Trích đoạn trong Bụi Và Rác của Nguyễn Xuân Hoàng, tác phẩm viết về Những Ngày Sài Gòn sau 30 tháng Tư 1975. Sách viết xong năm 1986 sau ngày tác giả đến Mỹ. Nhà xuất bản Thanh Văn, California, in năm 1992. Tác giả nói với VOA, Bụi Và Rác mặc dù có những nhân vật và sự kiện có vẻ như người thật việc thật, nhưng đây là tiểu thuyết, không phải là hồi ký.
- Sài Gòn Tháng Tư 1975
- Mùa Nghi Hoặc
- Con Kỳ Nhông
- Buổi Học Đầu Tiên
- Khói Thuốc
Sài Gòn Tháng Tư 1975
1.
Những trái pháo đầu tiên từ vùng ven đô nã vào thành phố rơi trúng ngay xóm nhà lá trong khu Mã Lạng nơi tôi và Quỳnh đã dọn về sống chung từ hơn hai năm nay. Cây kim dạ quang trên chiếc đồng hồ đeo tay của tôi chỉ ba giờ rưỡi sáng. Tôi quơ chân dưới gậm giường tìm đôi dép. Và ngay khi vừa đỡ Quỳnh đứng dậy tôi nghe thấy tiếng chân người chạy rầm rập, tiếng la khóc inh tai, tiếng gọi nhau thất thần ơi ới. Tôi bật công tắc đèn, nhưng điện đã mất. Đi qua phòng khách đến cửa lớn, tôi nhấc cây đà ngang mở ra, hơi nóng thổi ào vào cùng với luồng khói khét mùi cao su thốc tới làm Quỳnh ho sặc sụa. Con ngõ hẹp trước nhà tôi chật ních những người trong xóm tụ tập chỉ trỏ đám khói đang bốc lên trong xóm nhà tôn. Quỳnh ôm cánh tay tôi, nói mệt nhọc:
“Em sợ! Em sợ quá!”
Tôi nắm tay Quỳnh, trấn an:
“Không sao đâu! Không sao đâu!”
Thật ra tôi cũng đang lo sợ. Sợ lắm.
“Pháo trúng nhà Tư Chơi, cậu Thăng ơi!”, chị Sáu trong xóm tay xách nách mang đứng giữa sàn nhà mếu máo tiếp, “Nhà tôi cháy rồi!”
“Tư Chơi có sao không? Nhà chị cháy? Còn anh Sáu đâu? Bọn nhỏ đâu?”
“Trời ơi là trời!.” Chị Sáu khóc to lên.
“Chị Sáu!” Quỳnh nắm tay chị. Tôi nói:
“Em ở đây với chị Sáu, anh chạy vô trong xóm nghe.”
Tôi ra sau nhà xách cái xô nước chạy về phía đám cháy. Bác Tư và bác Tốt chạy theo tôi. Mỗi người xách một xô.
“Có ai bị gì không?”
“Không biết! Không biết ai sống ai chết!”
Cả xóm Mã Lạng bên trong nằm chen với mồ mã. Những mái nhà lợp tôn, vách cũng bằng tôn, trống thốc. Khói bốc ngụt lên, nhưng lửa chưa bén.Tôi nghe tiếng anh Sáu la to:
“Mền đâu? Chiếu đâu? Quần áo đâu?”
“Chi vậy?” Có người hỏi.
“Nước không đủ đâu. Lấy mền chụp lên đi. Quần áo chụp lên đi! Trời ơi! Đâu rồi? Đâu hết rồi?”
Tôi đổ xô nước xong chạy ngược lại nhà quơ đại mấy cái mền. Con nhỏ Tám giúp việc chạy theo tôi cầm tấm ra trải giường. May quá, chỉ còn khói bốc lên ở nhà Tư Chơi… Trái pháo đâm xuống ngôi mã bên hông nhà. Không ai bị gì. Nhưng căn nhà Tư Chơi cũng trống trơn. Tư Chơi đi suốt mấy ngày nay chưa về. Có thể nói xóm Mã Lạng là một trong những xóm nghèo nhất của Sài Gòn. Nghèo đến độ nếu cứ để nó cháy hết đi cũng chẳng sao, vì đâu có tài sản gì mà phải cứu ngoài những tấm tôn, tấm thiếc, đống giẻ rách và nền nhà là đám mồ mả không ai thừa nhận.
Sài Gòn hấp hối. Cả một thành phố hoảng hốt với dòng người ngược xuôi, quần áo xốc xếch, mặt mũi thất thần, di động trên đường phố như những hình nộm.
Ngày hôm qua khi đứng ở đầu hẻm tôi đã thấy những người chạy ngược trên đường Võ Tánh từ rạp chiếu bóng Khải Hoàn về phía rạp cải lương Quốc Thanh đổ xuống Chợ Lớn, những người lính đã cởi áo trận, vất bỏ nón sắt, thân thể bị băng bó vội vàng, người đầy máu và bùn, những đôi mắt không còn sinh khí trên những khuôn mặt hốc hác… Họ chạy nhưng rõ ràng là không biết mình đang chạy đi đâu, về đâu.…
Người ta chờ đợi “ông tướng hoa lan” Dương Văn Minh lên tình hình sẽ thay đổi hẳn. Bởi vì tin đồn Mặt Trận Giải Phóng chỉ muốn nói chuyện với Minh Cồ. Ngoài Minh ra họ không muốn nói với nhân vật nào khác. Và nếu đúng là tướng Minh lên thật, có lẽ Sài Gòn sẽ vẫn là Sài Gòn. Trận mưa bom sẽ không dội xuống đầu bốn triệu con người sống trong nỗi kinh hoàng đang bị ám ảnh trước một biển máu. Nhưng tại Dinh Độc Lập sau khi run rẩy đọc bài diễn văn bàn giao trách nhiệm cho tướng Dương Văn Minh, ông giáo Hương bước xuống đã vấp chân vào một bậc thềm như một điềm gỡ. Và sau những câu trong bài diễn văn dũng cảm của tướng Minh “Hỡi người anh em phía bên kia, tôi thành thật muốn hòa giải, và các bạn biết rõ điều ấy…” là những trái hỏa tiễn của “người anh em phía bên kia” đua nhau rớt xuống Saigon như một câu trả lời. Hà Nội không muốn nói chuyện với bất cứ một người nào, dù nhân vật đó là Minh Cồ.
Quỳnh suốt ngày đi ra đi vào, xem lại đống giấy tờ và hình ảnh của tôi, cái nào nghi ngờ có thể rắc rối là cô đốt bỏ vất hết vào xọt rác. Những tấm ảnh thời học quân sự chín tuần ở Quang Trung, với quần áo treillis, nón sắt, với khẩu M-79, chụp làm cảnh kỷ niệm cũng bị Quỳnh xé nát liệng vào cầu xí.
Tôi chịu không nổi cái cảnh bó gối ngồi trong rọ. Bao nhiêu gia đình đã tìm đường chạy khỏi Saigon và đã chạy được khỏi Việt Nam. Tại sao tôi không làm như họ?
