Post date: Dec 21, 2017 7:58:35 PM
Đây là một bài viết lại theo nội dung của nhiều thủ bản huấn luyện bằng Anh ngữ khác nhau của cùng tác giả đã dùng trong những khóa huấn luyện trưởng hướng đạo tại Canada (Scouts Canada, SC và L'Association des Scouts du Canada, ASC). Tuy bài viết có đối tượng ban đầu là những đơn vị Hướng đạo gốc Việt ở ngoài nước, nhưng nó cũng có thể có ích cho sinh hoạt Hướng đạo tại Việt Nam hiện nay.
Lập kế hoạch để có người kế nhiệm là công tác đi tìm và phát triển nhân viên có tiềm năng để điền vào vị trí quan trọng hoặc rất quan trọng của các tập đoàn lớn; cho đến gần đây, các doanh nghiệp nhỏ hoặc những tổ chức không vì lợi nhuận đã thường không quan tâm nhiều đến công tác này vì những lý do khác nhau.
Trong phần thảo luận sau đây là những vấn đề liên quan việc lập kế hoạch kế nhiệm cho một tổ chức, có tầm cỡ nhỏ hơn và không vì lợi nhuận như một Liên đoàn Hướng đạo (và có thể áp dụng cho những tổ chức dân sự tương tự). Một khía cạnh khác sẽ được xét đến là việc lập kế hoạch kế nhiệm cho các Liên đoàn Hướng đạo mà thành viên và đội ngũ lãnh đạo phần lớn là người gốc Việt Nam. Nói cách khác, bài viết này sẽ tập trung vào cách lập kế hoạch kế nhiệm có thể áp dụng trong các Liên đoàn Hướng đạo gốc Việt Nam ở hải ngoại. Vì lý do đó, kiến thức về di sản văn hóa Việt Nam ở nước ngoài là yếu tố cần thiết để có thể hiểu rõ hơn về các ứng xử tự nguyện của cộng đồng thiểu số này trong xã hội phương Tây.
Liên Hiệp Quốc định nghĩa hoạt động tình nguyện là
“những đóng góp của mỗi cá nhân như những việc phi lợi nhuận, không lương, và hoạt động không thuộc phạm vi nghề nghiệp vì hạnh phúc của tha nhân, và của xã hội nói chung”.
Bằng thuật ngữ đơn giản, tình nguyện là bất kỳ hoạt động nào cống hiến thời gian không lấy lương vì lợi ích của người khác, nhóm khác, hay vì đại nghĩa; tình nguyện cũng là một phần của việc tổ chức xã hội. Như vậy, tương tác giữa xã hội và nhà nước chắc chắn có ảnh hưởng đến sự thay đổi của sự tình nguyện theo thời gian, văn hóa và cơ chế chính trị địa phương.
John Locke (1632-1704) đã biện luận rằng bản chất con người là tự do và bình đẳng ngược với tuyên bố cho rằng Thượng đế đã làm cho tất cả mọi người tự nhiên phụ thuộc vào một quốc vương (Tuckness, 2011). Xã hội dân sự và hoạt động tình nguyện phương Tây có nguồn gốc từ khái niệm này và sau này được minh họa trong “Nền Dân chủ ở Hoa Kỳ” (De la démocratie en Amérique | Of Democracy in America, 1838) của Alexis de Tocqueville. Vì vậy, có thể nói rằng khái niệm của Locke là những suy nghĩ nền tảng của xã hội dân sự và các hoạt động tình nguyện trong các cộng đồng nói tiếng Anh ở Úc, Anh, Scotland, Mỹ, v.v. (Anheier và Salamon, 2001).
Hiểu biết về sự tình nguyện cho thấy nguồn lực cá nhân, môi trường xã hội, các giá trị văn hóa và hiện trạng nhân khẩu đã ảnh hưởng đến quyết định tình nguyện của mỗi người như thế nào. Vì vậy, trong một nền văn hóa đa dạng của châu Á, hay nói riêng, của văn hóa Việt Nam, một phần không thể thiếu của thế hệ người Việt nhập cư đầu tiên ở nước ngoài thì sự tình nguyện khác nhau như thế nào?
