục ở đường Lê Văn Duyệt gần chợ Đũi và rạp chớp bóng Nam Quang. Trường này do nhà văn Nguyễn Sỹ Tế làm hiệu trưởng, chuyên về Ban C, tức Ban Văn Chương thời đó. Sau khi thi tiểu học, học sinh phải qua kỳ thi tuyển vào Đệ Thất. Nếu đậu, học trường công lập như Trưng Vương, Gia Long (trường nữ), học Petrus Ký, Chu Văn An (trường nam). Nếu không đậu thì phải học trường tư. Trong 7 anh chị em trong gia đình, chỉ có tôi học trường tư vì không đủ tuổi và học Ban C. Các anh chị, các em tôi học Ban A, Ban B tức là Ban Hóa Sinh và Toán Lý. Tôi là đứa con gái "đặc biệt" như vậy của gia đình nhưng lại ra trường, đi làm sớm nhất.
Những trường tư thục lúc đó cũng có sự cạnh tranh, giành học trò. Trước khi khai giảng, trước cổng trường hoặc những ngả tư, chúng ta thấy những tấm băng-rôn to tướng quảng cáo tên trường, ngày khai giảng và danh sách giáo sư. Các cô giáo, nữ giáo sư thời đó ít khi dạy trường tư vì sợ học trò không có kỷ luật, nề nếp như trường công. Học trò tư thục có quyền chọn trường, chọn thầy để học. Tôi không rành về giáo sư ngành toán lý nhưng tên tuổi của thầy Nguyễn Đình Chung Song rất thu hút học trò Ban B, cũng như tên tuổi của các nhà văn đồng thời là nhà giáo rất được học sinh Ban C chúng tôi tín nhiệm, Thầy Nguyễn Xuân Hoàng là một ví dụ.
Tôi là đứa học trò may mắn nhất. Trong suốt 7 năm trung học, tôi được học với nhiều giáo sư là nhà văn, nhà thơ nổi tiếng: thầy Bùi Nhật Tiến dạy Lý, thầy Nguyên Sa Trần Bích Lan, thầy Lê Linh Thảo, thầy Nguyễn Sỹ Tế… và năm Đệ Nhất C sau cùng học Triết với giáo sư nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng.
Cách đây đúng 47 năm, cũng vào mùa tựu trường 1967, thầy Nguyễn Sỹ Tế giới thiệu với chúng tôi thầy dạy Triết đạo đức Nguyễn Xuân Hoàng cho lớp. Thầy Tế dạy Tâm lý còn một thầy khác dạy Siêu hình. So với các giáo sư dạy trong lớp chúng tôi, thầy Nguyễn Xuân Hoàng trẻ nhất, "sáng sân khấu" nhất!
Sau 2 giờ học con nhỏ Thu Nguyệt nổi tiếng lanh chanh nhất lớp, kê tai tôi nói nhỏ: "Ông thầy này đẹp trai quá mày ơi!". Và chính cái chuyện đẹp trai này mà lớp tôi có một chuyện tình "lâm ly, bi đát"!
Lớp của tôi không quá 40, đa số là con gái, con trai chỉ hơn 10 trự. Thời đó, con trai học Ban C bị chê là "yếu" là chicken die, nên đám này bị đa số con gái lấn át. Mọi việc lớn nhỏ trong lớp đều do đám con gái quyết định, mấy anh nam tử hán chỉ có mỗi việc là nghe theo!
Trong số hơn 10 anh con trai, có một anh nổi bật tên LĐT, con trai của tiệm nước mía VĐ góc Pasteur - Lê Lợi. Quý bạn đọc nào ở Saigon thời đó đều biết tới tiệm nước mía này: nước mía nguyên chất xay tại chổ, thêm múi cam hoặc vài trái tắc ngọt lịm, thơm quá chừng. Nếu quý vị vừa ghé xe đạp hoặc xe Mobylett trước cửa VĐ để "xiên" vài miếng phá lấu lòng heo của ông Tàu, sau đó uống ly nước mía giữa trời chiều nóng bức của Saigon thì không còn gì nói nữa. Trời ơi, nó ngon tuyệt trần. Bây giờ ở Little Saigon Cali có nước mía Viễn Tây cũng khá ngon, nhưng khó so với VĐ ngày cũ…
Sở dĩ người viết phải cà kê dê ngỗng như vầy để giới thiệu với quý bạn người đẹp hoa hậu của lớp tên T.A, học sinh trường Tây mới chuyển qua chương trình Việt. Anh "chủ con" VĐ này ngắm nghía T.A, trong khi người đẹp T.A bị ông thầy Triết Nguyễn Xuân Hoàng hớp hồn ngẩn ngơ. Dĩ nhiên là thầy Hoàng không hề biết gì, có khi đến bây giờ thầy cũng không hề hay biết!