Người đại diện hãng CAL hứa cho Quỳnh hai chỗ trên chuyến bay cuối. Nhưng chúng tôi đã không đến kịp đúng điểm hẹn. Tôi chở Quỳnh đến tòa đại sứ Hoa Kỳ, cả một rừng người chen chúc ngoài cổng sắt. Tại bến Bạch Đằng tôi không thấy chút dấu hiệu nào có chuyến tàu sắp nhổ neo. Quỳnh thì bụng mang dạ chửa, không biết sanh nở giờ nào. Tôi không thể nào đẩy Quỳnh vào cái giòng người cuồn cuộn chen lấn xô đẩy, dẫm lên nhau để tìm cái sống. Cái cảnh di tản ở miền Trung làm tôi hãi sợ quá. Tôi không muốn mình là nạn nhân của một cuộc vượt thoát lối đó. Tôi tìm những lý lẽ riêng để biện minh cho sự an toàn của bản thân nếu Hà Nội chiếm Saigon.
Tôi không biết mình sẽ làm gì trong những ngày tới. Tôi lo sợ. Rồi lại tự giam mình trong nhà, tự an ủi không nên ra đường vì phải canh cho Quỳnh chờ đưa cô đi nhà Bảo Sanh. Tôi quanh quẩn ra vào trong căn nhà hẹp. Quỳnh thì lo xa kiểu đàn bà: trữ sữa, gạo, đường, muối mắm cho cái gia đình ba người có thể sống vài tháng nếu chẳng may không còn chợ búa.
Giống như một người tử tội chờ đợi bản án thi hành, tôi lo sợ và hồi hộp. Tôi hình dung ra một tương lai đầy đe dọa và hồi tưởng một quá khứ không có đầu đuôi. Tôi rảnh rang một cách bận rộn. Tôi cố đọc sách để quên nỗi khắc khoải của một thứ thời gian không phải tâm lý mà cũng không phải vật lý, nhưng tôi hoàn toàn thất bại.
Tôi đến ở trong cái khu xóm Mã Lạng nghèo nàn này của Saigon ngay sau khi Quỳnh quyết định hủy bỏ chuyến đi Âu châu do hãng hàng không CAL đài thọ. Tôi nhớ lại buổi tối sinh nhật của Uyên ở nhà ông bà Phan. Cái ngã đầu của Quỳnh trên vai tôi ngay giữa đường phố Saigon trong đêm giới nghiêm sau cùng khi chúng tôi vừa bước qua cánh cổng sắt nặng nề của nhà ông Phan như bản hôn thú của tôi và Quỳnh. Ở căn nhà này chừng một tháng sau, tôi và Quỳnh đã có dịp đón bà Phan và Uyên đến thăm chơi, khi cả hai chuẩn bị lên đường đi Mỹ.
“Nhà cửa gì mà như cái lỗ mũi!” Tôi nhớ bà Phan đã kêu lên như vậy. “Tài xế phải đậu xe tuốt ngoài kia.”
Bà Phan và Uyên kêu cũng phải. Họ đến thăm tôi đúng vào hôm con hẻm ngập nước mưa. Ngồi trong chiếc ghế mây ở phòng khách nhìn mực nước đục ngầu ngấp nghé tận thềm cửa, bà Phan và Uyên ngó tôi ngao ngán. Hôm đó bà đã nói với tôi điều gì? Bà tiếc rẻ chuyện tôi từ chối cái học bổng bên Mỹ. Bà cười khi nhìn thấy Quỳnh đứng sau lưng tôi mặc chiếc áo bà ba màu nâu, tóc bím đuôi sam ngắn, có gắn một chiếc hoa tỉ muội màu trắng. Phần Uyên, cô không nói với tôi lấy một lời. Cô đứng bên Quỳnh, cười cười nói nói với Quỳnh như hai người bạn thân lâu năm và xem tôi như thể một người chưa hề quen biết bao giờ. Trước khi ra về bà Phan nói “rất tiếc nếu hôn nhân đối với cậu như một nhà tù thì cậu đang trốn từ nhà tù này tự trói tay chui vào nhà tù khác.”
Bà Phan và Uyên đã đi Mỹ đúng vào sáng thứ Bảy, Hăm bảy tháng Giêng, Bảy Ba. Tôi còn nhớ rõ số ngày tháng này bởi vì Hăm bảy tháng Giêng, Bảy Ba là ngày chấm dứt cuộc chiến tranh dài nhất thế kỷ. Chấm dứt trên lý thuyết thì đúng hơn. Bởi vì trong ngày đó – mà sau này đọc trên tờ Chính Luận tôi mới biết thêm rằng trong khi Tổng thống Nixon mở đầu bài diễn văn gửi nhân dân Mỹ bằng câu “một kỷ nguyên mới của hòa bình cho nhân loại bắt đầu …”; khi mà tại căn cứ Tân Sơn Nhất các phi công Mỹ xô nhau tung mũ phi hành lên trời, vỗ vào lưng nhau, chuyền cho nhau chai rượu Cognac để vừa tu vừa la lên: Chiến tranh hết rồi, chúng ta trở về nhà…; khi mà tại Saigon hàng chục ngàn tín đồ Phật giáo và Thiên Chúa giáo đến chùa chiền và thánh đường cầu nguyện cho hòa bình… thì con đường quốc lộ từ tỉnh về thủ đô Saigon bị cắt trên ba chục cây số, và cả chục xe vận tải đụng phải mìn,… tại Tây Ninh cuộc đụng độ kéo dài ba mươi tiếng đồng hồ đã khiến quân Bắc Việt để lại trên chiến trường ba trăm xác chết,… tại cửa bể Sa Huỳnh, tại vùng đồng bằng gần Đồng Tháp và rừng U Minh, tại đồn Ban Hét… nơi nào cũng có chạm súng. Chỉ hai ngày sau cuộc ngưng bắn chính thức được loan báo quân Cộng sản đã mở ba trăm ba mươi bốn cuộc tấn công.
Sau ngày bà Phan và Uyên bỏ Việt Nam ra đi hơn hai năm trời nay, tôi chỉ nhận được có hai lá thư viết từ tiểu bang Virginia thuộc thành phố có tên là McLean. Tôi không có dịp trả lời. Và sau đó tôi cũng không có dịp nhận thêm một dòng chữ nào khác.
Buổi sáng đầu tiên của một Saigon vừa chết, cái thói quen mở radio đã làm tôi giật thót. Một âm điệu hoàn toàn khác lạ chói tai buốt óc vang lên. Tôi có cảm tưởng như mình đang nghe một ca khúc Trung Hoa được người Tàu hát bằng tiếng “Việt chệt”. Nó lơ lớ ngọng ngọng. Nó là một bài ca của kẻ chiến thắng đòi người thua trận phải trả bằng máu, xương, và nước mắt.
Tất cả đều đã đổi khác.
Trích Bụi Và Rác, Chương Một A
Mùa Nghi Hoặc
2.
