Sổ Tay NXH 2

Nguyễn Xuân Hòang : Sổ Tay

TV và BH

SỔ TAY THÁNG NĂM 2002

Đi tìm nguồn cội

Trong cuộc hội thảo mang tên East Coast/West Coast: Vietnamese American Writers, Poets and Performers tổ chức hôm 2 tháng Ba, 2002 tại Đại Học San Francisco State, các nhà văn trẻ Mỹ gốc Việt đã gặp gỡ trong một khung cảnh ấm áp và cảm động. Họ là những nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ trình diễn người Việt Nam, nhưng họ nói và viết bằng Anh ngữ. Tác phẩm của họ có khác nhau về nội dung, nhưng cùng chứa một ý nghĩa: Đi tìm nguồn cội, đi tìm câu trả lời cho câu hỏi “Tôi là ai? Tôi đứng ở đâu?”

Monique T.D. Trương, Mộng Lan, Andrew Lâm, Andrew X. Phạm, Nguyễn Quí Đức, Lê Thị Diễm Thúy, Trường Trần, Kiên Nguyễn, Lan Trần, và Maura N. Donahue, Nguyễn Đại Hải. là những người đang đi tìm câu trả lời đó.

Bài viết này, thay thế Sổ Tay tháng Năm, chỉ là một giới thiệu chung chung về một hiện tượng mới: những nhà văn Mỹ gốc Việt trong văn chương Mỹ. Để có một cái nhìn tương đối đúng đắn hơn về tác giả và tác phẩm của họ, thiết nghĩ cần nhiều bài viết khác do những người hít thở được không khí văn chương và ngôn ngữ của họ. Người viết cần một chìa khóa ngôn ngữ để mở cánh cửa đó.

Monique T.D. Trương, tác phẩm đầu tay The Book of Salt sẽ được phát hành năm 2003, trả lời câu hỏi là động cơ nào đã khiến cô chọn nghề viết văn, cho biết như mọi người, cô cũng muốn chọn một ngành nghề nào làm ra tiền và bảo đảm cuộc sống, “nhưng tôi không thích nghề luật sư” mặc dù cô đã tốt nghiệp luật khoa trường Đại Học Columbia 1995. “Cha tôi thường bảo tôi hãy làm nghề gì tôi ưa thích.” Chị nói, “Vì vậy bây giờ tôi đã dành toàn thời gian cho việc viết lách.” Monique Trương là một trong những tác giả trẻ Mỹ gốc Việt viết văn bằng tiếng Anh.

Với Andrew Lâm, một nhà báo, một nhà bình luận, tác giả nhiều truyện ngắn – thì viết là một thôi thúc. Từ hồi nhỏ ở Việt Nam, anh đã thích viết. Thuở đó anh đã từng làm thơ tiếng Việt. Nhưng sau khi tốt nghiệp Đại Học Berkeley ngành sinh hóa, Andrew Lâm quyết định đi theo con đường viết văn. Và anh đã chọn việc diễn tả suy nghĩ của mình bằng Anh ngữ.

Mộng Lan đơn giản hơn. Cô viết vì muốn bày tỏ cảm xúc và ý nghĩ của mình. Trước khi là nhà văn, Mộng Lan là một họa sĩ. Chọn ngôn ngữ viết vì theo cô, cách diễn tả này “chính xác hơn.”

Về đề tài trong tác phẩm, Mộng Lan nói rằng cô không chọn đề tài. “Chính đề tài chọn tôi. Tôi viết về những gì tôi thấy và tôi cảm, những gì xảy ra quanh tôi, những gì chạm đến tôi.”

Tập thơ đầu tay của Mộng Lan, Song of the Cicadas (Khúc Hát của Những Con Ve Sầu). Cô nói “Một cách nào đó, trong tác phẩm đầu tay này của tôi, có từ 70 tới 75 phần trăm được viết từ kinh nghiệm ở Việt Nam,” kinh nghiệm mà cô có được trong sáu tháng trời giữa hai năm 1995-96. Phần còn lại của cuốn sách là kinh nghiệm sống của cô trong những tháng năm ở Vùng Vịnh này.

Trong tác phẩm của những người trẻ nói trên, người đọc vẫn như còn ngửi được mùi hương khói, tro tàn của cuộc chiến Việt Nam, vẫn còn mang nặng dấu vết, hơi hám, nỗi đau của cuộc chiến Việt Nam. Chiến tranh Việt Nam như một lớp mây, một lớp mù sương bao trùm những trang chữ của họ.

Hình ảnh những nhà văn trẻ Mỹ gốc Việt này được miêu tả như một con người đứng giữa hai thế giới. Viết với họ là đi tìm lại bản sắc của mình. Một mặt họ sống và trưởng thành trên đất Mỹ, hấp thụ nền văn hóa Hoa Kỳ, trong khi đó họ vẫn sống giữa một gia đình còn nặng quá khứ trong phong tục tập quán, trong lời ăn tiếng nói, trong liên quan xã hội.

“Tôi là ai?” Có thể là câu hỏi thường trực của họ.

Với Monique Trương, The Book of Salt là câu chuyện về một người trẻ tuổi Việt Nam sống ở Paris vào cuối thập niên 1920. Anh nhận làm bếp và sống trong nhà bà Gertrude Stein, một văn sĩ người Mỹ lưu vong trong thời kỳ “Lost Generation” cùng với nhà văn Ernest Hemingway. Đây là thời gian bà Gertrude Stein sống với người yêu của bà ta là Alice B. Toklas.

Trong tác phẩm này, Monique viết lý do tại sao người đàn ông kia đã rời Việt Nam ra đi và vì sao anh ta quay về lại cố hương. Ý tưởng xây dựng tác phẩm này, cô cho biết được gợi từ một cuốn sách dạy nấu ăn của bà Toklas.

Monique Trương cho biết cô không chọn đề tài chiến tranh cho cuốn sách đầu tay của cô. “Tôi chỉ muốn qua tác phẩm này đưa ra một câu hỏi: chiến tranh là gì mà khiến cho một người phải bỏ nước ra đi, và bỏ lại sau lưng gia đình (nhà cửa). Với cuốn sách này, tôi muốn dùng trí tưởng tượng vẽ lại khung cảnh đầy xúc động trong đó chiến tranh không phải là yếu tố chính tác động lên tình cảm và quyết định của con người.”

Andrew Lâm thì khác. Anh cho biết mặc dầu rời Việt Nam lúc mới 11 tuổi, anh đã lớn lên trong một gia đình quân nhân, đã từng nhìn thấy sự đỗ vỡ tan nát và tro than của cuộc chiến.

“Ta không thể nào chối bỏ được quá khứ, muốn vươn lên khỏi dĩ vãng ta phải luôn luôn học hỏi quá khứ.”

Anh chọn đề tài nào đập vào cảm xúc anh mãnh liệt nhất, như mối quan hệ Việt-Mỹ vốn tác động lên cuộc sống cá nhân mỗi người Việt Nam.

Andrew X. Phạm, với Catfish and Mandala, viết theo thể loại non-fiction, anh đã mở toang cánh cửa ngôi nhà của mình ra trong một thái độ can đảm hiếm thấy trong loại hồi ký tiểu thuyết – nếu có thể tạm gọi như vậy – của một người viết trẻ tuổi Việt Nam. Cuốn sách của anh như một cơn lốc lôi cuốn người đọc vào một cuộc hành trình đầy hứng thú. Sức mạnh của tác phẩm này là chất liệu cuộc sống. Nhưng vẫn là câu hỏi chưa được trả lời: tôi là người Việt hay tôi là người Mỹ?

Theo Mộng Lan vấn đề bản sắc không đặt ra với cô. Cô nói “khi ở Mỹ tôi coi mình là người Mỹ, khi về lại Việt Nam tôi là Việt Kiều. Ở California, tôi là dân Cali. Chuyện rất là giản dị. Việt Nam là đất nước nơi tôi chào đời, còn nước Mỹ là nơi tôi lớn lên. Tôi chịu nợ cả hai xứ sở này.”

Những bài thơ của Mộng Lan, Trường Trần, Andrew X. Phạm, Kiên Nguyễn (The Unwanted) và Lan Cao (Monkey Bridge), Đinh Linh (Fake House), Lại Thanh Hà… ở Mỹ; và tiểu thuyết của Kim Lefevre (Métisse Blanche), Linda Lê (Les Trois Parques) ở Pháp… là những nụ hoa mới nở trong vườn văn chương Mỹ và văn chương Pháp.

Nhưng trường hợp của Nguyễn Quí Đức là một ngoại lệ, là một sự ngạc nhiên thích thú và là một khao khát khó đạt. Anh là một người đa dạng và tài hoa: nhà báo, nhà phát thanh, nhà văn viết bằng hai ngôn ngữ Việt và Anh, dịch giả Behind the Red Mist của Hồ Anh Thái, tác giả hồi ký Where the Ashes Are – và nhiều truyện ngắn viết bằng tiếng Việt của anh đăng trên các tạp chí văn chương tại hải ngoại như Văn, Văn Học, Hợp Lưu.

Với những tác phẩm viết bằng Việt ngữ – ngoài nước với 2 triệu dân, và có lẽ kể cả trong nước với trên 80 triệu dân – cái readership của các tác giả có vẻ như chỉ dừng lại ở con số 500 hay 1,000.

Viết bằng ngôn ngữ Anh hay Pháp, người ta dễ hiểu cái readership ấy rộng lớn hơn nhiều. Một tác phẩm được nhiều người đọc bao giờ cũng là niềm vui của tác giả. Người ta không in sách để bỏ vào một xó. Bởi vì không gì buồn hơn một cuốn sách in ra trong 5 năm trời không bán quá 1,000 cuốn.

Tác phẩm của những người trẻ này cho thấy cơ may cái vòng readership rộng lớn, mà còn cho thấy một hội nhập nhanh chóng của người Việt trên vùng đất mới: chưa kịp bước qua một phần tư thế kỷ, văn chương Việt Nam hải ngoại đã nhảy qua ba giai đoạn: viết về quê hương, tù đày, khốn khó, hoài niệm, quá khứ bằng tiếng Việt; chuyển dịch [chuyển ngữ?] những trang chữ tràn ngập dĩ vãng sang Anh ngữ [Pháp ngữ]; và giờ đây, chính những người trẻ tuổi này đã viết thẳng từ trái tim của họ ngôn ngữ của dân tộc mà họ đang sống với.

Nhưng liệu có thể gọi những tác phẩm của những người trẻ tuổi Việt Nam này viết bằng thứ ngôn ngữ không phải của mẹ đẻ – dù đề tài của nó vẫn là Việt Nam, nhân vật Việt Nam, khung cảnh Việt Nam – là văn học Việt Nam?

Nhà văn Nguyễn Quí Đức cho rằng tuy viết bằng Anh ngữ, nhưng linh hồn, tinh thần vẫn còn mang ảnh hưởng của văn hóa và lịch sử đất nước, vẫn còn gần gũi với kinh nghiệm người đi trước. Chỉ khác là họ dùng hư cấu để nói lên kinh nghiệm, thay vì dùng tự truyện hay hồi ký, và do đó đem vào tác phẩm một khả năng phổ cập. Chính những tác giả có quyền chọn chỗ đứng cho chính mình.”

Trước đây vào thập niên 50, Cung Giũ Nguyên, tác giả Le Fils de La Baleine, là một nhà văn được biết ở Pháp và ở những nước nói tiếng Pháp. Cũng giống như vậy cho Phạm Duy Khiêm, tác giả Légendes des Terres Sereines. Trong văn học Việt Nam, người ta không ghi danh hai ông vào danh sách nhà văn Việt Nam.

Cao Hành Kiện, Nobel Văn Chương, tác giả Linh Sơn, viết bằng tiếng Hoa, nhưng khi ông nhập tịch Pháp, viết bằng tiếng Pháp, giải Nobel trao cho ông như trao cho một nhà văn Pháp; trường hợp Nobel Văn Chương V.S. Naipaul cũng tương tự. Ông đã mang danh dự về cho nước Anh, không phải cho xứ Trinidad của ông. Và như thế cho Amy Tan (The Joy Luck Club), cho Maxine Hong Kingston (The Woman Warriors), cho Henry Wang (The Golden Child). họ đâu phải là nhà văn Trung Quốc. Họ là những nhà văn Hoa Kỳ trong dòng chính của văn học Mỹ.

Họ đã nhập vào đất nước họ đang sống, suy nghĩ bằng thứ ngôn ngữ của người bản xứ, phản ứng như một người Mỹ – hay một người Anh hoặc Pháp – tác phẩm của họ cho dù là một cuộc du hành trở về nguồn cội, tìm lại một quá khứ mà họ chưa có, có chăng chỉ là một nỗi đau ngay từ gia đình bơ vơ những ngày trên đất mới, và sự hội nhập của gia đình và chính họ.

So với các nhà văn Trung Quốc, Ần Độ hay Nhật Bản viết bằng Anh ngữ hiện nay, có thể các nhà văn trẻ Mỹ gốc Việt chưa đủ trọng lượng, vài người còn bị nặng hình thức và kỹ thuật diễn tả, có những bước dọ dẫm, nhưng đã sao, họ còn trẻ, còn nhiều hứa hẹn. Họ là những nhà văn Mỹ đang bước vào dòng chính của văn học bản xứ, bằng thứ ngôn ngữ phổ biến và được đọc nhiều nhất hiện nay trên thế giới.

Dù sao, họ đang đóng góp vào văn học Hoa Kỳ những tiếng nói mới. Liệu tiếng nói ấy có được nghe? Liệu văn chương của họ có chiếm lĩnh những chỗ đứng đặc biệt trong thế giới chữ nghĩa vốn mỗi ngày mỗi tháng mỗi năm tràn ngập những đầu sách của những người viết mới tài năng và sâu sắc? Sự tồn tại của tác phẩm họ cần được thử thách qua ngọn lửa thời gian. Nó đòi hỏi không chỉ là lòng đam mê chữ nghĩa mà còn tài năng của họ. Nếu không, những tác phẩm ấy rồi cũng sẽ nhanh chóng rơi vào quên lãng.*

NGUYỄN XUÂN HOÀNG

* Tạp chí Văn hiện đang chuẩn bị làm một số đặc biệt về những nhà văn Mỹ gốc Việt với các tác giả nói trên (cùng với Lan Cao, Đinh Linh,…) qua sự điều hợp của nhà văn Nguyễn Quí Đức.

SỔ TAY sáu & bảy, 2002

Phạm Duy và vết thương di tản

Như những người cùng lứa tuổi, tôi ưa thích nhạc Phạm Duy, trước khi yêu thích nhạc Trịnh Công Sơn. Tôi nghĩ, trước khi nổi tiếng với những ca khúc của chính mình, Sơn cũng là một người yêu nhạc Phạm Duy. Thế hệ của anh tôi, theo kháng chiến chống Pháp, chắc chắn là thế hệ của những người chọn con đường ra chiến khu một phần cũng vì âm nhạc của ông.

Nhưng tôi có thêm một lý do để nhớ đến ông nhiều hơn các bạn tôi một chút vì cho đến năm 1972 – không nhớ chắc là năm 72 hay 70, cái năm mà nhà văn Ngô Thế Vinh cũng ra hầu tòa vì một bài báo của anh – tôi bị phiền phức do một ca khúc của ông: Bài bà Mẹ Gio Linh.

Phạm Duy viết Bà Mẹ Gio Linh năm 1948. Năm 1972, sau khi Trần Phong Giao thôi tờ Văn, ông Nguyễn Đình Vượng nhờ tôi làm Tổng Thư Ký tòa soạn ở 38 Phạm Ngũ Lão. Lúc đó tạp chí Vấn Đề của kịch tác gia-giáo sư Vũ Khắc Khoan đặt trên lầu cùng địa chỉ với tờ Văn. Ông Thần Tháp Rùa khi đến tòa soạn bao giờ cũng đi ngang qua chỗ ngồi của tôi. Một lần ông hỏi tôi cho Vấn Đề một truyện. Tôi hứa. Và lần nào đi ngang qua bàn viết của tôi, ông cũng nhắc: Sao? Có truyện cho số này không? Tôi xấu hổ vì không viết được. Sau cùng, tôi quyết định nhất định phải nộp bài cho ông. Truyện ngắn Cha và Anh tôi đưa ông để đăng trên Vấn Đề – tôi nhớ hình như là số 52.

Một buổi chiều Mai Thảo đến tòa soạn kéo ghế ngồi trước mặt tôi hỏi Hoàng viết cái gì cho Vấn Đề mà báo bị tịch thu, đóng cửa vậy?

Tôi ngớ người.

Truyện ngắn Cha Và Anh là một hồi tưởng với nhiều hư cấu về một gia đình (tôi) bị chia cắt trong chiến tranh, và chia cắt ngay cả trong một thành phố. Một nhân vật bơ vơ mất hướng, không biết mình đi đâu, về đâu.

Truyện còn chép một số đoạn trong ca khúc của Phạm Duy:

Mẹ già cuốc đất trồng khoai

Nuôi con đánh giặc đêm ngày

Cho dù áo rách sờn vai

Cơm ăn bát vơi bát đầy…

……..

Nhà thì nó đốt còn đâu

Khuyên con báo thù phen này

Mẹ mừng con giết nhiều Tây

Ra công xới vun cày cấy.

………

Ông Khoan gặp tôi một tuần sau không vui. Tuy vậy, ông cũng tỏ vẻ lo cho tôi. “Anh có sao không? Có bị gì không?” Thưa anh, tất nhiên là có. Em phải hầu tòa đây.

Đó cũng là thời gian mà Ngô Thế Vinh cũng từ Biệt Đoàn 81 Biệt kích Dù về hầu tòa vì bài báo Mặt Trận Ở Sài Gòn của anh.

Nhưng tôi đâu chỉ dính với ông Phạm Duy chỉ chừng đó thứ. Những ca khúc sau này của ông, những bài Bình Ca (Dường Như Là Hòa Bình,Sống Sót Trở Về, Ngày Sẽ Tới…) cũng làm tôi ray rứt mãi.

Tôi ngạc nhiên về những bài Tục Ca,Vỉa Hè Ca của ông cùng đi với Đạo Ca, Bé Ca, Nữ Ca của ông. Ông Phạm Duy đa tài, đa dạng và là một người giàu có về âm thanh. Ông mơ mộng hơn những người lãng mạn nhất, nhưng ông cũng là người thông tục hơn những người thông tục nhất. Ông có nhiều tiếng nói cho nhiều hoàn cảnh.

Ông là một trong số ít nhạc sĩ “sống” và “mạnh” không phải là thứ nghệ sĩ ẻo lả của bàn đèn và khói thuốc. Nhạc của ông được nhiều thế hệ hát và hát khắp nơi. Nhạc ông được nhiều người nhớ và nhớ bằng những kỷ niệm đặc biệt. Nhạc ông được hát với một trái tim sôi nổi, nhưng cũng được hát với một nỗi buồn cùng cực. Nhạc ông có nước mắt. Và cũng được hát với một nụ cười.

Thế gian có những thứ tình cảm nào, ông đều cho người ta cơ hội bày tỏ thứ tình cảm đó.

Nhưng tôi biết không phải ai cũng bằng lòng ông.

Có người nhìn ông như một tài năng hư hỏng. Có người bảo sau những ca khúc phổ thơ từ Huy Cận, Phạm Thiên Thư, Nguyễn Tất Nhiên, ông không còn để lại gì cho âm nhạc Việt Nam.

Tôi ngờ những người ấy sống bằng thành kiến.

Không người Việt Nam nào có thể quên ơn Phạm Duy.

Để soi sáng giá trị và ý nghĩa. của một tác phẩm nghệ thuật – một cuốn tiểu thuyết, một bức tranh, một nhạc phẩm – người ta thường qui chiếu về tác giả, về đời tư của người nghệ sĩ . Người ta nghĩ – cũng có lý thôi – giữa tác phẩm và tác giả chắc chắn phải có một mối giây nhân quả. Tác phẩm là sản phẩm của nghệ sĩ, nó tất yếu phải mang dấu ấn, hơi thở, đời sống, ý nghĩ của người sáng tạo.

Người ta đọc Kiều của Nguyễn Du và người ta đi tìm tiểu sử của ông để hiểu Kiều. Cũng vậy, người ta xem kịch Lưu Quang Vũ, xem tranh Nguyễn Trung, nghe nhạc Trịnh Công Sơn, người ta luôn luôn đi tìm tác giả. Người ta tìm đọc “những bản thảo dở dang, những thư từ, những nhật ký, hồi ký” và qua đó họ vẽ lại chân dung người nghệ sĩ. Chính chân dung ấy đã “soi sáng” tác phẩm của họ.

Tôi chia xẻ “một nửa” ý kiến đó.

Tôi không tin là cuộc đời của một nghệ sĩ hoàn toàn làm thành tác phẩm của họ.

Tôi không tin là tác phẩm đang được quần chúng yêu mến kia sẽ kém đi vì tác giả có một cuộc sống xã hội “không tốt đẹp” theo ý kiến của những nhà đạo đức.

Tôi không tin giá trị tác phẩm sẽ bị tụt xuống khi tác giả có một cuộc sống không cân bằng với tiêu chuẩn xã hội.

Những điều “tôi không tin” ấy thật ra chưa đủ lý lẽ để thuyết phục người khác. Cho đến khi tôi đọc được mấy cuốn sách của Milan Kundera, một nhà văn Pháp gốc Czech.*

Dưới tựa đề Soixante-treize mots (Bảy mươi ba từ), phần thứ sáu của cuốn Nghệ Thuật Tiểu Thuyết, Milan Kundera viết: “L’artiste doit faire croire à la postérité qu’il n’a pas vécu”, dit Flaubert.**

Vẫn theo Kundera, Maupassant không cho đưa chân dung của mình vào một loạt chân dung các nhà văn nổi tiếng: “Đời tư của một người và khuôn mặt anh ta không phải là của công chúng.” Heman Broch nói về mình, về Musil, về Kafka: “Cả ba chúng tôi đều không có tiểu sử thật.”

Nhà văn William Faulkner muốn làm “người bị triệt tiêu, bị xóa bỏ khỏi lịch sử, không để lại bất cứ dấu vết gì, không có cái gì khác ngoài những cuốn sách đã in.” Và Kundera nhấn mạnh: Sách và để in,tức là không có các bản thảo dở dang, thư từ, nhật ký.)

Tôi muốn bắt chước Kundera nói theo một ẩn dụ của Kafka rằng nhạc sĩ Phạm Duy (nhà tiểu thuyết) phá ngôi nhà của mình đi, để lấy gạch xây một ngôi nhà khác: các ca khúc của ông (cuốn tiểu thuyết).