Con gái học Đệ Nhất, tức là đã có mảnh bằng Tú tài I rồi, thời đó oai lắm, đâu thèm ngó tới bạn cùng học chung một lớp! Nếu có ngó là ngó mấy "ông thầy" kìa, hoặc mấy ông bác sĩ, kỹ sư mới ra trường, hoặc mấy sĩ quan võ bị, sĩ quan không quân, hải quân… T.A học trường Tây lại con nhà giàu, ba nó là thầu khoán nổi tiếng ở Saigon, có căn nhà lầu mặt tiền đường Hồng Thập Tự. Nó có đủ điều kiện để kén chồng học thức, địa vị, giàu có; thế mà con nhỏ lại mê thích giáo sư nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng.
Ngoài những giờ khắc đi học, tôi còn phải phụ giúp gia đình nuôi một bầy em nên không có giờ chơi với mấy bạn nhà giàu cỡ T.A. Theo lời của chị Thu Thủy người bạn lớn tuổi hơn chúng tôi trong lớp thì T.A muốn "cua" thầy Hoàng.
- Em để ý thì biết liền hà. Nè, mỗi ngày nó bận váy đầm đi học, tóc thắt bím. Còn ngày nào có giờ thầy Đạo đức, nó mặc áo dài, xõa tóc ngang vai, cài bandeau màu tím, màu hồng… giờ Pháp văn của ông Hoàng Cung nó nói liên hồi, giờ Lý, giờ Toán nó quậy lung tung, còn giờ thầy Hoàng nó ngồi im thin thít, ngoan ngoãn như con mèo ướt.
- Vậy là sao, chị?
- Sao trăng gì nữa. Nó khoái ông thầy Hoàng chứ còn gì nữa. Đây nè, tụi nó lục trong hộc tủ của nó bài thơ này mới là "dữ dội".
Vừa nói, chị Thủy vừa đưa tôi coi:
Hãi hùng tôi thắp cây bạch lạp
Bằng ánh đèn của thế kỷ non xanh
Rồi bỗng dưng tôi tìm ra sự thật
Có bao giờ tôi sáng ở trong anh?
Hoặc:
Anh đến làm sao em biết được
Cho trời rộng mở một vòng tay?
Chị Thủy nói tiếp:
- Em thấy dữ dội chưa? Em là lớp trưởng mà không biết gì hết.
- Lớp trưởng đâu phải lo tới chuyện này?
- Đồng ý là vậy! Nhưng em phải khuyên nó. Năm nay là năm thi, môn Triết hệ số 3, kẹt lắm!
Dừng lại một lát, chị Thủy lại nói:
- Cả lớp đều biết, chỉ có mình em. Em biết hai câu thơ bí hiểm của Thanh Tâm Tuyền: "Tôi gọi tên em cho đỡ nhớ Thanh Tâm Tuyền" chứ gì? Tụi nó chế thành: "Em gọi tên thầy cho đỡ nhớ Nguyễn Xuân Hoàng" rồi bỏ vào sách của T.A để chọc nó, mà nó tỉnh bơ… Tao nói mà, con đó "lậm" thầy Hoàng rồi mà…
Phía trên tôi đã thưa với quý vị, thầy Hoàng trẻ nhất trong số các giáo sư dạy Đệ Nhất C của Trường Sơn, của Nguyễn Thượng Hiền, của Văn Học… lại có dáng dấp thanh tú, nghệ sĩ. Trong khi giáo sư Hoàng Cung chễm chệ với nào là cặp táp bự sự, veston cà-vạt, thêm cây gậy bệ vệ; thầy Nguyễn Sỹ Tế khắc khổ; thầy Nguyên Sa Trần Bích Lan "quá khổ" thì thầy Hoàng gọn bân. Đi dạy thầy hay mặc sơ-mi dài tay trắng, màu xanh nhạt, vàng nhạt, quần ka-ki sậm màu, thầy không cài măng-sết, chỉ xăn tay áo tới khủy tay, và trên tay đôi khi chỉ có tờ báo hay tạp chí gì đó, và bước ra khỏi lớp hay mang kiếng râm. Vào lớp thầy không gọi học sinh bằng em A, em B… gì hết mà gọi là anh, chị… trong khi thầy hiệu trưởng hay cười đùa gọi là các cô, các cậu… và hay đem bài làm của chúng tôi ra chế diễu. Thầy Hoàng Cung ngọt ngào, lúc nào cũng "Bonjour, mes enfants" nhưng đến lúc học trò ra chơi vào trễ là mắng như tát nước vào mặt:
- Cái lớp của tao đa, không phải là cái chợ đa, mà thằng nào, con nào muốn ra là ra, muốn vô là vô… đa!
Năm cuối trung học với môn Pháp văn hệ số 3, môn Triết hệ số 3… cho nên chúng tôi sợ mấy ông thầy này như sợ giặc. Con trai lớp tôi hể rớt Tú tài II là bị kêu lính liền, còn con gái, rớt là… ế chồng, không thể vào đại học.