…Đường phố đầy người. Tù chính trị Cộng sản, thân Cộng, thiên Cộng đã được thả hết, nhưng cùng lúc tù hình sự cũng tuôn ra theo. Ở nhiều ngã đường những người tù hình sự có thể cúi xuống nhặt một khẩu súng. Và họ tự đeo lên cánh tay một băng vải đỏ, lấy một chiếc xe jeep nào đó nằm ở lề đường, lái nghênh ngang giữa phố bóp còi inh ỏi. Họ tự cho mình là dân quân cách mạng và họ cướp bóc, dọa dẫm người khác.
Thiếu người cảnh sát công lộ, các đường phố trở nên hỗn loạn, mạnh ai nấy đi. Những ngọn đèn lưu thông xanh-vàng-đỏ ở các ngã tư tắt ngúm như một người câm.
Tôi đến trường theo thông cáo trên đài phát thanh. Cửa đóng kín. Nhưng bên trong lúc nhúc những người bộ đội xúng xính trong những bộ quần áo màu xanh, những quần áo quá mới không vừa cỡ, khiến người ta có cảm tưởng như họ được phát chỉ để mặc trong ngày này do sự chuẩn bị đã được tính toán từ trước. Tôi không đứng một mình. Sau tôi còn một số đồng nghiệp cũng vừa kéo tới. Bác Phẩm, người cai trường, mọi khi vẫn mở cổng cho giáo sư vào, hôm nay đã biến mất. Một người bộ đội trẻ đang mang súng đứng gác. Thấy chúng tôi tập trung trước cổng càng lúc càng đông, anh ta xốc súng đến cổng hỏi giọng trống trơn:
“Muốn gì?”
Anh Lương, giáo sư môn Công Dân, người đồng nghiệp lớn tuổi nhất trường, nói nhỏ nhẹ:
“Chúng tôi là giáo sư nhà trường. Đài phát thanh thông báo chúng tôi có buổi họp sáng nay.”
“Sao không nói!”
Anh ta xẳng giọng, kéo chốt cửa hông, đứng qua một bên để chúng tôi từng người một xuống dắt xe vào.
Gần như toàn thể thầy cô giáo của nhà trường tập trung đầy đủ ở phòng giáo sư.
Mọi người lặng lẽ ngồi xuống ghế hình vòng cung quanh bàn. Tôi có cảm tưởng trong cách ăn mặc của mọi người có một điều gì như khác trước đây. Không khí trầm lắng, thiếu tiếng cười và những câu pha trò buổi sáng mà tôi vẫn thường nghe quanh ấm trà.
Giải phóng rồi
Cách mạng thành công rồi
Hòa bình rồi
Từ nay đất nước đã sạch bóng quân thù
Mỹ đã cút, ngụy đã nhào.
Một ông to béo nói giọng Nam tự giới thiệu là đại diện sở Giáo dục của cách mạng đến nói với chúng tôi bằng những từ ngữ kiểu loại đó.
Giữa những người gọi là “cách mạng” gầy yếu mỏng và nhẹ tênh, ông đại diện này có phần nặng ký. Mới đi Tiệp về, chuyên ngành giáo dục. Và cũng trong phần nói chuyện đó, ông cán bộ béo mập trân trọng giới thiệu Lê Hiên tân hiệu trưởng nhà trường cách mạng và Trần Nguyên, giáo sư phụ trách môn Vạn Vật của nhà trường từ nhiều năm nay, sẽ là người phụ tá cho Lê Hiên.
Lê Hiên trước kia là thầy giáo dạy môn Pháp Văn, nhưng do hoạt động Cộng sản nên bị bắt và đưa đi Côn Đảo. Tôi không quen Hiên, anh ta bị bắt trước khi tôi được bổ nhiệm về trường này. Lê Hiên là người vừa về từ Côn Đảo. Còn nhân vật Trần Nguyên vốn là người ít nói, ít cười, tính tình hiền lành, nghiêm nghị. Tuy vậy anh ta có dáng đi tất bật vất vả. Người anh gầy và mỏng như Lê Hiên. Và cũng giống như Lê Hiên, một con người nói năng từ tốn, chậm rãi, khoan thai, Nguyên không có cái vẻ của một tên xu thời hùa theo tình thế để hù dọa anh em. Lê Hiên nói đã chậm, nhưng có lẽ anh ta suy nghĩ còn chậm hơn. Nghe và nhìn Lê Hiên nói người ta có cảm tưởng như anh đo lường cân nhắc từng chữ, từng lời, từng động tác. Có những câu bị cắt nửa chừng vì chưa tìm ra được chữ thích hợp, tôi thấy Lê Hiên loay hoay với điếu thuốc: vấn, châm lửa, hít, thở khói… tìm ra chữ rồi mới nói tiếp.
“Ở Đông Đức khi cách mạng thành công,” Lê Hiên nói, “người ta không cần thầy giáo giỏi. Người ta cần một người trung kiên có lý tưởng cách mạng hơn là người có chuyên môn. Tôi lấy thí dụ thế này cho dễ hiểu. Nếu chẳng may người giáo viên có viết chữ Bát Hồ “T” chớ không phải Bác Hồ “C” thì cũng chẳng sao. T hay C để tính sau, trung thành với cách mạng trước đã.”
“Hôm nay các anh chị có thể ra về, nhưng kể từ ngày mai nhà trường sẽ vẫn mở cửa như thường lệ. Cách mạng muốn thông báo cho các anh chị em biết để yên tâm. Cách mạng sẽ xét từng trường hợp và lưu dung các anh chị. Các anh chị nhớ cho, lưu dung chớ không phải lưu dụng đâu. Cách mạng dung tha các anh chị về tội đào tạo một thế hệ phản động duy tâm, duy linh. Cách mạng thừa người, không bắt buộc phải dụng các anh chị đâu.”
Rời phòng họp, không về nhà ngay, tôi đi dọc hành lang vắng nhìn sân trường không một bóng học sinh, tôi thấy mình bơ vơ. Những người bộ đội ngồi tựa lưng vào tường dãy phòng hành chánh bên phải, quân trang quân dụng đặt dưới chân. Cuối hành lang trái, tôi dừng lại. Cánh cửa lớp hé mở. Như bị một sức hút. Tôi đẩy nhẹ cửa bước vào. Trên tấm bảng màu xanh tôi thấy tên một tác phẩm của một nhà triết học Tây phương viết bằng phấn trắng. Chính là nét chữ của tôi. Tôi nhớ ra rồi. Bài giảng cuối cùng của một môn học trong những nhà trường xứ sở tự do.
“Thưa thầy!...”
Bất ngờ tôi nghe một giọng nói từ dãy bàn cuối lớp. Tôi giật mình quay lại. Những dãy bàn trống, ánh nắng chiếu qua cửa sổ lá sách không sáng lắm nhưng tôi có thể nhận ra ngay, một học sinh đang ngồi ở đầu bàn chót. Đứng bên cửa sổ, tiện tay tôi vặn chốt mở tung cửa. Ánh sáng tràn vào trên một khuôn mặt trẻ trung ràn rụa nước mắt.
