Nguyễn Xuân Hòang : Bụi và Rác
Chương Hai Mươi Mốt
Vừa kéo chốt cổng bước lên thềm sân, tôi nhìn thấy mấy bao thư nhét giữa bản lề cửa. “Quỳnh!” Ý nghĩa đầu tiên của tôi đó là những lá thư của Quỳnh. Không thể là thư của ai khác. Mấy bữa nay đêm nào nằm mơ tôi cũng thấy cả căn buồng ngủ tôi tràn ngập những lá thư của Quỳnh. Những lá thư với nét chữ cứng và mạnh, và nhọn,… những tấm ảnh màu chụp Quỳnh đang đứng trước một dãy nhà lụp xụp của trại tị nạn, ảnh Quỳnh đang bế con chen chúc xếp hàng giữa một dòng người, đứa bé còi cọc bám vào bầu ngực lép của một bà mẹ xanh xao. Thư của Quỳnh, đó là nỗi ám ảnh của tôi. Tôi cúi xuống. Có tất cả ba cái. Một cái có dấu ấn bưu điện Hoa Kỳ, một cái có con tem lạ hoắc. Và một cái ở Nha Trang.
Không thư nào có dòng chữ của Quỳnh. Tôi không vội vàng. Tôi mở cửa vào nhà. Nhà trống, ẩm mốc, lạnh lẽo. Tôi ngồi xuống chiếc ghế mây, gác hai chân lên vì cửa sổ. Tôi lật qua lật lại từng bao thơ.
Thư Hoa Kỳ của Uyên. Thư Nha Trang của bà chị dâu. Cái thư kia lạ quá tôi đoán không ra. Bao thư đề tên và địa chỉ người gửi. Chữ viết có vẻ là của một người ngoại quốc hơn là của một người Việt Nam.
Tại sao không có thư của Quỳnh?
Tại sao? Tại sao?
Tôi không hiểu. Tôi không có câu trả lời.
Tôi để nguyên cả quần áo và dép ngã xuống giường, mấy là thư bỏ trên ngực, hai tay vòng xuống ót. Tôi chưa muốn đọc thư ngay.
Tại sao Quỳnh không biên cho tôi một chữ? Bao nhiêu người vượt biên chỉ hai ba tháng sau là người ở nhà nhận được tin, tại sao tôi không nhận được một chữ nào của Quỳnh? Em còn sống hay em đã chết? Hải tặc? Cá mập và biển cả? Em đã cố quên tôi, đã xóa tôi trong trí nhớ em hay em đã bị những tên cướp biển Xiêm La hãm hại đưa vào đất Thái bán cho…? Hay em đã là mồi ngon của cá mập, và mộ chí em là cái đại dương bao la xanh thẳm kia? Tôi mở lá thư của Uyên. Thư của một người con gái đã một thời chia sẻ da thịt cùng tôi. Uyên. Bà Phan. Ông Phan. Quyền lực và sắc đẹp. Bàn tay mập, mềm, ướt rịn mồ hôi của ông Phan. Cái thư viện nhỏ âm u đầy sách vở. Bức tranh Van Gogh. Tác phẩm Sứ Quân của Niccolo Machivelli. Uyên. Tấm thân mềm mại nóng hổi ngọn lửa của da thịt. Hình như lúc đó tôi có trong tay ôm cả Uyên và Quỳnh. Tôi có một tình yêu đầy nhục cảm. Tôi có sự dâng hiến và cả sự thụ nhận. Tôi tưởng như mình luôn luôn là một cái gì tràn đầy. Ðời sống tôi thuở đó không có một lỗ hổng để cần phải lấp. Ðời sống tôi bây giờ không có một cái gì dù nhỏ nhoi để có thể đặt vào một chỗ khiêm tốn trong cái lỗ hổng kia. Tôi xé lá thư. Nắng chiều hắt qua song cửa sổ chiếu dọi lên tờ thư. Thư viết khá dài nhưng chia làm hai phần rõ rệt. Phần bà Phan gửi cho tôi và phần của Uyên gửi cho Quỳnh. Bà Phan hỏi thăm gia đình tôi hiện nay sống ra sao, tôi và Quỳnh đã có cháu nào chưa. Tôi có ý định “đi thăm bác Phan” không. Cần bao nhiêu để đi bà sẽ gửi. Bà viết bóng gió cho tôi biết là mọi phí tổn cho chuyến đi của gia đình tôi bà sẽ chịu, miễn là tôi và Quỳnh có thể đến thăm được hai bác Phan. Cuối thư bà cũng nhắc là nếu ai nhặt được thư này xin làm ơn trao lại giùm cho Trần Lâm Thăng trước ở địa chỉ này này… “Bác nhớ cháu lắm! Bao giờ bác cũng nghĩ tiếc cho cháu, tiếc cho cái sự bướng bỉnh kỳ cục của cháu. Giá mà cháu nghe lời bác có phải bây giờ đã yên thân không!”… Bà Phan đã viết như vậy. Phần gửi Quỳnh là của Uyên. Uyên cho biết cô đã đi học lại và đã ra trường, đã đi làm. “Bây giờ em đã trưởng thành rồi!” Mùa đông ở Virginia chán lắm. Tuyết, tuyết và tuyết. Ở xứ nóng người ta cứ mở mình ra, còn ở xứ lạnh, người ta luôn luôn thu mình lại.
Uyên nói tuổi trẻ đôi khi có những hành động điên rồ, nhưng bao giờ nghĩ lại những hành động điên rồ ấy cũng thấy thích, không tiếc nuối, không ân hận. “Có lúc em đã yêu anh Thăng. Tưởng chừng nếu không có anh ấy chắc em sẽ chết mất. Nhưng mà, chị thấy không, bây giờ em vẫn sống. Có lẽ em sẽ lấy một người chồng Mỹ. Ðàn ông Mỹ dẫu sao vẫn dễ thở hơn. Chúc Quỳnh hạnh phúc bên một ông chồng đầu óc lúc nào cũng như một người đi trên mây!” Cũng như thư bà Phan, Uyên hỏi thăm Quỳnh có cháu nào chưa, biên thư cho cô, cô sẽ gửi quà cho cháu. “Ở bên này quần áo trẻ con rất đẹp. Nếu Quỳnh sanh con gái đặt tên là Uyên nhé!”
Tôi nhớ in hình lúc quen Uyên tôi chưa bao giờ nghe cô gọi tôi là người đi trên mây. Uyên chỉ gọi tôi một lần là kẻ tà đạo. Và cái buổi tối ở ngôi biệt thự của ông Phan, trong căn phòng riêng của tôi với cửa sổ mở ra đã thấy những cành lá của cây trứng cá thò vào kêu gọi, chúng tôi yêu nhau như hai con thú hoang. Và khi Uyên gối đầu trên vai tôi, những sợi tóc ngắn làm tôi nhột, cô nói, “Này, kẻ tà đạo, em chỉ muốn giết anh thôi, tại vì anh là của em, phải không?” Lúc đó Uyên đã cắn gần như nát vai tôi. Những dấu răng của cô cắm sâu vào da thịt tôi, rướm máu, cả một tuần lễ sau vẫn còn bầm tím. “Ðể cho anh nhớ rằng anh là của em, luôn luôn là của em, bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu cũng vẫn là của em!” Vậy mà,… không, cũng chẳng làm sao. May mà cô ấy vẫn còn nhớ đến mình, dù chỉ là nhớ bằng chút trí nhớ khiêm tốn lạnh nhạt.
Cái thư thứ hai là của bà chị dâu tôi ở Nha Trang. Chị cho biết chị vừa ra Bắc thăm thằng cháu lớn. Ði tàu lửa Thống Nhất, khổ cực lắm, bị cướp giật, bị xô đẩy, quà thăm nuôi cho cháu bị vơi đi một phần vì bị bọn ăn cắp giật trước mặt chị, ngay dưới chân chị. Ðường đến trại giam của cháu, chị phải đi bằng xe bò. “Thằng Hải ốm tong teo như một bộ xương cách trí. Mấy lần gửi quà bằng bưu điện nó không nhận được, vì trại A và trại B có hai tù cải tạo cùng tên là Trần Lâm Hải, cho nên quà của Hải ở trại A đều được trao cho Hải ở trại B. Vì vậy, lần nào gặp cháu, hai mẹ con chỉ còn có nước mắt, mà thật ra cũng chả còn dư nước mắt đâu mà khóc nữa. Chị nói nhưng mà Hải nào cũng là con cháu và anh em chúng ta, thằng Hải nhà mình ăn hay Hải khác thì cũng vẫn là những con người ‘ngụy’ đang lâm nạn của chúng ta thôi. Sau đó hai mẹ con ôm nhau cười.” Chị cũng kể một câu chuyện thương tâm mà chị nghe được trên đường từ Bắc trở về. Nó còn địa ngục hơn là địa ngục chị đang sống.