Từ đó đi đến kết luận là những người viết tiểu sử về một nghệ sĩ (nhà tiểu thuyết, họa sĩ, kịch tác gia, nhạc sĩ, điêu khắc gia…) là người phá dỡ những gì mà nghệ sĩ đó đã làm, để làm lại cái mà người nghệ sĩ đã phá dỡ ra. Cái công việc chõ vào đời tư của một nghệ sĩ (tài năng) là một công việc tiêu cực, thuần túy tiêu cực, nó không thể soi sáng cả giá trị lẫn ý nghĩa của tác phẩm; “may ra thì chỉ nhận dạng được vài viên gạch.”***

Kundera không chỉ nói một lần về vấn đề này trong cuốn L’art Du Roman, mà ông nói nhiều lần. Trong phần thứ bảy cuốn sách này, dưới tựa đề Discours de Jerusalem: Le Roman et L’Europe. “Nhà tiểu thuyết là người, theo Flaubert, muốn biến mình đi sau tác phẩm của mình. Biến mình đi sau tác phẩm của mình, điều đó có nghĩa là từ chối vai trò nhân vật xã hội.”****

Phạm Duy là một con người, như mọi người. Ông đã sống tận cùng đời sống của ông, ông đã hiến tận cùng những gì ông có trong trái tim ông và thân xác ông. Tôi đồng ý với Hoàng Khởi Phong, Phạm Duy không cần vinh danh, vì cái danh ấy ông đã có, người ta nên biết ơn ông.

Trong cuộc sống của mỗi chúng ta, rõ ràng là chúng ta nợ nần quá nhiều người. Không chỉ nợ nần công ơn sinh và dưỡng của cha mẹ ta, mà ta còn nợ nần những người làm cho cuộc sống ta tốt đẹp hơn, có ý nghĩa hơn. Ngay khi họ làm ta đau đớn vì bản chất của họ, ta cũng nợ họ, vì nhờ đó ta khám phá ra sự đa dạng của con người,khám phá ra cái bộ mặt đen tối của một con thú tưởng là người, và ta cũng khám phá ra sức chịu đựng của mỗi chúng ta.

Phạm Duy và Stravinski

Chưa thấy nhà văn nào nói về âm nhạc say mê và đầy kiến thức như Milan Kundera. Trong cuốn Những Di Chúc Bị Phản Bội, ông dành nguyên phần thứ ba Improvisation en hommage à Stravinski (Ứng tác kính tặng Stravinski) từ trang 69 đến 119 để viết về Stravinski.

Tôi ước gì mình có đủ kiến thức về âm nhạc để viết một chương về nhạc sĩ Phạm Duy. Nếu cuộc đời của Stravinski chia làm ba phần dài gần bằng nhau. Ở Nga, 27 năm; Pháp và Thụy Sĩ nói tiê?g Pháp, 29 năm; Mỹ, 32 năm; thì Phạm Duy cũng chia phần đời mình qua những con số tương tự: Miền Bắc 29 năm, vào Nam 25 năm, và ở Mỹ nay ông đã ở được 27 năm.

Kundera viết “Di tản: một cuộc lưu lạc bắt buộc ở nước ngoài đối với người coi đất nước nơi mình sinh ra là tổ quốc duy nhất của mình. Nhưng tình trạng di tản kéo dài và một sự trung thành mới đang nảy sinh, sự trung thành với đất nước mình đã nhận; bấy giờ là đến lúc cắt đứt. Stravinski dần dần từ bỏ chủ đề Nga. Năm 1922 ông còn viết Mavra (hí kịch phỏng theo Pouchkine), rồi năm 1928, Nụ Hôn Của Bà Tiên, kỷ niệm về Tchaikovski, rồi ngoài mấy tác phẩm ngoại lệ không đáng kể, ông không trở lại chủ đề Nga nữa. Khi ông mất năm 1971, Vera vợ ông, tuân theo ý nguyện của ông, từ chối đề nghị của chính phủ Xô Viết chôn ông ở nước Nga và chuyển thi hài ông đến nghĩa trang Venise.”

Kundera viết tiếp: “Không còn nghi ngờ gì nữa, Stravinski mang trong mình vết thương của sự di tản, như tất cả những người khác; không còn nghi ngờ gì nữa, sự phát triển nghệ thuật của ông sẽ đi một con đường khác nếu ông có thể ở lại nơi ông đã sinh ra.

Phần đầu của Stravinski và Phạm Duy có vẻ như trùng hợp nhau. Sự khác là ở phần cuối. Chủ đề trong âm nhạc Phạm Duy luôn luôn là Việt Nam.

“Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời.”

Chủ đề ấy ở cuối đường là Minh Họa Kiều I và II. Việt Nam nhất trong những gì thuộc về Việt Nam.

Tôi viết những dòng chữ này như một lời biết ơn Phạm Duy.

Tôi không có nhiều lý lẽ để nói về âm nhạc ông. Tôi mượn nhiều lời của Milan Kundera để cám ơn ông.

Xin ông khỏe mãi.

NGUYỄN XUÂN HOÀNG

* L’ art Du Roman, Collection Folio, 15 Novembre, 1999 và Les Testaments Trahis, Collection Folio, 18 Janvier, 2002. Bản dịch của Nguyên Ngọc, NX Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2001.

** Sách đã dẫn, trang 177. Flaubert nói: “Người nghệ sĩ phải làm cho hậu thế tưởng rằng anh ta không hề sống.”

*** Bản dịch của Nguyên Ngọc, sđd., tr. 156-157.

**** Bản dịch Nguyên Ngọc, Sđd., tr. 165

SỔ TAY tháng 9 2002

Sau cùng, bạn tôi đã đến…

Sau cùng, bạn tôi, Huỳnh Phan Anh đã đến.

Anh là một ‘thành viên’ trong bè lũ mấy đứa cùng thế hệ suýt soát tuổi nhau hoặc cách nhau chừng mấy tuổi, lớn lên trong một thành phố chiến tranh và văn chương. Hai thứ đó có vẻ như không ăn nhập gì nhau, nhưng quả thực là những năm sáu mươi, chúng tôi hằng ngày trong khi viết lách vẫn nghe tiếng súng nổ từ ven biên, khói lựu đạn cay trên đường phố và đôi khi đón nhận tin cái chết của bạn bè từ chiến trường bay về.

Ở lại quê nhà – vĩnh viễn – là Nguyễn Nhật Duật, đến trước Huỳnh Phan Anh không lâu là Nguyễn Đình Toàn, trước đó là Nguyễn Quốc Trụ và lâu hơn, trước nữa là Đặng Phùng Quân.

Chúng tôi, tưởng rằng sau cùng cả bọn có thể gặp lại nhau. Những tưởng là thế, sau 27 năm, nhưng thật ra chúng tôi nay vẫn mỗi người một ngã.

Cái thời mỗi buổi sáng cả bọn tụ tập la cà ở quán La Pagode, ly cà phê đen, cái bánh croissant nóng, nói đủ thứ chuyện trên trời dưới đất, không còn nữa. Khó mà tìm lại được nữa.

Trụ ở Canada, Quân ở Houston, Texas, Toàn ở Nam Cali.

Huỳnh Phan Anh, người sau cùng chân ướt chân ráo, ngày 22 tháng Bảy, 2002, đã đến bắc Cali, Thung lũng Hoa Vàng, Thung lũng Điện tử, vùng Vịnh, nơi có thành phố biển Santa Cruz, có Vịnh Nửa Vầng Trăng, gần John Steinbeck, gần Berkeley, gần San Francisco.

Anh đã đi một mạch từ Sài Gòn, Việt Nam đến Bắc Cali, nơi mà tôi phải đợi 13 năm sau khi đến Mỹ mới đặt chân đến.

Chúng tôi vừa tụ được hai người.

Bữa cà phê tao ngộ giữa tôi và anh là quán Starbucks, trên đường Brokaw, gần tòa soạn báo Mercury News. Cà phê Mỹ, dù là Starbucks không đủ đậm cho một người quen cà phê Việt Nam, nhưng dù sao đó vẫn là thứ cà phê uống được. Chúng tôi chọn chiếc bàn ngoài sân. Huỳnh Phan Anh hút thuốc, như những ngày còn ở Sài Gòn.

Chúng tôi không nói nhiều, nhưng tôi biết anh không vui.

Tôi có cảm tưởng nếu bây giờ ở Việt Nam chắc anh vui hơn. Bởi vì 27 năm đã qua, nhiều thói quen mới đã thành hình như một bản năng. Người ta đi đứng nói năng, ăn uống, giao tế trong một môi trường không như nơi anh vừa tới. Tôi mong cái cảm tưởng ấy sai. Nước Mỹ cũng sẽ là trạm nương thân cuối đời anh.

Anh đến Mỹ âm thầm, tôi không hay biết.

Gia đình anh ở đây. Chị và em của anh. Con gái và con trai của anh. Mỗi người đều ở đây từ lâu, nhiều năm trước khi tôi đến Mỹ. Tất cả đều có công ăn việc làm.. Tôi nghĩ, cũng như tôi, anh là người may mắn. Cách đây 16 năm, từ Bataan, Phi Luật Tân đặt chân xuống Virginia, tôi cũng đã chọn sự âm thầm đó. Tôi hiểu bạn tôi. Chuyện đâu có gì mà phải ầm ĩ!

Tôi biết cái nước Mỹ mà tôi đang sống, không phải là một xứ sở toàn hảo. Làm gì có sự toàn hảo trên cõi đời này! Nhưng tôi biết đây là một đất nước mà tôi mơ ước được tới, một nơi tôi có thể nương thân trong khi quê hương ruồng bỏ tôi.

Tôi nhớ ngày đầu tiên tôi đến xứ sở này là một ngày mùa đông. Thành phố Falls Church, Virginia. Tuyết trắng xóa dọc đường đi. Lạnh buốt. Và những ngày đầu tiên buồn nẫu ruột. Buồn hơn những ngày còn ở ngôi làng tị nạn Bataan, Phi Luật Tân, nơi suốt ngày tôi không biết làm gì hơn là quanh quẩn vùng chín vùng mười một, không có một tờ báo để biết tin tức, không có một cuốn sách để đọc….Tôi sống giữa những khuôn mặt thường trực đăm đăm chờ một chuyến đi…

Tôi đã có hai chuyến đi. Một chuyến từ Sài gòn, và sau đó một chuyến từ Manila, Phi Luật Tân. Một chuyến đi như chạy trốn, sau nhiều lần chạy trốn bất thành. Một chuyến đi công khai với một trái tim hồi hộp. Mười sáu năm đã qua. Tôi may mắn được làm một số công việc mà tôi ưa thích. Tôi may mắn có được những người bạn tốt trên dọc đường. Nếu không may mắn, không biết bây giờ tôi sẽ ra sao?

Tôi muốn nói với bạn tôi là anh đang có những người thân tử tế. Những bà chị, những người em, những đứa con. Anh có đủ một cách vững chắc, những thứ mà tôi có rất mong manh trong những ngày đầu.

Mười sáu năm qua, tôi có học được vài thói quen của đất nước này. Nhưng còn nhiều điều tôi chưa thông, chưa biết. Tôi nghĩ là tôi chưa hội nhập được vào cuộc sống này. Và có lẽ sẽ không bao giờ tôi hội nhập được một cách toàn diện. Tôi nghĩ Huỳnh Phan Anh cũng thế. Nhưng đó đâu hẳn là nỗi ưu tư chính của chúng tôi.

Nỗi ưu tư của chúng tôi là làm sao, Huỳnh Phan Anh ngồi xuống và viết. “Viết là một cách thế từ chối thế giới tác giả đang sống, chối từ chính thân phận tác giả.” “Viết là tự mình biến thành sự vắng mặt, lùi về hư vô. Nói theo Levinas, viết là chết.” Chính Anh đã viết như thế.

Năm 1968, mới 24 tuổi, với tiểu luận Văn Chương Và Kinh Nghiệm Hư Vô, Huỳnh Phan Anh bằng một cách nhìn mới mẻ, đã làm chấn động giới văn nghệ Sài Gòn. Vượt lên trên cách nhìn văn chương của Tự Lực Văn Đoàn, bước qua cả quan niệm văn chương theo nhóm Sáng Tạo, Huỳnh Phan Anh, với kiến thức triết học và cách nhận thức văn học theo quan điểm tiểu thuyết mới với Nathalie Sarraute, Alain-Robbe Grillet, Michel Butor, Claude Simon,..đã thổi đến một hơi thở mới.

Ba mươi mốt năm sau, năm 1999, Huỳnh Phan Anh cho in tiểu luận-phê bình Không Gian Khoảnh Khắc Văn Chương, tác phẩm tập hợp những bài viết ở những thời điểm khác nhau (những năm 60-90) , tiếp cận những khoảnh khắc văn chương, “những bước chân có thể xóa đi hoặc giẫm lên trên những dấu vết của chính mình hoặc của ai đó, nhưng chung quy vẫn là những bước lang thang quanh mối ưu tư không dứt bỏ được, căn bệnh không thoát được: chữ nghĩa, cái đọc và cái viết.” Anh đã viết như thế trên những trang chữ của anh.

Đó là một tác phẩm – như tác giả nói – lâ? lại, khai triển, những chủ đề ông đã viết trước đó 31 năm.

“Hãy viết. Điều cần nhất đừng bỏ dỡ, đừng thua cuộc. Hãy ngồi lại bàn và viết, đừng nghĩ ngợi quẩn quanh, đừng thắc mắc lôi thôi.”

Huỳnh Phan Anh đã trở lại với bạn bè và người đọc, trở lại với Văn Chương Và Kinh Nghiệm Hư Vô, chủ đề mà anh không ngừng khai thác từ bao năm nay. Chủ đề ấy anh không chỉ ứng dụng trên André Gide, Jean-Paul Sartre, Simone de Beauvoir, Samuel Beckett, Rimbaud, Valery, Claude Simon, Yves Bonnefoy, Rene Char mà còn ứng dụng trên Tản Đà, Nhất Linh, Hàn Mặc Tử, Đinh Hùng, Hồ Biểu Chánh….

Trong bài viết có tựa là Những Trang Rời, nhà phê bình Huỳnh Phan Anh đặt câu hỏi: “Phải chăng nhà phê bình trước tiên là một độc giả khốn khổ nhất, bởi hắn đánh mất tất cả, trừ trí thông minh của hắn dùng để đo lường, cân nhắc, phán đoán. Nhà phê bình đó là một độc giả chuyên nghiệp. Một khách bộ hành thông thạo luật đi đường. Một tên thợ săn lành nghề. Và nếu cần là một đao thủ phủ. Hắn đọc như một cách thế chiếm hữu và bạo động trên chính tác phẩm…”

Hãy tưởng tượng Huỳnh Phan Anh hạnh phúc khi anh ngồi xuống bàn viết viết lại những dòng chữ của anh trên một không gian mới.

Chào mừng tác giả Không Gian Khoảnh Khắc Văn Chương

Chào mừng cây bút tiểu luận-phê bình quen thuộc của chúng ta.

NGUYỄN XUÂN HOÀNG

GHI CHÉP tháng 12, 2004IRIS CHANG, TạI SAO?

clip_image004

Thứ Sáu 10 tháng Mười Hai, 2004

Người đàn ông tôi gặp trưa nay ở quán cà phê Starbucks tên B.

Ông và tôi quen nhau tình cờ từ hơn sáu tháng nay cũng ở quán cà phê này. Hôm nay ông ăn mặc khá giản dị, cái áo choàng lanh màu xanh đã cũ, quần màu vàng kaki hiệu Dockers hơi rộng, bàn tay ông to bè, những ngón tay ngắn và thô, móng tay dài cáu bẩn, như một người vừa làm vườn. Ông đứng xếp hàng trước tôi chờ mua cà phê.

“Chào ông.” Tôi lên tiếng trước.

“Chào!” Ông trả lời, giọng ông mệt mỏi.

Buổi trưa, nhiều nhân viên các cơ sở quanh vùng sau khi ăn lunch xong thường lấy cà phê trước khi trở lại sở làm. Hàng người chờ lấy cà phê khá dài. Ông B. quay mặt lại hỏi tôi hôm nay uống gì. Tôi cám ơn. Tôi nói để tôi vì tôi còn tiền trong thẻ starbucks.

Nhớ lần đầu gặp ông, cũng đúng vào lúc xếp hàng mua cà phê vào buổi trưa. Ông đứng sau lưng tôi và hôm đó bất ngờ ông hỏi tôi một câu bằng tiếng Anh “Xin lỗi, ông có phải là người Việt Nam không?”

“Phải”, tôi trả lời bằng tiếng Việt. “Tại sao” Tôi hỏi lại.

Ông nói mấy lần trước đi cà phê ở đây thấy tôi ngồi một mình nhưng ngại không dám hỏi sợ tôi không phải người Việt Nam. Người Việt mình ít ai uống Starbucks lắm. Cà phê Việt Nam dù gì cũng hợp gout hơn là cà phê Mỹ. Thấy tôi đeo sợi giây mang thẻ sở làm, ông hỏi, tôi làm việc gì ở sở này. Tôi nói dối, tôi làm janitor, nghiã là lau chùi bàn ghế, hốt dọn rác rến trong toà soạn. Ông nhìn tôi thương hại.

“Qua Mỹ hồi nào? Làm janitor sống đủ không? Vợ con ra sao?” Tôi trả lời cho qua chuyện, tôi biết mình đã lỡ nói dối không thể tiếp tục thêm. Tôi nói tôi qua Mỹ năm 1985, vợ tôi thất nghiệp cả năm nay, tôi có bốn đứa con, đứa út mới vào đại học, ba đứa kia đã có việc làm.

“Vẫn ở với con cái à?”

“Không”, tôi nói, “vợ chồng tôi sống riêng, giống như hai con khỉ già chờ ngày ra đi.”

“Đi đâu?” Ông hỏi.

Tôi cười, “thì ra đi đó mà. Ai sống mà chẳng có lúc sau cùng phải ra đi.”

Ông cũng cười, “nói bậy. Lương bổng sao? Đủ sống không?”

Ông ta nhắc lại câu hỏi.

Tôi nói “à thì cũng sống vậy vậy.”

“Qua Mỹ năm nào?” Đây là lần thứ hai ông hỏi tôi.

Tôi nhắc lại: Năm 1985.

“Mà ở thành phố này lâu chưa?”

“Ồ chỉ mới sáu năm thôi.”

“Trước ở đâu?”

Tôi nói trước ở Quận Cam.

“Hồi đó làm gì?”

Tôi nhắc lại: “À, thì cũng lau chùi phòng ốc, hốt rác rưới cho một toà soạn báo Việt ngữ.”

“Vậy sao?” Ông hỏi mà như nói.

Tôi hỏi lại ông, vậy chứ ông đến Mỹ từ bao giờ? Ông cho biết ông đã qua Mỹ từ trước 1975, đi du học rồi do biến cố tháng Tư 75, ông ở lại luôn. Ông hiện làm kỹ sư cho một hãng nhu liệu điện tử ở đây. Gần 10 năm sau ngày 30 tháng Tư, ông mới lo được giấy tờ cho vợ con qua, và bây giờ… ông bỏ lửng câu..”Tôi và vợ tôi không hợp nhau. Mấy đứa con đã lớn, đứa nào cũng có công ăn việc làm.

Tôi hiện sống một đời sống khác.”

Tôi muốn hỏi ông thế nào là một đời sống khác, nhưng tôi nghĩ lại, hỏi để làm gì?

“Ông dùng loại nào?” Tôi nghe cô thu ngân hỏi ông. Ông gọi món frappucino và quay sang nói với tôi “hôm nay không mang tiền lẻ, ông trả hộ ly nước của tôi nhé!”

“Không sao.” Tôi gọi một tall coffee, và như thường lệ, tôi đưa cái thẻ Starbucks cho cô thu ngân .…

Lấy cà phê xong, chúng tôi ra ngồi ở chiếc bàn trống ngoài sân…

Trời mùa đông vùng Thung Lũng năm nay lạnh hơn mọi năm. Tôi ấp hai tay vào ly cà phê. Aám. Tôi hỏi ông sao lúc này ít ra quán cà phê vậy? Ông nói hồi này ông uống cà phê Việt Nam nhiều hơn ở cái quán quen, chỗ đó thiếu chịu được. Tôi hỏi công việc của ông ông nói ông tính về hưu. Ông là người thích du lịch. Nhưng chuyện chưa tính xong, còn nhiều chuyện phải giải quyết trước khi nghỉ hưu sao cho có lợi. Ông hỏi tôi hôm nay có phải về sở lau chùi bàn ghế ngay không? Tôi nói còn sớm, tôi có thể ngồi nán thêm ít phút nữa.

Ông B. than hôm nay ông buồn quá.

“Tại sao?”

“Tay kỹ sư làm cùng sở tôi vốn là một tay hiền lành, bỗng nhiên hôm nay nó chửi tôi là đồ khốn nạn.”

“Tại sao?”

“Đời sống tinh thần tôi mấy lúc sau này không ổn. Tôi nhìn đâu cũng thấy người ta nói xấu tôi, âm mưu hãm hại tôi. Tôi không tin ai, cái khổ của tôi là tôi thấy chung quanh mình ai cũng ngu dốt, đứa nào cũng có ý xấu với tôi. Một câu nói bình thường của bọn nó cũng làm tôi điên đầu suy diễn ra trăm nghìn ý nghĩa thâm độc.

Tôi có cảm tưởng cả thế giới này đều nhắm vào tôi. Cái tay kỹ sư ấy mới qua Mỹ chưa đầy 20 năm mà giữ cái chỗ tốt trong khi tôi sống ở đây đã hơn 30 năm, ăn học đàng hoàng mà vẫn cứ còn lẹt đẹt. Nếu không phải nó bắt tay với thằng phụ tá chủ tịch công ty thì làm sao có đươc chỗ đó.”

Tôi hỏi ông B., hay là tay này nó có bà con họ hàng gì với ông chủ tịch công ty?

“Làm gì có chuyện đó. Chủ tịch công ty là người Mỹ, còn nó là người như mình, mũi tẹt da vàng mà!”

“Không”, ông B. tiếp, “không có bà con cô bác gì đâu. Tôi nghĩ là nó nịnh thằng manager Việt Nam, thằng này cất nhắc nó lên. Tôi biết thằng đó dốt bỏ mẹ, tài năng gì! Tôi sẽ nói cho bàng dân thiên hạ biết tay đó là một thằng dốt. Anh làm nghề hốt rác lau chùi nhà cửa thì không biết gì chuyện của những người có học như tôi đâu.”

Và đột nhiên, ông B. đổi đề tài:

“Ở Việt Nam ông ở thành phố nào?”

Tôi nói Sài Gòn.

“Hồi đó ông làm ngành nghề gì?”