“Kiệt!”
Tôi kêu lên, nhận ra ngay người học sinh xuất sắc nhất của lớp học. Tôi đi giữa hai dãy bàn ghế. Kiệt chậm rãi đứng dậy.
“Thầy Thăng, thầy nghĩ sao?”
“Ngồi xuống đi, Kiệt.” Tôi ấn vai người học sinh và ngồi xuống bên anh. “Nghĩ sao là sao? Mà tại sao em khóc?”
“Ba em chết rồi!”
Kiệt chùi nước mắt, hàm răng cậu bé nghiến lại, giọng nói lạnh tanh.
“Ba em tự tử hồi tối hôm qua.”
“Sao? Ba em tự tử?”
“Thưa thầy, phải. Ba em là một sĩ quan Dù, ông bất chấp lệnh ngừng bắn của ông Minh, nhất định chiến đấu tới cùng. Và bắn đến viên đạn cuối cùng ba em tự sát…”
Tôi lặng người ngồi im nghe Kiệt kể. Cái lớp học này, nơi gần như ngày nào tôi cũng có mặt, từ niên học này đến niên học khác. Cái ngôi trường này, nơi tôi đã từng mặc áo trắng quần xanh ôm sách đến bao nhiêu năm thời tuổi nhỏ. Nó là nhà của tôi, gia đình của tôi. Nó là máu thịt tôi. Bao nhiêu năm sống với nó tôi vẫn nghĩ là mình dửng dưng với nó. Bây giờ tôi mới biết không phải vậy.
“Thầy Thăng, em phải làm sao bây giờ?”
Tôi biết phải làm sao bây giờ. Chính tôi, tôi cũng không biết mình phải làm sao khi nghe tin tướng Minh bị bộ đội đẩy lên xe jeep lái tới đài phát thanh bắt đọc lời kêu gọi quân đội ngưng bắn, bởi vì giao tranh vẫn còn tiếp tục ở khắp nơi quanh bộ Tư Lệnh Cảnh Sát, gần Tân Cảng, trước trung tâm truyền thông Phú Lâm, trong Chợ Lớn và ở các vùng ven đô. Tôi choàng tay qua vai Kiệt. Tôi biết bất cứ lời nói nào của tôi trong lúc này cũng là thừa, huống chi là tôi không có lời nào để nói. Tôi nghe miệng mình đắng chát. Tôi ứa nước mắt. Kiệt gục đầu xuống vòng tay khoanh trên mặt bàn. Tôi thấy hai vai cậu bé rung lên bần bật. Không lâu, tôi nghe có tiếng người gọi tên tôi. Tiếng kêu vang dọc dài theo hành lang.
“Thôi Kiệt về đi, chiều tôi sẽ ghé qua nhà.” Tôi vỗ về Kiệt.
Tôi biết những cánh cửa vất vả và khổ nhục đang mở ra trước mặt chúng tôi. Nhưng vất vả khổ nhục như thế nào thì tôi không rõ. Phải đợi đến nửa tháng sau tôi mới biết viên thuốc độc đầu tiên họ cho và bắt chúng tôi uống là lòng hoài nghi. Nó là một thứ “sinh tử phù”. Nó mở đầu cho một mùa nghi hoặc.
Trích Bụi Và Rác, Chương Một B
Con Kỳ Nhông
Căn nhà “nhỏ như cái lỗ mũi” của tôi sau cùng thêm một cháu bé mới chào đời cùng với mười người nữa. Một đứa cháu trai tên Dũng là đại úy cảnh sát chưa lập gia đình; cháu Hùng, em của Dũng, là trung úy Quân tiếp vụ; Khiết, em rể, trung sĩ an ninh quân đội chạy từ Phan Thiết dẫn theo vợ và hai con; sau cùng là ông anh cả tôi, trung tá Biệt Động Quân bị thương trong một trận đánh, bán thân bất toại phải ngồi xe lăn, cùng bà chị dâu và hai cháu gái! Chừng ấy con người chia nhau một căn phòng mười sáu thước vuông, nghẹt thở vì thiếu không khí giữa một thành phố cũng chẳng còn không khí đâu để thở nữa.
Sáng Chủ nhật, Quân - luật sư, bạn thời trung học của tôi, người từng theo đuổi Quỳnh suốt nhiều năm trời - bất ngờ đến gõ cửa. Hắn bỏ áo sơ mi ngoài quần, chân đi dép râu, tay xách túi vải kaki. Chỉ có chiếc kính cận tròn nhỏ kiểu John Lennon là còn nguyên màu sắc Saigon trên mặt hắn, phần còn lại cho tôi thấy một Quân khác, rất khác với cái vẻ diêm dúa của hắn trước đây.
“Quỳnh đâu?” Hắn hỏi tôi khi mới vừa đặt chân lên thềm cửa. Và không đợi tôi trả lời, Quân đi thẳng vào buồng trong. Cả nhà nằm la liệt dưới đất. Lúc đó Quỳnh đang bế con ngồi trên chiếc giường độc nhất trong phòng.
“Trời đất! Nhà gì mà đông dữ vậy? Quỳnh, em có khỏe không?” Hắn hãi hùng ra mặt trước cảnh tượng nhà tôi.
“Cám ơn anh, em khỏe!” Quỳnh trả lời chậm rãi. Nhưng tôi thấy mắt cô ngó chăm vào quần áo và dép râu của Quân như nhìn một người từ hành tinh khác xuống.
“Anh làm cái gì vậy?” Quỳnh hỏi không kềm được ý nghĩ trong đầu.
“Tao làm cách mạng!” Hắn trả lời nhanh, gọn, tỉnh bơ như không.
“Hồi nào vậy?” Quỳnh hỏi tiếp. Tôi thấy cô cười nửa miệng.
Quân không trả lời. Hắn quay sang tôi:
“Thăng, mày có nghe tên ông Mười Tân không?”
“Không. Mà chi vậy?”
“Mười Tân là con ông bác tao. Ảnh làm lớn lắm. Tao làm việc cho ảnh từ hồi Hòa đàm Paris tới giờ. Sao? Mày thấy tao có giống cán bộ không?”
“Giống, giống lắm!” Tôi nói cho qua chuyện.
Quân bỗng đập mạnh lên vai tôi, liếc mắt nhìn ông anh và bà chị và đám cháu tôi ra dấu hỏi.
“Ông anh tôi và gia đình từ miền Trung mới chạy vào. Còn hai đứa cháu tôi là sĩ quan vừa mới rã ngũ.” Tôi giới thiệu.
Quân gật gù, nói giọng lên lớp.
“Tôi khuyên các anh nên đi trình diện ngay. Cách mạng vừa ban hành chính sách khoan hồng cho ngụy quân, ngụy quyền. Trình diện sớm, an tâm sớm. Rồi còn về nhà mà làm ăn sinh sống chớ!”