Một người bộ đội từ miền Nam lấy được mấy ngày phép về thăm bố. Mẹ anh ta đã qua đời khi anh ta đi chiến trường B. Gia đình chỉ còn một bố một con. Mười năm đi bộ đội, lặn lội từ chiến trường này đến mặt trận kia, thoát chết nhiều lần trong đường tơ kẽ tóc, cho đến ngày lấy Sài Gòn, anh mua được một “chiếc đài” định bụng mang về biếu cho bố. Anh ta biên thư trước báo cho bố biết sẽ về thăm nhà, nhưng không nói rõ ngày nào, vì thủ trưởng đã hứa, nhưng cứ hẹn lần hẹn lửa là công tác khẩn trương, hết chiến dịch đánh tư sản mại bản đến chiến dịch đổi tiền, linh tinh đủ thứ. Sau cùng anh ta lấy được phép. Từ Sài Gòn, anh ta đi tàu Thống Nhất về Hà Nội. Tại Hà Nội anh mượn chiếc xe đạp của em gái người bạn cùng đơn vị và cùng được phép về một chuyến. Nhà anh tuy thuộc một vùng quê nhưng không xa Hà Nội là bao. Anh cho bạn biết thăm bố, biếu bố cái đài xong ở chơi với bố một hôm rồi ra Hà Nội ngay. Ngày phép còn ít nhưng anh ta yêu cô em gái người bạn. Anh ta muốn lợi dụng thời gian còn lại để tìm hiểu nhau.
Nhưng người bạn anh ta chờ hết ngày này sang ngày nọ, phép chỉ còn có một ngày mà vẫn chưa thấy bạn về. Sốt ruột anh ta đi tìm bạn. Ðến nhà nhưng không gặp ai, anh thấy chiếc xe đạp của cô em mình dựng trong nhà yên lòng ngồi chờ.
Mãi sau, người bố bạn về. Anh hỏi ông cụ “ngày phép đã hết sao anh ấy chưa chịu ra Hà Nội rồi trở lại đơn vị với cháu một thể?” Người bố hỏi lại, “Nó về hồi nào? Tôi cũng đang mong nó đây!” Anh không hiểu gì hết, đứng dậy đến bên chiếc xe đạp hiệu Phượng Hoàng. Một chiếc pê đan bị gãy. Cái vết cào ở cây đòn dông có vết chữ P là tên Phương em gái anh. Không thể nhầm được.
“Nhưng mà thưa bác anh ấy đã lấy phép về cùng ngày với cháu. Chiếc xe đạp này là của em cháu!”
Ông bố nghe xong lặng người, đầu gục xuống, hai tay bưng mặt. Một đỗi, không lâu lắm, bất ngờ ông đứng bật dậy chạy tuôn ra cửa băng ngược về phía bờ sông. Ông vừa chạy vừa hét tán loạn, “Bố giết con rồi! Con ơi, bố giết con rồi!” Chỉ hỏi tôi rằng chú là người ưa đọc sách có bao giờ chú được đọc một tác phẩm văn chương mô tả một thảm kịch tương tự như vậy chưa? Thành ra chuyến đi thăm cháu Hải ở Vĩnh Phú, mặc dù đầy nước mắt của hai mẹ con – Hải bị liệt không đi nổi, người ta phải võng cháu ra để chị đưa quà cho cháu – chị vẫn thấy thật ra mình chưa đến nỗi bi thảm lắm. Chị viết có lúc buồn quá, vì hai đứa con bị đi cải tạo tận ngoài Bắc, chồng thì chết, nhà thì bị chế độ mới chiếm đoạt, nhưng nghĩ lại nếu chị buông tay thì đám con của chị sẽ ra sao. Chị phải sống. Ít nhất còn có ích cho mấy đứa con. Bao giờ chúng được trả tự do hết hẳn tính. “Một trăm năm nữa nếu mấy cháu còn ngồi tù tôi cũng vẫn cứ chờ chúng nó.”
Một trăm năm nữa nếu con còn ngồi tù bà mẹ sẽ vẫn chờ. Tôi tin chị. Chị là chị dâu tôi nhưng chị giống mẹ tôi một cách lạ lùng, như thể chị chính là mẹ tôi, là hòn máu, là khúc ruột của mẹ tôi. Chìu chồng, lo cho con, chị hoàn toàn quên mình. Thư chị viết cho tôi khá dài nhưng tôi có cảm tưởng, sau khi đọc xong, rằng chị muốn nhắn một điều gì khác hơn là sự kể lể chuyến đi ra Bắc thăm cháu Hải.
Tôi lật qua lật lại tờ giấy viết thư màu vàng xỉn và mỏng lét, cái bao thư còn nghèo nàn hơn như làm bằng rơm rác. Cuối lá thư chị hỏi thăm Quỳnh và cháu có khỏe không, đang làm gì để sống. Chị không biết là Quỳnh đã bế con đi, chị càng không biết tôi từ nhà tù ra. Câu chuyện chị kể nghe tưởng như là kịch bản Ngộ Nhận của Albert Camus, hay xưa hơn, Vua Lear của Shakespeare. Cái ghê gớm là nó xảy ra trên đất nước mình, ngay trong đời sống mình. Nó không ở trong trang sách. Nó không ở trên sân khấu. Thảm kịch ấy đang diễn ra vô số, khắp nơi trên quê hương mình. Ðất nước gì mà mỗi người cứ y như là một diễn viên. Người ta giả với nhau hết. Giả nhân, giả nghĩa, giả hình. Chế độ nói những lời đạo đức, người thừa hành nói những lời đạo đức. Chỉ có hành động là ngược lại thôi. Giáo dục là hàng đầu nhưng thầy giáo cô giáo phải đạp xích lô hoặc bán xôi để kiếm thêm cái sống, và trẻ con thì mở miệng là chửi thề suốt. Ông Mười Tân có lần nói những cái tiêu cực đó là điều xấu xa dễ hiểu. Nhưng nó chỉ là hiện tượng. Bản chất của chế độ là tốt, dứt khoát là tốt. Một lần tôi theo Quỳnh đến thăm ông Mười Tân, đúng ra là đến nhờ vả ông Mười Tân, giúp cho ba Quỳnh sớm ra tù.
Ông cụ bị nhốt hai năm vì tội tư sản mại bản. Ông Mười Tân không có nhà. Ông đi họp ở Hà Nội. Chị Mười nằm trên võng vườn sau. Nhà là một ngôi biệt thự xưa.
Tôi bấm chuông và chờ đợi khá lâu mới nghe tiếng dép đạp trên những hòn sỏi. Cánh cổng sắt nặng nề nhích ra và một khuôn mặt đàn ông lạnh nghiêm hỏi tôi hỏi ai. Quỳnh nói tên ông Mười. “Có chuyện gì?” Quỳnh nói “Chuyện nhà.” Ông ta lắc đầu, “Chú Mười đi Hà Nội chưa về.” “Tôi muốn được gặp chị Mười.” Quỳnh tiếp, giọng bực bội. “Nhưng anh chị là ai?” Tôi thọc tay vào túi quần ngó lên trời.
Buổi chiều đang xuống. Trời còn sáng nhưng mưa lất phất. Tôi nghe Quỳnh nói tên. “Xin anh chị chờ.” Tiếng sỏi khua dưới chân lạo xạo. Một đỗi lâu tiếng bước chân trở ra, cánh cổng mở. “Mời anh chị vào.” Tôi dắt chiếc Honda đi sau Quỳnh.
Con đường rải sỏi. Sân trước rộng. Một hồ nước lớn có thả sen. Những bụi hoa dọc theo đường. Tường cao. Tôi nhớ ngôi biệt thự của ông Phan mà tôi đã đến, đã ở, đã quen. Ông Mười Tân và ông Phan. Tại sao có những trùng hợp kỳ lạ? Tôi luôn luôn là kẻ đứng mấp mé bên cạnh những người quyền lực và những người giàu sang. Tôi có phải là kẻ ưu thích tiền bạc và quyền lực không? Tôi biết tận trong thâm tâm tôi câu trả lời là không. Tại sao tôi phải ưu thích những thứ mà nếu không có nó tôi vẫn tồn tại. Mà tồn tại để làm chi? Nhiều khi tôi tự hỏi như vậy. Tôi lớn lên trong chiến tranh và tôi đang thấy mình sắp chết trong một cuộc chiến. Bao nhiêu người cầm súng chiến đấu cho bên này, bao nhiêu người cầm súng chiến đấu cho bên kia. Những ông Phan và ông Mười Tân, không ai nghĩ kẻ khác yêu nước hơn mình. Trong cái ánh mắt lấp lánh tia nắng quyền lực của hai ông, tôi thấy phản chiếu thứ bóng tối của sự chết. Người ta làm việc tranh đấu và hy sinh là đi tìm cái sự sống, sự sống, chứ đâu thể là đoạt cho được cái chết, sự chết. Bàn tay luôn luôn ướt rịn mồ hôi của ông Phan và cái vết sẹo lớn trên trán kéo xuống tận mắt trái chẻ ngay đường chân mày của ông Mười Tân là những điều làm tôi sợ. Có lẽ họ cũng bằng tuổi nhau. Mái tóc ông Phan lốm đốm bạc khi tôi gặp ông lần đầu – có lẽ bây giờ đã bạc trắng như mái tóc của ông Mười Tân.