Tôi ấp úng, “tôi làm thợ mộc. Nhà tôi có hai anh em, anh tôi là lính Biệt Động Quân, còn tôi … làm thợ mộc.” Tôi đã lỡ nói dối nên tới luôn.

“Còn tôi, tôi rời nước sớm quá, tôi không biết gì về tình hình đất nước những ngày 30 tháng Tư. Anh có bị tù không?”

“Không, thợ mộc không bị tù, nhưng tôi cũng ở tù vì tội vượt biên.”

“Tù ở đâu? Có cùng chỗ với ông Đại Học Máu không?”

“Không, tôi ở tù dưới U Minh.”

“Vậy là ở chỗ của ông Hương Rừng Cà Mâu chứ gì?”

Tôi nói tôi không hiểu ông muốn nói gì.

Ông cười, “anh không bao giờ đọc sách báo à?”

“Sách thì không, nhưng báo thì cuối tuần nào mà tôi không đọc, báo chợ bỏ đầy ở các tiệm ăn Việt Nam.”

Ông B. nhìn tôi, “mặt mũi anh trông không đến nổi nào mà sao không chịu học hành gì cả. Thế còn mấy đứa con của anh có học hành gì không?”

Tôi ậm ừ không trả lời. Tôi đang chán vở kịch tôi đang đóng.

Ông B. lại hỏi “lương bổng anh sao? Khá không?”

Tôi nói 12 đồng giờ. Cũng sống được.

Ông B. bỗng nghiêng qua bàn, kê sát miệng vào tai tôi thì thầm:

“Anh có cần tiền không?”

Cái miệng kinh khủng với đôi môi thâm xì, hai hàm răng vàng khè và hơi thở ông khét mùi thuốc lá làm tôi khó chịu.

“Tiền hả? Tiền thì ai mà không ham. Nhưng tiền ở đâu ra?”

Ông B. rút trong túi áo ra một tấm ảnh cắt từ một tờ báo. “Đây là thằng X. cái thằng kỹ sư ngu dốt mà tôi đã nói chuyện với anh, nó là thằng dám nói tôi là đồ khốn nạn. Tôi sẽ đưa anh một ngàn nếu anh làm nhục nó trước mặt đám đông.”

“Làm nhục bằng cách nào?”

“Anh chỉ cần chửi nó là đồ ngu, đồ dốt nát, đồ khốn nạn trước mặt đám đông ở một tiệm phở mà nó hay đến. Tôi chịu trả anh một ngàn đồng.”

Tôi không trả lời. Tôi nhìn ông B., ngạc nhiên hơn là khinh bỉ, khinh bỉ hơn là giận dữ.

Tôi đứng dậy, cầm xâu chìa khoá xe. Ông B. kéo giật tay tôi, “anh ngồi xuống đây với tôi chút nữa thôi. Tôi sẽ trả anh hai ngàn. Chịu không? Tôi đang có những ngày tháng không vui. Những ngày tháng mà bỗng dưng giữa đám bạn bè ai cũng nhìn tôi như một con quái vật mang hình dáng người. Một con quái vật trở mặt, thoắt một cái từ mặt người thành mặt thú, thoắt một cái từ cái dáng vẻ lương hảo thành tay lưu manh xảo quyệt, thoắt một cái từ sự thanh tao trở nên thô lỗ cục cằn… Con quái vật có đủ mọi thứ bề ngoài của một con người bình thường, nhưng khi nó há miệng ra tôi cho người ta thấy những chiếc răng nanh nhọn hoắc đầy máu me của mình. Con quái vật có những ngón tay cầm bút nhưng khi nhìn kỹ đó chỉ là móng vuốt của một thứ dracula đang bấu vào cổ người. Tôi vốn không tin có dracula trong đời sống này. Chẳng qua đó chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng. Thật ra bây giờ tôi mới biết tôi đã có một ý nghĩ sai. Thế giới chúng ta quả thật có ma quỷ. có hồ ly, có Dracula. Dracula sống trà trộn giữa chúng ta. Chúng nói cười đi đứng sinh hoạt như chúng ta. Chúng luôn luôn than van thiếu thốn nghèo túng mặc dù chúng không hề túng thiếu. Chúng thích vơ vét, bốc hốt, thích dí mũi vào đời sống người khác may ra moi móc chút đời tư để kể lại bằng giọng hả hê. Chúng giống như con dòi ngúc ngoắc từ một đống phân. Chúng đóng vai một tên có chút kiến thức nhưng là một thứ kiến thức ăn đong cóp nhặt từ những trang báo, những cuốn sách chưa kịp tiêu. Những con quỷ dracula không thể sống nếu không hút máu của người khác. Nhưng nó sẽ không hút được máu ai nếu trước hết nó không làm cho người khác tin nó là một con người tử tế. Người ta cứ tưởng nó mềm như một miếng bông gòn, nhưng thực ra nó là một cục chì, đất sét. Nó là một con vật thông minh chứa đầy nọc độc. Tôi đang có những ngày không vui, khi bỗng dưng một hôm phát hiện ra con quỷ dracula mà lâu nay tôi cứ tưởng là người nào khác lại chính là tôi. Anh đừng bỏ đi, tôi sẽ cho anh mười nghìn đồng, mười nghìn chứ không phải hai nghìn, anh làm nhục tên kia dùm tôi. Tôi xin anh, chỉ khi nào anh làm được như thế con quái vật dracula kia mới ra khỏi đầu óc tôi, ra khỏi trái tim đầy lòng hoài nghi của tôi.”

Hôm nay là thứ Sáu, buổi chiều cuối tuần, công việc ở sở tương đối nhẹ nhàng, tôi có hai ngày nghỉ ngơi trước mắt.

Tôi nói với ông B. là ông cứ moi hết những rác rưới trong đầu ông ra đi tôi sẽ đổ dùm ông. Ông cứ móc hết sư nhơ bẩn của cống rảnh ra khỏi trái tim xấu xa của ông đi tôi sẽ dội nước sôi dùm ông. May ra…..

Chiều thứ Sáu tuần này là một buổi chiều không vui của tôi.

Hơn một tháng trước đây tôi cũng đã có một buổi chiều không vui khác về cái chết của một nhà văn nữ, cô Iris Chang, tác giả cuốn The Rape of Nanking, trên xa lộ 17, gần Los Gatos, vùng vịnh Bay Area. Xác của cô được tìm thấy trong một chiếc xe hơi với một viên đạn xuyên qua đầu vào ngày 9 tháng Mười Một. Iris vừa 36 tuổi và là tác giả của ba cuốn sách The Rape of Nanking, Thread of the Silkworm và The Chinese in America.

Bản tin của BBC cho biết The Rape of Nanking là một tác phẩm gây nhiều tranh cãi nói về những hành động tàn bạo của lính Nhật khi chiếm đóng một thành phố phía đông Trung quốc trong những năm 30. Iris Chang thống kê khoảng 10 ngàn người dân Trung quốc vô tội bị giết và khoảng 80 nghìn phụ nữ bị lính Nhật hảm hiếp. Tác phẩm của cô lột tả những chi tiết về sự chà đạp về thể xác và nhân phẩm của người phụ nữ Trung quốc. Cuốn sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới và trở thành một trong những tác phẩm bán chạy nhất trong những năm 90.

clip_image006

Iris Chang chào đời tại New Jersey trong một gia đình Trung quốc, có bằng cử nhân báo chí của Đại học Illinois, bước đầu sự nghiệp là một nhà báo sau đó tiếp tục như một nhà văn. Năm 25 tuổi cô viết tác phẩm đầu tay Thread of The Silhworm về cuộc đời nhà khoa học Tsien-Hsue-shen trong thời đại chiến tranh lạnh của nước Mỹ. Các tác phẩm của cô hầu hết tập trung vào vấn đề định cư của người Trung quốc tại Mỹ và cuộc chiếm đóng của Nhật trên quê hương Vạn Lý Trường Thành.

Cái chết của cô, theo cơ quan điều tra là một vụ tự sát được chuẩn bị kỹ lưỡng. Trước đó mấy tháng, Iris đã phải nhập viện vì suy nhược thần kinh. Và cô đã rời viện khi chưa hoàn toàn hồi phục và bỏ nhà đi từ đầu tuần, để lại một bức thư ngắn yêu cầu mọi người nhớ về mình với hình ảnh trước khi cô bị bệnh.

Có phải Iris Chang chọn cái chết bởi vì căn bệnh trầm cảm, khi ở cái tuổi 36 tràn đầy sinh lực, nhưng những gì cô tìm kiếm, đào xới từ lịch sử cuộc chiếm đóng của người Nhật trên quê hương gốc của cô, với sự dã man tàn bạo của người Nhật xúc phạm nhân phẩm của người phụ nữ Trung quốc đã khiến cô thấy ra cuộc đời không là gì cả trước hành dộng của những con thú mang bộ mặt người. Cái vẻ đẹp nồng nàn của cô, cái sức sống mãnh liệt của một người phụ nữ thành danh như cô không là gì cả trước nỗi đau của một dân tộc. Cô chọn cái chết vì cô không thấy đời sống không có gì đáng sống . Những tên lính Nhật mọi rợ và những thằng khốn nạn như tên B. làm cho đời sống chúng ta buồn nản càng buồn nản hơn.

Tôi không muốn nhìn thấy những bộ mặt thối tha và đểu cáng đó trong đời sống chúng ta.

Nhiều lúc tôi muốn ra đi, ra đi ở tuổi tôi cũng là vừa rồi, không có gì than thở. Ra đi ở cái tuổi của Iris Chang thật là một điều phí phạm.

Nhưng nghĩ lại, trời ơi, tại sao những tên lính quốc xã dã man không chết đi, tại sao những tên lính Nhật man rợ không chết hết đi, tại sao những tên khốn nạn như tên B. trong quán cà phê Starbucks không tan rữa như xác một con chó chết đi cho người khác sống, cho Iris sống, cho môi trường đời sống chúng ta không còn bị nhiễm độc vì sự bẩn thỉu của chúng?

Tại sao? Iris Chang? Tại sao

NGUYỄN XUÂN HOÀNG

Vài hiện tượng trong VH

Nếu lấy những năm 1945, 1954, 1975 – những dấu mốc của lịch sử Việt Nam đương đại – làm dấu mốc cho Văn Học Việt Nam thì điều ấy cũng không lấy gì làm sai lắm.

1945: văn học kháng chiến và văn học đô thị; 1954: văn học ngoài bắc văn học trong nam, và đến năm 1975: Văn học trong nước và văn học ngoài nước, mà ta vẫn thường gọi là văn học hải ngoại .

Trong khi văn học đô thị và văn học kháng chiến chỉ kéo dài có 9 năm, văn học trong Nam-ngoài Bắc kéo dài 21 năm, thì văn học trong nước và ngoài nước tính đến nay đã là 30 năm. Và không biết còn kéo dài bao nhiêu năm nữa .

Ba mươi năm ấy nhìn la .i – cả trong và ngoài nước – chúng ta có khá nhiều tác giả, nhiều đầu sách, nhưng dường như không có tác phẩm nào lớn, theo nghĩa đưa được văn học Việt Nam hoà nhịp vào dòng văn học thế giới . Tại sao ?

Ba mươi năm, sau một cuộc chiến tàn khốc, bao nhiêu xương máu đã đổ xuống, bao nhiêu nước mắt, chia lìa, đau đớn và đau khổ. Cả bên này lẫn bên kia . Thử tưởng tượng [tôi không nghĩ chỉ là tưởng tượng đâu!] trên bàn thờ của một gia đình Việt Nam, bà mẹ đốt nhang trước chân dung hai đứa con, một người lính Cộng Hoà và một người lính Cộng Sản. Hai kẻ thù ngoài mặt trận là hai đứa con yêu của một bà mẹ. Không phải là cái thắng của một chủ nghĩa hay là cái thua của một thể chế, với bà mẹ, đây là nỗi đau hai mặt: cái chết của hai đứa con mang cùng huyết thống đứng trên hai chiến tuyến đối nghịch!

Khi cuộc chiến chấm dứt, nỗi mừng của người thắng trận cũng mang theo nỗi đau của người thua trận. Những vinh và nhục, không phải chỉ một cá nhân, một gia đình mà cả một dân tộc phải mang theọ Và kỳ lạ thay, những bài học mới cho cả hai phía: cái được cho người thua và cái mất cho người thắng.

Nếu tủi nhục và xót xa, cho người này; hãnh tiến và quyền lực cho người kia, thì cái được và cái mất nào cho một bà mẹ trong hoàn cảnh bi thương trên?

Hãy đếm xem có bao nhiêu người trai trẻ bỏ xác trên đường Trường Sơn, bao nhiêu người chôn vùi trong lòng biển cả, bao nhiêu là nạn nhân của hải tặc bạo tàn; bao nhiêu người trong lao tù khổ ải, nhà giam bên này, trại cải tạo bên kia,…chắc rồi cũng sẽ có lúc phai đi theo năm tháng nhưng làm sao mất hẳn trong trí nhớ lịch sử.

Sự đổi đời lớn lao, cắt da xé thịt, một thế hệ lớn lên, thành đạt ở đất nước ngoài Việt Nam, hay vùng vẫy vươn lên trong một đất nước đang còn thay da đổi thịt, thế nhưng văn học chúng ta bên này, bên kia vẫn chưa có tác phẩm ngang tầm với thời đại . Tại sao ?

Đó là một câu hỏi khá lớn cho một bài viết nhỏ. Tôi chỉ muốn giới hạn mấy suy nghĩ quanh vài hiện tượng văn học gần đây trong và ngoài nước để may ra tìm cho nó một câu trả lời .

Trước hết là chuyện Hoa Thủy Tiên trong bài Trò Chuyện Với Hoa Thủy Tiên và Những Nhầm Lẫn của Nhà Văn – trên bán nguyệt san Ngày Nay, Hà Nội [các số 4, 5, 6 các ngày 15/2/2004, 1/3/2004 và 15/ 3/2004] của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Bài viết thực sự đã gây một chấn động lớn trong giới văn học trong nước và ta .o ra những phản ứng nhiều tầng và nhiều hướng. Ông viết: “Khoảng hơn hai chục năm trở lại đây, ở Việt Nam không có những nhà văn có phong độ, khí phách lớn. Đến ngay cả những nỗi buồn cũng không phải là những nỗi buồn lớn. Thái độ hời hợt của xã hội với văn học, cách tiếp nhận của xã hội đối với các giá trị văn học cũng làm mất đi cảm hứng ở nhiều nhà văn nhiệt thành. Đấy là chưa kể đến sự tráo trở và lạnh lùng của cơ chế thị trường vẫn chẳng nể nang gì ai cả.”

Vậy thì văn học Việt Nam hiện nay thiếu gì? Nguyễn Huy Thiệp trả lời “văn học thiếu vắng những tham vọng to lớn”…. “Văn học luôn tránh né một vấn đề nan giải khó nói nhất trong xã hội: không phải khó khăn kinh tế, không phải sex, không phải là tình cảnh chiến tranh… Nó là vấn đề nhân tính. Văn học Việt Nam gần đây mất đi khả năng tưởng tượng, lãng mạn, mơ mộng và nhiệt huyết sống. Nó trở nên thực dụng, ê chề, lọc lõi, oái ăm, đôi khi đểu cáng.”

Để có một nhà văn có giá trị nhân đạo [có lẽ Nguyễn Huy Thiệp muốn nói nhân bản], ông viết, phải dựa vào nhiều yếu tố, không phải chỉ là nỗ lực cá nhân và tự phát, “năng khiếu” như lâu nay người ta vẫn tưởng. Đã đến lúc phải nghĩ đến một týp nhà văn khác: lớp nhà văn trí thức của một xã hội phát triển. Họ viết văn có bài bản, có lý luận, lý lẽ chứ không mò mẫm. Trước đây, ở Việt Nam hầu như chưa có những điều kiện xã hội để xuất hiện týp nhà văn nàỵ Theo ông, văn học giá trị bao giờ cũng đề cao nhân tính, và, một xã hội không có những tác phẩm văn học hay, không có những tác phẩm văn học giá tri . nghĩa là nhân tính mất đi.. . Trách nhiệm đó không phải chỉ ở một người nào mà nó ở toàn xã hội . [bđd].

Đánh giá nền văn học trong nước bằng cái nhìn từ trong, Nguyễn Huy Thiệp viết: “Nhìn vào danh sách hơn 1,000 hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam người ta thấy đa số đều chỉ là những người gìa nua không có khả năng sáng tạo và hầu hết đều… “vô học”, tự phát mà thành danh. Trong số này có tới hơn 80% là nhà thơ, tức là những người chỉ dựa vào “cảm hứng” để tùy tiện viết ra những lời lẽ du dương, phù phiếm vô nghĩa, nhìn chung là lăng nhăng, trừ có dăm ba thi sĩ tài năng thực sự (số này đếm trên đầu ngón tay) là còn ghi được dấu ấn ở trong trí nhớ người đời, còn toàn bộ có thể nói là vứt đi cả.” [bđd].

Chính những dòng chữ này của Nguyễn Huy Thiệp, trong phần thứ ba của bài viết, là ngòi thuốc nổ tạo thành một chấn động liên lỉ.

Chuyện Hoa Thủy Tiên mới nở chưa kịp tàn thì nổ tiếp chuyện “Cái nước mình nó thế!” của Hoàng Ngọc Hiến – giáo sư đại học, nhà nghiên cứu phê bình văn học, tác giả của một nhận định từng làm rung động giới văn học trong nước những năm 80 khi ông đưa ra cụm từ “hiện thực phải đạo”.

Đây là bài phỏng vấn do Phạm Thị Hoài và Trương Hồng Quang thực hiện trên Talawas. Một bài phỏng vấn đậm đặc sôi nổi và mở ra nhiều cánh cửa trong đời sống văn học trong nước. Nó không chỉ liên quan đến những người cầm bút [trong nước] mà còn liên quan đến cả giới chức văn hoá và chính trị . Nổ tung như tạc đa .n, nếu có thể gọi như thế.

Từ Nguyễn Huy Thiệp với bước đầu đi vào thế giới văn chương –đến nhà thơ nữ Xuân Quỳnh, người phụ trách mảng văn xuôi nhà xuất bản Tác Phẩm Mới [tiền thân của Hội Nhà Văn bây giờ], và Nguyễn Duy, Thu Bồn. Rồi Nguyễn Minh Châu, Hà Minh Đức, đến Chế Lan Viên, Tố Hữu, Lưu Quý Kỳ, Bùi Minh Quốc, Vũ Thi . Thường, Nguyễn Đình Thi, cả ông Lê Đức Thọ và Trần Độ..…

Phát biểu về Chế Lan Viên, ông Hiến cho rằng “Nhà thơ lớn nước mình cũng nhà quê, cũng trẻ con cả thôi, cả nước mình nó thế: Nhà quê và trẻ con.”

Hoàng Ngọc Hiến còn cho biết ”Trần Đăng Khoa [người từng nổi tiếng là nhà thơ thần đồng trước kia, đã] tìm mọi cách để hạ uy thế của Nguyễn Huy Thiệp. Đối với Trần Đăng Khoa thì Nguyễn Huy Thiệp là thằng cường hào địa chủ trong văn học cần lật đổ.” Theo ông, cái cách của Trần Đăng Khoa là thế này: “Nguyễn Huy Thiệp là người sắc sảo, trí tuệ ư? Không, sắc sảo trí tuệ cái gì, chỉ có phép nói ngược thôi . Anh nói trắng thì nó nói đen, anh nói phải thì nó nói trái, Thiệp nó chỉ có thế, chứ chẳng có trí tuệ gì…. Họ [Trần Đăng Khoa và những người như ông Khoa] muốn chôn, muốn đóng ván thiên cho Thiệp.” Và ông gọi ông Khoa là nông dân và trẻ con.

Ông cũng nhắc đến tên nhà thơ Hữu Thỉnh [phe bảo thủ, chống đối Nguyễn Huy Thiệp] và Hội Nhà Văn Việt Nam – một tổ chức của Đảng và là “một bộ máy quan liêu, lấn át tính chất nghề nghiệp”, nhưng ngưòi ta vẫn muốn vào Hội vì quyền lợi và được đi nước ngoài . Ông cũng nhắc đến Nguyễn Khoa Điềm, người ở trên đe dưới bu’a, nhắc đến dịch giả Lê Huy Bắc, nhân vật được coi là người giỏi tiếng Anh nhất trường Sư phạm, một trường đại học mẫu mực, trường điểm của nhà nước, tương lai của nền học thuật Việt Nam. Thế nhưng, ông Hoàng Ngọc Hiến cho biết bản dịch của ông Lê Huy Bắc, “một đoạn mười dòng của ông ấy đã có bốn cái contresens, tức dịch ngược hẳn ý của người ta .” Ông cũng nhắc đến Đặng Việt Bích, con trai ông Trường Chinh, muốn làm Viện trưởng trường Đại học Văn Hoá-Nghệ Thuật, nhưng không được vì “quá lười đọc sách, ngu dốt, ích kỷ, nhếch nhác.”

Một câu nói đáng ghi nhận của ông Hoàng Ngọc Hiến: “Theo tôi, dùng tiếng Việt chính xác mới là yêu tiếng Việt, mà cái yếu nhất trong văn học Việt Nam từ 1945 đến nay là không chính xác về từ ngữ. Toàn dùng những từ chung chung, từ khuôn sáo, không chọn được từ chính xác…”

Đó là chuyện văn học do người cầm bút trong nước nhìn từ bên trong. Còn nền văn học hải ngoại qua cái nhìn của người viết và người đọc ngoài nước thì sao ?

Nhà văn Nguyễn Mộng Giác, tác giả hai bộ trường thiên tiểu thuyết đồ sộ Mùa Biển Động và Sông Côn Mùa Lũ, trong bài “Tình trạng lão hoá trong sinh hoạt văn học” [nxb Văn Mới, 2004] cho biết những nhà xuất bản uy tín trước đây [như Văn Nghệ, Thanh Văn, An Tiêm và mới nhất như Văn Mới] ngày càng ngại bỏ tiền xuất bản sách, nhất là loại sáng tác như thơ, tiểu thuyết. Số ấn bản trung bình chỉ lên đến 500, nghĩa là nếu bán hết may lắm lấy lại đủ vốn, cho nên dù sách xuất bản dưới nhãn hiệu nào, đa số trường hợp đều do chính tác giả bỏ tiền túi in lấy sách của mình. “Tình trạng ấy đưa đến một loạt phụ ứng: sách in ra nhiều nhưng chất lượng không bao nhiêu, nhu cầu quảng cáo để bán sách giết chết ngành phê bình, độc giả đứng trước rừng sách nhiều màu không biết nên mua sách nào sau nhiều lần “trao thân lầm tướng cướp” quyết định không mua sách nữa, không có người mua sách thì ngành xuất bản sa sút kéo theo động cơ thúc đẩy việc sáng tác… Cái vòng lẩn quẩn không lối thoát ấy có thể xảy ra cả trong nước, nhưng ở hải ngoại trầm trọng hơn do tình tra .ng lão hoá của sinh hoạt chữ nghĩa .”

