Nhà Văn Nguyễn Xuân Hoàng
LGT: Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng sinh ngày 7/7/1940 tại Khánh Hòa. Ðã làm tổng thư ký cho:
Tác phẩm đã xuất bản :
1.
Sử Mặc (SM): Chào nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng (NXH).
Từ khi kế nhiệm tờ Văn của Mai Thảo (MT), nhiều người nhận thấy rằng mục Sổ Tay của NXH viết hay không kém nhà văn tiền nhiệm. Nhưng cũng kể từ khi chuyên trách mục này, độc giả lại ít được đọc truyện MT trước đó hoặc truyện NXH sau này . Đây chỉ là một sự dừng chân nghỉ mệt để khơi động một chu trình viết lách khác . Hay có sự bế tắc nào?
NXH : Chào anh Sử Mặc. Sao hôm nay lại có chuyện phỏng vấn này? Chắc phải có chuyện chi đặc biệt phải không? Dù sao đã hỏi thì xin trả lời: Phần anh Mai Thảo thì tôi không dám có ý kiến, còn phần tôi thì vì công việc lu bu, thì giờ cho việc viết quá ít, thành ra mới có cơ sự đó.
Tường Vi, Nguyễn Trung Hối, Nguyễn Xuân Hoàng, Milpitas 2000
2.
SM: Trước kia, nhà văn NXH là một giáo sư triết. Vậy nghề giáo chuyên môn này có giúp ích gì cho nghề văn không? Sự giao thoa giữa hai nghề mang tỉ lệ thuận hay nghịch?
NXH : Đi dạy học cũng như làm thợ nề thợ mộc, nói chung cũng như những ngành nghề khác, nó cũng giúp cho nghề văn mặt này và có trở ngại cho nghề văn mặt khác. Có khi thì thuận, cũng có khi nghi.ch.
3.
SM: Có người cho rằng trong giới văn nghệ với nhau có sự kết bè và phân biệt đối xử . Cụ thể: nhà văn nhà thơ "lớn" phải đánh bạn với nhà văn nhà thơ cùng tầm cỡ! -Văn nghệ "cung đình"(có dán marque trí thức, phú hộ) không đi đôi với văn nghệ "bụi"(hiểu theo nghiã chịu chơi, bất cần dư luận) - Báo chuyên đề văn học không chơi với báo chợ - vv và vv . Anh có nhận thấy như vậy không ? Nếu có, tình trạng này có ở mức đôỉ tệ hại và có cơ may cải thiện không ?
NXH: Không biết có hiện tượng này cho "một ai đó" với "một ai đó" không? Nhưng cá nhân tôi, tôi không thấy có chuyện này. Vì thật sự tôi không hiểu thế nào là "lớn" thế nào là "tầm cỡ"? Nhưng tôi biết một điều - một điều rất cũ và rất xưa - là hai người hợp tánh với nhau, cùng chia sẻ được với nhau về một số suy nghĩ đời sống cũng như chuyện chữ nghĩa, dễ nói chuyện với nhau hơn là những người gặp nhau chẳng biết PHẢI nói chuyện gì. Chẳng hạn, tôi vẫn thích giao du với anh Nguyễn Mộng Giác vì chúng tôi là bạn với nhau từ lâu. Không phải vì anh ấy làm báo Văn Học còn tôi làm báo Văn. Anh Giác có lúc không làm tờ Văn Học, còn tôi anh Mai Thảo mới chuyển tờ Văn để trông coi từ tháng Chín 1996. Chẳng hạn, anh Phùng Nguyễn tôi mới quen khi gặp anh ở nhà anh Giác, và tôi trở thành bạn thân của anh ấy từ năm sáu năm nay. Mà rất thân như anh em. Trường hợp nhà văn Lê Minh Hà ở Đức, Ngọc ở New York - nay do công việc đã dọn về Florida - tôi chưa hề quen mà cũng chưa hề biết mặt, nhưng tôi có cái cơ may được đọc bản thảo của chị (Ngọc) và được cho bài (Lê Minh Hà) và Văn được phép đăng truyện của các chi.. Tôi rất sung sướng quen biết với ho.. Trường hợp Nguyễn Nam An, Phạm Chi Lan, Nguyên Nhi, Nguyễn Thị Thảo An... là những tác giả tuy không giao du thân thiết [riêng Nguyễn Nam An tôi vẫn tự cho phép mình coi là anh em trong một gia đình] nhưng tôi bao giờ cũng vẫn qúy mến các anh chị đó. Không những vì tài năng của họ mà còn vì tư cách của họ nữa. Anh có để ý là khi mình đi dự một tiệc cưới, khi được xếp ngồi cùng bàn những người mình không quen thật khó nói chuyện không. Không phải chuyện giàu nghèo hay có danh vọng gì đâu, mà là vì không cùng ngành nghề hay sở thích đó thôi.... Anh có nghĩ vậy không?
4.
SM: Đúng đấy nhà văn à ! Hoan nghênh tinh thần cởi mở của anh NXH . Nhưng tôi thấy điều này vẫn còn lấp ló đâu đó . Nhưng thôi ! Bá nhơn bá tánh ...miễn sao mình sống thật với mình là qúy phải không anh ! Như vậy trong văn chương cũng cần triệt hạ quan niệm đàn anh đàn em, chia bè kết lũ, phải thế không ạ ?
NHX: Tôi nghĩ câu hỏi đã được trả lời.
5.
SM: Với tư cách chủ nhiê.m/chủ bút một tạp chí chuyên đề văn học có tầm vóc hiện nay ở hải ngoại, anh có thiên vị không trong việc lựa chọn bài vở ? Lấy một ví dụ nhỏ : giữa một thân hữu cộng tác có phụ giúp vật chất cho tờ báo nhưng khả năng văn chương yếu kém và một ngòi bút cộng tác khá nhưng hoàn toàn không có khả năng góp gạo thổi cơm chung, anh nghiêng về bên nào ?
NXH : Chúng tôi thấy câu hỏi này rất dễ trả lời: Thứ nhất, chúng tôi không có may mắn có được một thân hữu cộng tác có phụ giúp vật chất cho tờ báo mà lại đòi đăng bài. Tờ Văn được rất nhiều thân hữu giúp, nhưng không thân hữu nào đòi cái chuyện kỳ quái đó. Thứ hai, tôi vô cùng mừng rỡ và sung sướng được đăng bài của những tác giả tài năng. Tôi sợ các bậc tài năng ấy không chịu cho bài chứ. Anh cứ hỏi các ông Nguyễn Mộng Giác, Khánh Trường thì biết KHÔNG CÓ NHÀ VĂN VIẾT BÀI, ĐỐ ANH LÀM SAO RA BÁO!
6.
SM: Hiện tượng nữ giới rầm rộ tham gia sinh hoạt văn nghệ, theo anh là để :
- Điểm trang cho cuộc đời ?
- Bình đẳng với nam giới ?
- Do hoàn cảnh xã hội mới thúc đẩy?
NXH : Hình như nhà văn Võ Phiến có nói đâu đó một câu đại khái là chúng ta đang có một nền văn chương đổi phái tính. Tôi không phải là nhà nghiên cứu sợ trả lời kiểu thầy bói thì anh cười.
7.
SM: Nhìn lại sinh hoạt văn học VN hải ngoại hơn hai mươi năm qua, anh nhận thấy kể theo phái tính ngòi viết nam hay nữ dài hơi hơn ? Tại sao ?
NXH : Tôi nghĩ người dài hơi vẫn là người nam: Trước đây là nhà văn Nguyễn Mộng Giác. Hình như giờ đây nhà văn Hoàng Khởi Phong có dự tính viết bộ trường thiên Người Trăm Năm Cũ dài hơn Sông Côn Mùa Lũ......
8.
SM: Anh có quan niệm đem ngôn từ dung tục vào văn chương có thể tẩy được phần nào cái vết nhàm chán của văn chương lãng mạn cổ điển . Đấy có phải là một hình thức đổi mới nghệ thuật viết không ?
NXH: Càng ngày tôi (cá nhân-chủ quan) càng thấy những chữ nghĩa "đẹp đẽ" "lãng mạn" làm văn chương chúng ta không chỉ nhàm chán mà còn khó nuốt nữa.