Có lẽ hai người đã có lần gặp nhau, đã cùng đi với nhau trên một con đường, và sau đó họ chia tay nhau mỗi người một ngả. Một người bên này, một kẻ bên kia. Và đó là đời sống sao? Tôi không muốn hiểu nữa. Mặc kệ.
“Có cậu Thăng ở nhà không?”
Ai như tiếng bác Ngô hàng xóm. Tôi chồm dậy.
“Cậu Thăng! Cậu Thăng!”
Tôi mở chốt cửa. Bác Tư gái đứng trước sân, tay cầm lá thư, sững sờ nhìn tôi.
“Trời ơi! Cậu Thăng, sao cậu ra nông nỗi này!”
Bà làm tôi ngạc nhiên. Tôi có làm sao. Sao tôi lại ra “nông nỗi này” là thế nào.
“Cậu như một người chết đuối mới vớt lên vậy?”
“Mời bác vào chơi!” Tôi sực nhớ mình vẫn đứng chận cửa.
“Ờ! Tôi có tin mừng, tôi muốn cho cậu hay tôi có tin mừng.” Bà Tư giơ lá thư trước mặt tôi. “Hai đứa nó tới được bình an rồi.”
“Mừng hai bác!” Tôi ngó lá thư trên tay bà Tư.
“Ðây cậu đọc đi, cậu Thăng!” Bà Tư đưa lá thư cho tôi và ngồi xuống ghế.
Tôi với tay mở cửa sổ. Ánh sáng rọi vào, căn phòng xông lên một mùi ẩm mốc. Thư viết khá dài, chữ chi chít, kể lại chuyến đi hãi hùng và những hành động dã man của bọn hải tặc Thái.
“Mừng hai em đã đến!” Tôi đưa trả bà Tư cái thư.
“Cậu xanh quá đi. Mà cậu đi đâu biệt tăm biệt tích bấy lâu nay vậy?”
“…”
“Mấy tuần rồi tôi nhìn sang nhà cậu thấy cửa đóng im ỉm. Mà ban đêm cũng không thấy ánh đèn. Tôi tưởng cậu đã đi được rồi. Tôi mừng…” Ngừng một lát, bà tiếp “Mà cậu có được tin tức gì của mẹ con cô Quỳnh chưa?”
Tôi nhìn bà Tư, lắc đầu. Chắc hồi nhỏ bà phải là một cô gái đẹp. Hai con mắt bà trong và to, nụ cười, nước da và cử chỉ khoan thai của bà làm tôi nhớ đến mẹ tôi.
Mẹ tôi đã qua đời, mẹ Quỳnh cũng vậy. Bà Tư có lẽ cùng tuổi với mẹ Quỳnh và có lẽ nhỏ hơn tuổi mẹ tôi. Nhưng tôi kính yêu bà như kính yêu mẹ tôi. Cái vẻ từ mẫu nơi bà làm tôi ấm áp và an toàn. Tất cả những căn nhà trong con hẻm lầy lội này chỉ một nơi tôi có thể đặt chân được là căn nhà của ông bà Tư. Những lo âu của Quỳnh, những sợ hãi của tôi, chúng tôi không biết nói với ai ngoài ông bà. Có lẽ nếu cha mẹ tôi còn sống tôi cũng không tận tình phơi ruột phơi gan như đã làm như vậy với ông bà Tư.
“Thưa bác, chưa.”
“Ờ, mà để coi. Mới có ba tuần. Chắc chưa đâu!” Bà an ủi tôi.
“…”
“Mà thôi. Chút cậu qua nhà ăn cơm với tụi tôi. Tụi nhỏ đi rồi nhà vắng quá!”
“Cám ơn bác. Cháu còn no lắm. Nhưng chút nữa cháu sẽ qua.”
Chớm đứng dậy định bước ra cửa, bà quay lại:
“Ờ mà quên, có người gửi cho cậu một cái thư tay. Ðể tôi về nhà lấy cho cậu.”
“Cám ơn bác, để cháu đi lấy.”
Tôi theo chân bà Tư. Tôi hi vọng. Hy vọng điều chi thì tôi không biết, nhưng tôi hi vọng biết là bao nhiêu!
Ông Tư đang đốt nhang bàn thờ Phật. Bà Tư vào buồng trong lấy thư cho tôi.
Con hẻm chạy vào khu Mã Lạng hôm nay vắng. Nước từ ống cống tràn lên đọng ở những chỗ hủng.
“Thơ cậu đây!”
“Cám ơn bác.”
Tôi cầm cái thư. Ðúng là thư đề tên tôi. Nhưng thư không dám tem. Ở góc trái tôi đọc được tiêu đề của Tòa Tổng Lãnh Sự Pháp tại thành phố Hồ Chí Minh. Người gởi: ông Thierry Rousselin. Khó hiểu. Tôi không thể chờ đợi. Tôi xé thư. Tụi Tây nó gọi mình lên phỏng vấn cho đi chăng? Cái giấy khai sinh giả mua lại của một người đàn bà béo mập có ông chồng gầy nhom như một cái tăm ở góc đường Bùi Viện Trần Hưng Ðạo có kết quả rồi chăng? Tôi hi vọng quá. Trời ơi. Tại sao Quỳnh không ở lại chờ tôi để cùng đi? Tôi vừa đi vừa đọc thư. Thư viết ngắn. Tôi mừng hụt.
Ông Thierry nói có một món quà của một bà tên Marguerite Malpighi từ bên Pháp gửi qua cho tôi, ông hi vọng tôi vẫn còn ở Việt Nam, và nếu nhận được thư này, xin liên lạc ngay với ông ở tòa tổng lãnh sự, đường Hồng Thập Tự trong các ngày thứ Hai, Tư và Sáu, buổi sáng. Tấm danh thiếp của ông kèm trong thư này là giấy vào cửa của tôi. Tôi cầm tấm danh thiếp trên tay săm soi. Như vậy không phải là tụi Tây nó cho mình đi.
Nhưng mà Marguerite Malpighi là ai? Không, mình có quen một người nào có tên là Malpighi đâu. Marguerite Malpighi? Kỳ lạ.
Thôi để đó rồi hẵng tính. Tôi trở về nhà. Kéo chốt cổng. Ðóng cửa. Ngã xuống giường.
Marguerite Malpighi? Cái tên ấy trở lại trong trí tôi. Mình làm gì có quen đầm tây chớ. Mệt óc.
Trong đầu tôi bây giờ chỉ có Quỳnh. Và trùm lên tất cả là hình ảnh mấy đứa con tôi. Tất cả đều đã bỏ đi. Xa tít. Mù khơi. Ðăng và Mai. Và cái thành phố Paris trong mộng tưởng của tôi, trong đó giờ đây có các con tôi đang cắp sách đến trường.
Trí nhớ tôi kém quá rồi chăng?
Chết. Mà quên. Tôi còn một cái thư chưa bóc. Tôi chồm dậy. Bao thư màu xanh vuông vức. Dấu bưu ấn: Barcelona. Phía lưng của phong thư có tên người gởi: Marguerite Malpighi. Lúc nãy vì sớn xác tôi không lật lưng lá thư. Nhưng tại sao lại Marguerite Malpighi? Tôi không chờ đợi được. Tôi xé thư ngang hông.
Thư dài viết tiếng Pháp. Tran nhớ không? “Ma Chirac” đây! Ðêm nghe nhạc Nguyễn Giang ở đường Công Lý. My life. My Music (Ðời tôi. Âm nhạc của tôi). Tình yêu như trái phá. Con tim mù lòa. Tran nhớ không?
Ðêm giới nghiêm Sài Gòn. Khách sạn Caravelle… Trời ơi! Ma! Ma! Làm sao tôi quên được chớ.