Lão hoá theo Nguyễn Mộng Giác là khi người cầm bút chỉ nhằm viết cho những người cùng cảnh ngộ lưu vong như mình đọc, viết như lâu nay họ đã từng viết: “tiếc nuối một thời hoàng kim đã mất, xót xa trăn trở với những khổ ải đã trải qua, lật từng trang album bồi hồi với những kỷ niệm đẹp, mơ ước ngày trở về có khải hoàn môn dựng trên khắp nẻo đường và gặp lại một quê hương y nguyên như thời hoàng kim cũ…”

Có thể nói thêm là Lão hoá không chỉ ở người viết mà còn cả ở người đọc nữa, bởi vì ở hải ngoại số người đọc báo Việt và văn chương Việt ngày như một giảm xuống. Cứ nhìn vào các tạp chí văn chưong như Văn Học, Hợp Lưu hay Văn thì biết.

Đã đến lúc người viết nhận ra rằng tác phẩm của một nhà văn không chỉ nhắm vào một nhóm người, một cộng đồng nhỏ mà là cho cả một dân tộc nếu không có tham vọng có một readership lớn hơn, vượt khỏi biên giới của một quốc gia .

Những câu hỏi rất cũ đặt ra cho người cầm bút như Viết cho ai ? Viết cái gì? Viết như thế nào ? bây giờ vẫn còn có thể đặt lại trong một ý nghĩa mới . Nó không chỉ đúng cho người cầm bút hải ngoại mà theo Nguyễn Mộng Giác, nó còn đúng cả cho người cầm bút trong nước nữa . Ông kể lâu lâu xem một tạp chí hay một tuần báo văn chương trong nước, ông cảm thấy bị xúc phạm khi đọc hồi ký hay truyện ngắn của những cây bút Miền Bắc dùng những “nhân xưng miệt thị như “y”, “hắn”, “chúng”, “bọn nguÿ”, “thằng ngụy” y như trong thời chiến tranh. Rõ ràng là người viết văn ấy viết cho họ đọc với nhau, bất kể những thay đổi trong hơn một phần tư thế kỷ quạ “

Theo nhà nghiên cứu phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc [Chiến tranh, như một thi pháp, Talawas, 27/5/2004] thì trong văn hoá chiến tranh có ba điều đáng kể nhất: “chủ trương phi-nhân hoá kẻ thù, mỹ học về bạo động và đạo đức học về sự phá hoại .” Và trong quá trình phi-nhân hoá kẻ thù người ta tìm cách tước bớt chất ngưòi của kẻ thù bằng một hệ thống đại từ nhân xưng cực hạn chế: “thằng”, “con” và “mụ”…” Những biện pháp phi-nhân hoá kẻ thù như thế làm cho hành động giết người được miễn trừ trách nhiệm đạo đức: giết kẻ thù chỉ là giết một khái niệm, một con thú hay một kẻ chưa thành người vậy thôi .” [bđd].

Đào sâu hơn, Nguyễn Hưng Quốc cho rằng giới văn nghệ sĩ Việt Nam viết về chiến tranh ‘như một cách tái tạo la .i chi’nh mình’. “Những nỗ lực tái tạo ấy thay đổi theo thời gian và theo thời tiết chính trị chung quanh….. Nỗ lực tái diễn dịch và tái cấu trúc quá khứ như thế là hành động phổ quát ở hầu hết mọi người cầm bút. Bởi vậy, đối diện với đề tài chiến tranh, trong đó có chiến tranh Việt Nam, chúng ta không cần, không nên, và thật ra, cũng không thể đặt ra vấn đề chính xác trong việc tái hiện hiện thực.” Và ông kết luận: “Một cuộc chiến tranh có thể mang tính chính nghĩa hay phi nghĩa; nhưng một tác phẩm viết về chiến tranh thì chỉ có vấn đề hay hoặc dở mà thôi .” Và ông thêm, trong thế giới nghệ thuật, cái hay nhất bao giờ cũng được xem là cái đúng nhất. Chiến tranh và Hoà bình của Leo Tolstoi không phải là tác phẩm viết đúng nhất mà là tác phẩm viết hay nhất về cuộc chiến tranh Nga-Pháp. Và khi nó được xem là hay nhất, nó tự động được xem là chuẩn mực, từ đó, không phải chỉ có cuộc chiến tranh Nga-Pháp mà hầu hết các cuộc chiến tranh khác đều ‘bắt chước’ Chiến tranh và Hoà bình.” [bđd].

Cụ thể hơn, Hoàng Ngọc Tuấn trong một bài viết trên Hợp Lưu [số 71, tháng 6&7, 2003] có tựa đề “Văn chương về chiến tranh Việt Nam và nhu cầu sáng tạo bút pháp mới” cho rằng mặc dù “văn chương về chiến tranh Việt Nam cực kỳ phong phú về số lượng, chỉ có một số tác phẩm được xem là những thành tựu nghệ thuật.” Tại sao vậy ? Cũng như cách nhìn trên của Nguyễn Hưng Quốc, Hoàng Ngọc Tuấn cho biết phần lớn tác giả xem nhẹ giá trị sáng tạo nghệ thuật và đề cao “sự trung thực”, họ viết như một người lính hơn là như một nghệ sĩ văn chương, cũng giống như một bức ảnh rõ ràng và chính xác và một bức ảnh nghệ thuật có một khoảng cách rất xa . Trong gần hai thập niên trở lại đây, một số nhà văn đương đại của Hoa Kỳ đã nhận ra rằng không phải chỉ có một sự thật, mà có nhiều sự thật về chiến tranh Việt Nam và về bất cứ sự kiện nào xảy ra trong cuộc chiến ấy, và họ nỗ lực tìm kiếm những bút pháp mới có khả năng diễn tả cái hiện thực đa phương, đa tầng của lịch sử và cái tâm cảm cực kỳ phừc tạp của con người trong cuộc chiến ấỵ” [bđd]

Ông nêu ra cuốn tiểu thuyết Paco’s Story của Larry Heinemann làm ví dụ. Theo ông, Heinemann phù hợp với quan niệm thẩm mỹ hậu hiện đại, theo đó tác giả không chủ tâm đưa ra một phán xét chung cuộc nào cả, và độc giả phải đối diện với vô số khả thể diễn di.ch. Sau này, trong số những nhà viết tiểu thuyết hậu hiện đại về chiến tranh Việt Nam, Tim O’Brien với tiểu thuyết The Things They Carried (1990) là đáng lưu ý nhất. Theo Hoàng Ngọc Tuấn trong khi tuyệt đại đa số các nhà văn chiến tranh trong thời hiện đại nỗ lực chinh phục độc giả bằng những sự kiện và diễn biến “như thật” hoặc “hoàn toàn có thật”, O’Brien lại cố làm cho độc giả hoài nghi liên tục bằng những sự kiện và diễn biến không ngừng tự mâu thuẫn nhau.. Hơn thế nữa, ông còn xen vào câu chuyện để, một cách tỉnh táo, lật tẩy chính lối viết của mình.” [bđd]

Nhiều người trẻ gốc Việt hiện nay tại hải ngoại đã không viết bằng tiếng mẹ đẻ mà viết trực tiếp bằng tiếng Anh hoặc Pháp. Họ không đơn giản chỉ viết cho người ngoại quốc đọc. Họ viết như một nhà văn. Một trong những người trẻ cầm bút đó, nhà văn Nguyễn Quí Đức – hồi đầu tháng Ba, 2005, trước một chuyến đi công tác trong vùng Đông Nam Á cho một đài phát thanh tiếng Mỹ do anh làm chủ biên – nói rằng đối với giới trẻ, văn chương ngày nay không còn biên giới, nó đã ra khỏi cái đường biên quốc gia, tuổi trẻ của anh và những người trẻ hơn anh, nhận ra không còn nữa cuộc đối thoại đông và tây, không còn chuyện bắc và nam, không còn chuyện xung đột tôn giáo . Thế giới đã nhỏ hẹp với khoa học kỹ thuật tối tân ngày một biến ảo không lường. Đinh Linh có thời đến sống ở Ý Đại Lợi, đạo diễn lừng danh Trung quốc Trần Khải Ca đến Việt Nam. Đây là thời đại để người ta đi tới chứ không phải để người ta bước lui . Một phụ nữ Thái lấy chồng Đức và sanh con bên Pháp, hay một người Â’n chào đời ở Anh và đi học ở Mỹ. Vấn đề toàn cầu hoá đang là câu trả lời cho những câu hỏi cục bộ của người cầm bút đương thời .

Trước đây gần tám năm, Salman Rushie cũng từng đề cập đến vấn đề trên cho văn học Â’n Độ, trong một bài viết dành cho hợp tuyển Những tác phẩm văn học Â’n Độ điển hình: 1947-1997 [sau đó bài được Tạp chí Dân tộc Â’n Độ (India’s National Magazine) số ra ngày 9- 22/8/1997 kỷ niệm 50 năm ngày Â’n Độ độc lập, in lại .].

“Tiếng Anh là phương tiện giao tiếp thông dụng nhất thế giới; chẳng lẽ chúng ta lại không vui mừng về sự tinh thông của chúng ta về thứ ngôn ngữ mà uy thế của nó càng ngày càng lớn ma.nh. Việc lên án các nhà văn về những thành công của họ trong việc bứt phá các rào cản ngôn ngữ không khác việc làm của chủ nghĩa địa phương hẹp hòi là bao (chủ nghĩa địa phương có thể là thói tật chính của văn học bản địa .) Vai trò quan trọng của văn học được thể hiện ở chỗ, nó là phương tiện có thể tạo ra những cuộc đối thoại giữa các quốc gia trên thế giới…… Văn học sẽ có ít, hoặc chẳng có gì để nghiên cứu với những cái tên chỉ được biết đến trong nước của tác giả.” [Phạm Phương Chi dịch, http://evan.com.vn, 10/3/2005]. Cái nhìn của Salman Rushdie đối với văn học Â’n không khác mấy cái nhìn của Nguyễn Quí Đức đối với sự bế tắc của văn học Việt Nam.

Sau cái tạm gọi là sự “nhếch nhác” của văn học trong nước và cái “lão ho’a” của văn học hải ngoại, liệu văn học Việt Nam bao giờ mới có tác phẩm ngang tầm thời đại .

Phải chăng, để ra khỏi cái ngõ cụt ấy là một nền văn học Việt Nam viết bằng tiếng Anh, Pháp của người viết trẻ ở hải ngoại và sự tiếp thu nguồn văn hoá thế giới một cách chủ động của người viết trẻ trong nước?

Tháng Ba, 2005

NGUYỄN XUÂN HOÀNG

Chuyện một cái tủ sách

1.

Trong nhà tôi ở Sài gòn hồi đó có một kệ sách nhỏ đặt trên gác lững. Kệ sách là những thanh gỗ dài, bào láng, đặt trên những viên gạch đỏ xếp cao theo chiều đứng của sách. Sách mỗi ngày một nhiều, kệ sách cứ chồng thêm các thanh gỗ cao lên mãi, lên gần tới trần nhà. Đến lúc không đủ sức chứa, tôi bắt đầu cho sách vào thùng giấy, rồi cứ thế đánh số thùng theo thứ tự, thùng này chồng lên thùng kia .

Nhà nhỏ, sách lấn qua chỗ nằm, tôi đành phải nghĩ đến chuyện vất bớt những cuốn không cần đọc nữa . Vất nhưng tiếc, vì tuy không cần lúc này, nhưng biết đâu về sau có lúc cần tìm một đoạn, một câu . Một câu trích mà không có sách dẫn thì sao ? Sách mang ra thùng rác rồi lại mang vô.

Làm cách nào để giữ được những cuốn sách mà lúc này chưa cần đến?. Tôi hỏi Trần Phong Giao, lúc đó là thư ký toà soạn tờ Văn, cách giải quyết những cuốn sách của tôi . Anh hỏi lại tôi: “Cậu làm sao thế? Có chuyện gì vậy ?” Chẳng có chuyện gì hết. Tôi nói với Trần Phong Giao là tôi cần thanh toán mọi thứ trước nhất là sách vở.

2.

Trần Phong Giao là một người to lớn, có vẻ một công tư chức, một nhà thầu hơn là một người làm công việc sách báo chữ nghĩa .

Những người mới gặp anh lần đầu rất khó chịu vì cái vẻ hơi “kênh kiệu” của anh. Anh lạnh với người lạ trong giao tế, nhưng quen anh lâu mới thấy anh là người rất tử tế. Tôi không biết những thư ký toà soạn khác thế nào, chứ với Trần Phong Giao tôi có thể nói anh là một thư ký toà soạn đặc sắc. Hơi bảo thủ, và khắt khe, có vẻ như anh chỉ tin vào những tài năng đã được xác nhận, nhưng không phải vì thế mà anh không dám mở tay đón nhận những người viết mới .

Cách đây vài năm, một tình cờ may mắn tôi được nhà bình luận thời cuộc-kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa gửi tặng mấy số báo Văn cũ trước năm 1975, trong đó có số 164, ra ngày 15 tháng Mười, 1970, “Đi Giữa Mưa Thu” / Tuyển tập những cây bút trẻ.

Như tên gọi của nó, đây là một số báo dành riêng cho những người mới đến với Văn. Mới từ người vẽ tranh bìa: hoạ sĩ Hồ Đắc Ngọc. Và tất nhiên cái mới chính là từ những người làm thơ viết văn: Lê Văn Thiện, Đặng Tấn Tới, Kinh Dương Vương, Nguyễn Đường-Thai, Nguyễn Lệ-Uyên, Hoàng Ngọc Châu, Hồ Minh Dũng, Lộc-Vũ, Mường-Mán, Hoài Tuyết Trang, Phạm Ngọc Lư, Nguyễn Lương Vỵ, Nguyễn Văn Ngọc, Lê Miên Tường, Phạm Thanh Chương.

Tôi không biết trong số những người viết trên số báo này [cách đây đã 35 năm] ai còn ai mất, ai vẫn cầm bút và ai đã thay tên đổi nghề, nhưng tôi biết ít ra chúng ta vẫn còn Kinh Dương Vương [của truyện ngắn, ký Dung Nham khi làm thơ, và Rừng khi vẽ], vẫn thở khói còn Mường Mán viết truyện trong nước, vẫn còn Hồ Minh Dũng sáng tác mạnh mẽ ngoài nước. Trong thư toà soạn Trần Phong Giao thông báo sẽ còn thực hiện thêm nhiều số báo với người viết mới khác. Tôi không nhớ sau số này anh đã làm thêm được bao nhiêu số giới thiệu người viết mới, nhưng trong mục hộp thư tôi đọc được có nhiều người hiện có tên tuổi trong làng văn trong nước. Như Khuê Việt Trường là một. Tờ Văn thời Trần Phong Giao thực sự làm sống dậy một đam mê chữ nghĩa của nhiều người viết trẻ.

Trong thời gian làm tờ Văn, Trần Phong Giao thực hiện nhiều số đặc biệt không những về các nhà văn nhà thơ tiền chiến hay đưong đại mà còn giới thiệu nhiều khuôn mặt văn học thế giớị

Không mở đường và khai phá như Sáng Tạo, không bắt mắt với lối trình bày nghệ thuật và trẻ trung như Khởi Hành, Thời Tập, nhưng Văn có được một chỗ đứng đáng tin cậy nhờ thư ký toà soạn Trần Phong Giao .

3.

Trần Phong Giao là người khéo hỏi bài người viết và đối xử khéo sau khi đăng bài . Trong ngăn kéo anh bao giờ cũng có sẵn nhiều bài cho vài số báo . Anh đặt bài cho những số chuyên đề từ cả sáu tháng đến một năm trước. Có thể nói, tạp chí Văn thời Trần Phong Giao là một tạp chí văn chương hơi cổ điển và đặc biệt …. ít lỗi chính tả nhất, bởi vì trước hết anh là người cẩn trọng, chăm sóc từng chữ, từng câu, từng trang bài, và sau nữa vì anh còn có một người phụ tá cần mẫn tỉ mỉ, giỏi chính tả ngữ vựng: Đàm Gia Tuấn.

Đưa bài cho Trần Phong Giao, người viết có thể yên tâm nhiều mặt: bài không bị sai lỗi chính tả và, tiền nhuận bút có ngay sau khi báo rậ .

Tôi nhớ anh đi chiếc mobylette cũ, một chiếc xe xấu xí, nhả khói tợn và máy kêu hơi to, chân đi dép thường hơn đi giày, áo sơ mi ngắn tay bỏ ra ngoàị Trần Phong Giao ít cười và hơi nghiêm.

Tuy vậy cần ghi nhận, thời làm tờ Văn anh cũng bị nhiều trận đụng nặng. Ở quán Cái Chùa, bọn tôi: Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Nhật Duật, Đặng Phùng Quân, đôi khi vẫn đề cập đến anh như một “đề tài”. Có một ông thư ký toà soạn như Trần Phong Giao, “bố già” chủ nhiệm Nguyễn Đình Vượng yên tâm lắm.

Nhưng, năm 1972, không hiểu vì lý do gì đã làm cho hai ông chủ nhiệm và ông thư ký toà soạn “cơm không lành, canh không ngọt” nữa . Trần Phong Giao phủi áo ra đi . Anh đứng ra làm một tạp chí khác, tờ Chính Văn với nhà văn Nguyễn Mạnh Côn. Nhà thơ Viên Linh nói “anh em lúc đó rất tiếc, phải chi Trần Phong Giao làm một tờ giống như tờ Văn có lẽ anh thành công ngay .” Tờ Chính Văn chỉ sống đến số thứ hai thì chia tay .

Đó là thời gian ông Nguyễn Đình Vượng kéo tôi về với tờ Văn. Ông là người lo cho tôi nhiều thứ khó khăn trong đời sống mà tôi đang vấp phải . Tôi gọi ông Nguyễn Đình Vượng là “bố gìa” vì quả thật không ai bỏ thì giờ nhiều cho tôi như ông, mặc dù sức khoẻ ông trong thời gian này đã không còn như xưa . Tôi là ngưòi chịu ơn ông rất nhiều . Hồi đó tôi la cà ở quán cà phê nhiều hơn ở lớp học, tôi ngồi ở Chợ Đủi nhiều hơn nằm nhà. Ông Vượng đã đem tôi trở lại đời sống bình thường.

Tôi nhớ một buổi sáng Chủ Nhật, Trần Phong Giao đến nhà tôi, hỏi có đi cà phê không? Đối với tôi đây là một điều lạ. Trần Phong Giao ít khi cà phê, anh chỉ thích rượu và là người biết thưởng thức rượu ngon mặc dù anh không phải là tay nhậu . Anh cũng không có tật lê la đầu đường xó chợ như tôi . Tôi trả lời ừ đi thì đi . Anh đứng giữa nhà nhìn quanh. “nhà tôi đã chật mà nhà cậu coi bộ còn chật hơn. Sách báo đâu hết rồỉ” Tôi chỉ tay lên gác lững. “Trên đó! Không còn chỗ nằm nữa .” “Cái phòng khách này ban đêm dựng chiếc lambretta của cậu vẫn còn có thể để một tủ sách nhỏ đấy .” Trần Phong Giao chỉ nói khơi khơi . Chúng tôi ra quán Cái Chùa . Tôi gọi cà phê, nhưng anh chỉ uống một hớp và xin lỗi có chuyện phải đi .

Chiều tối khi tôi về tới nhà thấy có gì lạ. Chiếc lambretta của tôi không còn chỗ đậu . Tôi thấy một tủ sách bằng gỗ đánh vẹc ni bóng có cửa kính kê sát vách phòng khách. Trong tủ chỉ có một cuốn sách, bản dịch bài diễn văn nhận giải Nobel văn chưong của Albert Camus. Người dịch tôi có biết chính là Trần Phong Giao .

Sau đó tôi dọn nhà hai lần, nhiều thứ mang theo, nhưng nhiều thứ phải bỏ lại . Tuy vậy, bao giờ tôi cũng chở theo tủ sách Trần Phong Giao cho . Căn nhà sau cùng ở Khu Mã Lạng – căn nhà mà “bố già” Nguyễn Đình Vượng cho tôi khi tôi về thay thế vai thư ký toà soạn Văn của Trần Phong Giao – sách đã chất đầy tủ. Những cuốn sách trong tủ này đôi khi thay đổi do những cuốn mới đem về đang cần đọc và những cuốn cũ lấy ra tặng cho các bạn khác cần hơn tôi, nhưng cuốn Sứ Mệnh Văn Nghệ in bài diễn từ Nobel của Albert Camus do Trần Phong Giao dịch, không bao giờ thay đổi vị trí.

Thời gian này tôi rất ít khi gặp anh.

“Bố già” Nguyễn Đình Vượng lúc đó ốm nặng. Báo Văn từ bán nguyệt san chuyển qua Giai Phẩm. Tôi bận rộn với chuyện nhà trường nhiều hơn trước, nhất là sau khi “Bố Già” chia tay . Tôi không nhớ rõ, nhưng số báo Tưởng Mộ Nguyễn Đình Vượng [chữ tưởng mộ là chữ của Mai Thảo] Mai Thảo và tôi chia nhau viết bài và mời người viết, sau đó tôi trở về dành toàn thời gian cho nhà trường.

Tủ sách Trần Phong Giao vẫn nhìn thấy tôi mỗi ngàỵ Cho tới ngày 30 tháng Tư, 1975.

Những cuốn sách trong tủ và trong nhà tôi bị một trận “hồng thủy” cuốn trôi hết, bất kể đó là tự điển hay sách triết học, loại biên khảo hay lý luận nghiên cứu phê bình văn học . Cứ sách là tịch thu tuốt luốt cho chắc ăn. Sách được những người trẻ tuổi đưa xe ba gác đến chở như chở xác chết của những tội đồ. Cái tình cảm vất tay này nhưng tay kia lấy lại ngày xưa không còn nữa . Căn nhà nhỏ của tôi đột nhiên trống trải gọn gàng một cách dễ sợ

Cuốn Sứ Mệnh Văn Nghệ của Albert Camus, bản dịch của Trần Phong Giao cũng không còn – đương nhiên – và đầu óc tôi cũng trống rỗng như cái tủ sách trống trơn kia .