9.
SM: Nhiều người hô hào : phải gia nhập, đầu tư vào thị trường văn chương chữ nghĩa bản xứ . Anh nhận thấy có mảy may nào hi vọng không ? Hay chỉ là một ý niệm suông ?
NXH : Gia nhập, đầu tư như thế nào? Tôi không rõ. Nhưng tôi biết những nggòi bút trẻ như Nguyễn Quí Đức, Andrew Lam, Andrew Phạm, Linda Lê và... đã và đang đi vào thị trường chữ nghĩa bản xứ bằng chính tài năng của họ trên lãnh vực văn chương. Họ viết trực tiếp bằng tiếng Anh, hay tiếng Pháp (trường hợp Linda Lê). Họ đang làm cái việc mà cá nhân tôi ao ước vì tôi không có khả năng đó.
10.
SM: Anh có nhìn ra cái động lực đã làm chùn bước các ngòi bút được kể là năng động, là niềm hi vọng cho văn học lưu vong lâu nay như Trần Vũ, Đỗ Kh. , Nguyễn Qúi Đức, Vũ Quỳnh Hương, Vũ Quỳnh Nh. vv..vv
NXH : Tôi nghĩ các người trẻ đầy tài năng này vẫn viết đấy chứ. Nguyễn Quí Đức vẫn sáng tác trong khi đang làm cho một đài phát thanh của nguồn bản xứ, Đỗ Kh. làm điện ảnh, hai nhà văn họ Vũ thì một người công chuyện đa đoan, một người đời sống gia đình bận bi.u. Để hai vị nữ lưu đó có chút thì giờ tôi tin là người đọc chúng ta sẽ có cơ hội thưởng thức văn chương của ho.. Riêng Trần Vũ, tôi có may mắn gặp anh hồi đầu tháng Mười Một vừa qua tại Paris, anh nói lúc này anh "ngưng viết vì anh cần làm việc có tiền và có địa vị trong xã hội". Anh Trần Vũ có lý riêng của anh. Đôi khi văn chương chẳng qua cũng chỉ là một trò chơi. Không thích trò chơi đó người ta tìm trò chơi khác thực tế hơn.
11.
SM: Nhà văn NXH trong mong gì ở giới viết lách trẻ ?
NXH : Chưa bao giờ tờ Văn được đăng nhiều sáng tác của người trẻ như những năm gần đây.
12.
SM: Anh theo đuổi nghề báo là vì :
- Muốn gánh lấy một trách nhiệm ? ( như duy trì một diễn đàn văn nghệ đứng đắn ) - Thời cơ đưa đẩy ? - Thỏa mãn một sở thích cá nhân ? - Mưu sinh ?
NXH : Như đã trả lời ở trên: Công việc làm báo của tôi hiện nay (không phải tờ Văn) cũng như mọi người khác trong xã hội là phải làm việc làm một việc nào đó để sống. Không lẽ mình cứ ngồi chơi lấy gì nuôi bản thân, nói chi chuyện nuôi gia đình. Còn tờ Văn là một chuyện khác. Nó chẳng mang lợi lộc gì ngoài bỏ công bỏ sức xxin bài, lay out, chịu nợ nhà in, gửi báo mỗi tháng và những khi báo gửi trễ bị một vài bạn đọc khó tánh mắng vào mặt, như mình là một người được bạn ấy nuôi sống bằng mấy cục đồng trong một năm. Chúng tôi luôn luôn biết ơn bạn đọc. Những bạn đọc đã thông cảm việc làm của chúng tôi, đã thông cảm nhưng khi báo ra trễ, gửi trễ vì nhiều lý do, trong đó có lý do Sổ Tay bao giờ cũng đưa chậm, vì cứ muốn chờ thời sự sau cùng để cho vào bài viết. Một vài bạn đọc hiếm hoi ccó vẻ như muốn nói "Tôi mà giận lên không thèm mua báo nữa thì chỉ có nước đi ăn mày."
13.
SM: Từ ngày báo chí liên mạng nở rộ, báo dưới "đất" có bị ảnh hưởng gì không về lượng độc giả, thân hữu cộng tác bài vở ? ...
NXH : Tôi không rõ lắm. Báo Văn cũng như Văn Học, Hợp Lưu đâu có đông người đọc đến nỗi sự thay đổi này làm ảnh hưởng chuyện kia, trừ phi các tác giả thỉnh thoảng có cho bài nay họ chỉ dành cho báo liên mạng thì họ không cho nữa thôi.
14.
SM : Có người than phiền đa số các vị chủ báo lười trả lời thư tín, thắc mắc của độc giả thân hữu như một thái độ xem thường bạn đọc . Điều này oan hay ưng ?
NXH : Tôi không biết các ông Nguyễn Mộng Giác, Khánh Trường thế nào chứ cá nhân tôi thích trả lời bằng điện thoại (nếu người viết có ghi số điện thoại) hoặc thích nhất là trả lời qua email. Chuyện viết một bức thư trả lời với tôi lúc này là một nỗi khổ tâm, không phải xem thường bạn đọc đâu, oan lắm!!!!!- mà vì quá lu bu. Có một cách trả lời thứ ba là mở hộp thư tòa soạn. Tôi nghĩ nhân đây lợi dụng câu hỏi của anh, tôi cầu mong bạn đọc tha thứ và thông cảm. Nhớ cho số điện thoại hoặc cho địa chỉ email. Hết lòng biết ơn các bạn và anh Sử Mặc.
15.
SM : Xin cám ơn nhà văn NXH . Cám ơn quý bạn đọc !
Canada 01 decembre 2001
Liên lạc với nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng: van0996@aol.com
Đọc Sổ Tay của Nguyễn Xuân Hoàng
Em Bé Đứng Chờ Xe Ở Ngã Tư - (VNNP 118)
Nguyễn Xuân Hoàng
Ðời sống vẫn không ngừng chảy
Phan Nhiên Hạo thực hiện
Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng (ảnh của Nguyễn Hoàng Nam)
Phan Nhiên Hạo (PNH): Ba mươi năm kể từ 1975, anh vẫn sống đời sống của một người làm văn chương toàn thời gian: sáng tác và làm báo (tạp chí Văn và Việt Mercury). Cuộc sống của một người làm văn nghệ hải ngoại như anh có những vui, buồn, phần thưởng tinh thần và khó khăn gì?
Nguyễn Xuân Hoàng (NXH): Tôi không nghĩ là tôi đã sống 30 năm của một người làm văn chương toàn thời gian đâu. Sau 1975, tôi mất hết 10 năm lang thang ở Sài Gòn, Rạch Giá, U Minh, Nha Trang, Ðà Lạt, không định hướng, cũng có viết lách đôi khi nhưng cái chính là làm những chuyện không ăn nhập gì đến chuyện chữ nghĩa: lái xe ủi đất, làm ruộng, lơ xe đò, đốn cây làm than, và... ở tù, mãi đến 1985 tôi mới đến được Mỹ.
Và trong những ngày đầu ở đây tôi làm nghề đi rải flyers cho mấy tay địa ốc. Như vậy nếu nói đúng tôi chỉ có chưa đầy 20 năm sống lại đời làm báo viết văn. Những ngày ở trại tị nạn Bataan, Phi Luật Tân, tôi không hề có ý nghĩ là mình sẽ có thể / muốn / cầm bút trở lại, nói gì chuyện làm báo. Ở Virginia chừng nửa năm, anh Mai Thảo ở Nam California gọi điện thoại bảo xuống Quận Cam chơi một chuyến thăm bạn bè. Tại đây, trong một bữa cơm đón người ở trại tị nạn mới qua tại quán Doanh Doanh của Thái Tú Hạp trên Los Angeles, anh Ðỗ Ngọc Yến chủ nhiệm nhật báo Người Việt, chắc là được anh Mai Thảo nhắc nhở - nói với tôi “thôi về Người Việt đi, bạn bè cả”. Tôi gặp Nguyễn Ðức Quang, nhạc sĩ du ca ở đây.