…Một buổi tối Sài Gòn giới nghiêm. Ngôi biệt thự trên đường Công Lý. Mưa đủ ướt mặt đường. Gió thổi tấp chiếc áo mưa nhà binh mặc ngược đập vào ngực tôi. Nhà của một tay tùy viên báo chí tòa đại sứ Úc. Nguyễn Giang trình bày mấy ca khúc mới của anh. Có một tay người Pháp giới thiệu. Mọi người ngồi quanh trong phòng khách rộng. Người ngồi bên tôi là một thiếu nữ Pháp.
“Tôi tên Marguerite Chirac “Ma Chirac.” Chào ông.”
“Chào cô. Tôi tên Thăng. Trần Lâm Thăng.”
“Tôi vừa từ Pháp qua. Bố tôi làm việc ở tòa đại sứ.”
“Tôi làm nghề dạy học.”
“Tôi vừa tốt nghiệp HEC.”
Chúng tôi nói chuyện rất khẽ. Những người nghe ngồi quanh bị thu hút bởi âm nhạc Nguyễn Giang.
“Tôi thấy hay nhưng tôi không hiểu.” Ma Chirac nói.
“Thấy hay hay hơn là hiểu.” Tôi trả lời “Cô có muốn tôi dịch cho cô câu tình yêu như trái phá không?”
“…”
“Câu này có nghĩa là từ lúc đưa em về là biết xa nghìn trùng.”
“Hiểu ra rồi. Thấy hay chưa hay. Hiểu hay hơn.”
Hai giờ sáng. Khi Giang đặt cây đàn nằm xuống, uống những giọt rượu cuối cùng rót từ cái chai xanh đục cổ lùn, cũng là lúc tôi nằm bệt xuống sàn nhà.
Người thiếu nữ Pháp hỏi:
“Nhà ông Tran có gần đây không?”
“Gần.”
“Ông có xe không?”
“Có.”
“Ông về hay ở lại?”
“Ở lại.”
“Tại sao?”
“Tại vì tôi không có giấy đi trong giờ giới nghiêm.”
“Tôi có giấy đi trong giờ giới nghiêm. Ông có muốn đi với tôi không?”
“Tại sao không?”
“Thế thì đi.”
Ma đứng dậy. Tôi ngồi dậy theo. Chiếc xe “đơ sơ vô” mỏng dính, nhún nhảy. Máy tốt. Xe chạy trong một thành phố vắng. Mặt đường ướt. Mưa bụi phất qua cửa kính. Cái gạt nước buồn bã cử động đều đặn. Một thành phố chết.
“Sài Gòn buồn hơn là bố tôi tả trong thư.”
“Cô đến đây làm chi?”
“Thăm bố tôi. Ông ấy là tùy viên văn hóa Tòa Ðại Sứ Pháp.”
“Sài Gòn không yên đâu.” Tôi nói cho qua chuyện khi xe chạy ngang qua Dinh Ðộc Lập, vòng ra đường Thống Nhất chạy ngang hông Nhà Thờ Ðức Bà, rẽ xuống Tự Do.
“Tôi biết. Sài Gòn không yên. Nhưng tôi đã đọc cuốn Người Mỹ Trầm Lặng của Graham Greene. May ra có gặp được anh chàng Alden Pyle nào không?”
Ma cho xe dừng trước cửa khách sạn Caravelle.
“Bố tôi giữ cho tôi một phòng ở đây.”
Trời vẫn còn mưa. Ma mở cửa xe bước xuống. Thong thả.
“Ông có muốn nói chuyện về những cuốn sách không?”
Tôi không trả lời cô. Tôi mệt và đói. Tôi muốn có cái gì ăn hoặc là có chỗ nào nằm. Tôi không gật đầu cũng không lắc đầu.
Người giữ thang máy mặc đồng phục đứng ở cửa chào chúng tôi. Ma bấm nút. Tôi đứng sát vào cô. Mùi thơm ở mái tóc cô làm tôi nhớ Uyên. Có lẽ cả bà Phan và Uyên tối nay sẽ canh chừng tôi trở về. Nhưng tôi có cần phải về không?
Khi cánh cửa thang máy mở ra tôi đã hôn xong Ma cái hôn thứ nhất. Tôi không so sánh, nhưng rõ ràng là tôi không có cái cảm giác hôn người thiếu nữ này lần đầu. Cái biên giới giữa Uyên và Quỳnh là có thật, nhưng giữa Uyên và Ma ít ra trong cái hôn – tôi không nhận ra chút khác biệt nào.
Và đêm hôm đó tôi ở lại với Ma Chirac.
Khi vói tay bấm cái công tắc đèn ở đầu giường ngủ, tôi thấy cuốn “Ông Ðại Sứ” của Morris West đang mở ra dở chừng.
“Em thích đọc những cuốn tiểu thuyết viết về Việt Nam.”
Ðối với tôi, đó là một đêm không ngủ. Ma chỉ trở mình một lần. Da thịt cô mát rượi, mềm như lụa. Sáu giờ sáng, tôi rửa mặt, mặc quần áo, mang giày ra khỏi phòng xuống cầu thang, băng qua bên kia đường, vào quán Givral ăn một cái “toát bơ,” uống một ly cà phê sữa nóng và gọi điện thoại cho Uyên.
Sau đó tôi không bao giờ gặp lại “Ma Chirac.” Câu chuyện nghe nhạc và qua đêm với người thiếu nữ Tây phương trong khách sạn Caravelle có vẻ Bồ Tùng Linh quá. Tôi không nhớ tới nó cũng phải. Mặc dù trên đường đi cô có hỏi tôi rằng tên cô có làm tôi liên tưởng đến điều gì chăng? Tôi nói có, in hình như tôi có nghe tên một ông chính khách người Pháp tên Jacques Chirac, đô trưởng thành phố Paris thì phải. Cô nói chính vậy. Ông ấy là bác tôi. Và ông ấy sẽ là thủ tướng nước Pháp.
Thế thôi. Nhưng đó là Marguerite Chirac, đâu có phải là Malpighi.
Những dòng cuối lá thư của cô cho tôi biết chồng cô là Marcello Malpighi, một viên chức ngoại giao làm việc ở Barcelona. Thư nói hãy cho Ma biết Tran cần cái gì. Ma sẽ làm hết sức mình cho Tran. “Hãy đến gặp ông Thierry Rousselin.”
Ma Chirac, câu chuyện tưởng là liêu trai nhưng đang là sự thật.
Tôi nhắm mắt lại cố hình dung ra khuôn mặt cô, nhưng hoàn toàn vô vọng.
Trong tôi chỉ có Quỳnh và đứa con của hai chúng tôi.
Tại sao không có thư của Quỳnh?
Tại sao? Tại sao?
Tôi không hiểu. Tôi không có câu trả lời.
Chương Hai Mươi Hai
Sài Gòn mưa. Mưa tầm tã. Mưa bong bóng phập phồng. Mưa mù mịt. Mưa thối trời, thối đất. Mưa quất rát mặt, rát da. Mưa như một triệu cây roi đập tứ phía. Mưa từ Hồng Thập Tự, mưa qua Lê Văn Duyệt. Mưa tới Ngã Sáu. Mưa xuống Lê Lai. Phạm Ngũ Lão ngập nước. Võ Tánh, Cống Quỳnh cũng không có chỗ để chân. Nước lên nửa vòng bánh xe đạp. Tôi vác xe lên thềm rạp Khải Hoàn. Co ro. Lạnh. Tôi ôm chặt cái bao thơ của Ma Chirac. Tôi đang có trong tay một số tiền lớn. Hai chục ngàn đồng quan Pháp. Tôi sẽ đổi được bao nhiêu lượng vàng? Tôi nhớ lại buổi gặp gỡ ông Thierry Rousselin hồi nãy. Cái thằng Tây ăn nói khôn ngoan.
“Bà Marguerite Malpighi nhờ tôi chuyển cho ông lá thư này. Ðây là cái giấy bảo lãnh của bà, cái certificat d’hébergement. Và đây là cái giấy của nhà hàng ăn Le Riz Parfumé bảo đảm ông sẽ có việc làm khi đến Pháp. Nếu ông muốn đi Pháp ông phải có một người ruột thịt đứng ra lo liệu. Ví dụ như vợ ông, con ông, cha mẹ ông. Giấy bảo lãnh của một người bạn không đủ. Bộ Ngoại Giao sẵn sàng cho ông đi nếu ông cụ của ông là người từng ở trong quân đội Pháp… Tuy nhiên, cái giấy của bà Marguerite Malpighi cũng tốt lắm. Tôi sẵn sàng giúp ông. Có phải ông dạy Philo ở Petrus Ký không? Tôi cũng học Philo. Cogito ergo sum. Je pense donc je suis. René Descartes. Esprit cartésien. Mà ông có muốn đi Pháp không? Bon. Mà ông quen bà Marguerite Malpighi trong dịp nào? Bon…”
Tôi có trong tay nhiều tiền, nhiều giấy tờ quá. Mình sẽ đổi được bao nhiêu lượng vàng. Tôi nghĩ đến Phước. Người đã tha mạng sống tôi một lần ở Bến Tàu. Người đã đến hỏi tôi mượn tiền. Tôi nghĩ đến Kiệt. Chú bé đã đi được chưa. Tôi nghĩ đến Quỳnh và con tôi. Tôi sẽ nộp đơn ở Tòa Tổng Lãnh Sự. Tôi là Trần Lâm Thăng. Tôi không cần giấy khai sanh của một thằng Tây con nào đã chết. Nhưng tôi cũng sẽ mua vàng vượt biên. Cái nào đến sớm tôi sẽ chọn cái đó. Cái nào cũng được. Tôi phải đi thôi.