Thế rồi những năm tháng sau, chợ trời sách cũ dần dần xuất hiện rải rác nhiều nơi ở Sài Gòn. Tôi nhớ một hôm đi trên con đường Bùi Quang Chiêu, xem sách, bất ngờ tìm thấy một vài cuốn có chữ ký của mình. Có cuốn có chữ ký của Huỳnh Phan Anh và những bạn khác của Sài Gòn.

Tôi bắt đầu tha ở chợ trời về gần như đầy đủ những cuốn trước đây của tôi . Có điều là tôi vẫn không tìm thấy cuốn sách dịch bài diễn văn của Albert Camus.

Cách đây mấy năm thôi, Nguyễn Thụy Long nhờ Nguyễn Đạt mang tặng tôi mấy cuốn sách mà tôi là tác giả in ở Sài Gòn trước 75. Long nói anh đã tìm thấy nó ở chợ trời . Cuốn sách của mình viết ra sau một thời gian gió bụi bỗng một hôm trở lại tay mình ở một nơi rất xa quê hương. Mấy cuốn sách bị nhầu nát, bìa rách, giấy đen… Thời gian tưởng đã mất rốt cuộc hình như cũng tìm lại được.

Mười năm ở lại trong nước tôi chưa một lần gặp lại Trần Phong Giâ . Và mặc dù hai mươi năm xa quê tôi có đôi lần gửi quà cho anh nhưng chỉ là những món quà không đáng kể. Tôi nghĩ có lẽ nhà văn Trùng Dương là người giúp đỡ Trần Phong Giao nhiều hơn ai hết. Tôi nhớ lại thời gian làm báo Người Việt ở Nam Cali dù lương thấp không đủ nuôi sống gia đình, tháng nào tôi cũng gửi cho những thuyền nhân ở trại tị nạn Bataan Phi Luật Tân năm ba chục mỹ kim. Những người thiếu may mắn, đến đảo trước tôi cả mấy năm mà vẫn chưa thấy tên trên list định cư. Tôi thấy mình làm như thế là đúng thôi, nhưng bây giờ nghĩ lại thấy mình có phần tệ bạc với anh. Anh xứng đáng để được mình nghĩ đến nhiều hơn những người khác.

Cho đến một buổi sáng dậy sớm mở mail thấy thư Đặng Tiến. Một dòng chữ ngắn trên cái email gửi chung cho các bạn quen. Trần Phong Giao đã ra đi . Rất ít chi tiết về Trần Phong Giao . Tôi nhờ Trần Thị NgH. – tác giả Nhà Có Cửa Khoá Trái – ở Sài gòn cho một bài về anh. Chị viết một hồi ức về lần đầu đưa sáng tác của mình cho Trần Phong Giao . Một tiếp xúc khó chịu của ông thư ký toà soạn với một người viết mới là một ấn tượng còn ở lại hơi lâu với Trần thị NgH.

4.

Ở Mỹ chuyện mua một tủ sách gỗ có đánh vẹc ni có vân đâu phải là chuyện khó. Tìm cho nó một chỗ để trong phòng khách hay phòng làm việc, thậm chí trong phòng ngủ cũng là chuyện dễ như trở bàn tay . Tôi đã có nhiều kệ sách như thế, nhưng cái kiểu tủ sách Trần Phong Giao tôi không tìm ra .

Trong ga ra nhà tôi thuê ở thành phố Milpitas giờ đây đã chật ních sách báo . Mấy năm nay tôi đã dọn dẹp cho vào thùng giấy – loại thùng có thể mua ở các tiệm Staples hay Office Max, Office Depot – và đã chật đầy ga ra . Nhưng tôi không hiểu mình tha về từ đâu mà nhiều sách thế. Ga ra không còn chỗ chứa, sách đưa vào phòng khách, đưa vào phòng ngủ, rồi lại đặt lên kệ là những thanh gỗ bào láng theo kiểu Sài Gòn. Rồi bắt đầu phân loại chở sách đến tặng cho thư viện, tặng cho trung tâm người cao niên Việt Nam, tặng bạn bè, chỗ này một ít chỗ kia một ít. Nhưng đâu cũng vào đó, chưa đầy sáu tháng sau, sách lại dồn lên chật chội khắp các phòng.

Mấy dòng chữ trong email của Đặng Tiến làm tôi nhớ lại cái tủ sách mà Trần Phong Giao lặng lẽ chở đến nhà tôi một buổi sáng năm xưa ở Sài Gòn.

Suốt mấy năm nay, tôi vẫn còn một lấn cấn chưa giải quyết xong: Làm cách nào cho hết những thùng sách trong nhà tôi . Tôi trở lại cái cảm giác bỏ sách ngày xưa, như hồi còn ở Sài Gòn: bỏ thì thương mà vương thì tội . Tay này vừa vất sách tay kia đã kịp giữ lại .

Xin tạm biệt Trần Phong Giao . Xin cám ơn người đã xây dựng cho tờ Văn có một chỗ đứng cho đến ngày hôm nay . Nơi mà tôi sẽ đến cũng là nơi mà anh vừa đến con đường ấy với tôi không còn xa lắm đâu . Hẹn gặp!

——————————————-

TRẦN PHONG GIAO

1932-2005

Tên thật Trần Đình Tĩnh

Sanh năm 1932,

Mất tại Sài Gòn ngày 13 tháng Tư, 2005.

Thọ 73 tuổi.

Trước 1964, làm Tin Sách của Trung Tâm Văn Bút Việt Nam.

1964, tổng thư ký tạp chí Văn.

1972, rời Văn, làm tờ Chính Văn với Nguyễn Mạnh Côn.

Đầu năm 1975, giữ mục Giải Đáp Thắc Mắc Văn Học tờ Thời Tập của Viên Linh..

Ông là dịch giả các cuốn:

Guồng Máy [L’Engrenage] của Jean-Paul Sartre Sứ Mệnh Văn Nghệ, diễn từ Nobel Văn chương của Albert Camus,

Sự Đã Rồi [Les Jeux Sont Faits] Jean-Paul Sartre [dịch chung với Nguyễn Xuân Hoàng.

Tác giả: Ngồi lại bên cầu

Nửa đêm thức giấc.

NGUYỄN XUÂN HOÀNG

TRÒ CHUYỆN VỚI TÁC GIẢ

Daughters of the River Huong

Dương Như Nguyện

Có lẽ người đọc Việt hải ngoại không xa lạ gì với tác giả Dương Như Nguyện qua những truyện ngắn của cô trên các tạp chí văn học tại Hoa Kỳ những năm 90. Năm 1999 nhà xuất bản Văn Nghệ [California] ấn hành cuốn Mùi Hương Quế của cô, và năm nay, 2005, Dương Như Nguyện cùng lúc vừa cho phát hành cuốn Chín Chữ Của Nàng [nxb Văn Mới, California], đồng thời với cuốn Daughters of the River Huong -a Vietnamese royal concubine and her descendants, Uyen Nicole Duong (Dương Như Nguyện). Bià do Tom Suzuki trình bày, RavensYard xuấtbản, sách dày 271 pages, SRP $17.95. Địa chỉ: RavensYard Publishing, Ltd. P.O. Box 176, Oakton, VA 22123 USA, www.ravensyard.com

clip_image008

Lâu lắm, dễ chừng 15 năm nay, tôi không gặp Dương Như Nguyện. Tôi nhớ khoảng năm 89, 90 gì đó tạp chí Văn Học của Nguyễn Mộng Giác đăng truyện Những Cỗ Quan Tài của Tịnh Tâm của một tác giả lần đầu tiên mà tôi được đọc: Dương Như Nguyện, và lập tức truyện của cô gây trong tôi một xúc động mạnh. Sao có thể có người viết nồng nàn đến thế. Không khí trong truyện tưởng là thư thả mà dồn dập, lạnh lùng mà nóng bỏng, và đẩy người đọc phải chạy theo tác giả mệt nghỉ. Như trong âm nhạc, có những dấu lặng, bỗng nhiên người đọc không thấy truyện của cô xuất hiện trên các tạp chí văn học Việt ngữ nữa. Cho đến năm 1999, người ta bỗng thấy trên kệ các nhà sách cuốn Mùi Hương Quế của cô. Dương Như Nguyện đã trở lại. Và sau đó là một khoảng lặng nữa. Sáu năm sau, 2005, các nhà xuất bản đồng lúc in hai tác phẩm của cô: Chín Chữ Của Nàng [Văn Mới] và Daugters of the River Huong [DORH] [RavensYard]. Đó chưa kể cũng trong năm nay cô sẽ cho in tiếp liền Con Gái của Sông Hương bản dịch Việt ngữ của Linh Chấn Brown.

Dương Như Nguyện cho biết cuốn DORH là một tiểu thuyết viết ở ngôi thứ nhất theo thể “ memoir” (hồi ký). Và cô nhấn mạnh, “ vì đây là tiểu thuyết- hồi ký có nghĩa là hồi ký của nhân vật, chứ không phải hồi ký của tôi.” Cô không muốn người đọc ngộ nhận giữa tác giả và nhân vật.

Ơ bià lưng cuốn sách, dưới dòng tít: Love & War /Tình Yêu & Chiến Tranh, người ta đọc được câu : “Truyện tình giữa André và Simone Mỵ Uyên tượng trưng cho cái chết của đặc tính lãng mạn của nền văn hoá Pháp ở thuộc địa, cộng thêm sự mở cửa của một nước Việt Nam bị tàn phá vì chiến tranh, phải đón trào lưu canh tân mang tính cách lệ thuộc của kinh tế toàn cầu. Bức tranh ấn tượng này sẽ nhắc nhở độc giả tới những chuyện có tầm vóc bao quát của Gone with the Wind và The Thorn Birds (Cuốn Theo Chiều gió và Tiếng Chim Hót trong bụi Mận Gai), đượm thêm nhân bản tính và tình yêu sâu xa giữa mẹ và con của The Joy Luck Club.”

Cô nói “Câu này không phải là quan điểm của tôi. Việc so sánh tác phẩm của tôi với Gone with the Wind, Thorn Birds, hay Joy Luck Club là ý nghĩ của nhà xuất bản, để giải thích lý do tại sao họ muốn đầu tư vào tiểu thuyết của tôi sau khi đã đọc bản thảo.”

Cô cho biết cô có thói quen là trong tiến trình sáng tạo, không bao giờ viết để cho giống hay theo một khuôn mẫu của bất kỳ tác phẩm nổi tiếng nào. Viết là viết theo sự thôi thúc sáng tạo (artistic vision) của chính mình mà thôi. Bằng chứng là trước khi RavensYard đến với cô, bà Sandra Kjistra, đại diện cho Amy Tan và Stephen King, đã hối thúc cô viết lại tác phẩm này cho giống cuốn Memoir of a Geisha của Arthur Golden, thì bà ta mới nghĩ đến việc đem tác phẩm của cô đến với các nhà xuất bản danh tiếng của Hoa Kỳ. Thế nhưng Dương Như Nguyện đã bác bỏ đề nghị đó, cũng chỉ vì không muốn đi theo một khuôn mẫu khi viết về nguồn cội của mình.

Hỏi tại sao cô chọn River Huong mà không chọn Perfume River như một cách đẩy sách đến người đọc dòng chính, Dương Như Nguyện cho biết lúc đầu nhà xuất bản RavensYard đề nghị đặt tên cho tác phẩm là“Những Cánh Hồng Đen”, dựa trên mối tình trái cấm của nhân vật chính, một thiếu nữ chỉ mới 14, 15 tuổi, nhưng cô không bằng lòng, và cuối cùng quyết định để tác phẩm mang tên của dòng sông Hương.

Cô cho rằng Perfume River là danh xưng do người ngoại quốc dịch tên của dòng Hương giang xứ Huế.

Theo cô, “Người Huế không ai gọi dòng sông lịch sử của quê hương mình là “dòng nước Hoa” cả. “Perfume” hay “parfum” là một kỹ nghệ buôn bán, một hình thức mỹ phẩm phù du bên ngoài, làm đẹp cho phụ nữ theo kiểu quyến rũ người khác phái, hoàn toàn có tính cách vật chất hời hợt, không phải là phẩm lượng bên trong. “Nước hoa” sẽ phai đi. “Mùi hương” trái lại có thể toả từ tiền kiếp, liên đới kiếp này sang kiếp khác, không gian này qua không gian khác, đi từ quá khư, ù hiện tại, và có thể chuyên chở vào tương lai, từ vô thức, tiềm thức, tới ý thức. Với mùi hương thật sự (authentic) như trong câu: “Hữu xạ tự nhiên hương” thì “hương” có thể trở thành bất diệt trong trí tưởng và tâm thức của người thưởng ngoạn.

“Hương còn là tiếng thơm, có thể toả ra từ đáy hồn là một luyến nhớ vào rừng kỷ niệm. Tiếng tăm (cái gì lưu lại) là sợi dây liên đới giữa sựphán đoán của lịch sử (external) với đạo đức cá nhân (intrinsic). Đạo đức ở đây có nghĩa là “universal truths” công cuộc đi tìm sự thực của người cầm bút, chứ không phải là kỷ cương của tôn giáo hay xã hội.

Chữ “hương” do đó mang ý nghĩa tâm linh nhiều hơn vật chất, phải dịch là “fragrance” trong trí tưởng, hoặc “good name” như trong “tiếng thơm muôn thuở”. “Hương” là một “motif” liên tục trong sáng tạo của tôi. Thí dụ Mùi Hương Quế. “Đó là tập truyện độc nhất tôi đem đến cho cộng đồng mình trong mười năm qua, hoàn toàn không có việc ra mắt sách, không có lời giới thiệu của ai, cũng không có bài phê bình nào, ngoại trừ bài của ông Đoàn Nhã Văn, một người tôi không hề biết, hình như cảm nhận được tâm thức của chữ “Hương” trong Mùi Hương Quế. Tôi chỉ mới đọc bài này ngày dạo gần đây.”

Dương Như Nguyện nói cô chủ trương đem bản chất văn hoá thực thụ của nguồn cội đến cho dòng chính, chứ cô không cần thiết phải bắt nhịp cầu cho dòng chính đến với nguồn cội của mình một cách dễ dànghơn. “Tôi chẳng cần phải dịch chữ ‘Hương’ như người Âu Tây đã dịch tên dòng sông quê ngoại! Nếu tôi gọi nó là ‘sông Hương’ thì độc giả của dòng chính cũng phải chịu khó viết và đọc chữ ‘Hương’ như tôi vậy thôi. Nếu tác phẩm gây được ảnh hưởng trong dòng chính, thì dòng chính sẽ biết đến tên ‘Hương’ (tiếng Việt) của dòng sông.”

Theo tác giả, đã đến lúc người nghệ sĩ sáng tạo phải viết lại hình ảnh sông Hương ngay trong lòng dân tộc, chứ đừng nói chi đến ngoài dân tộc. “Từ một lúc nào đó, sông Hương bị mang theo hình ảnh các cô gái‘ngủ đò’, nói về việc bán thân nuôi miệng của người phụ nữ. Đây là lý do khiến cô rất thận trọng trong việc chọn tên cho bản dịch. ‘Con Gái của Sông Hương’ để nói lên ý nghĩa liên hệ máu huyết, nguồn cội. Nếu sông Hương đã bị đồng hoá với việc ‘bán phấn buôn hương’ thì gọi nó là mỹ phẩm ‘parfum’ chỉ làm cho hình ảnh đó thêm độc địa mà thôi. Từ trước đến nay, người Việt mình cứ điềm nhiên mà chấp nhận những gì đã xảy ra, bình thường hoá ngay cả sự ẩu tả hoặc tiêu cực trong vấn đề ngôn từ và biểu tượng có liên quan đến dân tộc tính.” Cô giải thích.

Theo cô, “nói như vậy không có nghĩa là cô khinh bỉ những phụ nữ ‘ngủ đò’ theo ý nghĩa bình dân này. Tình tự dân tộc mà Nguyễn Du mang đến cho chúng ta bao thế kỷ nay là tiếng lòng của một kỹ nữ. Một kỹ nữ đã được bậc thức giả, đại nho tôn xưng là biểu tượng của chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”

Và cô kêu gọi: Xin nam giới và phụ nữ chấm dứt vấn đề coi sông Hương là chốn “ngủ đò” theo ý nghĩa tiêu cực này. Rồi truyền tụng lẫn nhau một cách vô ý thức, trong một thời điểm mà du khách ngoại quốc đã và đang đổ xô vào Việt Nam, thời điểm mà phụ nữ Việt Nam cất tiếng kêu thương trên toàn thế giới.

Dương Như Nguyện nhắc, hãy nhớ đến cái chết của Trần Cao Vân và Thái Phiên trong ngục tối, trong những ngày dầu sôi lửa bỏng bên thềm của phong trào lật đổ thực dân (decolonization) đầu thế kỷ 20. Cậu bé trai 16 tuổi trên ngai vàng vô nghĩa, đã đi theo tiếng hò trên sông, lời kêu gọi của hai nhà nho trong ngày tàn của quân chủ và thể chế Khổng Mạnh. Vang vang trong tiếng hò lịch sử ấy là lòng thương xót cảnh khổ của người dân đen thấp cổ bé miệng, và trách nhiệm của người lãnhđạo. Đó không phải là luân lý giáo điều của Khổng Mạnh, mà là căn bản của đạo đức dân tộc. Trước bến Vân Lâu…Nghe câu Mái Đẩy chạnh lòng nước non! Đây mới đúng là chỗ đứng lịch sử của sông Hương.

Cô kết luận: “Why do we have to repeat the linguistic convention attached to our roots by outsiders? Just because someone from the West has called the river ‘Perfume’, do we, descendants of this river, must adhere to such terminology (thuật ngữ)? Make the West call it what we call it, Huong, in the native language. Isn’t that the by-product of the work of a Vietnamese American artist who injects her roots into the host country by simply pursuing her art? Đây chỉ là một thí dụ nhỏ để nói lên chiều hướng khai phóng.

As far as I am concerned, the superficial ‘Perfume’ connotation is out of my Song Huong. Out, for good! (Cô nói cô không biết phải dịch ý này ra tiếng Việt như thế nào, xin chấp nhận việc cô chêm những câu tiếng Anh để kết thúc câu trả lời).”

Thế hiện nay cô đang đọc tác giả nào, Dương Như Nguyện cho biết cô mới vừa đọc lại một số những tác phẩm bất hủ của văn học Nga, the classics, từ Tolstoy cho đến Dostoyevsky, ngay cả Solzhensitsyn của thời cận đại. “Dĩ nhiên là khi quay về classique,” cô nói, “tôi đọc lại luôn Boris Pasternak và Franz Kafka. (Nhân tiện tôi đọc lại cả Henrik Ibsen của Na Uy (the Master Builder) để suy gẫm, George Bernard Shaw (để nhận thức thêm một lần nữa rằng Shaw đã đi trước quá xa thời đại của ông sống khi ông viết về phụ nữ), và cả Theodore Dreiser (để nhắc lại cho mình nhớ thế nào là một cuốn tiểu thuyết Hoa Kỳ, the cliche — the American novel, thật sự đúng nghĩa là tiểu thuyết với tất cả tâm lý nhân vật, cường độ, và cao độ của nghệ thuật tiểu thuyết!)”

Cô cũng đọc lại các nhà văn Nga và Đông Âu trong giai doan này vì cô cho rằng cô mường tượng thấy hình như các tác giả này được truyền tụng trong giới trí thức thuộc “thế hệ của ông”. Cô muốn tìm hiểu về cách nhìn và nếp sống tâm linh của thế hệ này. Lý do? “Tôi muốn tạo dựng một nhân vật chính (protagonist) là một người đàn ông Việt Nam cùng thế hệ với ông, sống trong lòng nước Mỹ, cho bản thảo sắp tới, bản thảo mà tôi chưa bắt đầu.”

Dương Như Nguyện nói cô rất trọng classiques, vì classiques đã được minh chứng bởi thời gian. Tuy nhiên, khi đọc lại classiques, cô thấy rõ những gì đã lỗi thời về bút pháp bên cạnh tính chất vĩ đại trường cửu của classiques. “Tôi cố tình không chú ý đến những tác phẩm hiện đại đang bán chạy hay đang nổi tiếng, được giải này giải nọ, vân vân, để tránh khỏi bị ảnh hưởng hay chi phối bởi thị trường hay chính trị.”

Theo cô, việc đọc các tác phẩm nổi tiếng, đọc càng nhiều càng tốt. là đường lối giảng dạy viết văn của Âu tây. Đến một lúc nào đó, người sáng tác ngưng đọc hoàn toàn, và không còn bị ảnh hưởng, tìm tòi cái gì nữa hết. Chỉ đọc những gì cần cho việc sáng tác mà thôi. “Tôi đã đi vào giai đoạn này kể từ năm 1998, sau khi làm xong một hình thức ‘fellowshi’ về tương quan giữa luật học và văn chương ở Harvard.”

Hiện tại, cô chỉ đọc những cuốn sách không nổi tiếng, mà cô lạicho rằng rất hay. “Đọc để thưởng thức, và đọc để tìm thấy chính mình.” Cô nói, “trong đó có cuốn The Sevigne Letters viết bởi một nhà văn trí thức không nổi tiếng: William Eisner, xuất bản bởi một nhà xuất bản boutique, chuyên về tiểu thuyết văn chương, hình như lúcnày không còn hoạt động thường trực nữa. Đây là tác phẩm hay nhất mà tôi đã đọc trong suốt một thời gian dài rất bứt rứt không tìm thấy đâu là tác phẩm ưng ý.”

“Nếu một ngày nào đó, có một nhà văn rất trí thức sẽ đọc Sông Hương hoặc những tác phẩm khác của tôi, như tôi đã đọc The Sevigne Letters, thì tôi cho đó là mình đã thành công, dù là thành công trong bóng tối.”

Về câu hỏi: Cô có chịu ảnh hưởng bút pháp của tác gỉa nào không?, Dương Như Nguyện nói:

“Bút pháp Hoa Kỳ? Thưa không. Hoàn toàn không. Tôi còn chủ trương sẽ đem metaphor, simile (bút pháp ẩn dụ) của tiếng Việt vào văn chương Mỹ. Tôi đã từng bị một, hai ‘readers’ phê bình (đây là những readers tốt nghiệp khóa văn chương) cho là văn của tôi ‘unAmerican’ vì các metaphor lạ hoắc! Một vài người khác (thường thường là trong ngành báo chí) thì hết lòng bênh vực tôi, nói rằng tiếng Anh của tôi nổi bật lên một giọng nói (the voice) rất đặc biệt và authentic. Mainstream nghĩ thế nào? Khi chọn con đường đặt tác phẩm vào tay Ravensyard (vì họ yêu cầu) và không đi qua các trung gian vănchương ở Nữu Ước, tôi chẳng nghĩ đến việc sẽ có tên tác phẩm mình trên mục book review của tờ New York Times. Điều đó thật tình không quan trọng đối với tôi. Tôi càng lớn tuổi càng lý tưởng và lãng mạn: nếu Hương quả thật là Hương, thì không cần New York Times cũng tạo ra Hương; Hương tỏa trong bóng tối thì mới là hương đặc biệt. Hương đem bán thành perfume ở Gallerie LaFayette là hương mại bản.”