Cả nhà không ai nói tiếng nào. Mấy đứa cháu tôi nghiêm mặt lại. Ông anh tôi trở mình, đổi thế ngồi. Quân thở dài.
“Ghê quá! Cả một nhà ngụy rặt thế này thì làm sao…”
“Ông là loại người gì vậy?” Đột nhiên thằng cháu tôi đứng bùng dậy bước thẳng tới trước mặt Quân hỏi.
“Đừng Dũng!” Tôi ngăn. Nhưng Dũng đã nắm cổ áo Quân.
“Dép râu hả? Nói thêm một tiếng nữa, tôi không tha đâu.”
“Đừng Dũng!” Tôi lập lại.
Dũng thả cổ áo của Quân ra, phủi hai tay vào nhau, trở lại chỗ ngồi. Quỳnh vẫn bế con ngồi trên giường, mắt mở lớn nhìn cảnh tượng bất ngờ. Quân vuốt lại cổ áo, sửa gọng kính trên mũi, mặt tái xanh.
“Chết đến nơi mà không biết! Rồi, cứ ngồi đó coi!” Tôi nghe giọng nói của hắn khan lại. “Anh về nghe Quỳnh.” Hắn từ giã giọng ngọt ngào. Và trước khi bước ra khỏi phòng, hắn nói trống trơn. “Xin chào!
Tôi kéo chốt cổng nhường lối đi cho Quân, nhưng hắn không bước ra ngay.
“Mày cấp bậc gì trong quân đội?” Quân bất ngờ hỏi tôi.
“Chi vậy?”
“Hỏi cho biết vậy thôi!”
“Tôi chỉ là khóa sinh dự bị sĩ quan học chín tuần ở Quang Trung, rồi được biệt phái về Bộ!”
“Biệt phái?” Hắn chặc lưỡi. “Khó dữ. Sĩ quan tác chiến thì còn đỡ, chớ mà biệt phái thì gay lắm…”
“Tại sao?” Tôi hỏi.
“Sĩ quan thì chỉ biết đánh nhau thôi. Chớ còn biệt phái là dòm ngó người ta, là tình báo, là CIA… Tao sợ mày bị qui vào thành phần có nợ máu nhân dân…”
Tôi đứng cứng người. Gần nửa tháng nay, kể từ ngày Saigon đổi chủ, tôi có nghe người này người nọ nói điều này điều kia, phần lớn là suy giải chớ không có cái lối chĩa vào mặt như thế.
“Đừng lo, tao biết. Thứ người đi trên mây như mày thì CIA cái chó gì. CIA thứ thiệt cũng chẳng ngu gì xài mày. Thôi tao về. Bữa nào tao sẽ đưa đồng chí Mười Tân tới chơi.”
Trời ơi đồng chí hắn làm tôi ngộp thở.
Bước xuống hẻm, hắn cúi đầu mở khóa xe đạp rồi leo lên yên nhún nhún.
Hắn làm tôi ngạc nhiên thêm một lần nữa. Chiếc xe Volswagen đời 75 của hắn đã giấu biến chỗ nào. Hắn làm tôi nhớ một truyện ngắn của Tchekov có tựa đề là Con Kỳ Nhông, con vật có khả năng đổi màu da tùy thuộc vào nơi nó ẩn nấp. Quân giống con kỳ nhông cách gì.
Bụi & Rác – Chương Hai
Buổi Học Đầu Tiên
Lớp vẫn là lớp cũ, nhưng không khí hôm nay khác lạ như thể lần đầu tiên tôi đứng trên bục gỗ. Tôi nhìn quanh. Vắng Kiệt. Một số học sinh cũ không có mặt. Một vài cậu từ trường khác chuyển đến dồn lên mấy bàn đầu. Ngồi riêng một mình ở bàn thứ nhất là một học sinh gái. Cô bé ăn mặc không phải kiểu các nữ sinh Saigon. Chiếc áo ngắn may theo kiểu nửa sơ mi nửa bà ba làm cô khác hẳn. Cô có đôi mắt sắc và một giọng nói rất đặc biệt, khác với giọng nói của những người miền Bắc di cư năm Năm Tư. Cô tên Nhị Hà. Tôi ngồi xuống ghế, mở rộng những trang giáo án đã được soạn sẵn. Tôi không quên đặt bên cạnh cuốn sách giáo khoa Việt Văn do nhà xuất bản Giáo dục ấn hành ở Hà Nội. Cuốn sách này tôi đã phải cậy cục mãi mới mượn được của một chị giáo viên cấp ba miền Bắc mới chuyển vào, từ nay không được gọi là giáo sư trung học như ta vẫn gọi trước Bảy Lăm mà phải gọi là giáo viên thôi. Tôi xem cuốn sách đang có như một thứ cẩm nang. Bởi vì tôi vốn mù tịt về môn Việt Văn - mặc dù trong tủ sách tôi gần như không thiếu tác phẩm nào của các nhà văn tiền chiến và hiện đại – tôi đâu phải là người được nhà trường đào tạo để phụ trách môn này. Vả lại, người giảng dạy môn Việt Văn của nhà trường ngoài Bắc theo tôi được biết trước hết phải là người có nắm trong tay một số nguyên lý căn bản về nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Tôi làm gì có được thứ ấy. Tôi chưa được đọc một cuốn truyện nào của một tác giả nào “ngoài đó”. Những nhà văn, nhà thơ thời kháng chiến chống Pháp mà tác phẩm của họ tôi có từng nghe qua như Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan, Tây Tiến của Quang Dũng, Nhà Tôi của Yên Thao… thì nay không thấy trong chương trình. Còn những tác giả khác cũng ở “ngoài đó”, mà sau này tôi được biết qua vụ Nhân Văn Giai Phẩm như Phan Khôi, Trần Dần, Phùng Quán, Lê Đạt… thì đương nhiên lại càng không thể có trong chương trình.
Tôi lo sợ cũng là phải thôi.
Bài giảng hôm nay là một đoạn trích trong tiểu thuyết Cái Sân Gạch của người viết ký tên là Đào Vũ. Cả tên tác phẩm lẫn tên tác giả đều hoàn toàn xa lạ với tôi. Tôi đã đọc trước phần tóm lược lẫn phần giải thích ở nhà, nhưng không sao chia sẻ được những suy nghĩ của tác giả. Đây là một vấn đề thuộc nông thôn miền Bắc sau Hiệp định Genève. Nó không phải là vấn đề mà Bùi Hiển đưa ra trong Nằm Vạ, hoặc Nam Cao trong Chí Phèo hoặc Ngô Tất Tố trong Tắt Đèn. Tài liệu cho biết Lão Am, nhân vật chính trong Cái Sân Gạch có những nét điển hình của tầng lớp trung nông trên cánh đồng miền Bắc.
Tôi nói như đọc, mắt vừa nhìn vào giáo án vừa ngó xuống những con mắt phía dưới. Tôi dừng khá lâu trên mắt Nhị Hà muốn biết phản ứng của cô bé về những gì tôi đang nói đang đọc.