Tôi làm nhật báo Người Việt, sau đó cùng lúc làm nguyệt san Thế Kỷ 21 [từ số ra mắt cùng với Lê Ðình Ðiểu], còn tạp chí Văn thì từ tháng Chín 1996 và Việt Mercury từ tháng 11. 1998 [số ra mắt 29/01/1999]. Làm báo tin tức thời sự như một thứ nghề, cũng giống như làm thợ mộc thợ nề, làm technician vậy. Tuy nhiên đó là thời gian tôi cầm bút trở lại. Tôi viết không nhiều. Làm báo giết ráo làm văn. Khi anh Mai Thảo bệnh, giao cho tôi tờ Văn, tôi đang là tổng thư ký tờ Người Việt. Làm hai tờ báo một lúc, khủng khiếp, tôi không hiểu tại sao mình làm được? Làm báo Văn là một niềm vui và cũng là một nỗi khổ. Tờ báo nuốt hết thì giờ của tôi sau khi ở toà soạn Người Việt về, nó không nuôi nổi một người sống hết mình với nó đã đành, mà ngược lại nó bắt người làm ra nó phải nuôi nó. Khi tôi vào làm tờ Việt Mercury, may mắn hơn, đời sống thường ngày đã nhẹ, nhưng việc nuôi tờ Văn thì vẫn tiếp tục. Ðấy là tôi chỉ nói phần vật chất, tôi chưa nói chuyện bài vở, chuyện độc giả, chuyện đóng gói, bỏ bì đem ra bưu điện cho mỗi số báo, chuyện đau nhói của một ngưòi làm báo văn học. Khó khăn thì nhiều thứ lắm. Còn phần thưởng tinh thần hả? Ðó là tôi tìm lại được bạn bè cũ, và quen biết thêm bạn bè mới. Ðó là mỗi khi tờ báo ra, cầm tờ báo trên tay, tuy không còn ngửi được mùi mực in như ở Sài Gòn ngày nào, nhưng sao lòng vẫn bồi hồi. Bao giờ tôi cũng trân trọng những người viết mới. Cứ mỗi lần đọc được một sáng tác mới của một người viết mới tôi nghĩ chắc tờ báo vẫn còn có người đọc. Ðời sống vẫn không ngừng chảy.
PNH: Có ý kiến cho rằng văn chương hải ngoại là sự nối dài của văn chương miền Nam trước 1975, anh có nghĩ điều này hiện còn đúng với văn chương hải ngoại không? Anh thấy những chuyển động nào đáng kể trong văn chương hải ngoại, sự hình thành những người viết mới đáng chú ý ba mươi năm qua?
NXH: Nói văn chương hải ngoại là sự nối dài của văn chương miền Nam trước 1975 có thể đúng trong những năm đầu khi những ngưòi cầm bút lẻ loi mới chân ướt chân ráo đến Mỹ. Thế nhưng đã 30 năm qua từ tờ Văn Học của Võ Phiến, Lê Tất Ðiều rồi Nguyễn Mộng Giác và giờ đây, năm 2005 là Cao Xuân Huy, đến tờ Văn của Mai Thảo nay chuyển sang tôi từ 1996, và Hợp Lưu của Khánh Trường giữa sóng gió bước đầu giờ chuyển qua Phùng Nguyễn, rồi Trần Vũ - Ðặng Hiền; tạp chí Thơ của Khế Iêm một mình một ngựa nay chuyển qua Ðỗ Kh. Ðó là chưa kể tờ Nhân Văn của Thượng Văn, Văn Uyển của Trần Nghi Hoàng ở San Jose, tờ Việt của Nguyễn Hưng Quốc và Hoàng Ngọc-Tuấn ở Úc, Chủ Ðề của Nguyễn Trung Hối, Phố Văn của Nguyễn Xuân Thiệp, Gió Văn, Sông Văn..., tôi nghĩ là đã có chuyển động. Những cuốn hồi ký trong thập niên 80 đã gần như biến mất vào đầu thập niên 90. Lý luận phê bình trước kia trong nước và sau này ở hải ngoại đã được tạp chí Việt của Nguyễn Hưng Quốc, Hoàng Ngọc-Tuấn bổ khuyết một cách mạnh mẽ và phong phú. Nhiều người viết đến với văn chương như Trần Vũ, Phùng Nguyễn, Mai Ninh, Miêng, Phan Nhiên Hạo, Nguyễn Quí Ðức, Ðinh Linh..., đã và đang mang đến cho văn học hải ngoại một hơi thở mới. Thật ra còn nhiều nữa mà tôi kể không hết. Còn nếu phải kể những người không sáng tác bằng tiếng Việt thì làm sao quên được Linda Lê, Kim Lefèvre ở Pháp, lê thị diễm thúy, Monique Trương, Andrew Lâm, Andrew Phạm ở Mỹ...
PNH: Tôi nghĩ văn chương miền Nam trước 1975 là một nền văn chương rất sinh động và gồm nhiều tác giả xuất sắc. Vì lý do chính trị, ở trong nước người ta vẫn chưa chính thức công nhận nền văn chương này, những người viết trẻ thì thường có thái độ hãnh tiến, vội vã phủ nhận người đi trước mà không đọc họ kỹ (cũng có thể vì không có sách để đọc). Là người trong cuộc, sau ba mươi năm, nhìn lại văn chương miền Nam trước 1975, anh đánh giá nó thế nào?
NXH: Tôi biết là tôi sẽ thiếu khách quan khi tôi nhìn lại nền văn học miền Nam trước 75. Tại sao? Bởi vì tôi lớn lên trong không khí đó, chiến tranh không chỉ ở mặt trận, chiến tranh còn ở thành phố. Sáng tác của họ không thoát ra khỏi chiến tranh. Ngay cả âm nhạc cũng vậy. Họ tiếp nhận nhanh những chuyển động của văn học thế giới. Tiểu thuyết Mới ở Pháp đến Sài Gòn rất sớm. Hồi chúng tôi còn học đại học Đà Lạt, anh Hoàng Ngọc Biên đã giới thiệu Michel Butor, Nathalie Sarraute, Alain Robbe-Grillet. Văn chương của Jean-Paul Sartre, Albert Camus, thơ Jacques Prévert, triết của Martin Heidegger, Karl Jaspers cũng du nhập vào miền Nam. Chúng tôi cũng có thơ và truyện của Võ Phiến, Vũ Khắc Khoan, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Tô Thùy Yên, Cung Trầm Tưởng, Hoàng Anh Tuấn, Viên Linh, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Ðình Toàn, Nhã Ca, Huỳnh Phan Anh, Trùng Dương, Túy Hồng, Trần thị NgH.,... Một trong những khuôn mặt được chú ý trong thời gian đó không thể không nhắc đến là Phạm Công Thiện. Về phê bình lúc đó có Ðặng Tiến ở Pháp và Cao Huy Khanh trong nước. Ngoài ra còn có cả Ðỗ Long Vân từ Pháp về nữa. Ðó là chưa kể những tờ như Trình Bầy, Hành Trình, Tin Văn... khá là “phản chiến” và vẫn tồn tại.
Phong phú và đa dạng là những tĩnh từ có thể gán cho văn học miền Nam trước 1975.
PNH: Anh từng làm thư ký tòa sọan tạp chí Văn ở Sài Gòn trước đây, anh có thể nói đôi điều về sinh hoạt văn chương thời đó được không? Anh nhớ nhất kỷ niệm nào?
NXH: À, thời đó chuyện văn chương mới ấm áp làm sao. Báo chưa ra hay báo đã ra, sáng nào cũng gặp nhau ở quán Cái Chùa [La Pagode] trên đường Tự Do [nay là đường Ðồng Khởi] bên ly cà phê và những điếu thuốc lá. Khi thì nói về chủ đề số báo của tờ X. hay bài viết của A trên tờ Y, về cuốn sách mới in của Z. hay bài điểm sách của tay B., về cái truyện sắp viết, cuốn sách mới đọc, bài thơ mới làm. Nhưng cũng có khi nói về những thứ gì khác không phải văn chương, về tình hình chính trị, về người bạn vừa gặp nhau tuần trước mới hôm qua bỗng được tin vừa tử trận. Buổi tối không ra quán ăn nhô ra bờ sông Sài Gòn Point des blageurs thì cũng tới Chợ Ðủi, bên những ly bia, nói năng ba trợn hay nghiêm túc, hết chai này đến chai khác với người bạn ngày mai ra trận, không biết còn có ngày gặp nhau không, sau đó luôn luôn phóng xe chạy hết tốc độ vì đã quá giờ giới nghiêm.