… Nhưng mà trời cứ mưa. Mưa dầm dề. Mưa đuổi tôi sát tận hàng rào sắt chặn người vào rạp. Cũng may tay Thierry Rousselin cho tôi cái bao ni lông đựng giấy tờ. Tất cả đang nằm trong ngực tôi. Tôi cần một ly cà phê nóng. Tôi cần một tô phở nóng.
“Ông làm ơn đứng nhích vào trong một chút.”
Một người đàn ông đeo kính cận từ lề đường chạy lên đứng cạnh tôi lúc nào. Nước mưa chảy trên mặt mũi ông ta. Ông lấy kính xuống, dụi mắt. Tôi nhìn ông ta. Quen lắm. In hình đã gặp ở đâu rồi. Ông cũng nhìn tôi. Tôi đứng yên, không nhường chỗ cho ông ta. Mà ông ta cũng không buồn di chuyển tới thêm.
“Ông…” người lạ nói, “có phải ông là người tôi gặp ở Bến Tàu không?”
“Còn ông. Ông đạp xích lô chớ gì?”
“Ðúng vậy! Tôi hết đạp xích lô rồi.”
“Bây giờ ông làm gì?”
“Tôi dạy tiếng Anh.”
“Dạy tiếng Anh?”
“Ừ, dạy tiếng Anh cho mấy người chuẩn bị vượt biên.”
“A!” Tôi bật kêu lên.
“Ông có gặp cái chị gì định tự tử bữa đó không?”
“Không. Tôi mới ở tù ra!”
“Vượt biên à?”
“Vượt biên. Còn ông?”
“Tôi mới ở Phan Thiết về.”
“Không lọt được à?”
“Lọt được công an biên phòng về tới đây là may rồi. Mà ông tên gì vậy?”
“Ông cứ kêu tôi là Nam. Tôi đã nói với ông rồi mà! Còn ông, có phải ông là…”
“Tôi tên là Thăng. Mình tìm chỗ nào ngồi uống ly cà phê chăng?”
Tôi nhấc chiếc xe đạp lên, đẩy xuống thềm. Trời vẫn mưa tầm tã, Nam đi bên tôi.
“Ông đưa xe cho tôi.” Nam nắm đòn dông nhấc lên. “Tôi biết một quán cà phê này hay lắm.”
Chúng tôi bước xuống đường.
Mưa vẫn đổ tới tấp như thể người ta bưng cả một chậu nước lớn đổ xuống.
“Xe ông đâu?”
“Tôi đi bộ.”
“Bộ nhà gần đây hả?”
“Không. Tôi ở đường Lê Quý Ðôn. Bố mẹ tôi đi hết rồi.”
“Rồi sống làm sao?”
“Thử đạp xích lô, nhưng không nổi. Bữa gặp ông là bữa đầu. Chở cái nhà chị tự tử đường Cống Quỳnh.”
Mưa bỗng tạnh bất ngờ. Mặt trời lên. Nước ở mặt lộ kéo rốc xuống chợ Thái Bình. Ống cống hai bên lề đường uống nước ồ ồ.
Nam bỏ xe xuống mặt đường khi chúng tôi băng từ nhà thương Tù Dũ qua Hồng Thập Tự tẻ sang Nguyễn Thiện Thuật.
“Bộ ông muốn uống cà phê Năm Dưỡng hả?”
“Không. Cà phê Năm Dưỡng đắng chát. Vỏ măng cụt với cơm nguội chớ có gì? Chỗ này hay lắm.”
“Bây giờ ông làm gì?”
“Rồi, trả lời rồi. Dạy tiếng Anh.”
“Mà trước ông làm gì?”
“Tôi học Quản Trị Xí Nghiệp.”
“Phải chính trị kinh doanh ở Ðà Lạt không?”
“Không. Tôi học ở Kent University, Ohio bên Mỹ.”
“Vậy sao? Mà về nước hồi nào?”
“Về mấy ngày áp chót. Cả nhà tôi đi hết qua đảo Guam. Bà chị tôi làm trong Tòa Ðại Sứ Mỹ mà!”
“Vậy nghĩa là chưa đi làm ở đâu à?”
“Làm gì? Mới ra trường mà. Ông cụ tôi nói làm ở RMK lương lớn. Nhưng tôi định xin vào Esso.” Nam chặc lưỡi, “RMK với Esso. Xích lô cũng không xong. Ông được mấy cháu rồi?”
“Ồ!” Tôi ngập ngừng. Tôi không biết nói thế nào cho người bạn mới quen rõ. Tôi có hai cháu đã đi Pháp. Tôi có với Quỳnh một đứa con. Nhưng quanh tôi giờ đây chẳng còn ai.
“Xin lỗi!” Nam cúi xuống mặt đường, lách qua một vũng nước. “Sắp tới rồi. Tôi muốn mời ông đi ăn cái gì nong nóng trong chợ Nguyễn Thiện Thuật. Rồi uống cà phê sau. Ðược không?”
“Cám ơn. Tôi không đói. Hay là mình đến chỗ cà phê đi.”
“Ừ. Thì đi. Thật ra là tôi muốn mời ông ăn.”
Con đường Nguyễn Thiện Thuật ngắn. Qua khỏi chợ chừng mười bước, Nam dừng lại trước một căn nhà nhỏ. Cửa sắt kéo nửa chừng. Sàn nhà thấp hơn mặt đường. Mấy cái bàn nhỏ. Chừng mươi cái ghế đẩu. Quán vắng. Nam lay lay cánh cửa. Tiếng động của mấy thanh sắt đập vào nhau hơi ồn.
“Hồng ơi, Hồng!”
Một cô gái từ sau nhà bước ra. Họ có vẻ quen thân nhau.
“Anh Nam. Sao lâu dữ?”
“Mới ở tù ra.”
“Mới ở tù ra?”
“Không đúng lắm. Ra cũng được tuần rồi. Thôi, đây là ông Thăng. Còn đây là cô Hồng, bạn tôi.”
Cô chủ quán đứng nhích ra, nhường chỗ cho chúng tôi bước vào.
“Hồng cho anh hai ly đen nóng. Một gói ba số.”
“Một gói? Sao bữa nay anh sang dữ vậy?”
“Bữa nay có tiền. Bà chị bên Mỹ vừa gửi cho mấy trăm đô.”
Nam chọn chiếc bàn trong góc.
“Từ nay, không nói chuyện vượt biên nữa.”
“Sao vậy?” Tôi tựa lưng vào vách. Tay tôi sờ lên ngực. Cái bao nilông đựng thư và tiền của Ma Chirac vẫn còn đó.
“Tôi vừa nhận được giấy bảo lãnh của bà chị. Trước sau gì cũng đi được mà. Tôi chỉ lo cho ông bạn thân của tôi thôi.”
“Bạn thân của anh là ai?”
“Chắc anh không biết đâu! Nó tên Phước. Bạn từ nhỏ. Phước đi lính, còn tôi đi học. Tay đó lì lắm. Tụi này xa nhau khá lâu, sau bẩy lăm mới gặp lại. Tụi này hay gặp nhau ở đây. Tù tội lia chia biết đâu mà tìm… Chỉ có chỗ này chắc ăn.”
Hồng bưng cà phê ra. Một gói ba số năm vàng rực. Khói cà phê thơm phức làm ruột tôi cồn cào. Cà phê thứ thiệt. Trời ơi, cà phê thứ thiệt. Tôi cúi xuống cái phin, giở cái nắp ra.
“Cà phê xịn đó,” Nam tiếp, “Chỉ ở đây mới có thứ thiệt. Hồng ơi, anh Phước mấy bữa nay có tới không?”
Hồng bước tới, tự nhiên kéo ghế ngồi xuống.
“Tuần trước ảnh có tới, cũng hỏi cái câu giống câu vừa hỏi. Em không biết ảnh có chuyện gì mà buồn lắm.”
