Là một ngành kinh tế tổng hợp, du lịch phát triển kéo theo các ngành khác phát triển, hay các ngành kinh tế khác phát triển cũng trở thành các yếu tố bổ trợ cho du lịch phát triển. Không nằm ngoài quy luật đó, công nghệ thông tin cũng là một nhân tố đóng góp cho sự phát triển của du lịch. Đặc biệt là ứng dụng của công nghệ thông tin trong du lịch. Các ứng dụng của công nghệ thông tin đã được sử dụng rộng khắp trên toàn thế giới, được áp dụng trong nhiều ngành nghề khác nhau. Cùng với sự phát triển của các phương tiện truyền thông và điện tử như máy tính, điện thoại, máy fax, các mạng máy tính kết nối với nhau… đặc biệt với sự phát triển của mạng toàn cầu Internet, việc đưa thông tin về các điểm đến, các doanh nghiệp du lịch, các tour du lịch tới du khách ngày một dễ dàng và thuận lợi hơn.
Công nghệ thông tin và Du lịch, hai lĩnh vực thoạt nghe khá xa lạ, tuy nhiên đó lại là hai xu hướng đang được yêu thích và ngày càng phát triển rộng rãi trờn toàn thế giới.Nhưng khi du lịch và công nghệ thông tin đi liền với nhau lại có thể tạo nên những hiệu quả rất tốt hỗ trợ cho việc quảng bá và xúc tiến du lịch, đặc biệt là các hình thức xúc tiến du lịch qua mạng. Mạng Internet giỳp cỏc thông tin du lịch đến với mọi khách hang tiềm năng trên thế giới miễn là họ có kết nối internet, không giới hạn thời gian, không gian, đối tượng ,đồng thời lại có thể truyền tải được những hình ảnh , thông tin một cách chi tiết ,đầy đủ và sống động nhất, rất thú vị và đặc sắc về các điểm đến du lịch, nhưng tour du lịch , các đất nước và các nền văn hóa... Áp dụng công nghệ thông tin để quảng bá và xúc tiến du lịch đã và đang là một xu hướng ngày càng được sử dụng rộng rãi trong ngành du lịch của chúng ta.
Tại Việt Nam, ngày càng có nhiều doanh nghiệp lữ hành tiến hành các hoạt động xúc tiến doanh nghiệp mình qua mạng. Hầu hết các doanh nghiệp đều xây dựng một hay nhiều website riêng và có sự đầu tư về thông tin, hình ảnh nhằm làm tăng tính tiện ích cũng như sức hấp dẫn của website. Sử dụng website và các công cụ online kết hợp với các phương tiện truyền thông truyền thống là một cách làm hiệu quả để các doanh nghiệp quảng bá hình ảnh một cách rộng rãi, đồng thời hỗ trợ trực tiếp cho các hoạt động kinh doanh của mình. Đây là một cách làm mang lại hiệu quả cao và bắt kịp xu hướng thời đại công nghệ thông tin đang diễn ra trên toàn thế giới.
TACi Group(Active Travel Vietnam, hay còn được biết dưới tên đăng ký kinh doanh là Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Liên Hiệp Thương Mại Và Tư Vấn Quốc Tế Việt Minh) là một trong những công ty du lịch còn mới trên thị trường Hà Nội, nhưng với những hoạch định rõ ràng đi theo hướng thương mại điện tử và các khách hàng mục tiêu là du khách nước ngoài sử dụng internet để tra cứu thông tin điểm đến và các tour du lịch, các hoạt động xúc tiến du lịch qua mạng Internet và kết hợp với các hình thức online hỗ trợ khác của công ty đã được tiến hành rất nghiêm túc , có chiến lược rõ ràng , đầu tư cơ sở vật chất và nhân lực,đồng thời đã thu được những kết quả khả quan.
Nhận thức rằng tìm hiểu về các hình thức kinh doanh và quảng bá qua mạng Internet là một vấn đề cần thú vị và mang tính ứng dụng cao, tác giả đã chọn đề tài “Hoạt động xúc tiến du lịch qua Internet tại công ty thương mại và du lịch TACi Group- thực trạng và một số giải pháp” để có thể tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề này cũng như có thể rút ra một số kiến thức, kinh nghiệm cho bản thân phục vụ tốt định hướng làm nghề du lịch sau này.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Đánh giá đúng thực thực trạng tình hình hoạt động xúc tiến du lịch thông qua mạng Internet tại TACi Group. Thông qua đó, tìm ra những giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động xúc tiến du lịch qua Internet của công ty TACi Group.