Còn bút pháp của tác giả Việt Nam trong các sáng tác tiếng Việt của cô thì sao? “Hoàn toàn không.” Cô tiếp, “tôi viết song ngữ; viết thẳng bằng tiếng Việt; tuy nhiên bây giờ thì ngưng hẳn và chú trọng hoàn toàn vào tiếng Anh.”

“Không bị ảnh hưởng,” cô thêm, “không có nghĩa là tôi không yêu thích một số tác giả nào đó.”

Cô cho biết cô thích Nabokov, vì ông là người độc nhất trong văn chương Tây Phương viết nhiều thứ tiếng cùng một lúc cũng như tiếngmẹ đẻ: Anh, Pháp, Nga. Ông thật sự là một nhà văn song ngữ, một nhà văn lưu vong với rất nhiều khuôn mặt.

Cô nói, khi viết tiếng Anh, cô không thể theo nổi ngòi bút trác tuyệt của Nabokov. “Không dám có tham vọng đó. Viết chỉ để mà viết. Tôi rất ghét những người viết với tham vọng – some sort of a ‘hidden agenda’ như cái thang để leo trèo. Tôi chỉ có thể là tôi. Never any hidden agenda in what I write. The heart is the heart, pen is pen, and art is art.”

Theo Dương Như Nguyện, trong thế giới văn chương tiếng Việt, không ai viết tiếng Việt theo kiểu “lanh chao” [chanh chua và linh động] xứ Huế, thâm thúy và trung thực về tâm lý và sự chua xót nhọc nhằn của phái nữ trong đời sống trung lưu ở miền Nam Việt Nam hay hơn nhà văn Túy Hồng. “Cho đến hôm nay, chưa ai viết một truyện ngắn nào làm tôi nhớ mãi cho bằng một truyện ngắn của Trùng Dương. Và tôi chưa thấy có nhà văn nữ nào ở hải ngoại đã vượt lên trên đànchị nói trên. Đó là theo tiêu chuẩn chủ quan của tôi, dựa trên những gì tôi đọc từ tủ sách của bố mẹ tôi, thời thơ ấu.”

Cô nhắc câu: “Đập cổ kính ra tìm lấy bóng, xếp tàn y lại để dành hơi…” và nói “Hơi ấy chắc chắn phải vương vấn mùi hương quyện lên y trang như một hoài niệm tinh thần về quá khứ, một sự quyến luyến tinh thần, mãi mãi không phai nhạt vì đã nằm trong trí tưởng, chứ không thể là mùi nước hoa Chanel hay Calvin Klein ở cửa tiệm được!”

Trả lời câu hỏi Cô nghĩ sao về văn chương trong nước, văn chương ngoài nước, chuyện “nhếch nhác” bên trong và chuyện “lão hoá” bên ngoài?, Dương Như Nguyện cho biết: “Tôi không dám nói về văn chương trong nước vì không đủ dữ kiện. Tuy nhiên, những gì tôi đã đọc, ngoài vài truyện ngắn của Nguyễân Huy Thiệp, chỉ đem đến cho tôi sự thất vọng. Câu hỏi được đặt ra, trong một môi trường thiếu tự do ngôn luận, làm thế nào cho văn chương khởi sắc? Văn chương chống đối, dissident, được đánh giá theo một số tiêu chuẩn dành riêng cho văn chương chống đối. Tiêu chuẩn ấy chưa hẳn là tiêu chuẩn văn chương.”

“Nhưng trên văn đàn Mỹ Quốc, tự do ngôn luận đầy dẫy, trong những thập niên gần đây, đã có sự khởi sắc nào chưa, dù rằng Toni Morrison đã đem giải Nobel văn chương về cho nước Mỹ? Nên có một sự phục hưng (renaissance) nào đó hay không, cho dù tờ New York Times sẽ không bao giờ công nhận nhu cầu phục hưng khi họ viết về những tác phẩm được xuất bản trong guồng máy lớn?” (Cô cho biết cô nói ‘guồng máy’ là vì cô dạy luật công ty, thương mại – cái gọi là luật thương trường của tư bản. Theo con mắt nhìn của một luật gia, cô cho rằng kỹ nghệ xuất bản của nước Mỹ bây giờ là một guồng máy thương mại rất lớn có tính cách ‘độc tôn’ (monopoly) của thể chế tư bản).

“Về văn chương hải ngoại, Vietnamese exile literature, tôi công nhận và đồng ý với ông, rằng ngọn đuốc phải chuyền đến tay người của thế hệ mới. Nhìn vào thế hệ mới, theo tôi, thì ngay cả những tác phẩm bestsellers, và ngay cả cá nhân tôi với sông Hương (với tất cả những hạn định vì tình huống riêng biệt của nó (limitations by circumstances), hầu như chưa có một chỗ đứng gì đáng kể trong phạm vi rộng lớn.

Everything still remains to be seen. Con đường đi, dưới mắt tôi, là conđường thiên lý. Đường đi chưa đến.”

Nói về ‘lão hóa’ – Dương Như Nguyện hiểu theo một nghĩa khác của từ này* – cô gọi đó là chu trình chung của tất cả mọi sự việc. Cô nói “Trong lãnh vực văn chương, chưa chắc ‘lão hóa’ là điều đáng ,tiếc. (Nếu ‘lão hóa’ có nghĩa là ‘tuyệt tự’, không có ai để thắp tiếp ngọn đuốc, thì vâng, nên có tiếng chuông kêu cứu. Nhưng nếu thật sư đã ‘tuyệt tự’ thì có kêu cứu cũng không làm gì được. Nguy hiểm là ở sự ‘tuyệt tự,’ chứ không phải ở sự thật hiển nhiên: Lão Hóa.

“Văn chương cần tuổi tác và kinh nghiệm, giống như rượu ngon, giống như mỹ nhân tự cổ như danh tướng, càng nhiều tuổi càng sắc sảo (trong tiêu chuẩn gourmet, nếu thật sự là mỹ nhân, thì phải già đi mới đẹp. Nếu không tại sao người ta lại ví mỹ nhân với danh tướng? Có tướng nào trẻ măng mà có kinh nghiệm chiến trường đủ để trở thành danh tướng hay không, kể cả Napoleon và Alexandre? Thúy Kiều 16 làm sao thu hút cho bằng Thúy Kiều 35, khi mặt hồ thu đã long lanh ngấn lệ vì đường đời, và trái tim đã trưởng thành đủ để mang tình cầm sắc đổi ra cầm kỳ?”

Điều mà cô lo ngại hơn vấn đề ‘lão hóa’ là vấn đề ‘thoái hóa trong tiêu chuẩn’ (sub-standardization, chữ dùng của riêng cô). “Trong cộng đồng Việt Nam, hiện tượng này xảy ra, là trách nhiệm của những người cầm bút đi sau, và là trách nhiệm của độc giả. Của cộng đồngngười đọc. Điều này quá nan giải, vượt ra ngoài cuộc nói chuyện của chúng ta hôm nay, vì có liên quan đến vấn đề xã hội học của tình huống di dân.”

Cô nêu một thí dụ về cái mà cô gọi là ‘sub-standardization’.

“Cách đây mấy tháng, tôi được biết rằng tôi đã được xếp loại vào chung với một số phụ nữ viết văn tiếng Việt – viết về tình dục. Tôi xin khẳng định – tôi chưa bao giờ viết về tình dục cả. Tôi chỉ viết về kinh nghiệm làm người. Người nữ nồng nàn và người nữ nhọc nhằn. Và tôi cũng không lấy gì làm hãnh diện được chỗ đứng ‘tiền phong’ cho phong trào ‘viết về tình dục’ này.

“Trong việc phê bình văn học (một địa hạt quá thiếu vắng trong tình huống eo hẹp của kiếp di dân), dùng tiêu chuẩn gì đây để đánh gía hiện tượng này – cái gọi là ‘nhà văn Việt Nam viết về tình dục, nữ cũng như nam?’ Nếu nói rằng nhà văn nữ Việt Nam đi vào một thế giới mà trước kia là chỗ đứng của đàn ông, thì Anais Nin đã làm điều này từ thập niên 1930. Tại sao đàn bà Việt Nam bây giờ đi làm chuyện đó, chỉ để công nhận mình đã thụt lùi sau Anais Nin gần cả một thế kỷ?

“Artists write art. Artists write humanity. Thinkers write thoughts. Thinkers write social justice. Artists and thinkers do not write sexuality for the sake of sexuality. Nếu tình dục là một phần của kinh nghiệm nhân sinh, thì artists sẽ tả dục tình để đi tìm cái đẹp của nhân sinh và nhà tư tưởng sẽ mô tả dục tình để tranh đấu cho nhân sinh. Dục tình viết khơi khơi, gratuitously, là khởi điểm của mại bản, dùng ngay thân xác con người để làm shock effect, mà trong đó phụ nữ thường thường là bị bóc lột. Người luật gia nói rằng đây là mại bản appealing to the prurient interest. Không thể dùng realism để bào chữa cho chiều hướng mại bản này.

“Tình dục, realism, trong phạm vi tiểu thuyết, cần phải được authenticated trở thành một kinh nghiệm nhân sinh (tôi không biết phải dịch chữ ‘authenticated’ làm sao), Chu kỳ ‘authentication’ đó phải đặt trên kiến thức, trí tuệ, và sự ngậm ngùi suy gẫm về kiếp người — knowledge, experience, and then the necessary elaboration. Đi vào lãnh vực mô tả tình dục con người bằng trí tưởng tượng, và chạm cả vào phạm vi chuyên môn của tâm lý học và y học — có thể sẽ trở thành faux pas lớn nhất cho người tập cầm viết. Write only what you know! Đây là nguyên lý rõ rệt nhất cho trường dạy văn chương sáng tạo ở xứ này. Nếu không, viết về tình dục sẽ trở thành một sự trịch thượng, kệch cỡm và gượng ép. Có nhiều khi đi luôn vào cái mà độc giả có tầm vóc sẽ cho là ‘bad taste.’”

“Người cầm bút của thế hệ mới trực tiếp chịu trách nhiệm nếu sự trịch thượng, kệch cỡm và gượng ép này xảy ra trong cái được mệnh danh là ‘văn chương, văn học’ làm cho nó không còn là ‘văn chương, văn học’ nữa. Và như thế thì chẳng thà lão hóa còn hơn.”

Dương Như Nguyện nhấn mạnh: “Xin đừng hiểu lầm là tôi muốn phê bình những ‘nhà văn nữ’ của cộng đồng. Con đường viết là con đường riêng biệt của mọi người. Văn chương là cái gì còn lại của cái gì bị quên đi, bị bỏ đi, bởi người đọc (người đọc, chứ không phải là người đi mua trong thế giới mại bản).”

“Substandardization lại càng trầm trọng hơn nữa trong môi trường di dân, nơi mà người đọc ngày càng ít đi, và tình trạng ‘tự xuất bản’ gây nên một môi trường tàn khốc cho tiêu chuẩn.”

Cô cho biết cô yêu thích một vài tác phẩm của Vũ Khắc Khoan và Nghiêm Xuân Hồng, cũng như trường thiên tiểu thuyết cuối cùng của Nhất Linh trước khi ông mất – “cuốn tiểu thuyết đó mới thật sự là tiểu thuyết của ông Tam. Ba vị này, rất ư là lão hóa. Lão hóa như thế thì thế hệ mới của tôi cần nên lão hóa.”

“Cái khổ là có những người trong thế hệ mới này cứ chuyên môn đem chuyện ông Hemingway ra hỏi ông Doãn Quốc Sỹ, làm như thể ông Doãn Quốc Sỹ phải biết ông Hemingway thì mới trở thành nhà văn! Trong khi đó, nếu ông Hemingway còn sống, ông Hemingway không biết ông Doãn Quốc Sỹ là ai, vì ông Doãn Quốc Sỹ viết bằng tiếng Việt, mà sách lại không được phổ biến cho 80 triệu dân. Ngọn đuốc của thế hệ mới nên soicho những ông Hemingway của Đại Tây Dương được biết về bác Doãn Quốc Sỹ nhà mình, ngồi câu cá bên cái Hồ Thùy Dương của bác ấy (câu cá thay vì viết văn vì tác giả Hồ Thùy Dương đã lão hóa, lão hóa sau khi tấm thân gầy gò đã chịu đựng ngục tù chỉ vì nhà giáo đã từng cầm bút). Có những người khác trong thế hệ mới lại rất dễ bỏ quên hẳn bác Doãn Quốc Sỹ nhà mình, vì con đường đi vào dòng chính không cần sự lót đá (grounding) của cái Hồ Thùy Dương ngày xưa.

“Đó, mới chính thức là ngọn đuốc của người đi sau để giải quyết vấn đề lão hóa. Ngọn đuốc này phải thắp nên bởi nhiên liệu đến từ độc gỉa?. Tôi đau đớn mà nhận ra rằng vấn đề ông nêu lên không biết giải quyết ra sao. Thật tình mà nói, có thể tôi méo mó nghề nghiệp luật sư thương mại, nhưng tôi cho rằng vấn đề này mang tính chất của một vấn đề kinh tế. Cần có một Bill Gates cho văn chương hải ngoại. Tôi nghĩ đến điều này hằng đêm.

“Về phần tôi (con người nghệ sĩ tách ngoài phạm vi nghề nghiệp), sau tác phẩm này, tôi chỉ mong là một số độc gỉa hiếm hoi trong dòng chính sẽ nhớ cái tên dòng sông Hương, thay vì ‘Perfume River’ của nhà quảng cáo trung tâm du lịch. Như thế là tôi đã tạm thành công.

“Chỉ có thế thôi. Và chỉ có trời biết, cho dù rằng tên tôi là Như- Nguyện. May All Your Wishes Come True. Rút cục lại, tôi tự bảo mình: cứ viết đi, đừng suy nghĩ đến thành công hay không thì tốt hơn. Con đường thiên lý đẹp vì hoa nở trên đường đi, chứ không phải vì nó dẫn đến đích: một ngôi nhà vàng nào đó để nhốt con chim hót!”

San Jose-Denver

Aug 15, 2005

NGUYỄN XUÂN HOÀNG

clip_image010

Tác giả:

Sinh quán tại miền Trung Việt Nam, Uyên Nicole Duong [Dương Như Nguyện] đến Mỹ năm 16 tuổi, năm ngày trước khi Sài Gòn sụp đổ.

Tốt nghiệp Báo Chí và Luật Khoa tại Southern Illinois University, the University of Houston Law Center và Harvard Law School. Đã theo học ngành diễn xuất tai American Academy of Dramatic Arts ở New York và Pasadena, California, đồng thời cũng là một bỉnh bút cho Quận Học Chánh Houston. Được bổ nhiệm làm giám đốc cơ quan quản lý các sự kiện có thể gây rủi ro, và là người phụ nữ Á Châu đầu tiên có chân trong Ban quản lý điều hành của Sở Học Chánh Houston, ở tuổi 24. Đảm nhiệm chức vụ Thẩm phán tại Houston, Tiểu Bang Texas và là người được Luật Sư Đoàn Hoa Kỳ vinh danh là vị chánh án người Mỹ gốc Việt đầu tiên tại Hoa Kỳ trong năm 1992. Từng hành nghề tư vấn trong lãnh vực kỹ nghệ dầu lửa quốc tế, là luật sư của cơ quan giám sát thị trường chứng khoán Securities andExchange Commission, Hoa Kỳ, đồng thời là Giáo sư tại Đại học Luật Khoa Denver, Colorado.

Đã xuất bản:

Mùi Hương Quế (nxb Văn nghệ 1999)

Chín Chữ Của Nàng (nxb Văn mới 2005)

Daughters of the River Huong (nxb RavensYard 2005)

Con Gái của Sông Hương (bản dịch, RavensYard 2005)

Sẽ xuất bản:

Mimi and Her Mirror

Postcards from Nam

(Hai tác phẩm này đã hoàn thành từ năm 1999 nhưng vấn đề thương lượng với nhà xuất bản chưa xong.)

(Bản dịch: Bưu Thiếp từ Nam, Văn Mới 2006) – đã có sự chấp thuận tiên khởi của Văn Mới)

Tình Yêu, Đời Sống và Lưu Đầy (tập thơ song ngữ PenAsia 2006)

(PenAsia là imprint của một LLC – limited liability company – làcông ty con của một nhà xuất bản rất nhỏ ở Luân Đôn; đang tiến hành].

Đang viết:

Book of the Seven Dreams

“Đối với tôi, các tác phẩm đã in hoặc đang tiên hành không còn quan trọng. Các bản thảo chưa viết mới là quan trọng. Như tôi nói, trong trái tim tôi có con đường thiên lý.”

Nhã ca cái viết ra mới thực sự quan trọng

Tôi không biết mình đã đọc đi đọc lại bao nhiêu lần những trang sách trong Hồi Ký Một Người Mất Ngày Tháng của Nhã Ca. Những dòng chữ khô, lạnh, bén, sắc và ngắn như nhát dao đâm xoáy vào trái tim. Như một cái buá nện xuống một bàn tay đang bám vào vách đá chờ được kéo lên. Những dòng chữ “phẫn nộ” có thể làm những đôi mắt khô khốc phải ứa lệ.

“Suốt buổi chiều, tôi ngồi với giỏ thăm. Xếp vào. Xếp ra. Nhìn. Rờ rịt. Anh còn mê man. Anh chưa nhìn thấy món ăn con thơ này. Dọn lên. Mắt mũi các con. Dọn lên. Tim gan các con. Dọn lên. Nước mắt các con, nước mắt Mẹ…. Tôi nằm xuống lúc nào không hay. Lúc tỉnh được dậy sau cơn mê mệt, giỏ thăm nuôi đổ, mấy gói cá muối bị xé rách, tung toé. Nơi lỗ cầu tiêu, lại nó, con chuột. Cặp mắt nhỏ như hai hạt đậu, tinh quái, thập thò. Ngày mấy? Tháng mấy? Còn hỏi làm gì nữa.” [1]

Nhân vật “anh” là thi sĩ Trần Dạ Từ và các con thơ của anh chị. Và khung cảnh là một phòng kiên giam dành riêng cho một người. Điều gì đã khiến một Trần Thy Nhã Ca với “buồn như lá cây, hồn thơ dại, xanh xao tháng ngày, …” [2] phải viết ra những dòng chữ trần trụi lạnh lùng đến như thế? Câu trả lời đã rõ. Nhưng viết được như thế không phải là tưởng tượng của một nhà văn, và không chỉ là kinh nghiệm của một người đã trải nghiệm những nỗi đau đó. Viết được như thế có nghĩa là đã phải sống như thế. Và hơn là như thế! Bởi vì, có bao nhiêu người đã từng sống như thế để có đượcmột Nhã Ca như thế? Đó cũng là một câu hỏi đã có câu trả lời.

Chị đã đi trên một con đường đầy gai nhọn, không tên gọi, không ngày tháng. Con đường máu và nước mắt. Con đường của một nỗi đau bị nén lại, một hạnh phúc bị chia cắt, bầm dập. Con đường mà ai đã đọc hồi ký của chị sẽ chảy nước mắt, nhưng chính những dòng chữ của chị chỉ là sự lặng câm.

Phải là một người có ý chí mạnh mẽ mới có thể đứng vững được trước những sóng gió của cơn hồng thuỷ 30 tháng Tư, 1975 đổ ập xuống Sài Gòn. Mặc dù, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, nhiều người đã trụ được. Nhiều ngưòi đã đứng dậy được. Nhưng từ một thiếu nữ lớn lên ở Huế, thành phố trang nghiêm và khắt khe, …. Trần Thị Thu Vân đã làm những bước nhảy vọt lớn: từ Huế cổ kính nhảy vào Sài Gòn phóng khoáng, rồi nổi tiếng với những bài thơ, nổi tiếng hơn với Đêm Nghe Tiếng Đại Bác, với Giải Khăn Sô Cho Huế và thình lình bị đẩy rơi từ một thể chế này xuống một thể chế khác như lao từ đỉnh cao xuống vực thẳm của một nỗi đau ngất, rát nhức như muối xát trên những vết thương còn tươi rói. Chị là người đi trên một sợi giây xiếc giữa sống và chết, một bên là cái sống mong manh và một bên là cái chết lúc nào cũng giang tay chờ đợi. Tất cả những gì chị có đều bị tước đoạt, trần trụi, trơ trọi, bức rời. Sau nhà tù nhỏ sẽ là nhà tù lớn: Một người đàn bà với đàn con thơ dại và hai bàn tay trắng đứng giữa chợ đời.

Làm sao có thể viết được giữa một hoàn cảnh như thế? Phải đợi 16 năm sau, khi cả gia đình chị ra khỏi Việt Nam, Hồi Ký Không Ngày Tháng của Nhã Ca mới ra đời. Đây không phải chỉ là một ghi chép lẫn lộn thời gian và kỷ niệm. Hồi Ký đó là một tiếng nói mạnh mẽ của con người trước một thế giới bị tan rã, một tiếng chuông cảnh tỉnh của một vũ trụ bị mê đắm trong u minh.

Bao lâu còn chiến tranh – bất cứ một cuộc chiến nhân danh chủ nghĩa nào – tiếng nói ấy cần phải được cất lên, tiếng chuông ấy cần phải được gióng lên, thông điệp ấy cần phải được lắng nghe.

Người đọc biết Trần Thy Nhã Ca với “Bài Nhã Ca Thứ Nhất”, mở đầu cho một dòng thơ mới trong văn chương Việt Nam từ năm 1960. Nhưng thật ra trước đó, từ năm 1955, chị đã từng làm thơ học trò ký tên Thu Vân, đăng trên các tuần báo Văn Nghệ Học Sinh, Văn Nghệ Tiền Phong tại Saigon, chưa kể thơ thời bích báo tiểu học, trung học. Và trước đó nữa, từ năm 1954, khi mới 15 tuổi cô bé Thu Vân đã viết truyện dài đầu tiên có tựa là “Đường Một Chiều”. Đó là thời cuối trận chiến tranh Việt-Pháp. Chị nói: ‘Truyện được viết theo “đơn đặt hàng” của ông anh trong nhà, để đăng từng kỳ trong báo “Hồn Xuân”, tờ báo chép tay của một nhóm văn nghệ choai choai tại Nam Giao, Huế. Còn nhớ, người chủ trương nhóm báo Hồn Xuân là anh Tôn Thất Chi, người vẽ bìa số báo đầu tiên là ông anh Trần Văn Lễ. Sau đó có hiệp định Geneve ngưng chiến, chia đôi đất nước, rồi di cư, tập kết. Báo Hồn Xuân chỉ mới “xuất bản” được ba số thì đành tự “đình bản”. Truyện dài đầu tay “Đường Một Chiều” vĩnh viễn dang dở.”