“Đây là một nhân vật có nội tâm phong phú”, tôi đọc, “phức tạp và có cá tính khá độc đáo. Trong vấn đề vào hợp tác xã của Lão Am, Đào Vũ không chỉ phân tích mặt quyền lợi vật chất mà còn đề cập đến vấn đề tình cảm, thói quen và nhiều ràng buộc linh tinh khác trong đời sống của người nông dân. Lão Am đã có những suy nghĩ riêng khi phải vào hợp tác xã: Lão vào nhưng trong tâm hồn vẫn còn cái gì u uất chưa nguôi. Xuất thân là một cố nông làm thuê, Lão Am đã từng bỏ làng ra mỏ Đông Triều bảy năm, sau đó trở về lại với cái túi rỗng và hai lỗ mũi đầy những bụi than. Lão từng làm phó lý, tậu được một ít ruộng vườn và trong đợt cải cách ruộng đất, lão bị qui là phú nông cường hào. Lão là người trọng nho học và những lời dạy của thánh hiền…”
“Ai có ý kiến?” Tôi hỏi ngay khi vừa chấm dứt phần sơ lược. Cả lớp im lặng. Mấy cậu học trò cũ ngồi ở bàn chợt nhìn tôi bằng những đôi mắt thương cảm. Từ Socrates, Platon, Aristote… tôi không nhảy tới Heidegger, Sartre mà nhảy qua Marx, Engels một cách khó hiểu. Rõ ràng là tôi nói không suông sẻ lắm. Tôi nhìn Nhị Hà. Mắt cô ngó thẳng vào mắt tôi. Tôi thấy cánh tay cô nhúc nhích. Rất chậm rãi, cô từ từ đưa tay lên. Cô không đưa một ngón tay kiểu Saigon. Cô đưa nguyên cả cánh tay.
“Em có ý kiến!”
Tôi gật đầu.
“Em nghĩ rằng nhân vật trong Cái Sân Gạch là một nhân vật lạc hậu…”
Tôi cúi xuống nhìn lại trang giáo án. Đúng, tôi quên nói cái chính trong bài giảng là phải nhìn cho ra tính cách lạc hậu trong nhân vật Lão Am.
“Phải. Cám ơn Nhị Hà.” Tôi liếc qua trang sách giáo khoa tiếp tục nói như đọc “Cái ưu điểm của Đào Vũ là đưa ra được một nhân vật có nội tâm phong phú, có cá tính – tôi biết mình lặp lại điều đã nói – nhưng viết về phong trào hợp tác hóa nông nghiệp mà lại chọn một trung nông sống bằng nghề thủ công làm nhân vật trung tâm thì không thuận lợi cho việc thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm…”
Cả lớp im lặng, lạnh lẽo. Mấy học sinh cũ lắc đầu. Các học sinh mới cũng không khá hơn. Nhị Hà cúi xuống cuốn tập đã xếp.
“Thưa thầy!”
Có tiếng nói từ cuối phòng. Người đưa tay lên, chỉ một ngón thôi, là Hiệp, bạn của Kiệt, một trong những học sinh giỏi của tôi.
“Em không hiểu gì hết! Ông nhà văn này viết những điều chẳng ăn nhập gì đến đời sống của chúng ta hết. Hợp tác hóa là gì? Tại sao lại phải vào hợp tác xã?”
“Em có ý kiến!” Nhị Hà lại giơ nguyên cả bàn tay lên. “Em không đồng ý với phát biểu của anh gì gì đó”, cô quay đầu lại nhìn về phía Hiệp. “Nhà văn Đào Vũ viết những điều rất liên hệ đến nông thôn miền Bắc. Có thể nông thôn miền Nam chưa có cảnh này, nhưng nông thôn miền Bắc vào những năm sáu mươi nó là như thế.”
“Em xin có ý kiến.” Hiệp đưa tay lên.
Tôi đưa mắt ra dấu cho Hiệp cứ nói.
“Tôi muốn hỏi chị vậy chớ bây giờ ngoài Bắc vấn đề ấy ở nông thôn còn không?”
Nhị Hà không trả lời ngay. Một lúc, chị đưa cả bàn tay lên, nhìn tôi xin nói. Tôi gật đầu.
“Tôi nghĩ là vấn đề đó vẫn còn.”
Tôi nhìn đồng hồ. Còn mười phút nữa đến giờ đổi lớp. Tôi ra dấu cho cả lớp ghi những điều cần làm ở nhà cho kỳ tới. Tôi cố ý không giải quyết vấn đề. Tôi xếp mấy trang giáo án và cuốn sách giáo khoa lại, buồn bã ngó xuống lớp học. Tôi chờ tiếng chuông đổi lớp, nhưng thời gian hình như đã ngừng lại ngay khi tôi không còn chút chữ nghĩa nào trong đầu để nói thêm về bài học. Tôi tự hỏi không biết mình sẽ làm gì trong những ngày sắp tới, nhưng tôi biết chắc chắn công việc đứng trên bục gỗ này không còn thuộc về tôi nữa. Bao lâu tôi còn đứng ở chỗ này, tôi sẽ còn tiếp tục nói dối. Nói dối đã là điều đáng khinh, nếu tất cả những điều dối trá ấy lại được thốt ra trong sự thành thật của tôi thì sự khinh bỉ ấy không biết cách nào đo lường được. Tôi đi tới dãy bàn cuối phòng, ngồi xuống chỗ ghế trống của Kiệt. Tôi hỏi Hiệp, bạn cùng bàn của Kiệt:
“Em có gặp Kiệt không?”
“Thưa thầy, có!”
“Sao Kiệt không đi học?”
“Kiệt nói với em sẽ theo má về dưới quê.” Hiệp ngập ngừng tiếp. “Mà thầy có biết là cha của Kiệt đã tự tử không?”
“Có, có!” Tôi nói.
“Thầy nghĩ sao về cái chết của ba Kiệt?”
Tôi nhìn thẳng vào mắt Hiệp. Ba của Hiệp là sĩ quan Biệt Động Quân, bạn cùng khoá của ông anh tôi. Cũng như Kiệt, Hiệp là người ít nói và là học sinh xuất sắc.
“Theo em thì sao?” Tôi hỏi ngược.
“Em không biết. Em muốn nghe thầy nói.”
“Tôi cũng không biết nói thế nào. Có nhiều điều mới xảy ra đây, tôi không biết gì hết.”
“Tại sao thầy không đi?” Đột nhiên Hiệp hỏi tôi.