3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài :
Đề tài tập trung nghiên cứu hệ thống lý thuyết về xúc tiến du lịch, xúc tiến du lịch qua Internet và hệ thống truyền thông tích hợp. Ngoài ra đề tài còn đi sâu tìm hiểu về các hoạt động xúc tiến du lịch qua mạng Internet kết hợp với hệ thống truyền thông tích hợp bao gồm các hình thức như quảng cáo, kích thích tiêu thụ, marketing trực tiếp, quan hệ công chúng, bán hàng trực tiếp… của công ty du lịch TACi Group
4 .Phương pháp nghiên cứu :
Sau đây là một số phương pháp chủ yếu tác giả đã sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài:
5. Nội dung nghiên cứu của đề tài :
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, chuyên đề được bố cục thành ba chương:
Chương 1 : Cơ sở lý luận về xúc tiến du lịch qua mạng Internet.
Chương 2 : Thực trạng hoạt động xúc tiến du lịch qua mạng Internet của công ty thương mại và dịch vụ TACi Group
Chương 3 : Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động xúc tiến du lịch qua Internet của TACi Group
CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÚC TIẾN DU LỊCH QUA MẠNG INTERNET
1.1 Khái niệm về kinh doanh lữ hành ,đặc điểm của hoạt động kinh doanh lữ hành :
1.1.1. Khái niệm về lữ hành và kinh doanh lữ hành:
Có 2 cách tiếp cận về lữ hành và du lịch:
- Cách tiếp cận thứ nhất: hiểu theo nghĩa rộng thì:
+/ Lữ hành bao gồm tất cả những hoạt động di chuyển của con người, cũng như những hoạt động liên quan đến sự di chuyển đó.
+/ Kinh doanh lữ hành được hiểu là doanh nghiệp đầu tư để thực hiện một, một số hoặc tất cả các công việc trong quá trình tạo ra và chuyển giao sản phẩm từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực tiêu dùng du lịch với mục đích hưởng hoa hồng hoặc lợi nhuận.
- Cách tiếp cận thứ hai: tiếp cận theo nghĩa hẹp:
+/ Lữ hành là việc xây dựng, bán, tổ chức thực hiện một phần hoặc toàn bộ chương trình du lịch cho khách du lịch.
+/ Kinh doanh lữ hành: Để phân biệt hoạt động kinh doanh lữ hành với các hoạt động kinh doanh du lịch khác như khách sạn, nhà hàng, vui chơi giải trí, người ta giới hạn hoạt động kinh doanh lữ hành chỉ bao gồm những hoạt động tổ chức các chương trình du lịch. Kinh doanh lữ hành bao gồm kinh doanh lữ hành nội địa, kinh doanh lữ hành quốc tế. Kinh doanh lữ hành nội địa là việc xây dựng, bán và tổ chức thực hiện các chương trình du lịch cho khách du lịch nội địa và phải có đủ ba điều kiện. Kinh doanh lữ hành quốc tế là việc xây dựng, bán và tổ chức thực hiện các chương trình du lịch cho khách du lịch quốc tế và phải có đủ năm điều kiện.
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh lữ hành:
Kinh doanh lữ hành là một loại hình kinh doanh dịch vụ. Vì vậy, hoạt động kinh doanh lữ hành cú cỏc đặc trưng cơ bản sau:
1.1.2.1. Đặc điểm về sản phẩm lữ hành:
- Sản phẩm lữ hành có tính chất tổng hợp: sản phẩm lữ hành là sự kết hợp của nhiều dịch vụ như: dịch vụ vận chuyển, dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống…của các nhà sản xuất riêng lẻ thành một sản phẩm hoàn chỉnh. Sản phẩm lữ hành là các chương trình du lịch trọn gói hay từng phần, khách hàng phải trả tiền trọn gói các dịch vụ trong chương trình du lịch trước khi đi du lịch.
- Sản phẩm lữ hành không đồng nhất giữa các lần cung ứng do chất lượng dịch vụ cấu thành phụ thuộc vào tâm lý, trạng thái tình cảm của cả người phục vụ lẫn người cảm nhận. Mà các yếu tố đú thỡ lại thay đổi và chịu tác động của nhiều nhân tố trong những thời điểm khác nhau..
- Sản phẩm lữ hành bao gồm các hoạt động diễn ra trong cả một quá trình từ khi đún khỏch theo yêu cầu, cho đến khi khách trở lại điểm xuất phát gồm:
+/ Những hoạt động đảm bảo nhu cầu của chuyến đi, nhu cầu giải trí, tham quan.