Lúc đó tờ Văn nằm trên đường Phạm Ngũ Lão, con đường có nhiều nhà in báo, đặc biệt nhà phát hành Sống Mới. Ông Nguyễn Ðình Vượng, chủ nhiệm tờ Văn có nhà in riêng, in cho ít nhất ba tờ tạp chí: Văn, Tuổi Ngọc của Duyên Anh và Vấn Ðề của nhà viết kịch Vũ Khắc Khoan. Hai tờ Tuổi Ngọc và Vấn Ðề đều đặt toà soạn trên tầng hai và tầng ba của toà soạn Văn.
Thời đó báo có toà soạn đâu ra đấy chứ không như bây giờ ở hải ngoại “hình như” không tờ báo văn học nào có toà soạn đúng nghĩa của nó: toà soạn trong ga-ra hay trong phòng khách; điện thoại nhà cũng là điện thoại toà soạn; người lo cho tờ báo phải lo từ đầu đến đũa: xin bài, đọc bài, lay out bài, gửi nhà in, bỏ báo vào bao thơ, chở báo đến bưu điện, và mặc dù bạn đọc rất ưu ái, người tạm gọi là “chủ báo” phải chạy tiền trả nhà in vì có một khoảng cách đáng buồn giữ thu và chi.
Có quá nhiều kỷ niệm, nhưng một kỷ niệm mà tôi còn nhớ mãi là chuyện viết bài cho tờ Vấn Ðề. Hồi đó ông Vũ Khắc Khoan khi đến toà soạn phải đi ngang qua Văn để lên tầng trên. Bao giờ gặp mặt tôi ông cũng bảo “H. đưa cho Vấn Ðề một truyện ngắn đi”, và bao giờ tôi cũng hứa “Thế nào cũng sẽ có cho anh mà!”. Hứa vậy thôi, chứ tôi lu bu quá. Mỗi ngày tôi vẫn đi dạy, hết giờ ra thì toà soạn, đọc bài, đọc bản vỗ, sửa bài, viết thư toà soạn, trả lời hộp thư, gọi điện thoại đặt bài cho số đặc biệt..., buổi sáng còn ra Cái Chùa, buổi tối còn tới Chợ Ðủi, thế là quên tiệt.
Một hôm tác gỉa Thần Tháp Rùa vừa bước vào toà soạn nhìn thấy tôi, ông đứng lại, rút trong túi ra xấp bạc, đặt trước mặt tôi. “Năm ngàn đấy nhé, cậu đưa cái truyện đã hứa cho tôi tuần tới nhé!”. Ông làm tôi bối rối. Ông cười: “Tờ Văn chỉ trả truyện ngắn có ba ngàn, Vấn Ðề trả năm ngàn đấy nhé!”. Và ông lên lầu.
Tôi biết mình không thể ù lì được nữa. Sáng thứ Hai, tôi mang truyện lên lầu đặt trên bàn Vũ Khắc Khoan. Ông chưa tới. Tôi xuống nhà gọi điện thoại rủ Huỳnh Phan Anh ra quán Cái Chùa. Và tôi quên cái truyện mình đã viết cho Vũ Khắc Khoan. Một buổi sáng ông Mai Thảo đến toà soạn, kéo ghế ngồi bên tôi hỏi, cậu viết cái gì thế? Tôi nói có viết gì đâu, đang đọc bài cho số báo tới. “Không, tôi hỏi H. viết cái gì cho tờ Vấn Ðề kia.” “Ồ, một truyện ngắn đó mà!” “H. có biết là tờ Vấn Ðề bị đóng cửa vì cái truyện ngắn gì đó của H. không?”. Tôi không biết. Nhưng ngay buổi chiều hôm đó tôi nhận cái trát hầu toà vì cái truyện ngắn của tôi, có nhắc đến bài hát Bà mẹ Gio Linh của Phạm Duy. Ông Phạm Duy không biết điều đó, nhưng nhà văn-bác sĩ Ngô Thế Vinh biết vì sáng hôm sau ra quán Cái Chùa gặp Ngô Thế Vinh ngồi bên ly cà phê cho biết anh cũng nhận được một cái giấy như tôi qua truyện Mặt trận ở Sài Gòn của anh. Truyện ngắn của tôi viết cho tờ Vấn Ðề có tựa Cha và anh viết về giai đoạn tản cư thời chiến tranh chống Pháp.
PNH: Sau vụ hầu tòa đó, chuyện gì xảy ra với anh?
NXH: Tôi vẫn làm việc và viết lách bình thường. Anh Ngô Thế Vinh cũng vậy.
PNH: Anh có thể nói thêm về tạp chí Văn và các báo văn nghệ thời đó?
NXH: Thực ra văn chương thời đó tập trung vào một số tạp chí văn học ở Sài Gòn. Sáng Tạo ra đời vào những năm 54 - sau khi hiệp định Genève được ký kết - với Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Duy Thanh, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế, về sau có Dương Nghiễm Mậu, tờ Bách Khoa với Lê Ngộ Châu, Võ Phiến, tờ Hiện Ðại với Nguyên Sa, tờ Thế Kỷ với Trần Hồng Châu-Nguyễn Khắc Hoạch, tờ Văn với Trần Phong Giao, tờ Khởi Hành với Viên Linh, tờ Văn Học với Dương Kiền, tờ Giữ Thơm Quê Mẹ với Nhất Hạnh, tờ Ðại Học ở Huế với Nguyễn Văn Trung, tờ Trình Bầy với nhóm Thế Nguyên, Diễm Châu... Thú thật với anh là tôi không chắc mình nhớ hết và nhớ đúng. Ba mươi năm rồi còn gì!
Tôi chỉ nhớ tờ Văn lúc đó in trên 10.000 bản và tiêu thụ mạnh nhất ở miền Trung hơn là ở Sài Gòn, mặc dù ở Sài Gòn sinh viên khá đông, chưa kể trường Ðại học Văn Khoa và Ðại học Sư phạm. Thành thật mà nói, với số dân khoảng 24 triệu người - tính riêng miền Nam - mà chỉ in có 10.000 bản thì không thể xem là nhiều, nhưng nên nhớ đây là báo văn chương chứ không phải báo tin tức, con số đó phải coi là đáng kể trong một đất nước chiến tranh. Tôi không rõ các tờ khác thế nào, chứ riêng tờ Văn, lúc nào bài vở cũng có sẵn, có thể làm được từ ba đến năm số. Từ đầu năm đã có thể lên lịch những số đặc biệt cho 12 tháng trong năm. Và tùy theo tình hình thời sự văn học thay đổi đột xuất sẽ có những số đặc biệt khác. Người viết đông đảo và sự đóng góp của họ cũng nồng nhiệt. Tờ báo được bạn đọc đón nhận khi vừa phát hành. Nhiều người lính hành quân ở miền Trung hay miền cao nguyên trong những làng mạc xa xôi cho biết họ có mang theo Văn trong ba-lô.
PNH: Chiến tranh chấm dứt đã ba mươi năm, nhưng hố ngăn cách ý thức hệ vẫn còn, anh nghĩ gì về vai trò của nhà văn hiện nay?
NXH: Tôi muốn hỏi lại anh, nhà văn có thể đóng một vai trò nào trong cuộc sống chúng ta? Có người nói, văn chương ở một khía cạnh nào có tác động trên đời sống xã hội. Như Căn lều của chú Tom (Uncle Tom’s Cabin) của Harriet Beecher Stowe góp phần vào sự thay đổi tâm lý kỳ thị màu da của người Mỹ da trắng. Nhưng liệu đó có phải là một định đề không?