Giờ đây đọc lại thơ và truyện Nhã Ca của những năm Sáu Mươi, Sáu Mươi Tám, Nhã Ca của 1975 và môt Nhã Ca của 2005, người ta khám phá ra một khuôn mặt văn chương đã đi qua hạnh phúc và khổ đau, đi qua một tình yêu lớn, đi qua những thao thức và chờ đợi, đi qua những phút giây làm mẹ và trải nghiệm qua biết bao nỗi đau làm người.

Nhã Ca kể lại báo chữ in đầu tiên của chị sau khi đã làm báo tường báo chép tay là tờ “Văn Nghệ Học Sinh”, do nhà báo Giang Tân làm Tổng Thư Ký. Chủ nhiệm, chủ bút là ông Lê Bá Thảng, chánh văn phòng của Bộ Trưởng Thông Tin Trần Chánh Thành.

Thơ, tuỳ bút, truyện ngắn ký tên Thu Vân được liên tiếp chọn đăng. Những “tác giả” có bài đăng trong tờ báo “văn nghệ họcsinh” này về sau thành bạn nhau. Khởi đầu có Lê Đình Điểu (làm thơ tình với bút hiệu Y Dịch, viết khôi hài với bút hiệu Lê Ngông Nghênh), Nguyễn Thụy Long (viết truyện mộng mơ với bút hiệu Mặc Lan Giao). Tiếp theo, có Lê Tất Điều (viết truyện con nít thậtdễ thương với bút hiệu Ái Nhân); Dương Nghiễm Mậu (triết lý như một ông già với bút hiệu Hương Việt Hương); Đỗ Quí Toàn (làm thơ với bút hiệu Đỗ Quí), Viên Linh (thơ sáu chữ, thơ lục bát số một), Nguyễn Khắc Nhân (viết tuỳ bút giọng miền Trung với bút hiệu Thùy Nhân), Tô Tam Kiệt (thơ chiến đấu hùng dũng)… Thình lình, vào khoảng 1956, bỗng thấy Điểu và Long giới thiệu cho chàng thi sĩ Hoài Nam, người sau này sẽ là Trần Dạ Từ …

Trần Dạ Từ, tình yêu đầu tiên và sau cùng của chị. Chị nói: “Ừ, thì đó, chuyện giản dị vậy thôi. Hai đứa quen nhau qua tờ Văn Nghệ Học Sinh, do Lê Đình Điểu và Nguyễn Thụy Long giới thiệu. Tiếp theo, nhận cả ngàn bài thơ. Khác với các bạn viết văn làm thơ tài tử, Từ là “nhân vật toà soạn”, người trả lời hộp thư của toà báo. (Sau này mới biết, thật ra, thi sĩ chỉ là một anh nhóc bụi đời, các “văn hữu” nhóc tì họp đại hội với ông chủ nhiệm yêu cầu cho chàng việc làm, nhờ đó chàng là “thầy cò” sửa bài, kiêm biên tập viên duy nhất của tờ báo bên cạnh tổng thư ký Giang Tân). Bị cả ngàn bài thơ tấn công, cô bé 16 tuổi chịu không thấu. Sau hai năm viết thư, hai người trẻ tuổi gặp nhau lần đầu năm 1958.

Trong Hồi Ký, Nhã Ca kể chuyện, mùng một Tết chàng từ Sàigòn ra Huế. Chị ngồi nghe tiếng còì tàu. Đã biết trước nhưng vẫn giật mình. Tàu hoả đang hú còi vào ga. Ghê quá, chị nghĩ, anh ta tới rồi đấy. Tàu từ Đà Nẵng ra đúng sáng mùng Một Tết. Chắc còn phải tìm đường, tìm nhà. Trước sau một giờ trưa, sẽ đi qua cổng. Bẩy giờ tối sẽ tới, sẽ gặp. Thư cuối năm, anh báo trước như vậy.

“Buổi trưa. Bao nhiêu người qua đường, biết ai là anh. Run quá. Coi tề, cái người nhìn mình một cái rồi quay đi, bước nhanh hơn. Anh? Anh vậy há? Mỏng như tờ giấy. Còn mặt mũi? Kịp thấy chi mô. Mới nghĩ chắc anh đó, mắt con bé đã hoa lên rồi. Nhát.”

Buổi tối, Trần Dạ Từ bước vào nhà. Chưa mời, anh đã ngồi, Nhã Ca viết trong Hồi Ký. Người cha vặn cái radio bóng đèn cổ lỗ đầy tiếng kêu rồ rồ. Ông anh lớn trong nhà nhăn mặt, bỏ sang phòng bên. Chị ú ớ. “Những lá thư xuôi ngược cả năm Sàigòn-Huế-Sàigòn. Những bài thơ tình đầu. Anh ngồi đó ốm nhom.” Sáng mùng hai tết, khi gặp lại anh trong… khách sạn, trên bàn có bài thơ “Thủa Làm Thơ Yêu Em”, ký tên Trần Dạ Từ.

Thêm hai năm sau khi gặp nhau, chàng thi sĩ nhát như thỏ đế, vẫn không dám cầm tay người yêu. Vậy mà tình yêu của họ đã làm ồn thành phố Huế. Ồn đến nỗi, “nàng” phải đành bỏ chạy theo chàng. Vô tới Sài Gòn, một người bạn của Từ, Nguyễn Khắc Nhân, đứng tên ông anh, gửi chị vô nội trúù trường Đức Trí ở đường Võ Tánh. Xong thời nội trú, Nhã Ca trở về Huế ở một năm để làm lành với gia đình. Sau đó chị vào Sài Gòn, in thiệp cưới và năm 1962, sinh con đầu lòng là Sớm Mai. Tiếp theo, thêm một loạt 5 đứa nữa. Cậu út là Hưng Chấn, cuối 1974. Hưng Chấn là tên do bố mẹ đỡ đầu của cháu là anh chị Cung Tiến đặt cho để lấy hên. Chị nói, nhưng hên đâu chả biết, chỉ thấy mấy tháng sau là miền Nam sập tiệm, hai vợ chồng đi tù.

Từ khi biết “chàng”, Nhã Ca bắt đầu viết nhiều hơn. Chàng không chỉ làm Văn Nghệ Học Sinh mà còn viết bài kiếm ăn ở các báo khác. Bài gửi cho chàng ở Văn Nghệ Học Sinh, bỗng thình lình thấy xuất hiện trên mục “Mỗi Ngày Một Truyện” của nhật báo Ngôn Luận, rồi nhật báo Lẽ Sống, tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong… vừa nhận báo vừa nhận cả nhuận bút. Biết mùi nhuận bút rồi, khó bỏ. Vậy là viết đêm viết ngày. Từ 1960, khi bỏ Huế vào Saigon với Trần Dạ Từ, bạn bè họp thành một bọn, mỗi tên tự chọn một bút hiệu chính thức và bắt đầu sống với nghề cầm bút. Từ 1960, 1961 gì đó, cùng lúc với việc Trần Dạ Từ làm nhật báo Dân Việt, các bạn của Từ -Nhã chủ trương tuần báo Ngàn Khơi, in ở nhà in Nguyễn Đình Vượng, số 39 đường Phạm Ngũ Lão. Năm 1963, ông Vượng ra báo “Văn”, yêu cầu chị góp bài. Năm 1964, bài viết cho Văn được in thành sách. Báo Văn và nhà xuất bản Nguyễn Đình Vượng ấn hành truyện dài “Bóng Tối Thời Con Gái”. Nhà AnTiêm của Thanh Tuệ ấn hành tập truyện “Đêm Dậy Thì”. Sau đó là “Đêm Nghe Tiếng Đại Bác” và cứ thế đi tới…

Thế còn tập thơ “Nhã Ca Mới” và giải thưởng thi ca toàn quốc thì sao? Chị nói thơ “Nhã Ca Mới” do “Ngôn Ngữ” xuất bản, cũng đầu năm 1964. Ngân khoản in thơ lẫn tên nhà xuất bản đều do anh Nguyên Sa. Cuối năm ấy, Nhã Ca được giải thi ca toàn quốc 1965. Tiền lãnh giải dĩ nhiên không còn dấu vết. Huy hiệu giải thưởng là huy hiệu của nguyên thủ quốc gia nghe nói là bằng vàng – tương tự huy hiệu của Tổng Thống VNCH dành cho các giải thưởng về sau- chẳng nhớ đi đâu mất, có lẽ còn đâu đó trong… Sở Công An Thành Phố hoặc không chừng đã ra vỉa hè, bị nấu chẩy thành dăm ba “chỉ”, hay một hai “cây”…

Trong các bài viết về thơ Nhã Ca, từ Bùi Giáng, Võ Phiến, Thi Vũ tới Huyền Không tức Hoà Thượng Mãn Giác… thường nhắc tới bài thơ “Tiếng Chuông Thiên Mụ”. Võ Phiến viết là trong lịch sử văn học Việt Nam chưa hề có tiếng chuông nào vang dội khác thường tới mức ấy. Hỏi chị tại sao? Chị bật mí: “ Bài thơ in lần đầu trên tuần báo Ngàn Khơi, đầu năm 1963. Đó là thời điểm vừa xẩy ravụ biểu tình đẫm máu tại Đài Phát Thanh Huế và Phật Giáo bị chính quyền đàn áp. Tuần báo Ngàn Khơi do bọn này chủ trương bàn nhau phải cùng nhau viết cái gì đó. Dự tính có Nguyên Sa, Nguyễn Mạnh Côn, Chu Tử, Đỗ Quí Toàn, Nguyễn Thụy Long, Tú Kếu, Nguyễn Hữu Đông, Trần Dạ Từ… mỗi người sẽ cùng viết nhiều ít gì đó. Bìa offset do Đằng Giao trình bầy in trước 4 số đã ghi sẵn tựa đề chung là “Tiếng Chuông Thiên Mụ”. Tới ngày ra báo, Nhất Linh tự tử, rồi sư sãi bị bắt, Saigon giới nghiêm… Chỉ riêng bài thơ mang tên “Tiếng Chuông Thiên Mụ” được xuất hiện trên báo. Còn nhớ trong bài thơ có câu “Thức dậy cùng tan vỡ, thức dậy cùng lịch sử” đã được các bạn trong “Sở Kiểm Duyệt” nhẹ tay cho qua… Mọi bài viết khác không qua khỏi lưỡi kéo kiểm duyệt, đành phổ biến cách khác.

Trần Dạ Từ và các bạn của anh làm báo “Lửa” đánh máy quay roneo bằng cái máy chữ của anh Nguyên Sa cho, cả bọn xúm nhau vào phát hành chui… Trong việc phổ biến số báo “Lửa” ở các đại học thời đó có cả các nhà văn Nguyễn Thị Vinh, Nhật Tiến. Sau đó, Trần Dạ Từ bị mật vụ nửa đêm bịt mắt dẫn đi mất tiêu, cả bọn trốn chui trốn nhủi… Đó cũng là lúc có bài “Thơ Sớm Mai”, sinh nhật năm đầu tiên của cháu.”

Trả lời câu hỏi hiện nay chị đang viết gì? Nhã Ca nói: “Truyện ngắn, đang lo viết cho báo tết. Truyện dài, đang sắp xếp, sửa chữa bộ “Đường Tự Do Saigon”. Truyện đã viết liên tục hơn 10 năm trên Việt Báo, mỗi ngày mỗi viết. Độc giả có lòng hỏi. Có nhà xuất bản muốn trả tiền để in. Nhìn lại, đếm chữ thấy đã có tới hơn 10,000 trang sách. Truyện viết từng ngày, muốn thành sách, phải sửa chữa, sắp xếp lại. Cả năm nay, chỉ mới xong 640 trang cho cuốn 1, hiện đã đưa thử lên internet… Việc xuất bản trọn bộ, chắc còn phải mất thêm ngày tháng.

Về câu hỏi tác phẩm nào của chị được chị thích nhất, Nhã Ca trả lời có lẽ nhiều phần dành cho cuốn “Hồi Ký Một người Mất Ngày Tháng”. Đó là nói văn. Còn trong lòng, chị vẫn yêu và trân quí Thơ. Nhã Ca, tên tuổi ấy đã mang âm hưởng một bài thơ.

Nói về kỷ niệm mà chị nhớ hoài là thời kỳ trong nhà tù nhỏ và nhà tù lớn ở Việt Nam, Nhã Ca kể có lần được theo xe tù đi thăm nhà trưng bày tội ác Mỹ Ngụy ở trường Dược cũ tại Saigon, thấy sách của mình và bạn hữu được bầy dưới danh nghĩa “tội ác Mỹ Ngụy”. Đặc biệt, cuốn “Giải Khăn Sô Cho Huế” được treo trang trọng. Đã đứng nghiêm cạnh Lê Xuyên, Hoàng Anh Tuấn, Trần Việt Sơn… chào kính tác phẩm của mình và bạn hữu.

Hỏi chị đang đọc gì? Nhã Ca cho biết hiện chị đang đọc Milarepa, thơ và truyện kể về thi sĩ và thầy tăng lớn của Tây Tạng. Còn tác giả ưa thích? Với chị đó là Thơ Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thuỳ Yên, Mai Thảo, Trần Dạ Từ, Đỗ Quí Toàn, Viên Linh, Tú Kếu…

Còn truyện? Chị nhắc đến Thảo Trường, Lê Tất Điều, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Thụy Long…

Với câu hỏi liệu có thể nói đến một nền văn học hải ngoại không, Nhã Ca cho rằng “Một nền văn học hải ngoại?” chắc chỉ là câu hỏi nhất thời hoặc tạm thời. Dăm ba chục năm, vài ba trăm năm, rồi sẽ qua đi. Những cái đáng còn sẽ còn lại. Yếu tố nơi sinh sống trong nước hay ngoài nước của tác giả bất quá chỉ là những ghi chú, không phải là yếu tố để tác phẩm văn chương tồn tại. Văn học hay văn chương Việt Nam là đủ. Người viết ở đâu cũng được, dù trong hay ngoài nước. Viết trong hay viết ngoài nhà tù chẵng phải là yếu tố quyết định giá trị. Cái viết ra mới thực sự quan trọng..

NGUYỄN XUÂN HOÀNG

[1] Nhã Ca, Hồi Ký Một Người Mất Ngày Tháng, tr. 61. Nxb Thương Yêu, 1991.

[2] Bài Nhã Ca Thứ Nhất.

Tôi nghe tiếng nước reo trên bếp

1.

Suốt mấy ngày đầu tháng giêng tây, thành phố Thung lũng tôi ở, mưa dầm dề và có những trận gió buốt lạnh. Cái thứ lạnh căm căm giống như cái lạnh ngày đầu khi tôi vừa từ Sàigòn lên Đà lạt. Vườn sau nhà có một sàn gỗ [deck] rất lý tưởng cho những buổi sáng mùa hè uống cà phê đọc báo hay những chiều họp bạn. Tuy vậy ở đây tôi chưa bao giờ có được cái hạnh phúc bắc ghế ra sân hóng nắng,

Cách đây ba bốn năm, có lần tôi ra sàn tính xem chỗ này có thể đặt cái bàn và mấy chiếc ghế để cuối tuần ngồi uống rượu với bạn bè được không. Tôi bước quanh mép sàn và bất ngờ sụp chân xuống. Mấy chậu hoa đổ theo. Sàn gỗ đã mục từ lâu. Ý định mời bạn bè đến nhà chưa bao giờ thực hiện được dù tôi đã ở đây bảy năm. Bảy năm với những ngày cuối tuần hết đến nhà người bạn này lại chạy đến nhà người bạn khác, ăn uống trò chuyện mà không bao giờ đón được bạn đến nhà mình.

Nhiều lần gọi cô chủ nhà than phiền về cái deck bị sụp, nhiều lần cô hứa cho người đến thay sàn mới, nhưng lời hứa của cô như gió thoảng mây bay.

Sáng nay, nhìn ra sân, những chỗ ván ghép đã thấy đóng rêu xanh, những chậu hoa ngã nghiêng, bụi hoa mọc sát bờ rào bị gió thổi cúi rạp đầu. Một con sóc từ bụi cây cao ngăn hồ nước phiá sau nhảy qua sân và biến mất dưới chân sàn. Những con sóc? Tôi nhớ một bài hát hồi nhỏ ở Nha Trang khi đi xem xi-nê ở rạp Tân Tân bao giờ trước khi phim chiếu cũng được nghe bài hát Ma Cabane Au Canada / Căn Lều Của Tôi Ở Canada nằm sâu trong rừng nơi có những chú sóc…Bài hát lập đi lập lại một điệp khúc quen tai đến nỗi bọn trẻ chúng tôi đứa nào cũng thuộc nằm lòng. Bài hát đó theo tôi vào Sài gòn, lên Đà lạt, vô nhà tù U Minh, vào trại tỵ nạn Phi Luật Tân và bây giờ một buổi sáng mùa đông ở California. Có những bài hát ta nghe nhiều lần nhưng không bao giờ nhớ nỗi một câu và có những bài hát dù không còn phổ biến nữa, nhưng nó vẫn cứ vang lên trong đầu bằng một trí nhớ không được chuẩn bị. Những bài hát làm sống dậy hình ảnh và kỷ niệm, sống dậy mùi vị cỏ cây và hơi thở của da thịt. Những con sóc thời thơ ấu và ca khúc Ma Cabane Au Canada của tôi.

2.

Có tiếng gõ cửa. Cái nút chuông có trên vách sao họ không bấm mà lại gõ? Tôi bước ra. Một người đàn ông da đen cao lớn, mặc bộ suit màu đen, đeo kính trắng, mũ đen rộng vành, cầm trên tay một xấp giấy, đứng trước mặt tôi.

Ông tự giới thiệu là Thomas Donahey, người của Thượng Đế. Ông nói thế giới đầy tội lỗi, đã đến lúc mọi người trên trái đất này phải sám hối. Tội ác như một nồi nước đang sôi sùng sục, và cầu nguyện là rút những thanh củi đang cháy ra khỏi bếp. Tôi nói với ông tôi chưa bao giờ phạm tội, tại sao tôi phải cầu nguyện? Ông lấy một tờ giấy màu xanh trong xấp giấy đưa cho tôi. “Đây là những lời kinh sám hối. Ông đọc sẽ rõ. Ông nói ông chưa bao giờ phạm tội à? Thật sao? Trong suốt đời ông, ông chưa bao giờ phạm tội thật à?” “Thật chứ!” Tôi nói. Ông Thomas nhìn tôi, tay ông vẫn chìa tờ giấy màu xanh về phía tôi. Đầu ông hơi nghiêng, gọng kính trụt thấp dưới sóng mũi, mắt ông to, nhưng tròng trắng nhiều hơn tròng đen. Tôi không muốn cầm tờ giấy nhưng thật là bất lịch sự nếu cứ để ông giữ nguyên tư thế đó. Tôi đành đưa tay ra. Ông Thomas tiếp, trên thế gian này không một ai, không trừ một ai – ông nhấn mạnh, mà không phạm tội. Sinh ra đời đã là phạm tội. Làm người đã là phạm tội.

Lúc đó hình như gió thổi mạnh hơn và bầu trời xuống thấp mịt mù mây đen cùng với những giọt mưa lạnh buốt tạt vào mặt chúng tôi. Tôi đẩy rộng cửa, mời ông vào nhà. Ông khoát tay, kẹp xấp giấy vào nách, bật chiếc dù đen đeo ở cánh tay lên. “Cám ơn. Tôi còn nhiều nhà phải đi. Tôi sẽ trở lại với ông một vài ngày sau, nếu ông còn muốn nói chuyện với tôi.” Ông kẹp gọng dù vào cổ, chìa tay cho tôi bắt. Tôi nắm bàn tay to bè của ông, những ngón tay dài mập màu nâu nhưng lòng bàn tay nhạt màu cà phê sữa. Ông bước đi, lưng thẳng, giương chiếc dù lên cao, nhìn về đằng trước. Bỗng nhiên tôi thấy ông giật mình đứng sững lại. Vô tình, ông đã giẫm lên cây ớt trước nhà vừa bị trận gió thổi ngã xuống. Cả một cành ớt chín đỏ nát dưới chân ông.

“Xin lỗi! Xin lỗi!” Ông quay lại nhìn tôi trước khi tiếp tục rảo bước.

3.

Sau bảy năm, từ dưới nam lên miền bắc thung lũng nhận việc làm mới, nay tôi đang có nhiều ngày để tùy nghi. Ngồi trước màn ảnh máy vi tính tôi đọc những bài viết trên các mạng Talawas, Tiền Vệ, Evăn,….. Hai cuốn sách đang được nhắc đến nhiều nhất lúc này là Bóng Đè của Đỗ Hoàng Diệu và Cánh Đồng Bất Tận của Nguyễn Ngọc Tư. Những lời khen “cực kỳ” và những lời chê cũng “cực kỳ” không kém cho Bóng Đè, trong khi với Cánh Đồng Bất Tận lời khen chê có phần chừng mực hơn. Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên gọi Nguyễn Ngọc Tư là “người viết những câu chuyện bình thường về những điều bình thường của những người bình thường của cuộc sống quanh cô.” Nhưng với Cánh Đồng Bất Tận, “Nguyễn Ngọc Tư đã bắt đầu chạm vào được những vĩa tầng cuộc sống của vùng đất cô sống và viết văn. Dữ dội và nhân tình [tính?] văn Tư bắt đầu là như thế.”

Trong khi đó trên mạng Evăn.com [trích lại từ báo ĐànÔng?] tôi đọc thấy câu “Danh hiệu nhân vật bị búa rìu dư luận ghê gớm nhất trong năm qua có lẽ phải trao cho nhà văn trẻ Đỗ Hoàng Diệu, do chuyện sex trong cuốn Bóng Đè của cô. Trả lời câu hỏi “Tình dục trong văn chương là bình thường hay không bình thường” cô nói “Tình dục, nó là một phần của đời sống. Nó đẹp như đời sống đang diễn ra. Nó nồng nàn như đời sống nhưng mặt khác nó cũng tăm tối như đời sống. Văn chương đạt đến văn chương nhất đấy là khi viết về cái phần ẩn sâu, giấu kín nhất trong con người. và sex là cái ẩn giấu nhất ấy. Nó là một trong những cảm xúc lớn lao và bền bỉ của con người. Thế tại sao tôi không được viết sâu về tình dục.”