+/ Những hoạt động đảm bảo nhu cầu thiết yếu của khách, của chuyến đi như: đi lại, ăn ở, an ninh…
- Không giống như các ngành sản xuất vật chất khác, sản phẩm lữ hành không bảo quản, lưu kho, lưu bãi được và giá của sản phẩm lữ hành có tính linh động cao.
- Chương trình du lịch trọn gói được coi là sản phẩm đặc trưng trong kinh doanh lữ hành. Một chương trình du lịch trọn gói có thể được thực hiện nhiều lần vào những thời điểm khác nhau.
1.1.2.2. Kinh doanh lữ hành mang tính thời vụ rõ nét:
Ở các thời vụ khác nhau trong năm, nhu cầu của du khách cũng khác nhau. Chẳng hạn, vào mùa hè nhu cầu du lịch nghỉ biển tăng cao nhưng vào mùa đông thì ngược lại, làm cho hoạt động kinh doanh lữ hành có tính thời vụ. Vì vậy, trong kinh doanh lữ hành đòi hỏi các nhà quản trị phải nắm bắt được tính thời vụ nhằm có những biện pháp hạn chế tính thời vụ, duy trì nhịp độ phát triển đều đặn và nâng cao hiệu quả kinh doanh lữ hành.
1.1.2.3. Đặc điểm về mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng trong kinh doanh lữ hành:
- Quá trình sản xuất và tiêu dùng sản phẩm lữ hành diễn ra trong cùng một thời gian. Trong kinh doanh lữ hành, chúng ta chỉ tiến hành phục vụ khách du lịch khi có sự có mặt của khách trong quá trình phục vụ. Có thể xem khách hàng là yếu tố: “nguyờn liệu đầu vào” trong quá trình kinh doanh lữ hành. Vì thế trong kinh doanh lữ hành, sản phẩm không thể sản xuất trước.
- Quá trình sản xuất và tiêu dùng sản phẩm lữ hành diễn ra trong cùng một không gian. Các sản phẩm lữ hành không thể vận chuyển mang đến tận nơi để phục vụ khách. Khách hàng chỉ có thể thỏa mãn nhu cầu khi vận động gặp gỡ. Như vậy, khách hàng là bộ phận tham gia trực tiếp không thể tách rời từ quá trình sản xuất.
Ngoài những đặc điểm trên, hoạt động kinh doanh lữ hành còn phụ thuộc khá nhiều vào yếu tố tự nhiên, quỹ thời gian nhàn rỗi, trình độ dân trí cũng như phụ thuộc vào thu nhập của người dân. Từ những đặc điểm trên cho thấy việc kinh doanh lữ hành rất dễ gặp rủi ro, nó đòi hỏi các công ty lữ hành phải có mối quan hệ rộng với các đối tác, các nhà cung ứng tin cậy, có đội ngũ nhân viên lành nghề.
1.2 .Xúc tiến du lịch và sự cần thiết của hoạt động xúc tiến trong kinh doanh lữ hành
“Xỳc tiến du lịch” là một khái niệm có nội hàm rất rộng và được hiểu theo nhiều khía cạnh khác nhau. Chuyên đề thực tập tốt nghiệp tiếp cận khái niệm xúc tiến du lịch theo hai quan điểm là theo luật du lịch và theo quan điểm marketing.
1.2.1 Theo Luật du lịch :
Theo Luật Du lịch số 44/2005/QH11 được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005, Xúc tiến du lịch được định nghĩa là hoạt động tuyên truyền, quảng bá, vận động nhằm tìm kiếm thúc đẩy cơ hội phát triển du lịch.
Trong đó, điều 79 của chương III quy định rõ Xúc tiến du lịch bao gồm các nội dung cơ bản sau :
+ Tuyên truyền, giới thiệu rộng rãi về đất nước con người Việt Nam, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, di tích cách mạng, di sản văn hóa, công trình lao động sáng tạo của con người, bản sắc văn hóa dân tộc cho nhân dân trong nước và cộng đồng quốc tế;
+ Nâng cao nhận thức xã hội về du lịch, tạo môi trường du lịch văn minh, lành mạnh, an toàn, phát huy truyền thống mến khách của dân tộc;
+ Huy động các nguồn lực để đầu tư phát triển các đô thị du lịch, khu du lịch, điểm du lịch đa dạng, độc đáo, có chất lượng cao, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc trong cả nước, từng vùng và từng địa phương, phát triển kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật-du lịch, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các dịch vụ du lịch;
+ Nghiên cứu thị trường du lịch, xây dựng sản phẩm du lịch phù hợp với thị hiếu khách du lịch, tuyên truyền, giới thiệu sản phẩm du lịch.