Ở Việt Nam, tôi nghĩ mặc dù chiến tranh chấm dứt đã 30 năm, nhưng hố ngăn cách ý thức hệ vẫn còn. Liệu văn học có lấp được cái hố cạn mà khó qua đó không? Tôi không hiểu những người viết trong nước ra sao, và các bạn tôi những người cầm bút hải ngoại suy nghĩ thế nào, riêng cá nhân tôi tôi biết mình là một ngưòi viết không hạnh phúc vì cái hố cạn đó.
PNH: Ngày 30 tháng 4 năm 1975 anh đang làm gì, ở đâu, tâm trạng lúc đó thế nào?
Hôm đó từ nhà tôi đạp xe chạy lang thang trong thành phố đầy người chạy ngược xuôi, bọn tự động mang băng đỏ hôi của, lái xe jeep chạy bạt mạng, súng chĩa lên trời cướp bóc giựt dọc, bàn ghế quần áo, giấy má sách báo tung ra đường phố... Tôi đạp xe như một người mất hồn, cứ thế từ con đường này qua con đường khác, tôi thấy nhà cửa phố xá trở nên xa lạ như lần đầu tiên tôi đến. Bỗng nhiên, tôi nghe tiếng một người gọi tên tôi. Tôi dừng xe ngó qua bên kia đường. Tác giả Mùa hè đỏ lửa Phan Nhật Nam hỏi, “Cậu đi đâu vậy?” Tôi hỏi lại: “Sao bây giờ còn ở đây?” Chúng tôi ngơ ngác nhìn nhau, không ai trả lời ai. Dưới chân chúng tôi là những cuốn sổ thông hành nằm như rác. Những người mang thẻ này chắc chắn là những người thường có cơ hội đi ngoại quốc, chắc họ đã bỏ chạy hay đã xuống tàu, lên máy bay. Lúc đó đâu khoảng 10 giờ sáng. Con đường hai chúng tôi đứng mang tên Hồ Biểu Chánh, Phú Nhuận.
PNH: Cảm ơn nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng.
© 2005 talawas
Phỏng vấn nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng về tờ báo Viet Tribune mới ra mắt tại San Jose
2006-05-28
Nhà văn Hoàng Khởi Phong
Cách đây khoảng nửa năm tuần báo Viet Mercury, ấn bản tiếng Việt của tờ San Jose Mercury phát hành tại San Jose, tuyên bố đình bản. Đây là tờ báo Việt Ngữ đầu tiên do một tập đoàn báo chí của người Mỹ Làm chủ, tại một thành phố dung chứa cộng đồng người Việt lớn thứ nhì tại Hoa Kỳ, chỉ sau cộng đồng người Việt ở Quận Cam.
Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng
Viet Mercury có một thành phần biên tập hầu hết là người Việt mà trong đó nhân vật chủ chốt là nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng làm tổng thư ký. Trước khi tuyên bố đình bản, tờ Viet Mercury đã được dạm bán cho một nhóm đầu tư người Việt, nhưng sau cùng do những điều kiện khá chặt chẽ từ phía người bán, mà cuộc sang nhượng đã không thể hoàn tất.
Để lấp vào chỗ trống tờ Việt Mercury để lại, cộng đồng Việt Nam tại San Jose, đang ráo riết hình thành hai tờ báo khác mà một trong hai tờ này là tờ Việt Tribune do nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng làm chủ bút.
Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng nguyên là giáo sư Triết của truờng Trung Học Petrus Ký Sài Gòn. Trước năm 1975 bên cạnh nghề dậy học, nghiệp của ông là một nhà văn và là tổng thư ký của tạp chí Văn. Ông đến Mỹ vào cuối thập niên 80, tiếp tục nghiệp báo của mình trong tư cách tổng thư ký của nhật báo Người Việt hàng chục năm liền, trước khi giữ trách niệm tổng thư ký cho tờ Viet Mercury, từ số ra mắt cho tới khi tờ báo này đình bản.
Một mặt khác,Tạp chí Văn được nhà văn Mai Thảo cho tái bản ở Mỹ vào những năm đầu thập niên 80, khi nhà văn Mai Thảo lâm trọng bệnh, không còn đủ sức khỏe để lèo lái tờ Văn, Mai Thảo đã chuyển trọng trách của tờ Văn sang Nguyễn Xuân Hoàng gánh vác từ năm 1996 cho tới ngày nay.
Dưói đây là nguyên văn cuộc mạn đàm với nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, người chủ biên của tuần báo Việt Tribune phát hành ở San Jose
(Xin theo dõi toàn bộ cuộc phỏng vấn trong phần âm thanh bên trên)
© 2006 Radio Free Asia
VĨNH PHÚC
Đây lại là một trường hợp nữa của một nhà giáo kiêm nhà văn. Nguyễn Xuân Hoàng sinh năm 1937 tại Nha Trang, dạy triết. Trong cuốn "Tổng Quan Văn Học Miền Nam" ông Võ Phiến ghi là Nguyễn Xuân Hoàng sinh ngày 7/7/1937, và sang Mỹ năm 1984, nhưng trong cuốn "Căn Nhà Ngói Đỏ" lại thấy ghi anh sinh năm 1940 và khi nói chuyện với tôi, anh cho biết sang Mỹ năm 1986. Tôi biết Nguyễn Xuân Hoàng từ khoảng năm 1962-63 khi anh dạy tại trường trung học Ngô Quyền, Biên Hòa. Sau đó chừng 2-3 năm anh đổi về trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn.
Hình như từ khi sang định cư tại Mỹ, Nguyễn Xuân Hoàng chỉ ở vùng Orange County và chỉ làm báo, làm văn, chứ không làm một nghề nào khác (?). Ngồi trong tòa soạn nhật báo "Người Việt", chúng tôi hàn huyên về chuyện cũ Sài Gòn trước khi tôi đề cập đến việc viết lách của anh từ khi qua Mỹ. Nguyễn Xuân Hoang cho biết:
- Thưa anh từ hồi qua Mỹ đến giờ, tức là từ năm 86, tôi viết được tất cả 4 cuốn. Trong đó có ba cuốn truyện dài và một tập tùy bút.
Ngoài ra hình như anh cũng cho tái bản một vài cuốn đã in ở Sài Gòn trước kia?
- Thưa anh không. Có một cuốn tôi viết lại chứ không phải là tái bản. Cuốn đó ngày xưa xuất bản ở Sài Gòn tên là "Kẻ Tà Đạo". Tôi viết lại thành cuốn "Người Đi Trên Mây". Viết hoàn toàn mới. Sở dĩ viết như vậy vì tôi định in một bộ trường thiên ba tập mà cuốn đó là chuyện xảy ra trước 1975 ở Sài Gòn. Hai cuốn sau, một cuốn về những chuyện xảy ra từ 75 đến 85 sau khi Hà Nội chiếm Sài Gòn, và cuốn thứ ba viết ở Mỹ.
- Thưa anh trong bốn cuốn anh viết sau này, nguồn cảm hứng vẫn như cũ hay đã thay đổi hoàn toàn?
- Thưa anh, thay đổi hoàn toàn. Về cách viết cũng như về cách nhìn nhân vật và khung cảnh. Tất cả tôi viết theo một cái nhìn mới.
- Xin anh cho biết lý do tại sao lại có ý muốn thay đổi hoàn toàn như vậy?
- Sở dĩ tôi có cái thay đổi như vậy là bởi vì, thứ nhất, tôi nhìn lại cái giọng văn chương mà tôi đã làm trước kia khi tôi làm tổng thư ký tờ báo Văn ở Sài Gòn, và sau năm 75 tôi nhìn cái văn chương của Hà Nội, tôi thấy hai cái nền văn chương đó có cái hơi khác nhau, hơi chỏi nhau. Nền văn chương của Việt Nam mình trước 75 thì cái tính chất thuần văn chương rất nhiều. Cái tính chất "nghệ thuật vị nghệ thuật" rất nhiều. Trong khi nền văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa thì nhắm vào tuyên truyền là chính. Và cái thuyết phục người ta thì văn chương Hà Nội không thuyết phục được. Nhưng mà cái chữ nghĩa của nó, quả thật nó có một sự suy nghĩ. Không phải nó dùng chữ một cách tự nhiên mà dùng chữ có cách dùng của nó. Đó là lý do tôi phải viết lại tiểu thuyết của tôi bằng cái lối đó nhưng mà hoàn toàn đi ngược lại cái nền văn chương hiện thực của Hà Nội.