Điều đáng tiếc là tôi chưa được đọc cuốn Bóng Đè của Đỗ Hoàng Diệu.

4.

Trời vẫn mưa, gió vẫn tiếp tục thổi rạp mấy bụi cây sân sau, và lạnh vẫn không giảm chút nào. Trời đất thế này tôi ngại ra Starbucks. Thôi đành ở nhà tự đun nước pha cho mình một ly cà phê buổi sáng. Thứ cà phê mà cực chẳng đã do lười biếng tôi mới uống. Thứ Nestcafe’ 100% Colombian, màu đen như than nhưng không mùi vị. Tôi mua vì nó có màu đen đậm, giống như cà phê phin Việt Nam. Một thứ nước màu đen để tạo cảm giác cà phê. Tại sao có thể gọi là cà phê mà không có chút hương vị cà phê?

Lại có tiếng gõ cửa. Hơi dồn dập. Tôi nghĩ chắc lại cái ông Thomas “người của Thượng đế”. Tôi bước ra mở chốt. Người đàn ông đứng trước mặt tôi gầy nhom, hơi thấp, lưng như có vẻ còng xuống. Mái tóc thưa, nhiều sợi bạc. Ông mặc chiếc áođi mưa bằng ni lông màu vàng. Ông cặp nách một gói giấy, có vẻ như là một cái chai. Đôi giầy thể thao màu trắng sần sùi, lấm nước mưa, hai sợi giây giầy bị tuột thòng xuống gần chấm đất. Gấu quần bị tươm ra, mòn rách. “Có phải ông là ông H. không?” Khách hỏi tiếp. Tôi gật đầu. “Tôi có thể vào nhà ông được không?” “Được chứ.” Tôi đẩy rộng cánh cửa ra. “Mời ông.” Tôi nói. Khách bước lên thảm, tự nhiên, không cởi giầy. Phòng khách nhỏ chỉ có một ghế cho hai người ngồi. Mấy thùng giấy và sách báo đã chiếm hết chỗ. Khách ngồi xuống ghế, đặt gói giấy trên bàn và tự tay mở ra. Một chai rượu. Khách nói đây là chai Les Violettes, Côtes du Rhône, năm 2000. Tôi không phải là người sành rượu đâu. Ông bạn tôi mua dùm cho tôi đó. Ông có đồ khui không?” Tôi nói, có, nhưng tôi vẫn chưa biết ông là ai? “Xin lỗi! Xin lỗi! Một cái tên đâu có nghĩa gì. Ông không biết tôi là ai là phải rồi. Nhưng mà tôi thì tôi biết ông. Tôi có đọc những bài viết của ông. Chắc ông sẽ hỏi tại sao tôi biết nhà ông phải không? Chẳng là tôi là bạn của một người bạn của ông. Ông còn nhớ ông Đ. không. Hiện nay ông ấy làm nghề xây cất dưới Lốt. Trước tôi cùng ở trại tỵ nạn Bataan, Phi Luật Tân với ông Đ. Đâu khoảng năm 1986. Hình như trước ông cũng ở đó phải không. Ông Đ. nói khi tôi đến thì ông cũng vừa rời trại. Hiện tôi làm nghề bỏ báo ở QuậnCam. Tôi đi Xe Đò Hoàng lên đây từ hôm qua, dự cuộc họp mặt mấy người bạn trước cùng đơn vị. Chai rượu này tôi mang lên tặng ông. Ông Đ. nói ông thích vang Pháp, ông ấy bảo tôi cứ mua đại một chai, cứ nhãn hiệu Pháp là ô-kê rồi. Vì làm nghề bỏ báo tôi có dịp đọc đủ loại. Bất cứ sách báo gì viết bằng chữ Việt là tôi đọc ráo. Nhiều bữa buồn hết sách báo tôi đọc luôn cả mục rao vặt. Tuy vậy báo tin tức thì coi xong là xong. Thời sự nó đi qua mau lắm! Tsunami rồi cũng qua. Katrina rồi cũng qua. Iraq thì ngày nào cũng có người chết, xe bom tự sát. riết rồi cứ thấy tin Iraq là tôi cho qua luôn. Nhưng trên giường tôi thì không bao giờ thiếu mấy tờ Hợp Lưu, Văn Học, Văn. Có nhiều bài, nhất là thơ, tôi đọc mà chẳng hiểu gì ráo. Tôi chỉ đọc truyện thôi. Có hôm tôi được đọc bài của ông. Điều tôi muốn nói với ông ở đây là… Khách bỗng ngừng lại: “Sao? Nhà không có đồ khui rượu sao?” Tôi nói, có, nhưng sáng sớm mà rượu chè gì ông anh. Thôi cũng được, khách nói, chỉ là vì tôi muốn cụng ly với ông thôi mà! Vậy nhà có cà phê không? Tôi nói có, nhưng cà phê dở lắm. “Không sao! Không sao! Cà phê gì cũng được, miễn nó là cà phê là ô-kê rồi!” Tôi đến bếp, mở ga nấu nước. Khách hỏi: “Tôi có làm phiền ông không?” Tôi trả lời, không, không, tôi muốn nghe ông nói. “Nói gì?” Khách hỏi. “Thì ông có thể cho tôi biết tại sao ông đến đây gặp tôi, chắc là ông có điều gì muốn nói chứ phải không?” “Gặp ông coi như gặp người đồng hương vậy thôi mà. Mà sao ông viết gì bi quan quá trời vậy? Cái Sổ Tay đó. Ông biết không, tôi ở đây sống một mình. Không gia đình, tứ cố vô thân. Vợ con tôi đã chết hết trong chuyến vượt biên. Hồi ở Sài gòn tôi chỉ là một người lính quèn. Tôi đi lính chỉ vì đến tuổi lính thì đi lính. Tôi không biết chính trị là gì. Chế độ mới tôi cởi áo lính ra, gia đình nheo nhóc, đi kinh tế mới. Sống không nổi, về Sài gòn, còn tệ hơn. Vợ chồng tôi dắt díu về Rạch Giá, quê vợ tôi. Thấy người ta vượt biên tôi cũng vượt biên. Tôi đâu có đồng xu dính túi. Vượt biên vì nhà gần bãi, giúp chủ ghe chứa người rồi người ta cho đi theo. Bị lộ, bị bắt, bị tù. Thả ra, vượt nữa. Lại bị lộ, bị bắt, bị tù. Chuyện cơm bữa. Chuyến đi tưởng được trót lọt, thì bị hải tặc Thái Lan. Vợ tôi bị chúng hiếp, xong liệng xuống biển, ghe đi tiếp bị chìm. ba đứa con tôi nằm trong bụng cá mập. Trên ghe cả sáu chục người chỉ còn có chín. Gần hai mươi năm nay tôi làm đủ thứ nghề toàn là tay chân. Hết bồi bàn rồi bưng phở, hết rửa chén rồi quét dọn thương xá. Thuê gì làm đó. Bây giờ thì đi bỏ báo. Những ngày đầu ở đảo đêm nào cứ chợp mắt là thấy vợ con hiện về. Qua tới Mỹ cũng còn ám ảnh. Nhiều đêm khóc vì nhớ vợ nhớ con. Bây giờ thì nguôi rồi. Thỉnh thoảng thôi. Tôi nghiệm ra người chết thì đã chết, người sống thì phải sống thôi….”

Tôi nói tôi cám ơn ông, nhưng tôi vẫn không hiểu ông muốn nói gì. “Tôi muốn nói, “ông có công ăn việc làm, có vợ có con, mà sao những gì ông viết ra buồn thảm quá. Mỗi lần đọc ông tôi thấy như ông xô tôi xuống một cái hố sâu. Tôi cũng muốn chết quách cho xong đời. Nhưng tôi nghĩ lại, tại sao chớ. Buổi sáng mở mắt ra tôi thấy một ngày vui, đi làm dành dụm được chút tiền tôi gửi về nhà cho mấy đứa cháu. Tôi thấy mình sống có ích. Cái sống là quan trọng. Tôi muốn nói, phải chi ông đừng viết về những điều buồn bã nữa thì tôi rất cám ơn ông. Bất cứ điều gì làm cho thế giới này buồn bã đều là tội ác. Ông không thấy vậy sao? Buổi sáng hôm nay trời đất ở đây mưa gió lạnh lẽo nhưng dưới nam Cali trời ấm áp lắm. Lạnh lẽo thì cũng có cái thú của lạnh lẽo chớ phải không ông? Buổi sáng hôm nay tôi thấy là một buổi sáng hạnh phúc. Chuyến trở về tôi sẽ kể cho ông Đ. nghe về cuộc gặp gỡ này. Chắc ông Đ. mừng lắm. Khách nói không ngừng. Khi ông dừng lại, tôi nghe ấm nước trên bếp vừa reo lên.

NGUYỄN XUÂN HOÀNG

Phụ Lục :

Một sổ thông hành để đi vào trái tim đời

Bùi Vĩnh Phúc

(Tựa, cho Sổ Tay Nguyễn Xuân Hoàng) (*)

Jean Michel Basquiat, Self Portrait (Chân Dung Tự Họa)

Nhà văn phải làm việc trên những chất liệu của đời sống. Nhưng hắn không được quyền mang tất cả những chất liệu thô của cuộc đời vào trang giấy. Đối mặt, tiếp cận với những hiện thực của cuộc đời, nhà văn phải ghi lấy những hình ảnh, những ấn tượng mình có vào trong tâm hồn. Hoặc kỹ hơn nữa, hắn phải luôn luôn có một vài mảnh giấy rời, hay một quyển sổ tay nhỏ, bỏ sẵn trong túi. “Lẩn” vào cuộc sống, nhìn ngắm, quan sát, rung động, khổ đau, hạnh phúc, giận dữ, thiết tha… với đời, hắn giữ lại tất cả những điều đó cho riêng mình. Khi thuận tiện, tìm một góc riêng, hắn ngồi xuống, hí hoáy ghi nhận cuộc đời trong mắt nhìn, trong cảm quan và ấn tượng của riêng hắn. Từ những cảm quan, ấn tượng có thể còn khá mơ hồ đó, những tác phẩm lớn có thể ra đời.

Các nhà văn Việt Nam chắc chắn là đã có rất nhiều người viết sổ tay. Nhưng rất ít người công bố những ghi nhận, cảm xúc, ấn tượng ban đầu ấy cho độc giả quan sát. Độc giả, trước sổ tay của một nhà văn, sẽ làm một công việc đặc biệt: quan sát cái được quan sát. Sự quan sát này mang tính văn học, thậm chí văn chương nữa. Nó không còn phải là cái quan sát mang nhiều tính thực tế, khách quan, trước những hiện tượng, sự kiện, biến cố của cuộc đời. Nó là sự quan sát, theo dõi, đánh giá cái đã được quan sát, theo dõi của nhà văn. Chắc chắn một sự quan sát như thế sẽ đem lại nhiều thú vị.

Trong văn chương Việt Nam, Mai Thảo đã là người đem lại cho người đọc những cái thú vị như thế. Nhớ, trong một bài viết về Mai Thảo, tôi đã đọc cái quan sát, rung động của Mai Thảo, trong Sổ Tay của ông, như thế này:

Câu văn của Mai Thảo ở đây thường “tự nhiên” hơn là câu văn của ông ở những chỗ khác. Rất nhiều câu cụt và ngắn một cách cố ý. Mà vẫn có nghệ thuật. Hình ảnh và nhịp điệu của chúng phơi phới bay múa. Nhịp điệu của hình ảnh? Vâng, đó là một đặc trưng của văn Mai Thảo.

” (…) Mưa. Mùa Thu. Mưa dương cầm Nghiêm Phú Phi. Thu vĩ cầm Đan Thọ. Phần tôi, sáng nay một hơi thuốc lá thấy ngon hơn, hơi thuốc của thơ Hồ Dzếnh: ngỡ lòng mình là rừng, ngỡ hồn mình là mây, cộng với cái nhìn bởi nắng đã lui quân nên đằm đằm bóng rợp, đã những ý thơ, hình thơ, ảnh thơ, tứ thơ về mùa thu, về mưa trời, về tháng chín óng ả hiện hình dưới hàng hiên tâm hồn sáng nay tôi đang ngồi, trên một ghế bành tưởng tượng, nhìn mưa Mỹ nghiêng nghiêng chở mùa thu Việt tới (…)

Mùa thu. Moderato, trong nhạc dân gian Phạm Duy. Lá vàng mùa thu. Doloroso, trong nhạc trữ tình Cung Tiến (…) Thơ tiền chiến về mưa thu, nắng thu lấp lánh thật nhiều châu báu, kim cương nơi thể thơ như một bình ngọc riêng được đúc ra để đựng hết mùa thu ngây ngất là thể thơ lục bát. Câu sáu đội mưa thu bay. Câu tám nhặt ngô đồng rụng (…)”

(Văn số 40, 10/ 1985)

“(…) Đích thực mưa xuân. Phơi phới, nghiêng nghiêng. Và lục bát trên những mái nhà. Và tứ tuyệt trên những đường phố. Và song thất ở những ngã tư (…)

Đêm qua thức giấc, thoáng nghe thấy, thật xa, những tiếng mưa trên những cảnh ngộ, những thân thế quê nhà. Tiếng mưa dài như một cuộc đời buồn. Những tiếng mưa tăm tối (…)”

(Văn số 57, 3/ 1987)

[Trích trong Lý Luận và Phê Bình/Hai mươi năm văn học Việt ngoài nước (Bùi Vĩnh Phúc, California: Văn Nghệ, 1996)]

Trong văn chương thế giới, có lẽ Sổ Tay (Carnets) của Albert Camus là một trong những trang văn, ghi nhận những hiện thực thô của cuộc sống, bằng cái nhìn rất ấn tượng, đặc thù của mình. Hãy xem ông tả khung cảnh New York mà tôi thử dịch lại sau đây:

Có lẽ New York sẽ chẳng là gì cả nếu nó không có bầu trời của nó. Vươn mình ra khắp bốn góc của chân trời, trần trụi và bát ngát, nó đem lại cho thành phố sự huy hoàng, tráng lệ của nó vào buổi ban mai và nét vĩ đại vào những buổi tối. (…) [T]ôi nghĩ đến những buổi chiều khác, quá dịu dàng và lướt qua quá nhanh đến nỗi nó bóp thắt trái tim ta, những buổi chiều nhuộm tím những khoảng sân cỏ bát ngát của Central Park… Những bầy trẻ nhỏ da đen đang dùng gậy gỗ để quật bóng, giữa những tiếng reo cười ồn ào hạnh phúc, trong khi những cụ Mỹ già, áo sọc ca-rô, đang ngả người trên băng ghế (…), những chú sóc vụt chạy biến lao mình vào bụi rậm tìm kiếm những mẩu thức ăn khoái khẩu của chúng. Trên những lùm cây rậm rạp trong sân cỏ, những con chim đang tấu một khúc nhạc jazz chào mừng sự xuất hiện của ngôi sao đầu tiên trên nóc cao ốc Empire State…

(Albert Camus / Carnets, “Le Ciel de New York”)

Carnets, sổ tay, theo định nghĩa, là một cuốn sổ, giống như một giấy thông hành, một hộ chiếu, một thứ giấy tờ chính thức cho phép bạn đi lại, đặc biệt cho phép bạn vượt qua các biên giới quốc gia. Đúng là như vậy. Với Carnets, Camus đã đưa ra những ghi nhận về mọi sự của cuộc đời, những cái nhìn xuyên quốc gia, để nhìn vào trái tim sự sống. Ông đã viết, trong Carnets, “Một người trí thức là một kẻ mà trí óc hắn quan sát chính nó”, và “Chúng ta chỉ sống thật sự một vài giờ phút trong cuộc đời của mình.” Những giờ phút ấy hẳn phải là những lúc con người sống rất thực với bản chất, với rung động của chính hắn.

Nguyễn Xuân Hoàng cũng vậy. Ông cũng đã sống những giờ phút như thế trong Sổ Tay của mình.

Ông đã viết như thế này trong một đoạn Sổ Tay, khi nói về những người bạn thân thiết một thuở giờ đã ra đi, không còn có mặt trong cuộc sống:

Chia tay và gặp gỡ là một biện chứng. Nói theo nhà triết học Martin Heidegger thì bản chất con người là “luôn luôn bị ném về phía trước”. Con người là sinh vật luôn luôn lo toan và dự tính, bởi vì bản thể con người không ở trong con người, nhưng ở trước mặt nó. Chính trong viễn tượng đó, Heidegger gọi con người là vật sống đấy để chết. Con người sinh ra nhất thiết phải chết. Dasein là hữu thể để chết (sein Zum Tode: être pour la mort). Sự chết để lại dấu tích trên từng hành động, trong từng ý nghĩ ta.

(trích bài “Chia Tay”)

Những lời, những chữ ấy như tự nhắc nhở cho mình. Như tự nhắc nhở, rằng, một ngày nào đó ta cũng phải nói lời chia tay, từ biệt với thế gian này. Tự nhắc nhở như thế để ý thức hơn nữa về những giây phút sống của mình hiện tại. Để ta sống một cách có ý thức và có ý nghĩa hơn. Và người đọc, khi tiếp cận với những dòng chữ trên, chắc hẳn cũng sẽ làm một cuộc quy chiếu. Ngay trên bản thân mình. Để thấy rằng mình là một hữu thể hướng về cái chết. Être pour la mort. Viết như thế là vượt qua biên giới của cuộc sống hữu hạn trong vòng trần gian này. Để hướng lòng tới một đích tới xa vời và sâu thẳm hơn.

Viết như thế, nhà văn đã sử dụng một thứ carnets văn học. Nhận thức hiện thực. Và nhận thức nó với một cảm quan nhanh nhậy và bén sắc.

Cũng trong tinh thần ấy, vượt một biên giới gần hơn, nhìn ngắm, suy nghĩ về thế sống lưu vong, xa quê hương của mình, đối diện với một đám đông những người tứ xứ, được nhào trộn trong một mảnh đất của hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, Nguyễn Xuân Hoàng viết:

(…) Những khuôn mặt không quen biết nhưng gần gũi với tôi. Họ là những người trẻ ồn ào hoặc những người trung niên lặng lẽ. Đập vào tai tôi là một thứ ngôn ngữ đường phố mà tôi phải cố gắng lắm mới nắm bắt được. Có người ngồi lặng thinh, mắt nhắm bất động như một bóng ma, chỉ bừng mắt dậy đúng ga muốn xuống và âm thầm bước qua cửa. Dù họ có là ai, nhưng tôi biết đám đông ấy cùng một giuộc với tôi. Họ là tôi, và tôi cũng chính là họ. Sau lưng chúng tôi là một quê hương đã và đang xa. Và trước mặt chúng tôi là một quê hương muộn màng đang gần. Như người tình cuối cùng trong đời, quê hương đó sẽ ở lại mãi mãi với tôi.

(trích bài “Người bạn bất ngờ trên xe Bart”)

Đó là hiện thực. Hiện thực được nhìn ngắm và quán chiếu ở một độ gần và sâu. Nhưng, như trong một đoạn khác, Nguyễn Xuân Hoàng đã viết, cũng như một cách tự nhắc nhủ mình: “Tôi vẫn nghĩ đôi khi hư cấu không bắt kịp hiện thực.” Đúng như vậy. Cuộc sống thiên biến vạn hoá và đầy những bất ngờ, những điều không thể nào tiên liệu được. Hiện thực là một cái gì hết sức vũ đoán. Bản chất của nó là hư cấu, một nhà thơ châu Mỹ La-tinh, Juan Calzadilla, đã nói như vậy. Thực sự, hiện thực còn là một cái gì hư cấu hơn cả hư cấu nữa. Bởi lẽ, để hư cấu, thường, tối thiểu, người ta cũng phải tuân thủ một số luật tắc nào đó. Còn hiện thực, hãy nhìn mà xem, nó có chịu chấp nhận một nguyên tắc nào đâu. Bởi thế, Sổ Tay, một thứ giấy nháp, để viết xuống, để mô tả những khuôn mặt và những xung động của đời, cũng chỉ là ghi nhận lại những điều hư cấu. Nhưng, với một trái tim.

Giá trị của sổ tay là ở mắt nhìn, ở cách quan sát. Nhưng, dĩ nhiên, tất cả những điều ghi chép ấy phải bập bùng một ánh lửa phía sau. Ánh lửa bập bùng ấy nằm trong trái tim của người viết.

Nguyễn Xuân Hoàng có một trái tim bập bùng ánh lửa như thế. Ông viết về những điều xảy ra quanh mình, những điều bất cứ một người nào khác cũng có thể thấy. Nhưng những hình ảnh mà ông ghi nhận xuống, để thành những con chữ nhẩy múa trước mắt người đọc, đã được lọc qua một lăng kính đặc biệt của riêng ông. Chúng phản chiếu cái ánh sáng cháy đỏ, ấm nóng của những ánh lửa trong trái tim nhà văn. Cái ánh sáng ấy làm cho những hình ảnh thô tháp, tầm thường trong đời sống trở nên lấp lánh, và, đôi khi, như trộn lẫn trong chúng âm thanh của những tiếng nhạc, những bài hát mà chúng ta đã nghe đâu đó, trong đời.

… Có những bài hát ta nghe nhiều lần nhưng không bao giờ nhớ nổi một câu và có những bài hát dù không còn phổ biến nữa, nhưng nó vẫn cứ vang lên trong đầu bằng một trí nhớ không được chuẩn bị. Những bài hát làm sống dậy hình ảnh và kỷ niệm, sống dậy mùi vị cỏ cây và hơi thở của da thịt. (…)

(trích trong “Tôi nghe tiếng nước reo trên bếp”)

Những bài hát. Và trái tim ta. Và mắt nhìn, và chữ viết của nhà văn. Đời sống con người, có lẽ, một phần nhờ vào những thứ ấy, mà có thể tiếp tục. Dù cho nó có là một “hữu thể hướng về cái chết” đi chăng nữa, tôi tin chắc, con người đã hướng về cái chết kia với cả thân xác, tâm hồn và trái tim của mình. Thân xác, tâm hồn và trái tim ấy vẫn cần một chút “dưỡng chất trần gian” để đi trọn con đường của nó. Đó là thơ, văn và những gì tạo nên nghệ thuật của con người.

Nguyễn Xuân Hoàng, trong chữ viết của mình, đã đem lại cho chúng ta một chút “dưỡng chất trần gian” như thế.

Xin cám ơn Nguyễn Xuân Hoàng. Và cám ơn Sổ Tay.

Bùi Vĩnh Phúc

Tustin Ranch, Calif.

(*) Sổ Tay Nguyễn Xuân Hoàng, sẽ xuất bản.