1.2.2.Theo quan điểm marketing :
Thuật ngữ “Xỳc tiến du lịch” theo quan điểm marketing có thể hiểu là quá truyền thông do người bán thực hiện nhằm gây ảnh hưởng đến nhận thức, thái độ, hành vi của người mua và cuối cùng là thuyết phục họ mua những sản phẩm du lịch của mỡnh. (trớch trang 305- chương 9- Giáo trình Marketing Du lịch –NXB Đại Học Kinh Tế Quốc Dân)
Marketing hỗn hợp truyền thống bao gồm bốn yếu tố (4P) là : Product (sản phẩm), Price (giá cả), Place (địa điểm), Promotion(xỳc tiến). Đó là những yếu tố cơ bản nhất của Marketing truyền thống và kết hợp 4 yếu tố trên với nhau chúng ta sẽ thu được một hỗn hợp Marketing thích hợp. Một doanh nghiệp muốn có một kế hoạch Marketing thành công chúng ta cần phải xây dựng được một sản phẩm tốt với mức giá hợp lý và cú cỏc kờnh phân phối hiệu quả.
Marketing du lịch cũng có thể áp dụng tương tự nội dung như vậy, tuy nhiên có sự bổ sung thêm 4 chữ P đặc trưng cho các sản phẩm thuộc lĩnh vực du lịch, đú chớnh là :People (con người), Packaging(đúng gúi), Program(chương trình), Parnership(hợp tác). Một đặc điểm nổi bật là sản phẩm du lịch thường là sản phẩm trọn gói, bao gồm nhiều dịch vụ với sự kết hợp của các đối tác khác nhau, luôn đi kèm với các chương trình du lịch và không thể không kể đến sự tham gia xây dựng chương trình của du khách, người điều hành cũng như hướng dẫn viên du lịch…Chỉ với bốn chữ P nhưng đã phần nào khái quát được các tính chất đặc trưng của sản phẩm dịch vụ trong ngành du lịch. Ngoài ra, theo ý kiến của các nhà chuyên môn thì có thể bổ sung một chữ P nữa - Promise (lời hứa), do sản phẩm du lịch là sản phẩm vô hình, kinh doanh du lịch là việc cung cấp các dịch vụ gần nhất với sự hứa hẹn cho khách hàng về chất lượng của dịch vụ.
Marketing hỗn hợp trong du lịch về chính là sự kết hợp của 8 yếu tố như đã trình bày ở trên, hoạt động marketing du lịch trong thực tế có thể sử dụng một số yếu tố hoặc cả tám yếu tố này tùy theo hoàn cảnh của doanh nghiệp và các yêu cầu khách quan từ môi trường kinh doanh.
Trên thực tiễn chúng ta đều nhận ra một điều là trong Marketing nói chung và Marketing du lịch nói riêng, muốn thành công không chỉ nhờ vào việc phát triển sản phẩm tốt, định giá một cách hấp dẫn hay sử dụng cỏc kờnh phân phối hiệu quả mà đú cũn dựa vào quá trình trao đổi thông tin một cách tích cực với các khách hàng tiềm năng và hiện tại. Nhất là đặt trong bối cảnh của ngành du lịch, một ngành kinh doanh dịch vụ với sản phẩm mang tính chất vô hình, con người là chủ thể của sản phẩm, việc đưa được những thông tin chi tiết, tích cực và hấp dẫn tới khách hàng càng mang ý nghĩa quan trọng hơn.
Những nội dung thông tin đưa ra vì thế không thể không chọn lọc mà đòi hỏi phải có sự tính toán và hoạch định kế hoạch và nội dung kỹ lưỡng từ trước. Từ đó có thể thấy nhu cầu tất yếu là phải xây dựng một hệ thống trao đổi thông tin với khách hàng hiệu quả, hay nói cách khác là xây dựng một hệ thống xúc tiến du lịch , khuyếch trương kết hợp nhiều công cụ khác nhau. Hệ thống xúc tiến này sẽ quyết định và giải quyết những câu hỏi liên quan trực tiếp và cơ bản tới khách hàng như :
Thông tin những gì ?
Thông tin với ai?
Thông tin như thế nào ?
Sử dụng những phương tiện truyền thông gì?
Thông tin thường xuyên tới mức độ nào?...