- Khi viết những tác phẩm mới này anh có nhắm vào một đối tượng đặc biệt nào không?
- Thưa anh tiểu thuyết viết ra tức là viết cho con người. Cái đối tượng đặc biệt tôi không nhắm vào, nhưng mà tôi biết, những người đọc sách của tôi phần lớn là những người dã chia sẻ với tôi về cái lớp người mà chúng tôi đã từng sống với nhau trong cái khung cảnh và cái văn hoá như thế.
- Sau những biến chuyển của đất nước và của cá nhân anh nữa, anh thấy lối suy tư của anh bây giờ nó khác ngày xưa?
- Về cái lối suy nghĩ của tôi, tôi thấy nó khác là vì nhiều lý do lắm. Khác như thế nào thì tôi chưa rõ lắm, nhưng nó khác là bởi vì, thứ nhất, cái cuộc sống nó không có giống như trước kia mình sống. Thứ hai là những năm tù đầy của tôi, ít thôi, tôi tù có 4 năm thôi. Những năm tù đó làm cho tôi nhìn cuộc đời không giống như tôi đã nhìn trước kia.
- Anh có thấy khó khăn trong việc viết lách ở nơi đất định cư này không?
- Thưa anh tôi thấy rất nhiều khó khăn trong việc viết lách. Bởi vì đời sống ở Hoa Kỳ làm việc rất là cực. Thời gian để viết chúng tôi có rất ít. Không biết các bạn khác như thế nào, nhưng riêng cá nhân tôi, mỗi ngày tôi làm tờ "Người Việt", nó nuốt mất hết thì giờ vì đó là báo hàng ngày. Đến cuối tuần tôi phụ trách tạp chí "Thế Kỷ 21" là một tờ báo tháng. Thành ra hai công việc ấy nó nuốt tôi, đến độ tôi muốn viết một tiểu thuyết, thay vì sáu tháng tôi mất đến ba-bốn năm. Trường hợp cuốn "Bụi Và Rác" là một điển hình.
- Đó là khó khăn về tinh thần. Còn về mặt vật chất có khó khăn không? Tôi được biết ngày xưa ở Sài Gòn các anh em viết lách chuyên nghiệp sống rất thoải mái.
- Phần tôi phải nói rằng về đời sống vật chất cũng rất khó khăn. Là bởi vì như anh biết, lương của một người làm việc ở một tờ báo Việt Nam không có lương lớn. Tiền ấy chỉ đủ trả tiền nhà ở Mỹ thôi. Do đó việc viết một cuốn tiểu thuyết tức là coi như mình bỏ ra một số thì giờ mà lẽ ra mình có thể làm việc để kiếm thêm giúp đỡ gia đình, thì đến khi viết xong một cuốn tiểu thuyết, tiền thu vào cũng không là bao nhiêu.
- Số độc giả ở ngoại quốc bây giờ rất ít phải không anh?
Vâng, số độc giả rất là ít. Thường thường ở đây in trung bình một nghìn đến hai nghìn cuốn là tối đa.
- Bán trong thời gian bao lâu mới hết?
- Thông thường hơn một năm. Mà đó là tác giả người ta thích đọc. Còn những tác giả khác dù là giá trị nó lớn, người ta cũng phải chờ hai-ba năm sau mới hết.
- Thế sách anh viết, anh đưa cho một nhà xuất bản chứ không tự in?
- Nhiều người khuyên tôi tự in lấy, nhưng tôi không in. Tôi giao cho nhà xuất bản. Bằng chứng là bốn cuốn sách của tôi do bốn nhà xuất bản khác nhau làm.
- Nói đến việc xuất bản sách. Anh có thể nói cho biết qua về cách thức xuất bản sách ở đây?
- Ở ngoại quốc, vấn đề in sách cũng dễ như hồi ở Việt Nam mình trước 1975 thôi. Tức là thế này: Viết xong một cuốn tiểu thuyết, nếu như tác giả muốn in thì nhờ người ta đánh ra, "lay-out" và đưa nhà in, làm cái bìa. Không phải kiểm duyệt gì cả. Còn nếu không muốn làm công việc in ấn lấy, thì giao cho một nhà xuất bản. Có thể nhà xuất bản in xong họ trả cho 10% trên số tiền ghi giá bán. Giống như ở Sài Gòn vậy. Nhưng nó ít là bởi vì in ít, thì số tiền (tác giả thu được) ít. Tôi lấy ví dụ như nếu cuốn đó để giá 10 đồng, thì in một nghìn cuốn, tác giả được một nghìn đồng.
- Số vốn để in một ngàn cuốn sách, cũng không nhiều lắm?
- Nếu muốn in một cuốn tiểu thuyết khoảng 200 trang, mà in một nghìn cuốn, bìa mầu, thì người đứng bỏ tiền in phải bỏ ra khoảng ba nghìn cho tới bốn nghìn đồng. Họ trả tác quyền xong họ thu về ba bốn nghìn. Thì coi như họ thu lại cũng hơi khó nếu sách bán không chạy.
- Trong tương lai gần anh có dự tính cho ra một tác phẩm mới nào không?
- Tôi được nhà xuất bản An Tiêm, nhà xuất bản nổi tiếng ở Việt Nam trước kia, nhờ viết hai cuốn. Người chủ trương là ông Thanh Tuệ, ở Paris. Còn người làm công việc của An Tiêm ở Hoa Kỳ là ông Châu Văn Thọ. Nhưng có sự hiểu lầm sao đó mà bây giờ ông Thọ để là nhà xuất bản Thanh Văn. Chính ra nó là An Tiêm. Thì ông Thọ nhờ tôi viết hai cuốn tiểu thuyết sắp tới. Một cuốn là cuốn cuối cùng trong bộ ba "Người Đi Trên Mây", tức "Bụi Và Rác". Và một cuốn nữa tôi chưa biết tên nó là gì. Ngoài ra ổng cũng đề nghị tôi viết một cuốn tầm trung, dầy chừng 150 trang thôi. Cuốn đó viết theo kiểu "Le Petit Prince" hay "Câu Chuyện Dòng Sông". Tôi nhận lời nhưng chưa viết.
- Anh vừa mới nhắc đến tên tác phẩm "Người Đi Trên Mây". Anh có thể giải thích lý do tại sao chọn tên đó?
- Vâng. Cái cuốn "Người Đi Trên Mây" này như là nó vận vào người tôi. Ai đọc nó rồi sau này gặp tôi đều gọi tôi là người đi trên mây cả. Một người bạn hỏi tôi nếu dịch cuốn này ra tiếng Mỹ thì dịch như thế nào. Theo tôi nghĩ, tiếng Việt mình khi nói một người đi trên mây, có nghĩa là một người không thích ứng với xã hội, một người mơ mộng, một người đứng bên lề cuộc đời. Và một thái độ như vậy thường hay bị chê trách. Tôi viết về một nhân vật như vậy.
- Đấy không phải là một bản tự họa?
- Nhiều tờ báo ở đây, nhất là tờ Văn Học của anh Nguyễn Mộng Giác, khi phỏng vấn tôi, cứ hỏi "có phải đây là một cái minh họa chính tác giả không"? Tôi có trả lời quý vị ấy rằng tôi là một người khác, tôi không phải là tôi ở trong truyện.
Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng
Những dịp tôi sang Cali chơi, thỉnh thoảng có gặp Nguyễn Xuân Hoàng. Nhưng những lần đó chỉ hàn huyên lung tung những chuyện thiên hạ, chứ không nhắm vào việc phân tích tìm hiểu tình hình văn học ở Cali và công việc viết lách của bạn. Lần này qua đường giây viễn liên, được biết Nguyễn Xuân Hoàng đã rời vùng Orange County và việc làm với báo chí Việt để lên vùng San Jose hợp tác với tờ San Jose Mercury News, phần phụ trang Việt ngữ.