Nam bóc gói thuốc, đẩy một điếu ra khỏi bao đưa về phía tôi.
“Anh Thăng làm một điếu đi,” và quay sang Hồng, Nam tiếp, “Có tin tức gì của anh hai không?”
“Chị hai đi ra Bắc, thăm anh hai chưa về. Bữa đi chỉ khóc sưng mắt. Có tin nói anh hai chết, chỉ phải ra ngoài đó nhận xác chồng.”
“Còn má đâu?”
“Má đi thăm anh Tư ở trại cải tạo Xuyên Mộc.”
Hồng nói nhưng mắt nhìn tôi dò hỏi.
“Không sao. Anh Thăng là người anh mới quen, nhưng anh có biết…”
“Anh biết gì?” Tôi cười, cầm một điếu thuốc, đập đập lên lưng bàn tay. “Tôi học được bài học là không biết gì, không tin gì, không thấy gì hết…”
“Sao anh bi quan dữ vậy? Cũng có cái phải tin chớ. Cái gì cũng nghi ngờ hết lấy gì sống? Hồng,” Nam nhắc, “Em cho anh mượn cái phích nước sôi. Này, sao hồi đó, em nói anh Tư ở trại cải tạo Hàm Tân Z30C?”
Hồng mang nước ra. Cái bình thủy lớn, nắp bị móp méo.
“Sau Hàm Tân, ảnh bị chuyển qua trại cải tạo Xuân Phước, Phú Khánh. Bây giờ Xuyên Mộc, tỉnh Ðồng Nai…”
“Cho tôi một cái nâu, cô Hồng.” Một người khách đứng ở cửa nói chõ vào.
“Mời anh vào!” Hồng đứng dậy.
Người khách là một thanh niên trẻ, ăn mặc kiểu bộ đội. Khách kéo ghế ngồi xuống, cái cặp da quàng vai bỏ xuống mặt bàn. Anh ta ngồi quay lưng vào trong, mắt ngó ra đường.
“Cô Hồng mở nhạc vàng nghe đi.”
“Có ngay!”
Tiếng Hồng nói từ phía trong và tiếp liền đó là tiếng hát của Khánh Ly. “Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ…” Tôi nghe tiếng người khách ư…ư… hát theo.
“Tay này là công an khu vực đấy. Uống cà phê không phải trả tiền, nhưng cho phép nghe nhạc vàng. Hắn mê Phạm Duy lắm. Bài tủ của hắn là bài Mùa Thu Chết. Ðể anh coi…”
Nam nói chưa hết câu, tôi đã nghe tiếng người khách.
“Cô Hồng ơi, Mùa Thu Chết đi!”
Hồng mang cà phê ra đặt lên bàn khách.
“Ðây là cà phê sữa của anh. Còn Mùa Thu Chết thì sẽ có ngay.” Hồng nhìn Nam cười.
Tôi hít một hơi thuốc dài, chiêu một ngụm cà phê.
“Tôi muốn về. Anh Nam có thể cho tôi xin địa chỉ được không?”
“Sao anh không ngồi chơi thêm một chút? Tôi muốn chờ thằng Phước. Tôi cũng muốn giới thiệu anh với thằng bạn tôi. Không biết tại sao gặp anh có một lần mà tôi thích ngay.”
“Cám ơn anh Nam. Có lẽ bữa khác mình gặp nhau lâu hơn. Bữa nay vầy là đủ rồi. Anh có thể cho tôi cái địa chỉ không?”
Tôi nhắc lại và xé tờ giấy biên cho Nam mấy chữ.
“Ðây là địa chỉ của tôi!”
Nam cầm tờ giấy ngó chăm chú.
“A! Phải chỗ này là khu Mã Lạng không?”
“Ðúng.”
“Vậy thì tôi có biết. Có lần tôi chở thằng Phước tới đây.”
“Tới nhà tôi?”
“Không. Tôi đâu biết thằng Phước tới nhà ai. Mà tôi đâu có biết nhà anh. Nó bảo tôi chờ ở đầu ngõ. Có một quán cà phê. Nó đi bộ vô trong.”
Tôi giật mình nhớ tới bữa Phước đến thăm tôi, hỏi mượn tiền vượt biên.
“Mà anh đến lúc đó ban ngày hay ban đêm?”
“Chạng vạng tối. Tôi nhớ tay chủ quán cà phê đã đốt đèn hột vịt. Ngay đầu hẻm tôi còn thấy có một ông thợ sửa xe đạp.”
“Ông bạn anh có nói đến xóm Mã Lạng tìm ai không?”
“Không. Thằng Phước nói với tôi nó đi mượn tiền. Ðó là chuyến nó định đi với tôi. May mà nó không mượn được tiền. Nếu không nó ngồi tù chung với tôi rồi! Thằng đó coi vậy mà hên.”
“Tại sao người ta không cho ông bạn anh mượn tiền.”
“Nó nói ông ta không có tiền. Vợ con ông ta đã đi vượt biên. Và ông ta mới vừa ở tù về.”
Tôi lại ngồi xuống lấy một điếu thuốc ba số châm lửa.
“Này anh Nam. Người mà Phước tới thăm hôm đó chính là tôi!”
“Thật sao? Là anh?”
“Tôi có nhiều kỷ niệm với Phước, anh có biết không?”
“Làm sao anh có kỷ niệm với Phước được? Nó đâu phải ở lứa tuổi với anh!”
“Kỷ niệm giữa hai con người đâu cần đòi hỏi họ phải có cùng lứa tuổi. Phải hông?”
“Nhưng mà chuyện khó tin quá. Bạn của Phước thì tôi phải biết chớ. Nó với tôi là bóng với hình mà!”
“Anh tin vậy sao?”
“Sao không chớ?”
“Tại vì anh nói anh và Phước xa nhau khá lâu mà. Phải không?”
“Ừ, trước bẩy lăm tôi đi Mỹ nó đi lính. Cái thằng đó ba trợn ba trạo đâu chịu học hành gì. Mới đậu trung học đã xung phong đi lính. Ðánh lộn thì lanh lắm mà hễ nói chuyện sách vở học hành thì ngủ gà ngủ gật. Nó nói nó ghét cái bọn trí thức lắm. Gặp nó, nói chuyện gì cũng được chớ đừng nói chuyện bằng cấp. Nói chuyện bằng cấp là nó chửi thẳng tay. Khi nào cãi thua tôi nó nói ‘đồ trí thức chồn lùi.’ Nó hỏi tôi ai ra mặt trận đánh nhau với cộng sản để những thằng như tôi yên ổn đi học?…”
Hồng đã trở lại chỗ bàn chúng tôi, tự động kéo ghế ngồi.
“Làm gì to tiếng vậy anh Nam?”
“Ðâu. Có to tiếng gì đâu. Nè Hồng, anh Thăng đây cũng là người quen của Phước. Tin không?”
“Anh nói thì em tin. Mà hai anh quen nhau làm sao?”
Hồng mím môi, mắt mở lớn dò hỏi, hai tay vòng trước ngực, hai cùi chỏ tì lên hai đầu gối!
Tôi uống một ngụm cà phê, châm thêm một điếu thuốc. Và tôi bắt đầu kể những lần gặp Phước. Một lần ở phòng giám thị kỳ thi, một lần Phước chở tôi ra Bến Tàu trong đêm giới nghiêm và một lần cách đây không lâu tại nhà tôi.
“Ðúng là thằng Phước rồi! Cái thằng đó giang hồ lắm, anh chị lắm!” Nam đập tay lên bàn.
“Tôi đi cô Hồng nhé!”
Người thanh niên ăn mặc kiểu bộ đội đứng dậy, quàng cặp da lên vai.
“Mở nhạc vàng phiên phiến thôi nhé. Coi chừng đừng để quên cuộn băng có bài Người Ở Lại Charlie nữa đấy! Dáng Ðứng Bến Tre đi. Này, mà bao nhiêu thế cô Hồng?”
“Xin anh cứ tự nhiên.” Hồng tiếp “Mai lại nghe Mùa Thu Chết nhá!”
Người thanh niên xốc lại sợi dây da quàng vai bước ra cửa, nói vói lại:
“Cô Hồng đọc xong cuốn Ða-ghết-tăng Của Tôi chưa?”
“Còn mấy trang nữa. Mai tôi trả được không?”
“Mai tôi sẽ cho cô mượn Con Tàu Trắng của Ai-ma-tốp. Tuyệt vời!”
Hồng đứng dậy tiễn khách ra cửa.
“Cám ơn!”
Chờ khách đi một đỗi xa, Hồng kéo cánh cửa sắt lại, quay về bàn.