Tóm lại, theo quan điểm Marketing hỗn hợp, thuật ngữ “Xỳc tiến du lịch” được hiểu theo nghĩa xúc tiến hỗn hợp (Promotion mix) là bằng các hình thức, công cụ khác nhau xây dựng được một kênh trao đổi các thông tin du lịch một cách tích cực nhất đến các khách hàng hiện có và tiềm năng của doanh nghiệp. Xúc tiến du lịch góp phần xây dựng nên một hình ảnh tốt cho doanh nghiệp trong mắt khách hàng tiềm năng, nhanh chóng nắm được các thông tin phản hồi của khách hàng để điều chỉnh sản phẩm của công ty và làm tăng doanh thu của doanh nghiệp thông qua các công cụ của nó. Xúc tiến du lịch là một phần quan trọng bậc nhất làm nên thành công của bất kỳ một chiến lược Marketing du lịch.
1.2.3. Sự cần thiết của hoạt động xúc tiến, marketing trong kinh doanh lữ hành:
Xúc tiến hồn hợp trong du lịch với vai trò là một trong những chiến lược chủ yếu của marketing du lịch có tác dụng lớn trong việc góp phần thực hiện thành công các hoạt động marketing của doanh nghiệp lữ hành.
Sự có mặt các hoạt động xúc tiến đóng những tác dụng cần thiết sau:
- Hoạt động xúc tiến tạo điều kiện cho khách hàng tự do lựa chọn sản phẩm tiêu dùng. Các hoạt động xúc tiến ,về một sản phẩm du lịch do nhiều doanh nghiệp khác nhau cung ứng giúp người tiêu dùng , có nhiều thông tin hơn về một loại sản phẩm du lịch từ đó tạo điều kiện cho khách hàng tự do lựa chọn nhà cung ứng sản phẩm. Từ đó, hoạt động xúc tiến đã tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp lữ hành để nâng cao chất lượng sản phẩm và định giá vừa phải.
- Hoạt động xúc tiến tạo điều kiện để sản phẩm du lịch của các doanh nghiệp lữ hành được tiêu thụ nhiều lần. Trong kinh tế thị trường, quá trình kinh danh một doanh nghiệp không thể chỉ bán sản phẩm một lần cho một người mà đều phải lặp lại, lặp lại nhiều lần , cho nên cần phải hoạt động xúc tiến.
- Hoạt động xúc tiến góp phần cải tiến các sản phẩm du lịch của các doanh nghiệp.Thụng qua hoạt động xúc tiến các doanh nghiệp sẽ tiếp nhận những thông tin phản hồi từ người tiêu dùng nhờ vậy góp phần phát triển sản phẩm mới cho doanh nghiệp mình và cái tiến nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ du lịch của doanh nghiệp hiện tại.
- Hoạt động xúc tiến có tác động to lớn đối với doanh nghiệp lữ hành, các đại lý lữ hành , trung gian và người tiêu dùng. Đối với doanh nghiệp, hoạt động xúc tiến là công cụ hữu hiệu vừa để giữ vững nhu cầu cũ , vừa có tác dụng thêm nhu cầu mới, chiếm long tin của khách hàng và kích thích tiêu thụ , khẳng định vị thế của doanh nghiệp từ đó tăng khả năng sinh lãi. Đồng thời, hoạt động xúc tiến tạo ra phản ứng nhanh chóng từ thông tin của thị trường về bất cức sự thay đổi nào về sản phẩm, giá cả hoặc dịch vụ hay hỗ trợ việc giới thiệu sản phẩm du lịch mới ra của doanh nghiệp lữ hành.
1.3.Internet và Xúc tiến qua mạng Internet
Như đã đề cập ở trên, hoạt động xúc tiến qua Internet và hệ thống truyền thông tích hợp đang trở thành một xu hướng rất phổ biến trên toàn thế giới và tại Việt Nam. Với những ưu điểm nổi bật, mạng Internet đang dần thay thế các phương tiện truyền thông truyền thống như Tivi, báo, tạp chớ…để trở thành một trong những công cụ xúc tiến mạnh nhất và được ưa chuộng nhất hiện nay.
Tuy nhiên sự phát triển của mạng Internet không hề gây ra mâu thuẫn với những công cụ xúc tiến truyền thống như quảng cáo, kích thích tiêu thụ, bán hàng trực tiếp hay marketing trực tiếp…mà sự kết hợp giữa mạng Internet với các phương tiện truyền thông này đã tạo nên những hiệu quả rất tốt cho cả doanh nghiệp và khách hàng. Việc kết hợp xúc tiến sử dụng mạng Internet và hệ thống truyền thông tích hợp, nhìn từ một khía cạnh nào đó, vô hình chung còn mang lại những lợi ích về lợi nhuận cho các phương tiện truyền thông này.