Nghe tiếng cười ròn rã trong điện thoại và lối nói chuyện cũng đoán được tình trạng tinh thần anh nay lên rất cao. Đồng lương của người Mỹ trả cho người cầm bút dù sao cũng khá hơn rất nhiều so với báo chí Việt. Tuy nhiên, anh rên quá về mức sinh hoạt cao của vùng đất Bắc Cali, nhất là giá nhà cửa. Anh cho một thí dụ điển hình: một căn nhà xoàng thuê ở vùng Nam Cali là 1100 đô-la một tháng, thì ở San Jose phải trả 2400 đồng. Một căn nhà vùng Orange County giá 175000, thì lên San Jose nó phải trị giá 450000! Phải chăng vùng Thung lũng điện tứ nhiều công việc làm ăn với đồng lương cao thì tiền chi ra cũng phải nhiều?
Còn nhớ trước đây 6 năm, Nguyễn Xuân Hoàng cho biết công việc sinh nhai chiếm hết thời giờ, là một trở ngại lớn cho việc sáng tác. Tôi hỏi anh rằng nay đã 6 năm rồi, cuộc sống hẳn phải ổn định hơn, vả lại với việc làm mới với lương bổng hậu hĩ, thì anh còn thấy có trở ngại như trước không?
- Cái công việc mới bây giờ nó là "mới", cho nên có nhiều việc lại bắt đầu lại hết.
- Nhưng cũng vẫn chỉ là việc viết lách thôi?
- Mình mừng vì công việc bây giờ là làm tuần báo. Còn trước kia là nhật báo, việc mỗi ngày. Nhưng đây là lần đầu tiên một tuần báo Mỹ đứng ra làm báo tiếng Việt. Cho nên có những cách thức không giống như một tờ báo Việt Nam mà mình đã làm lâu nay. Tiêu chuẩn làm việc hoàn toàn khác với cái mà mình vẫn làm. Lúc đầu mình hình dung công việc, nhưng sau thấy nó không phải thế. Lúc đầu dự trù khổ này một tuần 32 trang. Nhưng số đầu tiên ra lại là 88 trang. Và bây giờ đây đang làm số 17, mà số trang lên thành 152. Cho nên công việc rất bận rộn.
- Số trang tăng như vậy là dấu hiệu có sự phát triển?
- Tờ báo phát triển rất mạnh. Quảng cáo rất nhiều. Mà số trang tăng như vậy thì phải tăng bài lên. Cũng chính vì quảng cáo nhiều mà bị các đồng nghiệp chửi rủa quá. Đại khái chửi mình là "bồi bút" (cười)
- Xin lỗi, đây là tờ báo bán hay biếu?
- Tờ S. J Mercury News là báo bán, còn phần Viet Mercury nằm trong đó là báo biếu.
- Hoàng đã làm việc nhiều năm với các báo và bạn đồng nghiệp người Việt (Người Việt, Thế Kỷ 21). Nay sang làm với một tờ báo của người Mỹ, thì có thấy có sự khác biệt gì không?
- Cách thức làm việc khác nhau rất nhiều. Cái diễn trình của công việc cũng khác. Cách đây mấy năm tờ S. J Mercury đã có một phần tiếng Tây Ban Nha dành cho độc giả người Mễ vì vùng này rất nhiều người Mễ. Sau ba năm, bây giờ mở thêm phần tiếng Việt cho số người Việt khoảng 115 ngàn người. Mình chưa quen với cách thức của họ. Trước kia tờ "Người Việt" thì phần quảng cáo là quảng cáo, phần bài viết thì thấy trống chỗ nào bỏ vào chỗ đó. Bây giờ, ở đây phần quảng cáo in vào với phần bài viết. Nó phải làm cái gọi là composing, tức là công việc nối liền người lo lay-out ra cái quảng cáo, kèm theo bài viết có trong trang đó. Tức là một trang vừa quảng cáo vừa có bài. Nên nó hơi rắc rối một chút. Và hình ảnh thì nó phải chuyển đến một chỗ riêng để nghiên cứu xem cái hình ảnh này khi in ra nó phải cùng một độ đậm nhạt với những bài trên cùng trang. Còn làm tờ báo tiếng Việt mình thì ít khi quan trọng cái đó. Tóm lại là technique nó rất kỹ. Còn về phần tin thì nó mua tin của AFP, nó dùng tin của hãng tin riêng của nó. Mình không được quyền dịch tin của những hãng tin khác mà nó không mua hay trao đổi. Trong khi mình làm báo tiếng Việt mình không để ý chuyện đó.
- Như vậy thì sau khi sang làm chỗ mới này, công việc cũng ảnh hưởng tới việc viết lách?
- Nó ảnh hưởng là vì sau khi làm xong ở đây rồi thì phải lo cho tờ tạp chí "Văn", mỗi tháng ra một số. Mỗi tối, và cuối tuần ở nhà mình phải giao dịch với các tác giả viết bài, phải edit bài, phải lay-out bài. Phải làm từ A tới Z vì có tiền đâu mà dám thuê ai. Rồi cái quan trọng nhất là mỗi số báo phải viết vào khoảng từ 6 đến 8 trang "sổ Tay". Cho nên mình đã lấy tiền bản quyền cuốn "Người Đi Trên Mây III" cả 5 năm nay rồi, mà vẫn chưa đưa sách cho nhà xuất bản! Mình vẫn dự trù trong đầu là khi lên trên này, mình sẽ viết cuốn đó.
- Như thế mấy cuốn khổ nhỏ chừng 150 trang hồi năm 92 định viết, chắc là vẫn chưa ra?
- Cái cuốn đó, trong đầu mình dự định hôm nói chuyện với Phúc, sau đó mình có viết được trên 100 trang rồi. Đến khi dọn nhà lên trên này, bị lạc mất cái đĩa trong đó có một đoạn mình dự tính in giới thiệu trong Tạp chí Văn, nay bị mất rồi
- Thế trong 6 năm qua Hoàng có thấy biến chuyển gì trong cách nhìn cuộc sống Mỹ, nhìn nền văn hóa, xã hội Mỹ, và như thế nó ảnh hưởng tới nguồn cảm hứng khi Hoàng viết?
- Trong mấy năm qua, thật tình mà nói, mình vùi đầu vào công việc, nên không có được khoảng trống để ngồi nhìn vào thế giới văn chương. Chỉ có đọc thôi, mà đọc một số ít thì chưa đủ để trả lời câu hỏi. Nhưng mình cảm thấy thế này: hình như càng ngày mình càng thấy những điều mình viết, mình không ưng ý. Vì lý do cái tính chất rộng lớn của nó chưa đủ để người đọc cảm thấy có một cái gì đó bắt họ phải suy nghĩ. Còn thiếu cái đó. Còn gia nhập với dân bản xứ, mình cũng chưa có nhiều, cho nên khi viết về dân bản xứ, mình thấy ngượng lắm, chưa tự tin. Mà khi viết về vùng đất mình đang ở mà thiếu con người bản xứ, thì cái đó không thể gọi là thành công được.
- Như vậy bây giờ Hoàng vẫn viết về khung cảnh và con người Việt Nam?
Không. Viết về khung cảnh mới, nhưng là con người Việt Nam ở khung cảnh mới, chứ không đưa được những nhân vật bản xứ vào trong khung cảnh mới của mình. Là vì mình không nắm được văn hóa và tâm lý của con người đó. Khi viết về một gia đình người Mỹ chẳng hạn, mình cần phải nắm được những yếu tố về môi trường văn hóa, xã hội thực sự của họ như thế nào. Đó là cái quan trọng.
- Trong thời gian qua Hoàng có dịp liên lạc với những người cầm bút còn ở trong nước không?
- Ở trong nước thì chỉ liên lạc với những người cầm bút của Miền Nam trước kia đã viết cho tạp chí Văn. Thì nay mình liên lạc với họ. Họ không còn viết trong nước nhưng gửi bài ra cho tờ báo Văn ngoài này.
- Những tác giả đó gửi bài ra cho Văn mà họ không sợ bị nguy hiểm à?