Tại sao mình không đi? Câu hỏi ấy đâu phải đặt ra cho một mình tôi. Câu hỏi ấy đặt ra cho hằng triệu con người…ở Sàigòn và cả miền Nam. Những ngày tháng Tư, Quỳnh đang chuẩn bị sanh con đầu lòng. Một tuần lễ trước ngày Saigon thất thủ, một người bạn ở tòa đại sứ Úc hứa cho hai vé và cho điểm hẹn. Tôi chở Quỳnh đến nơi đúng giờ, nhưng điểm hẹn không một bóng người. Quanh tôi người ta bắt đầu hôi của. Bàn ghế, rượu, xe, đàn dương cầm, gạo…ở mấy căn nhà bị kéo ra sân. Người ta ngang nhiên chở đồ đạc nhà người khác đi như một kiểu dọn nhà công khai. Quỳnh ôm bụng ngồi yên sau chiếc Lambretta. Đôi mắt Quỳnh thất thần, sợ hãi. Suốt buổi chiều chờ đợi không thấy bóng dáng tăm hơi, tôi đành chở Quỳnh trở về. Người ta bảo xuống bến Bạch Đằng. Tôi chở Quỳnh đi qua đường Tự Do. Cả dãy phố đóng cửa. Bến tàu đầy người chen chúc nhau. Quỳnh hỏi tôi có nhớ vụ di tản miền Trung không. Tôi hiểu nỗi lo sợ của Quỳnh. Tôi buồn bã quay xe trở về. Quỳnh đóng cửa, mở cuốn album của tôi ra, xé đốt tất cả những ảnh tôi chụp hồi ở quân trường Quang Trung.
“Chắc trước sau gì cũng phải tìm cách đi thôi?”
Tôi không muốn trả lời trực tiếp câu hỏi của Hiệp. Trước ba mươi tháng Tư nhiều lần trong lúc giảng bài, tôi hay đưa ra thái độ vô chính trị của mình. Đối với tôi chế độ nào mở được nhiều nhà trẻ, nhà thương, nhà trường, dẹp bỏ được nhà tù, nâng cao được mức sống văn hóa và vật chất người dân, chế độ ấy là tốt. Trong khi giảng bài, có lần tôi nhắc đến Niccolo Machiavelli qua cuốn Le Prince, Sứ Quân, và tôi nói tôi không thích chính trị, mặc dù tôi cũng từng hỏi ngược lại là liệu người ta có thể tránh được chính trị không. Tôi đọc Bác sĩ Zhivago của Boris Pasternak, tôi ghê tởm một Komarovski đầy thủ đoạn và một Pacha Antopov sắt máu khi theo cách mạng. Tôi vẫn nghĩ rằng để bảo vệ một chế độ người ta phải dùng bạo lực và bạo lực thì không thể không đi kèm với thù hận, chiến tranh và đổ máu. Liệu, một dân tộc muốn tồn tại mà không đứng lên làm chiến tranh không? Hay muốn có hoà bình thì phải chuẩn bị chiến tranh. Nhưng tại sao muốn có hoà bình mà không thoả thuận gìn giữ hoà bình? Tôi đã đọc được, nghe được ở đâu những câu này?
“Gia đình em đi hụt. Suốt ngày chờ trên sân thượng của một điểm hẹn nhưng không có chiếc máy bay trực thăng nào đáp xuống cả.”
“Tôi cũng vậy. Tôi đã đến điểm hẹn. Và tôi phải trở về.”
“Bây giờ em tính sao?”
“Em không rõ. Em không biết làm thế nào là đúng trong lúc này? Có lẽ…” Hiệp ngập ngừng. Nhưng tiếng chuông đổi lớp bất ngờ reo lên đã chấm dứt câu nói của Hiệp. Tôi nghe tiếng chuông dội lại lồng ngực tôi. Tôi bước như chạy ra khỏi lớp.
Bụi & Rác – Chương Ba
Khói Thuốc
Ở phòng họp, mấy đồng nghiệp của tôi đang bàn tán về sự vắng mặt của Ký, Sum, và Tích. Sum phụ trách môn Sử Địa, người mập mạp tròn trịa, vui nhộn. Khi nghe có tiếng cười ở đâu biết là có Sum ở đó. Tích dạy Pháp văn, vừa mới đổi về trường được năm nay. Ký, tác giả nhiều bài thơ tôi từng được đọc khi còn trung học, hiện dạy Việt văn. Anh là tay nhậu đóng đô thường trực ở Chợ Đủi. Chợ Đủi? Những buổi chiều ngồi với Ký, Lộc và Nghĩa, với những thùng bia dưới chân chắc rồi đây sẽ không bao giờ còn nữa. Ký đóng Đại Úy, còn Sum và Tích mang cấp Trung Úy. Cả ba đều bị gọi đi học tập cải tạo. Ở góc phòng, cô giáo Sâm, người luôn luôn có cặp kiếng đen trên khuôn mặt lạnh lùng đang nói chuyện với cô Thiên Hương về việc mua nhu yếu phẩm. Tôi đã bắt đầu quen nhìn cái cảnh chiều chiều ra sân sau, các thầy các cô chia nhau mấy con cá, con tôm, bó rau muống. Gần đó là Duy, một trong những thầy giáo dạy toán giỏi nhất cấp Trung học Saigon, cựu giám học nhà trường, trước Bảy Lăm bị tù vì tội tiết lộ đề thi Tú Tài, nay vừa trở về trường cũ, đang ngồi chụm đầu nói chuyện với Trần Nguyên, người nằm vùng và Vũ Anh Tuấn, người tập kết từ miền Bắc mới về. Y luôn miệng nói giáo viên ngoài Bắc nghỉ giữa giờ chỉ ăn cam chứ không thèm uống nước trà. Và học sinh miền Bắc luôn đứng đầu trong các kỳ thi toán quốc tế.
Tôi kéo ghế ngồi xuống cạnh Minh và Danh. Minh là Hiệu trưởng cuối cùng của ngôi trường này trước khi Saigon thất thủ. Anh có dáng người hơi thấp nhưng da thịt đen nâu chắc nịch. Danh, dạy Đức ngữ của Trung Tâm Văn Hóa Đức, đồng thời cũng phụ trách một số giờ Triết của trường. Danh đang là đề tài tranh luận tại các trường học sau ngày Ba Mươi. Mới tuần trước, nhà trường tổ chức buổi họp bất thường. An ninh chặt chẽ. Cổng trước, cổng sau, công an bộ đội đóng chặt không kẽ hở. Khách đến thăm được giới thiệu là một Ủy viên Bộ Chính Trị, nhưng khi vào phòng họp người ta biết là ông Tổng Bí Thư đảng. Sau phần nói chuyện về cái gọi là tình thương và thù hận trong việc giáo dục học đường, ông ta mời mọi người phát biểu.