Thầy Nguyễn Xuân Hoàng ít hay cười đùa, ông hơi nghiêm nghị, khi giảng bài không bao giờ ngó đám học trò nữ mà chỉ ngó ra… cửa sổ, cửa lớp như đang chờ đợi ai, trong khi giáo sư dạy Lý thầy Nhật Tiến với đôi kính cận dày cộm thì hay ngó lên… trần nhà như đang kiếm thằn lằn. Thầy nói giọng Nha Trang Đà Lạt, nên mấy thằng con trai hay ghẹo T.A: "Chiều nay có phải anh ra miền Trung? Về thăm quê mẹ cho em về cùng". Mấy ông thầy trẻ "dị ứng" với đám nữ sinh cũng phải vì nếu có chút gì "lãng mạn" với nữ sinh là báo chí đăng rùm beng, sẽ bể "show". Nói như vậy không có nghĩa là không có mối tình thầy trò, sau đó thành vợ thành chồng, có điều chỉ xãy ra ngoài cổng trường, đằng sau "hậu trường sân khấu".
Nữ sinh hay nữ sinh viên thời đó lãng mạn số một, nhưng đó là "sóng ngầm" chớ không lộ liễu như bây giờ. Thứ nhất, do họ tiếp cận với văn hóa Pháp, văn hóa Mỹ và sau đó là tiểu thuyết "mở cửa" của Chu Tử với tác phẩm một chữ của ông "Sống", "Yêu", "Loạn"… Con gái thời mới lớn có cái "mốt" là yêu người lớn tuổi hơn mình như yêu thầy giáo, yêu bạn của bố, của anh trai. Cho nên thời đó, người đời hay nói "Đừng gọi anh bằng chú" hay "Đừng gọi chú bằng anh". Còn bạn cùng lớp hay cùng tuổi, bọn con gái chúng tôi hồi thời đó hay chê là "con nít".
Lâu quá rồi, tôi không nhớ rõ bao nhiêu giờ Triết học trong một tuần, chỉ nhớ gặp thầy Hoàng mỗi tuần chỉ với 2 giờ Đạo đức. Thầy ít biểu lộ tình cảm với học sinh, chỉ đến lớp rồi về nên "lý lịch sưu tra" của thầy chúng tôi không nắm rõ. Học trò là chúa tò mò về đời tư của thầy cô giáo nên thầy cô giáo hồi đó không ai dám một mình ngồi chong ngóc trong chợ Saigon, chợ Vườn Chuối, chợ Đũi… ăn bún riêu, bún ốc! Một đứa phát hiện là nó "đồn thổi" khắp Saigon. Có lẽ trong thời gian này, thầy Nguyễn Xuân Hoàng cộng tác với tạp chí Văn của Trần Phong Giao bên cạnh những cây bút lừng lẫy: Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Đình Toàn, Du Tử Lê, Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Trần Dạ Từ, Nhã Ca… và ông là Tổng thư ký tạp chí Văn sau đó!
Đã hơn 47 năm qua, tôi không có cơ may gặp lại thầy Hoàng, dù vẫn đọc văn chương ông thường xuyên trên báo hoặc những cuốn sách ông đã xuất bản. Tôi đã nhiều lần nhắc đến "Ai cũng cần có một người mẹ" của ông với lối văn nhẹ nhàng, kín đáo, mang phong cách miền Trung sang cả, quyền quý. Tôi ở khá xa nơi có cộng đồng người Việt đông đảo như Cali, Texas nên tìm đọc sách báo cũng hơi khó khăn. Chỉ 5, 7 năm trở lại đây, trên net tôi gặp gỡ nhiều hơn những thông tin về văn hóa nghệ thuật, về những người thầy cũ như thầy Hoàng, thầy Nhật Tiến…
Nhìn tấm ảnh thầy Hoàng chụp chung với các học sinh Ngô Quyền của thầy ở San Jose, tôi thoáng giật mình: thì ra thời gian không dành ngoại lệ cho bất cứ một ai. Thầy Nguyễn Xuân Hoàng tóc bạc trắng, đã thật sự già rồi với cây gậy trước mặt. Trời ơi, học trò của thầy ngày xưa là tôi bây giờ cũng đã đi gần tới con số 70. Thầy ơi, thầy trò ta đã cùng già hết rồi, thì đâu còn bận lòng gì với cái nghiệp tử sinh?
Thưa thầy,
Chắc thầy không thể nào nhớ được cô học trò trưởng lớp 12C1 của trường Trường Sơn năm 1967, cũng như thầy không thể nào biết được cô học trò T.A đã đem lòng yêu thầm thầy dạy Triết của cô là giáo sư Hoàng một thời "Xuân Hoàng" của tuổi 30? Mọi sự đã trở thành quá khứ. Thầy không còn nữa, nhưng tên tuổi Nguyễn Xuân Hoàng sẽ còn trong những trang sách cho thế hệ mai sau.
Tôi thường hay nói đùa với mọi người là những người tuổi Sửu đa đoan lắm, cơ cực lắm, nhưng lại là những người vượt lên số phận, cười đùa với số phận và ít nhiều có được thiên tài. Thầy Hoàng có khi nào nghĩ như vậy không?