Trong phần này của chuyên đề, chúng ta hóy cựng tìm hiểu kỹ về hai khái niệm “Mạng Internet” , “Marketing qua mạng Internet”
1.3.1.Mạng Internet :
1.3.1.1 .Mạng Internet là gì ?
Khái niệm:
Internet là một hệ thống thông tin toàn cầu có thể được truy nhập công cộng gồm các mạng máy tính được liên kết với nhau. Hệ thống này truyền thông tin theo kiểu nối chuyển gói dữ liệu (packet switching) dựa trên một giao thức liên mạng đã được chuẩn hóa (giao thức IP). Hệ thống này bao gồm hàng ngàn mạng máy tính nhỏ hơn của các doanh nghiệp, của các viện nghiên cứu và các trường đại học, của người dùng cá nhân, và các chính phủ trên toàn cầu.
Hình 1: Sơ đồ khái quát mạng internet
1.3.1.2. Lợi ích của mạng Internet :
Internet ngày nay đã trở thành một phương tiện truyền thông hiệu quả nhất để gắn kết mọi người từ khắp nơi trên thế giới, tạo ra mọi cơ hội tiếp xúc, giao thương. Với sự phát triển nhanh chóng của Internet, ngày càng có nhiều công nghệ truyền thông (multi-media) phát triển như âm thanh, hình ảnh v.v... được đưa vào ứng dụng trên Internet. điều đó đã và sẽ mang lại rất nhiều lợi ích cho chúng ta.
Mạng Internet mang lại rất nhiều tiện ích hữu dụng cho người sử dụng, một trong các tiện ích phổ thông của Internet là hệ thống thư điện tử (email), trò chuyện trực tuyến (chat), máy truy tìm dữ liệu (search engine), các dịch vụ thương mại và chuyển ngân, và các dịch vụ về y tế giáo dục như là chữa bệnh từ xa hoặc tổ chức các lớp học ảo. Chúng cung cấp một khối lượng thông tin và dịch vụ khổng lồ trên
Internet.
Đối với người sử dụng, mạng Internet giúp họ tiết kiệm được rất nhiều thời gian và công sức trong việc tìm kiếm các thông tin cần thiết. Thậm chí với sự phát triển ngày càng cao của mạng Internet, người sử dụng mạng còn có thể dễ dàng mua được những món hàng mong muốn qua hàng loạt các website mua sắm với đủ các mặt hàng phong phú. Năm 1999, doanh thu từ mua sắm qua Internet là 20 tỷ đụla Mỹ, nhưng đến năm 2004 con số này đã là 184 tỷ $. Trang web www.ebay.com và www.amazone.com là hai trong số những trang web mạnh nhất trên thế giới về mua sắm qua mạng.
Đối với các doanh nghiệp, việc sử dụng mạng Internet mang lại cho họ rất nhiều tiện ích. Thông qua các website doanh nghiệp có thể cung cấp cho khách hàng những thông tin cần thiết về doanh nghiệp và sản phẩm, tạo dựng hình ảnh và thương hiệu cho doanh nghiệp qua mạng Internet, xúc tiến bán hàng trực tiếp qua mạng góp phần làm tăng lợi nhuận. Đồng thời doanh nghiệp cũng có thể tạo được mối quan hệ hợp tác hai bên cùng có lợi với các doanh nghiệp khác thông qua các hình thức hợp tác trên mạng.
Với doanh nghiệp, website có thể có các chức năng sau:
. E-brochure:Website có thể đóng vai trò một brochure giới thiệu về công ty, sản phẩm và dịch vụ cung cấp với những hình ảnh và có thể có các file âm thanh và hình ảnh phong phú, sống động. Đối tác, khách hàng có thể truy cập vào xem một cách nhanh chóng, không mất thời gian chờ đợi gửi qua đường bưu điện. Doanh nghiệp tiết kiệm được rất nhiều chi phí in ấn, gửi thư và luôn cập nhật được thông tin một cách thuận lợi. Đây cũng là một phương tiện xây dựng hình ảnh công ty chuyên nghiệp trong mắt khách hàng
.E-catalogue:Trên website, doanh nghiệp có thể đưa những catalogue đầy đủ nhất về sản phẩm với những hình ảnh và thông tin chi tiết của mỗi sản phẩm. Khách hàng có thể tìm sản phẩm theo thuộc tính, theo mã hàng, theo giá cả,... một cách nhanh chóng
.E-shop:E-catalogue có thể tích hợp những tính năng đặt hàng, hoặc có thể có chức năng thanh toán trực tuyến để trở thành một công cụ bán hàng của doanh nghiệp
.E-support:Doanh nghiệp có thể hỗ trợ khách hàng thông qua website như giải đáp các thắc mắc, tư vấn, cung cấp tài liệu kỹ thuật, đăng ký bảo hành, và có thể chat trực tuyến với khách hàng. Thông qua website, khách hàng cũng có thể liên hệ với doanh nghiệp một cách nhanh nhất.