Chính trong lúc không ai chờ đợi, Danh đưa tay xin nói. Lê Hiên ngó Danh. Tôi thấy y có cái nhìn đầy lo ngại. Y đã chuẩn bị cho Nguyên sẽ là người phát biểu đầu tiên và sau đó là Vạn, một giáo sư “ngụy” nhưng “giác ngộ sớm”. Nhưng thật là bất ngờ, Danh đã đứng dậy:
“Từ hồi giải phóng tới giờ, đây là lần đầu tiên, tôi được gặp một người Cộng Sản thứ thiệt…”
Cả phòng “ồ” lên. Minh lo lắng nhìn tôi. Tôi lo sợ nhìn Danh. Hiên ngồi yên cắn ngón tay trỏ, ngó lên bàn chủ tọa. Danh vẫn tự nhiên như không. Anh nói “cho tôi xin được phép phát biểu hai điều”. Trước hết anh nhắc đến quan niệm giáo dục của nhà triết học Đức Emmanuel Kant. Anh nói giáo dục trước hết là tình thương, nếu không có tình thương người ta không thể đào tạo được con người tốt cho xã hội. Tình thương không phải chỉ là vũ khí chinh phục một tâm hồn, nó còn là điều kiện thiết yếu để xây dựng một tâm hồn. Thứ hai, Danh tiếp, một số bạn bè tôi hiện đang nằm trong các trại học tập cải tạo cùng với các sĩ quan, công chức chế độ cũ. “Tôi nghĩ đó là một việc làm vô ích. Tôi không tin rằng công việc cải tạo này đem lại kết quả. Bởi vì nó thiếu tình thương, thiếu cái hòa hợp hòa giải dân tộc.” Tôi nhớ in hình như lúc đó người đứng đầu đảng Cộng Sản Việt Nam nói rằng: Ông là người mác xít và người duy vật mác xít không chia sẻ được lập trường duy tâm của Kant là một lẽ đương nhiên. “Còn những người bạn của đồng chí”, ông ta gọi Danh là đồng chí. Tôi không hiểu tại sao, “ai bảo đảm rằng họ không phải là CIA? Tôi có một người cháu đeo lon Đại úy Ngụy và hiện nó đang học tập ở Phan Thiết. Tôi cho rằng đó là một biện pháp cần thiết của chế độ khi lấy được chính quyền trong tay.”
Sau vụ này, người hiệu trưởng mới không nói gì với Danh. Lê Hiên lúc nào cũng vẫn là người thâm trầm, kín đáo.
“Có gì lạ không ông?” Tôi hỏi Danh.
“Sao không? Ông không biết à? Bây giờ tôi phụ trách việc sửa tất cả bàn ghế hư của nhà trường.”
“Sao? Ông làm thợ mộc?”
“Tại sao không chớ! Không chừng sắp đến lượt ông mà ông không hay!”
Minh rót trà vào ly, uống một ngụm, ngó ra sân. Anh nói nhỏ:
“Tôi nghĩ là mấy ông ít nói đi thì hay hơn.”
Tôi ngó ra cửa lớn nối liền hành lang với phòng hành chánh. Lê Hiên đang bước rất chậm về phía bàn nước. Y khẽ gật đầu chào chúng tôi, xong từ tốn kéo ghế ngồi xuống. Nhấc điếu thuốc ra khỏi môi, đặt lên cái gạt tàn, Hiên rót nước trà, uống chậm rãi. Tôi chờ Hiên nói, sau cùng đốt gần tàn điếu thuốc, Hiên mở lời:
“Tôi muốn gặp anh Thăng có chút việc riêng. Anh có rảnh không?”
Tôi nhìn Minh và Danh. Không ai nói gì.
Tôi gật đầu.
“Xin lỗi hai anh.” Hiên đứng dậy. Tôi bước theo.
Tới trước cửa phòng giáo sư, Hiên đi chậm lại chờ tôi cùng bước song song.
“Ông bà Phan liên hệ thế nào với anh?”
“Ông bà Phan?” Tôi giật mình.
“Phải, ông Phan. Lâu nay anh có được tin tức gì của ổng không?”
“Không. Tại sao tự nhiên anh hỏi chuyện ông Phan?”
“Anh Thăng nên nhớ là không có việc gì trên đời này mà cách mạng không biết. Anh là người có cuộc sống như thế nào trước khi cách mạng về, chúng tôi đã rõ. Hôm qua tôi có được gặp đồng chí Mười Tân.”
Hiên nhắc ông Mười Tân làm tôi nhớ câu nói của Quân hôm đến nhà tôi. “Anh Mười Tân là con ông bác tao. Ảnh làm lớn lắm. Tao làm việc cho ảnh từ hồi Hòa đàm Paris tới giờ. Sao? Mày thấy tao có giống cán bộ không?”
“Tại sao hồi đó anh ở trong nhà ông Phan?” Lê Hiên hỏi tiếp. “Đâu có phải ai cũng vào nhà ông Phan ở được phải không?”
“Nếu anh muốn biết chuyện ông Phan thì đó là một câu chuyện dài.”
“Không. Biết thì cách mạng đã biết hết rồi. Nhưng vấn đề ở đây là tôi muốn anh thành khẩn kể ra.”
“Anh muốn tôi kể ra hay viết ra?”
“Theo tôi, anh nên viết thì tốt hơn.”
Tôi nhìn kỹ Hiên. Y có gương mặt xanh mướt, hai gò má nhô xương, đôi mắt thỉnh thoảng nhấp nháy như người sợ ánh sáng, hai cánh tay dài lòng thòng. Cách phát âm từng chữ từng tiếng chậm rãi nhẹ nhàng của Hiên làm tôi sợ.
“Còn một điều nữa, tôi muốn nói với anh.”
Hiên nhìn thẳng vào mắt tôi. “Tôi biết anh đang gặp khó khăn về việc đứng lớp. Xin anh cứ nói thẳng để tôi tìm cách giải quyết.”
Tôi không ngạc nhiên gì về điều Hiên nói. Anh ta phải biết điều đó thôi.
“Cảm ơn anh. Tôi muốn xin anh giúp một điều.”
“Anh cứ nói. Điều gì có thể làm được tôi sẽ không từ chối.”
“Tôi muốn xin nghỉ dạy. Tôi muốn tìm một nghề khác để sống.”
Hiên nhìn tôi, bàn tay trái của y giơ lên gãi gãi mép tai.
“Tại…sao? Mà tại sao mới được chớ?”
“Tôi thấy quay một vòng tới một trăm tám mươi độ khó quá!”
“Tôi không nghĩ như vậy đâu. Cách mạng sáng rỡ như mặt trời. Có gì mà quay đến một trăm tám mươi độ. Đọc Sử, anh không biết Ngô Thì Nhậm sao? Không ai nói Ngô Thì Nhậm quay tới một trăm tám mươi độ. Ngô Thì Nhậm là một kẻ sĩ thức thời…”
Y làm tôi chán ngán. Tôi giơ tay xem giờ.
“Xin lỗi. Có lẽ tôi phải xuống lớp.”
“Chuông chưa reo mà!” Hiên nói, “Nhưng thôi, cũng được.”
Khi tôi bước chân ra tới cửa, Hiên gọi giật lại:
“Anh Thăng, dù sao anh cứ viết đơn. Tôi sẽ chuyển cho anh?”
“Xin cảm ơn!” Tôi trả lời như một cái máy.
Trên hành lang trở về phòng họp, tôi đi như một người bị thương. Mùi khói thuốc của Hiên theo đuổi tôi tận chỗ ngồi giữa Danh và Minh.
Bụi Và Rác – Chương bốn