“Thôi nghỉ một bữa không buôn bán gì Hồng nghe.” Nam nói giọng nghịch ngợm.
“Anh định bao giàn cả ngày hả?”
“Bao thì bao sợ gì. Hồng ơi mua cái gì cho anh Thăng với anh bỏ bụng đi!”
Và quay sang tôi, Nam nói:
“Anh nán lại chút, tôi muốn mời anh. Anh là bạn của Phước vậy thì anh cũng là bạn của tôi. Sài Gòn này nhỏ xíu mà phải không anh?”
Tôi sờ tay lên ngực áo. Bao nilông đựng giấy tờ tiền bạc vẫn còn nguyên. Tôi nói:
“Hôm nay tôi cũng vừa nhận được tiền của một người bạn cũ.”
“Trời ơi! Sao kỳ vậy! Vậy thì mình ăn mừng đi chớ! Mà anh có giấy bảo lãnh không?”
“Có. Có cả giấy bảo lãnh. Nhưng một người bạn bảo lãnh thì ăn nhập gì phải không?”
“Công an quận nó không chịu đâu. Phải cha mẹ bảo lãnh con cái hoặc con cái bảo lãnh cha mẹ anh chị em kìa!”
Hồng trở lại bàn:
“Anh Thăng ăn gì? Anh Nam thì em biết rồi!”
“Cô Hồng cho mì, hủ tiếu gì cũng được.”
Tôi lấy bao nilông ở trong ngực ra đặt xuống bàn. Tôi mở bao thư. Những tờ giấy bạc thơm phức.
“Tiền gì vậy anh Thăng?” Hồng hỏi.
“Tiền Tây.”
“Anh Nam có biết chỗ nào đổi tiền không?”
“Tôi có biết một chỗ đổi đó. Nhưng không biết ở đó có đổi đồng quan Pháp không?”
“Anh Nam hỏi giùm tôi. Tôi muốn đổi lấy vàng.”
“Chi vậy? Anh tính vượt biên à?”
“Ừ. Thì cũng tính chớ.”
“Sao anh không chờ chị bảo lãnh?”
“Cho tới bây giờ tôi cũng chưa rõ nhà tôi sống chết ra sao, làm sao mà chờ bảo lãnh?”
“Mà chị đi lâu chưa?”
“Lâu rồi. Cũng ba bốn tháng rồi. Chẳng lẽ ở trên biển tới ba bốn tháng!”
“Anh Thăng đừng lo.” Hồng an ủi, “Trước sau gì anh cũng được tin mà. Còn chuyện đổi tiền, em nghĩ là anh Phước làm được.”
Tôi xếp những tờ giấy bạc bỏ vào phong bì.
“Em sẽ mua hủ tiếu Nam Vang cho anh Thăng. Còn anh Nam vẫn bò viên hay thứ khác?”
“Bò viên. Tôi chung thủy lắm.”
Hồng đứng dậy đi ra cửa.
“Lại mưa nữa rồi anh Nam ơi!”
“Thôi, tôi không đói đâu.” Tôi tiếp, “Cô Hồng cho tôi thêm một ly cà phê nữa.”
“Ðừng lo, anh Thăng! Ðể tôi đưa cô Hồng đi. Anh cứ ngồi đây nhâm nhi cà phê.”
Ngồi lại một mình trong quán cà phê, tôi lấy thư Ma Chirac ra đọc. Rồi tôi xếp những tờ đồng quan Pháp hết theo chiều dọc lại theo chiều ngang, lại xòe cánh quạt. Tôi đưa lên mũi ngửi. Sao mà đồng tiền Tây nó thơm thế. Tôi nhớ lối tiếp chuyện của tay Thierry Rousselin. Hắn có khuôn mặt của một thanh niên vừa mới lớn, dưới chiếc đầu sói sọi của một cụ già. Hắn nói hắn chào đời ở Vientiane và có thời gian học ở Jean-Jacques Rousseau Saigon. Hắn nói hắn không quen Marguerite Chirac, nhưng hắn có biết bố của cô. Hắn hỏi tôi có ý định đi Pháp hay không? Gia đình tôi có ai ở Pháp không? Ba tôi làm gì? Tôi nói ba tôi đã chết. Hắn hỏi nhưng mà trước đó ông cụ làm gì? Tôi nói ông đi lính cho Pháp, ông là sĩ quan tốt nghiệp trường Võ Bị Dar-el-Beida, đã theo chân Tướng Juin đổ bộ lên Ý Ðại Lợi, đã được ân thưởng Ðệ Ngũ Ðẳng Bắc Ðẩu Bội Tinh và được tuyên dương công trạng mười hai lần trước hành quân… “Nhưng ba ông tên gì?” “Trần Lâm Thành.”
“Tốt nghiệp Võ Bị Dar-el-Beida năm nào?” “Tôi hoàn toàn không biết. Tất cả những gì tôi nhớ được chỉ là những câu nói của cha tôi lúc ông say rượu. Còn nữa.
Ổng là bạn của ông Phan, cựu thủ tướng của Việt Nam Cộng Hòa. Ông Phan hiện ở Mỹ. Cha tôi hồi còn sống có treo trong phòng một tấm ảnh chụp với ông Phan và những người lính Pháp…” “Ông còn giữ những tấm ảnh ấy không?” “Không. Tôi không có trong tay một thứ hình ảnh hay giấy tờ nào liên quan đến công việc của cha tôi.” “Tiếc quá! Làm sao bây giờ. Nếu ông có thể chứng minh được ông cụ là người từng chiến đấu dưới lá cờ Pháp Quốc, tôi nghĩ là tôi có thể giúp ông đi Pháp nhanh chóng.” “Hiện tôi có mấy đứa con ở Pháp.” “Họ đang làm gì?” “Chúng nó còn đi học. Ðứa lớn nhất mới mười bốn tuổi.” “Nhưng chúng ở với ai?” “Với mẹ chúng.” “Tại sao bà ấy không bảo lãnh ông?” “Chúng tôi đã ly dị. Và tôi đã lập gia đình với một người đàn bà khác.” “Người đàn bà này hiện ở đây với ông?” “Không. Bà ấy đã vượt biên.” “Nghĩa là?” “Nghĩa là tôi ở đây một mình.”
Tên Thierry Rousselin này ghê thật. Sao hắn cho mình cái túi nilông đựng giấy tờ hè?
Ma Chirac. Tôi dần dần nhớ lại khuôn mặt của cô. Mái tóc ngắn, hai con mắt to xanh lơ, mũi thon nhọn, những sợi lông măng trên một khuôn mặt hồng, môi không mỏng nhưng hơi cong. “Bố tôi nói…” Cô luôn luôn giải thích mọi chuyện bằng cách nói rằng “bố tôi nói như vậy.” “Bố nói căn phòng tôi ở là căn phòng mà nữ ca sĩ Dalida, người rất nổi tiếng với ca khúc Bambino một thời đã ở.” “Bố tôi nói khi Dalida đến Việt Nam, cô đã ở khách sạn này và cô đã bắt khách sạn thay toàn bộ màn cửa màu hồng, hoa hồng mỗi sáng cho mỗi phòng.” “Bố tôi nói bố tôi thích bài Les Feuilles Mortes. Et la mer s’efface sur le sable… les pas des amants désunis…” “Yves Montand. Ông có biết Yves Montand không? Bố tôi nói bố tôi không thích tay này. Ông chỉ thích Edith Piaf và Simone Signoret, những người phụ nữ đã làm cho Yves Montand nổi tiếng. Bố tôi nói tay này lạng quạng về chính trị lắm. Lúc theo cộng sản, lúc chống cộng sản. Cũng may, ông ta chưa bao giờ là một đảng viên cuồng tín. Tôi thì tôi thích Catherine Deneuve hơn…”
“Bố tôi nói…” Chỉ một buổi tối thôi mà Ma Chirac cho “Bố tôi nói…” nhiều quá. Bây giờ tôi mới nhớ ra như vậy. Và hết.
Như cuốn phim bị đứt và đèn trong rạp bật sáng. Những hình ảnh nhảy lạng quạng trên màn ảnh. Tiếng cửa sắt bị đập làm tôi giật mình.
“Cô Hồng ơi! Có ai trong nhà không?”
Tôi đứng dậy xếp tiền và giấy tờ vào bao nilông! Thói quen thôi.
“Cô Hồng không có nhà,” tôi vừa nói vừa bước tới gần cửa, ghé nhìn ra ngoài.
“Anh Thăng. Sao anh ở đây?”
Tôi giật mình, nhận ra người gọi cửa là Phước.
“Trời. Phước hả?”
“Phước đây. Anh mở cửa cho tôi vào đi!”