Bây giờ thầy đã đi xa, xa cuộc đời vô thường này. Mong thầy được bằng an, hạnh phúc chốn Vĩnh Hằng. Trong chừng mực nào đó, thưa thầy, triết học là nhân học, ước vọng của thầy gởi lại thế nhân, thầy nói thầy ra đi với tư cách một nhà văn, vì suốt cuộc đời thầy luôn luôn theo đuổi, gìn giữ như pháp danh TÂM NGUYÊN của thầy. Hơn thế nữa, vai trò người thầy giáo của thầy cũng không thể lu mờ hơn, bằng cớ là trong lúc này những học trò của thầy ở Ngô Quyền Biên Hòa ngày xưa, đang ở bên cạnh linh cữu của thầy ở San Jose để nói với thầy lời giã biệt.
Và, sau cùng bên trang viết này, người học trò cũ của thầy ở Saigon năm 1967 đang tưởng nhớ đến thầy như "ánh sao vụt tắt trên nền thẩm". Kính mong thầy được chút lòng yên ấm!!
Xin thay mặt đám học trò cũ của thầy ở Saigon năm xưa, gởi đến thầy bài thơ nhỏ đang trào dâng trên giấy:
"Trang vở khép nhưng cuộc đời vẫn mở
Trường lớp xưa thành kỷ niệm mất rồi
Lời thầy giảng trong những giờ Đạo đức
Vẫn như còn sống mãi ở trong tôi."
Viết trong tuần tang lễ thầy Hoàng.
Song Lam
Tin Buồn: Nhà Văn Nguyễn Xuân Hoàng, "Người Đi Trên Mây" Đã Về Với Mây Trời!
"Người Đi Trên Mây", Nguyễn Xuân Hoàng.
Cám ơn Phan Tấn Đạt 12B4-PK72. Phân ưu và cầu chúc an lành "Người Đi Trên Mây", và những người con yêu VNCH tốt nghiệp từ ngôi trường chung, Petrus Ký, với nhiều thương mến và lưu luyến,...
Chân dung nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng
Trần Việt Hải - NHÀ VĂN NGUYỄN XUÂN HOÀNG - VĂN CHƯƠNG VÀ QUÊ HƯƠNG
Trần Việt Hải - NHÀ VĂN NGUYỄN XUÂN HOÀNG - V...
GS. Nguyễn Xuân Hoàng giảng bài say sưa, trong đam mê dù triết học hay văn chương,... Vị thầy mà khoảng cách thời gian lớn hơn chúng tôi độ một giáp...
Trường Petrus Ký.
Suy Tư Về Petrus Ký, Việt Hải Los Angeles:
Vĩnh Biệt! Nhà Văn Nguyễn Xuân Hoàng, "Người Đi Trên Mây" Đã Về Với Mây Trời!
(Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng qua nét tốc họa của Mõ)
Chúng tôi đau buồn báo tin
Chị Trương Gia Vy cho biết
10:30 sáng nay, ngày Thứ Bảy 13 tháng 9-2014
Anh Nguyễn Xuân Hòang
đã ra đi tại San Josẹ
Sau những ngày tháng dài đấu tranh với bệnh nan y
Lần sau cùng Nguyễn Xuân Hòang nói rằng Anh
vĩnh biệt cõi trần gian với tư cách một nhà văn
Người đi trên mây trở về cõi vô cùng nói rằng:
Thương cho cô Vy!
Nguyễn Xuân Hoàng trong gia đoạn cuối cùng của cuộc đời!
CHS Ngo Quyen Va dong nghiep lan vieng tham Thay Hoang
“Thương cho cô Vy!”
Một truyện ngắn tiêu biểu:
Nhà Từ Đường - Nguyễn xuân Hoàng
Tôi trở về Nhà Từ Ðường sau 15 năm đi xa. Thật ra con số 15 năm là không đúng.
Nó chỉ đúng tính theo ngày tôi bỏ nước ra đi, chứ không đúng tính đến ngày tôi trở lại Nhà. Hồi còn ở trong nước chẳng mấy khi tôi lên ngôi Nhà Chung này.
Tôi thấy mình lúc nào cũng bị cái hiện tại lôi cuốn. Học hành, thi cử, bạn bè, nghề nghiệp, chiến tranh, tình yêu...
Hết Ðà Lạt rồi Sài Gòn. Giữa hai thành phố ấy còn có Huế, Cần Thơ, Nha Trang, Mỹ Tho... Rạch Giá, U Minh, Long An, Biên Hòa...
Trong cái mớ chằng chịt về con người và địa danh ấy, tôi thấy mình như một kẻ bị quấn cuốn giữa những chiếc vòi của con bạch tuộc.
A, anh hỏi tôi chuyện chiến tranh hả? Chiến tranh?
Ừ, thời của tôi ai mà chẳng bị chiến tranh chi phối.