Phần lớn những truyện đó họ viết không có vấn đề chính trị. Họ viết về cái đời sống mới, tâm lý và xã hội nhiều hơn. Nhưng mà họ chấp nhận điều đó (nguy hiểm) cho nên mình nghĩ không có vấn đề gì đối với họ đâu. Tuy nhiên có một nhân vật này mình thấy hơi lo một chút. Đó là anh Nguyễn Thụy Long. Bây giờ anh ấy có gửi ra một số truyện và mình có đem bán được thột ít tiền cho anh ấy. Anh ấy viết rất thẳng thắn. Mình lo cho anh ấy.
- Mà vẫn ký bút hiệu cũ?
- Vẫn ký Nguyễn Thụy Long. Vừa rồi ông Văn Nghệ in cho anh ấy một cuốn là "Hồi Ký Viết Trên Gác Bút". Nó có hai nghĩa, vừa là cái gác để ngồi viết, vừa là "dẹp bút, không viết".
- Cái nghĩa thứ hai này đã được Vũ Hoàng Chương dùng rồi đấy. Sau khi cộng sản vào Sài Gòn, bà Mộng Tuyết có vẻ sợ liên lụy vì để Vũ Hoàng Chương ở căn lầu phía sau nhà bà ở Phú Nhuận. Ông Vũ biết ý nên bỏ Gác Mây, về ở trên căn gác nhỏ của mẹ con bà Đinh Hùng ở phường Cây Bàng, bên trong hẻm Hãng Phân, Khánh Hội. Ông đặt tên nó là Gác Bút: cộng sản vào, ông gác bút! Còn quyển hồi ký của Nguyễn Thụy Long mình cũng đọc rồi, do ông Văn Nghệ gửi cho. Anh ta long đong quá! Hoàng có đọc truyện của nhà văn nào trong nước không?
- Mình có đọc truyện của anh Nguyễn Huy Thiệp.
- Thấy anh ta viết vẫn như thế, hay lại thay đổi như trường hợp Trần Mạnh Hảo?
- Không. Trần Mạnh Hảo thì thay đổi ngược hẳn lại. Nhưng mình có nhận xét là: TMH dính vào vấn đề thời sự nhiều, còn NHT thiên về văn chương nhiều hơn. Khi một nhà văn viết mà dính vào vấn đề thời sự nhiều, thì không biết rằng liệu rồi họ có vượt lên khỏi chuyện thời sự không. Vì thời sự, chính trị thì phải thay đổi, phải qua đi chứ. Cái còn lại vẫn là văn chương. Tôi cho NHT là một nhà văn. Còn mấy vị kia tôi cho rằng họ là những nhà văn can đảm về thời sự, chứ họ không quan tâm đến văn chương lắm.
- Còn tình hình văn học nghệ thuật ở hải ngoại trong 6 năm qua có gì đáng nói?
- Nói chung, phần lớn các nhà văn nhà báo người Việt ở hải ngoại đều tập trung về vùng Quận Cam. Các nhà văn nghệ đủ mọi ngành: âm nhạc, hội họa, sân khấu, văn học. Thí dụ, riêng về văn học có bốn tờ tạp chí văn chương là Văn Học, Thế Kỷ 21, Hợp Lưu, và tờ Văn. Còn tuần báo cũng rất nhiều. Nhưng nói chung bốn tờ báo vừa kể nằm trong bốn khuynh hướng không giống nhau.
Chẳng hạn tờ Văn Học có một nửa hay 1/3 là sáng tác. Còn lại là biên khảo văn chương. Tờ Thế Kỷ 21 thì đủ thứ: vừa chính trị, vừa khoa học kỹ thuật, vừa văn học nghệ thuật. Tờ Hợp Lưu cũng có biên khảo, có chủ đề, nhưng trong tờ Hợp Lưu có chứa đựng một số truyện từ trong nước pha trộn với truyện viết ngoài nước, và vấn đề đặt ra nó hơi "avant garde" (sớm, tiến bộ) một chút. Còn riêng tờ Văn chỉ thuần sáng tác, và đặt nhẹ vấn đề lý luận phê bình. Cũng có bài phê bình lý luận, nhưng không phải là chính. Sáng tác mới là chính. Thành ra, nếu nói về sáng tác thứ tờ Văn có thể thấy điều này: rất là khó khăn nếu muốn tìm một truyện ngắn hay. Đó là vì ở đây ai cũng phải lo làm việc. Tờ báo không mang lại tiền bạc khi người ta viết. Người ta không được tiền nhuận bút. Mà đôi khi người ta còn phải mua tờ báo. Cho nên sự có mặt của những tờ báo đó, có thể nói là nhờ sự cố gắng rất lớn của người làm báo lẫn người viết báo. Tờ báo thành hình là do bài viết đến từ nhiều phía lắm. Chẳng hạn những nhà văn từ Canada, từ Úc, từ Âu châu, từ trong nước, đều góp phần xây dựng lên tờ báo.
- Ủa, thế những báo này khi đăng bài của người ta mà không trả nhuận bút à?
- Từ trước tới giờ không có tờ báo nào trả nhuận bút hết!
- Thế à! Nhưng mà ít nhất khi đăng bài thì cũng phải gửi biếu người ta số báo có bài của người ta chứ?
- Tất nhiên. Chuyện đó thì có. Về nhuận bút, tôi xin kể một chuyện này: Khi tôi còn làm tờ Thế Kỷ 21, tôi có xin bài của ông giáo sư Vương Văn Bắc, cựu Bộ trưởng ngoại giao. Anh Bắc viết một bài từ Paris về vấn đề kinh tế, ký tên là Hoàng Linh. Hồi đó cách đây độ 7-8 năm, tôi có nói với anh Đỗ Ngọc Yến, đề nghị trả tiền nhuận bút. Nhuận bút cho bài như vậy là 25 đồng. Anh Linh gửi trả lại tiền và nói rằng: "Hoàng ơi, cái tiền gửi fax từ Paris qua, cũng đã nhiều hơn 25 đồng rồi! Còn cái công ngồi viết và tính theo giờ, cũng đã đáng mấy trăm rồi. Nhưng anh nghĩ rằng đóng góp được cho tờ báo chút nào hay chút nấy. Anh không lấy tiền". Đó là sự đóng góp của người viết. Mà cái công sức của họ quá nhiều trong khi không thể đền đáp lại.
- Nhưng theo mình nghĩ, phần người chủ trương tờ báo cũng vẫn cứ gửi nhuận bút, và nói rằng đó là một biểu lộ rất khiêm nhường sự quý trọng đối với cái công của tác giả và với giá trị của bài họ viết.
- Ý kiến đó đúng thôi. Nhưng mà đó là với trường hợp tờ báo tự nuôi sống được. Nhưng tờ báo không thể tự nuôi sống nó được. Ví dụ như trước kia những người chủ trương tờ Văn Học mỗi tháng phải móc tiền túi ra từ 300 tới 500 đô, để bù giữ cho tờ báo đứng được. Còn như tờ Văn của Mai Thảo mà bây giờ mình làm, là do những người bạn đóng góp tiền. Chứ tự nó không thể sống được. Bây giờ tờ báo không thể tự nuôi được nó, thì lấy tiền đâu để trả cho người viết?
- Tại sao cho tới giờ chưa thấy một tác giả người Việt nào được người Mỹ chú ý, mặc dù họ đã có tên tuổi trong sinh hoạt văn hóa của chúng ta?
- Tại vì họ không viết bằng tiếng bản xứ. Hiện nay có những người trẻ viết bằng tiếng Mỹ đã được người Mỹ chú ý lắm chứ. Còn về điện ảnh thì mới có một thanh niên tên là Tony Bùi, khi rời Việt Nam mới có 2 tuổi, vừa mới tạo rất nhiều sôi nổi, được cả nước Mỹ nhắc tới trong một tháng nay vì đã đoạt một lúc 3 giải thưởng về điện ảnh với cuốn phim "Three Seasons". Hiện nay trong giới trẻ có nhiều người rất xuất sắc và được người Mỹ đón nhận ngay tài năng của họ chứ không có sự kỳ thị đâu.
Vĩnh Phúc phỏng vấn
Đối Thoại (13 văn thi sĩ nói về mình và văn học)
Nxb Văn Nghệ, 2001