Tôi nâng cái móc lên, đẩy cửa. Phước lách vào.
“Làm sao anh quen nhà này?”
“Tôi đi với Nam. Có phải Phước quen một người tên Nam không?”
“Quen gì! Bạn nối khố của tôi đó. Nó đâu rồi anh?”
“Nam với cô Hồng đi chợ Nguyễn Thiện Thuật mua thức ăn rồi!”
Phước tự động kéo ghế ngồi xuống.
“Tôi sắp có chuyến đi.”
“Lại đi?”
“Anh không đi sao? Anh được tin chị chưa?”
“Chưa. Nhưng mà…”
“Bộ anh muốn hỏi tôi sao lần gặp cũng nói chuyện đi phải không?”
“…”
“Anh không tính đi, vậy chớ anh tính ở đây luôn à?”
“Thì tôi cũng vừa tính với Nam xong. Phước, tôi đang có một món tiền!”
“Một món tiền? Như vậy là anh đã liên lạc được với chị rồi à?”
“Không. Tôi vẫn chưa có tin tức gì của nhà tôi. Nhưng,…” tôi mở bao nilông của tay Thierry Rousselin ra, “đây có thể giúp cho anh và tôi đủ chỗ trên ghe không?”
Phước nhìn những đồng quan Pháp. Anh cầm lên săm soi, lật ngược lật xuôi. Anh lấy ngón tay trỏ búng vào tờ giấy bạc, xòe những tờ giấy bạc như xòe bài và xốc lại.
“Dư sức! Dư sức! Chừng này năm người đi cũng được.” Phước tiếp, “Nhưng lần này tôi đã có một chỗ trên ghe rồi. Anh không phải lo cho tôi. Tôi biết chỗ đổi lấy vàng hoặc đô. A,…” Bỗng nhiên Phước ngừng lại, cầm tờ giấy bảo lãnh của Ma Chirac lên, “cái gì đây?”
“Giấy bảo lãnh!”
“Vậy, anh đâu cần vượt biên!”
“Nhưng đây chỉ là một tờ giấy bảo lãnh thường thôi. Giữa người bảo lãnh và tôi không có liên hệ ruột thịt gì hết.”
Tôi kể cho Phước nghe một chút về Ma Chirac và về sự quen biết của chúng tôi.
Phước lắc đầu:
“Vậy thì phải vượt biên thôi. Anh để tôi lo cho anh.” Phước ngó chăm vào mắt tôi, “Mà anh có dám không?”
“Dám gì?”
“Dám đi với tôi không?”
“Sao không?”
“Vậy thì… thế này,” Phước lẩm nhẩm tính, “bốn ngàn. Tôi lấy bốn ngàn đổi vàng mua chỗ cho anh, và thêm hai ngàn tôi muốn mượn anh mua súng. Tôi cần súng và lựu đạn…”
Phước nhét tiền vào túi, đẩy tờ giấy bảo lãnh và số tiền còn lại về phía tôi.
“Anh cứ giữ số còn lại. Tính sau. Mai tôi gặp anh. Chuyện này coi như đã xong.”
Phước đưa tay đập vào ngực, chỗ túi áo có những tờ giấy bạc của tôi.
Tôi ngồi yên nhìn Phước. Tôi không chút nghi ngờ gì anh. Người đàn ông này đã một lần tha chết cho tôi.
Bây giờ đây anh ta lại đang cứu tôi.
“Anh Thăng có muốn biết lâu nay tôi ở đâu không?”
“…”
“Tôi ở tù. Có bao giờ anh nghe tiếng kẻng trong nhà tù không?”
Tôi ngó Phước. Tôi không hiểu tại sao anh đổi đề tài. Chúng tôi đang nói chuyện đổi tiền và chuyện vượt biên mà. Phước ngó lại tôi. Tôi nhìn thấy anh đang cầm cái muỗng khuấy cà phê khỏ lên cái phin. Tiếng động buồn bã, đặc nghẽn lại chứ không vang xa. Tôi thấy Phước nghiêng tai như lắng nghe một tiếng vọng vô hình.
Thấy tôi nhìn ngạc nhiên, Phước nói:
“Trong tai tôi lúc nào cũng nghe có tiếng kẻng báo thức lúc năm giờ sáng và cả tiếng kẻng báo ngủ lúc mười giờ đêm.”
“Tiếng kẻng?”
“Phải rồi, tiếng kẻng trong nhà tù. Chỗ của anh không có tiếng kẻng sao?”
“Không. Tôi không nhớ là có tiếng kẻng không. Có lẽ có…”
Phước đứng dậy thọc hai tay vào túi quần, đi ra phía cửa sắt. Anh đi thong thả, những bước chân chắc nịch.
Nhìn sau lưng, tôi thấy Phước gầy hẳn so với lần anh chở tôi ra Bến Tàu trong đêm giới nghiêm. Tuy vậy, anh không có vẻ gì sa sút. Hai chân anh thẳng, vai ngang, cái cổ bự, tóc ngắn.
“Nam và Hồng đang về kìa!”
Phước nói không quay về phía tôi. Anh nâng chốt sắt lên, đẩy cửa qua một bên chờ.
“Phước. Trời ơi! Phước, mày đó hả?”
Tôi nghe tiếng Nam kêu.
“Anh Phước linh thiệt, mới nhắc là thấy ngay.”
Cánh cửa sắt đóng lại. Hồng mang thức ăn đặt lên bàn.
“Tôi mua đủ thứ. Anh Phước ăn luôn cũng không hết. Hủ tiếu bò viên nè! Hủ tiếu mì nè! Mì hoành thánh nè! Bột chiên nè!…”
Chợt nhớ ra điều gì, Nam choàng vai Phước kéo lại chỗ tôi ngồi.
“À quên. Ðể tôi giới thiệu…”
“Khỏi!” Phước chận lại.
“Sao? Hai người quen nhau à?”
“Thì cũng phải quen đi chớ!”
“Trời ơi! Sao trái đất nhỏ gì đâu! Mà nói chuyện chưa?”
“Chuyện gì?”
“Thì gặp nhau cũng phải nói chuyện gì chớ, chẳng lẽ ngậm miệng.”
“Rồi, rồi!” Tôi nói, “Tụi này nói một triệu thứ chuyện rồi!”
Hồng vào trong mang đũa muỗng ra.
“Nếu không ăn thì… sẽ nguội!”
“Thì ăn. Tôi đói lắm rồi!”
Phước cầm đũa, bưng tô mì lên.
“Anh Thăng!” Nam đẩy tô hủ tiếu Nam Vang về phía tôi. “Làm một tô cho ấm bụng!”
“Cám ơn. Bây giờ thì tôi thấy đói rồi!”
Tôi đói thật. Tôi ăn như một người sắp chết.
Phước cũng ăn nhanh. Anh đặt tô xuống sau cái và cuối cùng.
“Tôi vẫn có ý chờ anh Thăng hỏi.”
“Tôi hỏi gì?”
“Anh đưa tiền cho tôi mà anh không hỏi bao giờ đi. Ði ngả nào. Ghe ở đâu?…”
“Tôi đưa tiền cho anh rồi. Tôi chờ anh nói. Nếu anh chưa nói có lẽ chuyện còn chờ. Có gì gấp đâu!”
“Tại sao anh tin tôi dữ vậy?”
“Thì cũng phải có một người nào để tin chớ.” Tôi nhìn Nam cười. “Phải không?”
“Phải quá đi chứ!” Nam nói, “Lúc nãy anh nói như Tào Tháo sao bây giờ anh nói như một thanh niên mới lớn vậy?” Nam ngó tôi.
“Tôi tin Phước. Phải, tôi tin Phước vì giữa chúng tôi có một kỷ niệm lớn, mà nếu không có niềm tin thì không thể giữ được kỷ niệm ấy!”
Tôi lấy một điếu thuốc châm lửa hút. Phước cũng vậy. Anh rút một điếu ba số, gắn lên môi, tay kia anh cầm tay tôi kéo về phía anh, mồi lửa. Tôi nhìn thấy mắt Phước sáng lên. Cái ánh lửa của đầu điếu thuốc lập lòe trong mắt anh. Tôi đứng dậy.
“Cám ơn cô Hồng. Xin chào các bạn.”
“Chiều mai mình gặp nhau!” Phước đứng dậy theo. “Tại đây, lúc sáu giờ!”
“Sáu giờ!” Tôi lặp lại.
Quận Cam, California tháng 10, 1986
Bụi Và Rác _ Người Đi Trên Mây 2, hiệu đính từ bản điện tử của Người Việt Online và ấn bản 1992 Nguyễn Xuân Hoàng, Bụi và Rác, Nhà xuất bản Thanh Văn, California. (TV&BH 2014)