Tuổi tôi chỉ là tuổi bản lề, thời của ông anh tôi là một cuộc chiến, và thời kề cận tôi là tiếp tục một cuộc chiến sắp tàn
. Tuổi trẻ tôi cũng thở cái không khí sặc sụa mùi tử khí.
May sao, thế hệ kế đó vừa mặc bộ treillis vào người thì chiến tranh cũng vừa kịp kết thúc. Anh nói anh không biết chiến tranh hả? Năm nay anh bao nhiêu rồi?
Mới hai mươi bảy à?
Phải. Anh nói anh mới hai mươi bảy, có nghĩa là anh quá trẻ để biết cuộc chiến Việt Nam.
Năm bằng tuổi anh, mặc dù không ra mặt trận như các bạn cùng lứa, tôi cũng đã biết thế nào là tù tội rồi.
Viết một truyện ngắn cho báo Vấn Ðề của ông Vũ Khắc Khoan, tôi bị ra tòa vì đã ghi lại lời trong ca khúc Bà Mẹ Gio Linh của ông Phạm Duy. Anh nói lúc mẹ bế anh xuống tàu ở Bến Chương Dương, anh chưa đầy tháng tuổi phải không?
-Ừ. Tuổi ấy thì biết gì?
Nhưng anh có biết là anh đã chào đời trong những giây phút của một cuộc chiến sắp tàn – chứ vẫn chưa tàn không?
Anh có biết là mẹ anh bế anh chạy trong khi ven đô súng còn nổ và cả thành phố Sài Gòn chìm trong cơn hỗn loạn không?
Còn bây giờ?
Trên cái đất nước tưởng là yên ổn này, hải đảo của hòa bình, thiên đàng của hoan lạc, có thật là chúng ta đang đứng bên ngoài cuộc chiến không? Sau cái vụ 911, nước Mỹ có thật sự bình yên không?
Còn tình hình Trung Ðông hiện nay, vùng đất ngày nào cũng khét nghẹt thuốc súng, ngày nào cũng có khủng bố và người chết.
Và Iraq? Và bán đảo Triều Tiên? Và trước đó không lâu là A Phú Hãn. Liệu nước Mỹ có tấn công Iraq không?
Liệu nước Mỹ có còn bị khủng bố chơi những đòn nặng như vụ Tháp-Ðôi 911 ở New York nữa hay không?
Và liệu rồi đây con cái của anh có phải ra trận không?
Chiến tranh là ngu dốt. Nhưng liệu khi người ta muốn hòa bình thì có hòa bình được không?
Có lẽ, không một người Việt Nam nào không có kinh nghiệm về chiến tranh. Người Sài Gòn hay người Hà Nội có chiến tranh theo cách riêng của họ. Những cuộc xuống đường.
Những trái hỏa châu chiếu sáng khu ngoại ô hằng đêm. Lựu đạn cay trên đường phố. Mìn nổ ở một quán ăn. Bom phá sập một cao ốc. Và Hà Nội những ngày hoảng hốt vì bom Mỹ. Những lo sợ của người dân trước cuộc chiến leo thang.
Ðường mòn Hồ Chí Minh. Ðường Trường Sơn “ào ào lá đổ”... “Lấy chồng đời chiến chinh mấy người đi trở lại?” Hoặc “Em hỏi anh bao giờ trở lại?
Anh trả lời mai mốt anh về!...
Anh trở về bằng chiếc băng-ca trên trực thăng sơn màu tang trắng...”
Thật ra chưa cần nhích chân ra khỏi vòng đai thành phố người ta cũng đã biết được thế nào là khói lửa và súng đạn.
Mới năm tuổi, tôi đã biết thế nào là chiến tranh. Những người lính Nhật đã trói Cha tôi bắt ông đi đâu mất.
Má tôi bồng em tôi đi tìm chồng. Anh tôi đã vào rừng đi kháng chiến.
Tôi đi suốt từ căn nhà này đến căn nhà khác gõ cửa tìm mẹ và xin ăn. Ðôi khi người ta cho ăn (đôi khi người ta đuổi đi)...
Mỗi ngày tôi đi xa vào các làng quê. Tôi có khóc nhiều không lúc đó? Chiến tranh chỉ có chết chóc và đói khổ.
Người ta đói khổ đã nhiều, người ta không muốn gánh thêm một miệng ăn và nỗi khổ nào nữa, dù rất nhỏ.
Hãy tưởng tượng một đứa bé 5 tuổi đi bơ vơ trong một vùng khô cằn, nhà cửa thưa thớt, và chiến tranh đi qua những xác người...
Hãy tưởng tượng năm tôi vừa 5 tuổi bụng luôn luôn đói và không một người thân. Hãy tưởng tượng...
Trong một cuộc hành quân của lính Pháp, một người lính Lê-dương già nhặt được tôi ở một mép rừng mang về nuôi.