.Công cụ cung cấp thông tin:Website là một công cụ cung cấp thông tin quan trọng của doanh nghiệp không những cho đối tượng khách hàng mà còn cho các đối tượng khác như: nhà đầu tư, cổ đông, đối tác, thông tin đại chỳng.Ngoài ra, các ứng dụng web rất phong phú và đa dạng có thể ứng dụng trong rất nhiều hoạt động sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngoài ra, các ứng dụng web rất phong phú và đa dạng có thể ứng dụng trong rất nhiều hoạt động sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3.2. Marketing qua mạng Internet:
1.3.2.1. Thế nào là Marketing qua mạng Internet và điểm khác biệt với Marketing qua các phương tiện khác:
E-marketing (Internet marketing hay online marketing) là hoạt động cho sản phẩm và dịch vụ thông qua Internet. Sự xuất hiện của Internet đã đem lại nhiều lợi ích như chi phí thấp để truyền tải thông tin và media đến số lượng lớn đối tượng tiếp nhận, thông điệp được truyền tải dưới nhiều hình thức khác nhau như văn bản, hhỡnh ảnh, âm thanh, phim, trò chơi,... Với bản chất tương tác của E-makerting, đối tượng nhận thông điệp có thể phản hồi tức khắc hay giao tiếp trực tiếp với đối tượng gửi thông điệp. Đây là lợi thế lớn của E-marketing so với các loại hình khác.
E-marketing kết hợp tính sáng tạo và kỹ thuật của Internet, bao gồm thiết kế, phát triển, quảng cáo và bán hàng. Các hoạt động của E-marketing bao gồm: search engine marketing, web display advertising, e-mail marketing, affiliate marketing, interactive advertising, blog makerting và viral marketing.
E-maketing là quá trình phát triển và quảng bá doanh nghiệp sử dụng các phương tiện trực tuyến. E-maketing không chỉ đơn giản là xây dựng Website. E-maketing phải là một phần của chiến lược marketing và phải được đầu tư hợp lý.
Những khác biệt của Marketing trực tuyến với Marketing qua các phương tiện khác:
- Chi phí hợp lý : Với những cỏch tớnh phớ linh động như CPC (Cost-Per-Click) hay CPA (Cost-Per-Action hay Cost-Per-Acquisition), quảng cáo trực tuyến tiết kiệm được chi phí mà dung lượng quảng cáo lại không giới hạn. Người làm tiếp thị chỉ phải trả tiền cho những khách
hàng tiềm năng nhất, những người đang quan tâm đến sản phẩm, dịch vụcủa doanh nghiệp.
Không những thế, với một ngân sách khiêm tốn cho tiếp thị trực tuyến, kết quả đạt được có hiệu quả hơn hẳn tiếp thị qua những kênh truyền thống. Theo ông Ram Kapoor, Giám đốc điều hành của Công ty Quảngcỏo Y&R Wunderman Vietnam, để làm một phim quảng cáo phải tốn ớtnhất 300.000 Đô la, một quảng cáo trờn bỏo in là 80.000 Đô la, nhưngnếu ngân sách chỉ có 30.000 Đô la, bấy nhiêu đã quá đủ cho quảng cỏotrực tuyến. So sánh với các phương tiện khác như in ấn, báo đài, truyền hình, e-maketing có lơi thế rất lớn về chi phí thấp.
cáo Y&R Wunderman Vietnam, để làm một phim quảng cáo phải tốn ít
nhất 300.000 Đô la, một quảng cáo trên báo in là 80.000 Đô la, nhưng
nếu ngân sách chỉ có 30.000 Đô la, bấy nhiêu đã quá đủ cho quảng cáo
trực tuyến. So sánh với các phương tiện khác như in ấn, báo đài, truyền hình, e-maketing có lơi thế rất lớn về chi phí thấp.