Ðó là thời gian tôi có gần với súng đạn và chết chóc hơn, bởi vì cha nuôi tôi – mà tôi gọi là papa Chopin – là một sĩ quan phụ trách vũ khí và cả bataillon luôn luôn di động.
Cho đến ngày ông chết trong một trận phục kích, tôi lại bơ vơ. May sao, một người thông ngôn giúp tôi tìm lại được gia đình. Một cuộc trùng phùng đầy nước mắt. Má tôi ôm tôi khóc rấm rức. “Má tưởng không bao giờ gặp lại con”. Mái tóc bà có những sợi bạc. Hai gò má hóp. Hai đứa em gái tôi ngồi hai bên cũng khóc.
Sao hồi đó tôi không khóc, tôi nhớ như vậy! Ðôi mắt má tôi luôn nheo lại, như lúc nào cũng cười, nhưng là một nụ cười buồn bã, và cái dáng đi của má sao mà tất bật, vất vả.
Quê má tôi xa hơn quê cha tôi nhiều. Ðó là khoảng cách của hai thành phố. Hai ngọn đèo.
Hai dân tộc. Tại sao hai dân tộc?
Dì tôi – bà chị của má tôi, như những người Hoa trong vùng cắt tóc bôm-bê – nói tiếng Hoa và ở trong ngôi nhà gạch rộng thuộc loại dư ăn dư để trong cái thị trấn heo hút nghèo nàn.
Anh Bảy, con dì tôi, cao lớn khỏe mạnh, tóc quăn, có một chiếc răng vàng, làm chủ một tiệm chạp phô, nói tiếng Việt bằng cái giọng lơ lớ.
Thỉnh thoảng, tôi nghe anh nói tiếng Hoa với má tôi, thứ tiếng mà bà không bao giờ nói với các con một lần nào.
Tôi trở về gặp mẹ, nhưng không gặp Cha. Cha tôi ở đâu?
Bà nói suốt mấy năm nay, ông đã đi tìm tôi và giờ đây, ông đang ở trong một căn chòi dưới chân Hòn Lớn, một ngọn núi khá cao, cách xa nhà cả một ngày đường.
Anh tôi thời đó như những thanh niên cùng lứa tuổi đã vào chiến khu chống Pháp.
Và mãi đến khi ông Ngô Ðình Diệm lên làm Tổng thống cha tôi mới xuống đồng bằng.
Và anh tôi, một buổi sáng cả nhà hay tin anh vừa bị bắt đi Thủ Ðức. Nhiều năm sau tôi rời Nha Trang vào Sài Gòn học tiếp...
Chiến tranh có lúc như lắng xuống, nhưng có lúc ồ ạt...
Chiến tranh là không khí của thành phố, chiến trận là không khí của thôn quê. Bạn tôi, nhiều đứa hôm trước còn ngồi với tôi nói nói cười cười, tháng sau, tuần sau, hôm sau đã không còn thấy mặt nữa, không bao giờ trở về nữa.
rở về Việt Nam sau 15 năm, tôi quyết định trở lại nhà Từ Ðường.
Tại sao à? Bởi vì giờ đây, mộ cha tôi, và mộ anh tôi đã dời về đó. Hai ngôi mộ song đôi, nằm giữa một vườn cây xanh lá.
Trong một buổi sáng tháng Tám nắng vừa lên, tôi ngồi bên mộ Cha và Anh, nghe tiếng chim hót trong bụi cây, tưởng như thấy lại khuôn mặt khắc khổ của Cha, cái vẻ lặng lẽ lầm lì suốt ngày không nói một lời của ông. Và khi ông phải nói, tôi nghe rõ cái âm thanh sấm sét mang theo hơi rượu nồng nặc từ miệng ông phả ra trong cơn bùng nổ của một hỏa diệm sơn.
Tôi cũng thấy lại anh tôi, người đàn ông to lớn, khỏe mạnh, cười to, ăn mạnh, nói lớn, lúc nào cũng giam chật trong bộ quần áo trận. Một người đàn ông khỏe mạnh và quyết liệt, nhưng cũng tình cảm và lãng mạn biết là chừng nào. Anh yêu những người lính của anh như anh yêu gia đình mình.
Và anh yêu những người nghèo khổ khốn cùng như anh yêu chính bản thân anh. Tôi chưa thấy ai có một trái tim phóng khoáng và quảng đại như anh. Ba đứa em của anh, không một đứa nào có được một chút lòng quảng đại và tính lãng mạn của anh.
Mộ Anh nằm cạnh mộ Cha, dưới bóng mát của những tàng cây chôm chôm. Ðứa con trai lớn của anh từ trại tù cải tạo về, được nhà nước báo cho biết khu nghĩa trang trên lưng một ngọn đồi gần đèo Rù Rì phải giải tỏa, đã mang hài cốt ba cháu về chôn cạnh mộ ông nội trong vườn Nhà Từ Ðường.