- Hiệu quả cao: Internet phá bỏ mọi giới hạn về không gian, thời gian và khoảng cách với dòng thông tin trao đổi liên tục trên toàn cầu. Tiếp thị trên Internet, nhờ vậy vượt qua được những giới hạn đó và trởnờn có lợi thế hơn những kênh truyền thông truyền thống. Những doanhnghiệp nhỏ có thể tiếp thị sản phẩm và dịch vụ của họ 24/7 trên toànthế giới.
nên có lợi thế hơn những kênh truyền thông truyền thống. Những doanh
nghiệp nhỏ có thể tiếp thị sản phẩm và dịch vụ của họ 24/7 trên toàn
thế giới.
- Việc khảo sát thông tin người sử dụng Internet thông qua tiếp thị trực tuyến được thực hiện khá đơn giản và đáng tin cậy hơn : giúp các doanh nghiệp định hướng chính xác khách hàng tiềm năng của mỡnh,cũng như thu thập được một lượng lớn cơ sở dữ liệu khách hàng trong mỗi chiến dịch với chi phí cực kỳ rẻ.
cũng như thu thập được một lượng lớn cơ sở dữ liệu khách hàng trong mỗi chiến dịch với chi phí cực kỳ rẻ.
- Công nghệ tiên tiến hơn: Với sự hỗ trợ và đổi mới công nghệ không ngừng, tiếp thị trực tuyến gần như không có giới hạn về công nghệ cũng như không gian sáng tạo, đặc biệt ở hình thức quảng cáo đa phương tiện.
·
- Tính tương tác cao hơn: Các kênh truyền thông trước đây như phát thanh hay truyền hình thường chỉ thông tin một chiều, người tiêu dùng luôn thụ động trong quá trình tiếp nhận thông tin. Nhưng với Internet, doanhnghiệp có cơ hội đối thoại và tương tác trực tiếp với người tiờu dựng.Người tiêu dùng, ngược lại cũng chủ động tiếp cận thông tin, lựa chọnthụng điệp nào mà mình muốn nhận hay chia sẻ những trải nghiệm, suynghĩ, dự bỏo…
nghiệp có cơ hội đối thoại và tương tác trực tiếp với người tiêu dùng.
Người tiêu dùng, ngược lại cũng chủ động tiếp cận thông tin, lựa chọn
thông điệp nào mà mình muốn nhận hay chia sẻ những trải nghiệm, suy
nghĩ, dự báo…
Dựa vào việc phân tích hành vi của người sử dụng Internet, người làm marketing có thể biết được thói quen, sở thích của từng cá nhân, xác định rõ xem người đú cú nằm trong nhóm khách hàng mục tiêu hay không,phản ứng của họ với thương hiệu như thế nào…
phản ứng của họ với thương hiệu như thế nào…
- Dễ xác định phân khúc khách hàng mục tiêu hơn marketing qua các phương tiện khác: Mỗi cộng đồng trên Internet đều cú nhúm đối tượng tham gia nhất định. Việc khảo sát thông tin người tham gia được thực hiện khá đơn giản và đáng tin cậy thông qua các hình thức tương tác với người sử dụng như bỏ phiếu bầu (poll), bản khảo sát (online survey), hay đăng ký thành viờn… Việc làm marketing trên Internet trở nên tập trung hơn thay vì triển khai trên diện rộng như nhiều kênh truyền thông truyền thống.
Các hoạt động E-marketing khi triển khai có thể dễ dàng theo dõi và đánh giá hơn cỏc cỏc hoạt động marketing trờn cỏc phương tiện khác. Ví dụ với Website, dịch vụ ‘Web analytic' cho phép theo dõi số lượng người truy cập, nội dung quan tâm từ đó có thể đánh giá thông điệp truyền đi có đúng với ước muốn của khách hàng không. Theo dư đoán, E-marketing ngày càng phát triển mạnh hơn so với các loại hình khác.
Tuy nhiên, E-marketing vẫn có một số hạn chế so với Marketing qua các phương tiện khác. Thứ nhất, về phương diện kỹ thuật, E-marketing đòi hỏi khách hàng phải sử dụng các kỹ thuật mới và không phải tất cả mọi đối tượng khách hàng có thể sử dụng chúng. Đường truyền tốc độ chậm cũng là một tác nhân gây khó khăn. Ngoài ra, nếu công ty xây dựng Website lớn và phức tạp để quảng bá sản phẩm, nhiều khách hàng sẽ gặp khó khăn khi sử dụng Website cũng như tải thông tin về với đường truyền chậm hay vào các thiết bị di động. Thứ hai, về phương diện bán hàng, khách hàng không thể chạm, nếm, dùng thử hay cảm nhận sản phẩm trước khi mua trực tuyến.