Còn hài cốt má, vốn được chôn cất cạnh bên đứa con trai, sau cùng theo ý nguyện của bà phải đưa về Ninh Hòa để nằm bên cạnh những người chị em của bà. Khi sống cha và má tôi là hai người khắc khẩu, và lúc ra đi, mỗi người trở lại với nơi chốn riêng của mình.
Sau 15 năm trở lại ngôi Nhà Từ Ðường, thăm lại mộ Cha và mộ Anh, tôi mới nhìn ra cái ngôi nhà đầy ánh nắng, lúc nào cũng ấm tiếng cười kia nay sao mà lạnh lẽo!
Chiến tranh đâu còn nữa. Nhưng cái gì làm cho ngôi nhà kia âm u, khu vườn cây ăn trái kia trở nên buồn bã?
Ngôi Nhà Từ Ðường ấy, mặc dù vẫn còn cái sân tráng xi-măng nằm dưới dàn cây thanh long, và vườn sau nhà là những cây mãng cầu Xiêm, cam và bưởi, tôi nhìn thấy nó đang xuống cấp. Cái vẻ lạnh lùng và ảm đạm của ngôi nhà quạnh hiu không còn chút sức sống như thân thể của một người già máu đã rút dần ra khỏi thân xác, chờ ngày chia tay...
Ông chú bà thiếm tôi cũng đã ra đi. Những người con của chú thiếm cũng đã người ở Úc, người ở Pháp.
Ngôi nhà bây giờ trao lại cho hai vợ chồng người cháu gái, người phụ nữ trẻ đứng trước mặt tôi phải nhắc mãi tôi mới nhớ ra ngày xưa chị chính là con bé tóc ngắn, mặt mũi trắng trẻo xinh đẹp đứng thập thò bên chại nước mưa hái cho tôi những chùm chôm chôm.
Chiến tranh Việt Nam đã qua rồi.
(Qua thật chưa?)
Cha tôi nếu còn sống, chắc thuốc lá và rượu cũng sẽ giết ông. Và anh tôi, một người cương trực, ghét sự ác, yêu cái thiện, người tranh đấu không hề mỏi mệt cho những bất công xã hội.
Và một con người như thế vốn là một sinh vật hiếm hoi trong thế giới loài người.
Này anh bạn, anh có bao giờ nhìn thấy cảnh một chiếc cối xay nước to tưới cho cả một cánh đồng chưa?
Chưa bao giờ thấy à? Nếu anh có dịp xem phim Chúng Tôi Muốn Sống anh sẽ thấy cối xay nước đó. Nó nằm trên thửa ruộng thuộc Nhà Từ Ðường của dòng họ nhà tôi.
Từ thành phố Nha Trang, muốn lên Nhà Từ Ðường của họ nhà tôi nếu đi xe đò, cũng phải mất cả tiếng đồng hồ.
Xe bỏ anh ở một góc đường đầy ổ gà và bụi. Anh phải xuống xe đi bộ một quãng nữa.
Băng qua những bờ ruộng và sau cùng là một con đường mòn nhỏ giữa những hàng rào, những bụi cây. Tốt nhất là anh nên đi xe gắn máy hay xe đạp.
Hồi trước, người trông coi Nhà Từ Ðường là chú thiếm tôi. Ông là một người đàn ông nho nhã, khuôn mặt trắng hồng, môi đỏ, dáng dấp nhẹ nhàng như một thầy đồ; còn bà thiếm tôi là một phụ nữ cao lớn, da ngâm đen, khuôn mặt có những nét thô cứng.
Bà có vẻ khó tính, nhưng là một phụ nữ tốt bụng và quán xuyến.
Tôi có cảm tưởng tất cả chuyện trong nhà ngoài ngõ đều do một bàn tay bà. Ngôi Nhà Từ Ðường ba gian. Những cây cột to lên nước đen bóng. Mái ngói đỏ, cửa lớn rộng, chạm trổ những hoa văn kỳ lạ.
Có lần chú bảo tôi, lẽ ra cha mày phải là người trông coi Nhà Từ Ðường, nhưng ổng đã không làm công việc đó.
Chú không nói cha tôi bỏ làng ra đi từ hồi nào?
Ông giang hồ bốn phương tám hướng, trong làng từ lâu không ai nghe tên ông. Ông quen má tôi và cưới bà trong trường hợp nào, và tại sao ông không đưa bà về quê, không ai trong nhà biết chuyện đó.
Tôi tưởng tượng ra cảnh một người đàn ông giang hồ, một hôm lạc vào một thị trấn nhỏ, gặp cô thiếu nữ xinh đẹp con một nhà buôn người Hoa, anh chàng phải lòng nàng dừng chân ở lại. Nhà gái chắc là không ưng chàng rể vì nó là người Ố-Nàm, và đặc biệt nó không có vẻ gì là con nhà làm ăn buôn bán.
Chắc má tôi phải yêu lắm sự ngang tàng của ông mới chịu lấy ông. Và bên ngoại tôi chắc cũng không cho của hồi môn. Chúng mày yêu nhau thì ráng mà sống với nhau như thế cho biết đá biết vàng. Như thế cha tôi không đưa má tôi về Nhà Từ Ðường.
Vĩnh biệt thầy NGUYỄN XUÂN HOÀNG
Khi tôi bắt đầu lớn lên và thích đọc sách, nhà tôi có một tủ sách gia đình khá lớn, hầu hết là của các tác giả thế hệ Tuổi Hoa, Tuổi Ngọc, tất cả đều do mấy chị của tôi tha về. Một hôm tôi khám phá trong khu rừng Tuổi Ngọc đó một con chim lạ tựa đề là KẺ TÀ ĐẠO, tác giả Nguyễn Xuân Hoàng.
Thế hệ của tôi, trước 1975, Nguyễn Xuân Hoàng không phải là cái tên đầu giường gối sách như Duyên Anh, Từ Kế Tường… đơn giản vì chúng tôi chưa lớn đủ để đọc và thích văn của ông. Lứa tuổi như tôi lúc bấy giờ, những nhân vật Dzũng Dakao, Chương Còm, Thằng Côn, Con Thúy, hấp dẫn và mê ly hơn .Tuy nhiên cái tên Nguyễn Xuân Hoàng làm tôi chú ý vì đây là người mà chị tôi rất ngưỡng mộ. Dạo đó chị tôi chuẩn bị thi Tú Tài ban C Việt văn và đang học Triết với thầy Hoàng. Gần mùa thi, chị và mấy người bạn nữa tới nhà tôi học nhóm. Học thì không rõ mấy chị học được bao nhiêu, nhưng bàn bạc về thầy Nguyễn Xuân Hoàng thì chỉ cần hóng chuyện nghe thôi, tôi cũng đủ hình dung rõ ràng trong đầu một ông thầy trẻ tuổi, đẹp trai, ăn nói duyên dáng, và nhất là một nhà văn nổi tiếng thời bấy giờ. Với một ông thầy như vậy thử hỏi cô học sinh 17, 18 tuổi nào mới lớn lên mà không ngưỡng mộ cho được ! Tôi nhớ chú tôi cũng là một giáo sư danh tiếng ở Huế, một lần vào Saigon chơi hỏi chị tôi học triết với ai. Chị hãnh diện nói học với thầy Nguyễn Xuân Hoàng, chú tôi thích lắm nói dù ở tận ngoài Huế, chú cũng biết tiếng thầy Nguyễn Xuân Hoàng.
Cầm cuốn sách Kẻ Tà Đạo, tôi lật trang đầu và thấy dòng chữ thân tặng do chính tác giả, và là thầy Nguyễn Xuân Hoàng ký tặng cô học trò, hèn chi chị tôi quý quyển sách này như bảo vật.
Tôi biết ông Nguyễn Xuân Hoàng đang ở San Jose mười mấy năm rồi, từ lúc ông về làm Tổng thư ký cho báo Viet Mercury và sau đó là chủ bút tờ Việt Tribune. Một lần duy nhất tình cờ đưa hai người quen từ Việt Nam sang chơi được ông Nguyễn Xuân Hoàng và một số nhà văn, nhà báo ở đây tiếp đón tại cà phê PALOMA. Họ là những người bạn văn cũ, có tên có tuổi trên văn đàn Việt Nam từ trước 1975, nay gặp lại hàn huyên. Tôi chỉ là tài xế, nhưng họ không để tôi về, nhứt định giữ lại uống cà phê với các anh, các chú. Nhân dịp này tôi mới biết ông Nguyễn Xuân Hoàng đang dạy lớp Việt văn cho trường đại học UC Berkeley . Câu chuyện đưa đẩy và biết tôi cũng đang tập tành viết lách, ông nói gởi bài tới Việt Tribune, ông sẽ xem. Lúc đó sắp đến mùa Vu Lan, tôi bèn gởi “Tô Canh Thơm Của Mạ” . Tuần sau thấy đăng trên Việt Tribune, nhưng tựa đề đổi thành Tô Canh Thơm Của Mẹ. Chắc là ông thấy chữ “ Mạ” có vẻ Huế quá nên đổi thành Mẹ cho nó rộng rãi hơn.
Tính từ lúc mới lần đầu tiên biết đến ba chữ Nguyễn Xuân Hoàng từ chị tôi cho đến nay đã hơn bốn mươi năm. Duyên văn nghệ giữa tôi và ông chỉ một lần gặp gỡ tại café PALOMA , và bài viết Tô Canh Thơm Của Mạ trên Việt Tribune, nhưng lần gặp đầu tiên đó đã để lại trong tôi một mối hào cảm rất đẹp với một nhà văn, nhà giáo tên tuổi, nhưng rất bình dị này.
Những ngày tháng ông trên giường bệnh, chị tôi có đến thăm thầy cũ. Bây giờ thì ông đã thực sự là người đi trên mây tìm về cõi Phật.
Thành kính phân ưu cùng chị Vy Truonggia và gia đình.
ThaiNC