Truyền thống của người Việt Nam chia sẻ – phú quý, tài nguyên, và thời gian – không khác so với các hoạt động từ thiện của người Trung Hoa. Và giới nghiên cứu cho thấy rằng nó đã hằn sâu trong đạo lý của Nho giáo và Phật giáo. Về mặt tôn giáo, Phật giáo khẳng định giá trị của lòng từ bi (“lòng thương người”) và “giúp ích người khác”; về mặt đạo đức, Nho giáo dạy về khái niệm “lòng nhân từ”, “hiếu thảo” (của con đối với cha mẹ), và khái niệm “có đi có lại” (lòng tương trợ, “Bánh ít đi, bánh quy lại”, “Có đi có lại mới toại lòng nhau”).
Do ảnh hưởng tôn giáo và bổn phận đạo đức hoặc trách nhiệm đối với gia đình và bạn bè trong văn hóa Việt Nam, các hình thức chia sẻ và hoạt động tình nguyện phần chính nhằm vào gia đình, dòng tộc, họ hàng, hội đồng hương, hội ái hữu học đường, v.v.
Thuật ngữ khoa học xã hội gọi loại hoạt động này là tình nguyện không chính thức hoặc tự nhiên (informal or indigenious volunteerism).
Đây là hình thức phổ biến nhất của những hoạt động từ thiện trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Mặc dù sự thật đã có nhiều hội người Việt ở hải ngoại, vẫn còn rất nhiều hội khác cũng phản ảnh nét văn hóa Việt Nam nói trên của những người Việt nhập cư thế hệ đầu tiên, cụ thể là, “Hội đồng hương [điền tên của một thị trấn ở Việt Nam vào đây]”, “Hội cựu học sinh [điền tên của một trường trung học ở miền Nam Việt Nam vào đây]” (những hội cựu học sinh các trường trung học). Những loại hội này thường là tổ chức tụ họp những người bạn cũ, hoặc những người cùng quê để tương thân và hoài niệm. Mặt khác, những hội người Việt Nam, nói chung, được hiểu là một nhóm người nhập cư để xây dựng cộng đồng và phát triển các khía cạnh khác trong cuộc sống mới ở xã hội phương Tây: bảo tồn di sản văn hóa, tiến bộ trong phát triển đời sống kinh tế, chính trị, xã hội mới, v.v. Tuy nhiên, với loại hiệp hội này, lịch trình nghị sự chính trị (Việt Nam) thường đi đầu và có ưu tiên cao hơn hết, và đã trực tiếp cản trở những mục đích khác; chúng là hệ quả của cuộc chiến tranh đã kết thúc gần 40 năm trước.
Một tổ chức tình nguyện chính thức là một tổ chức hoạt động nhờ những người làm việc tình nguyện không thường xuyên và thường xuyên, và có thể có hoặc có thể không có nhân viên ăn lương. Một tổ chức tình nguyện chính thức cần có tất cả những đặc tính sau đây:
Từ định nghĩa này người ta có thể thấy sự khác biệt chính giữa các hoạt động tình nguyện không chính thức hoặc tự nhiên và các hoạt động tình nguyện chính thức nằm ở đặc tính số 5. Tất cả các hội ái hữu cho những người cùng quê, cựu học sinh trung học, hoặc các bang hội gia tộc Hoa kiều (quan hệ vì cùng làng tổ, có tài sản chung, và thường dùng chung một phương ngữ) không phải là tổ chức tình nguyện chính thức.
Nhiều nghiên cứu cho thấy Hoa kiều ở nước ngoài theo đạo lý đông phương ít khi tham gia những hoạt động tình nguyện với các tổ chức thế tục chính thức so với người châu Á khác ở nước ngoài theo các tôn giáo Đông và Tây phương (Ecklund và Park, 2005). Hệ luận có thể nói là người Việt Nam ở nước ngoài cũng ở trong một tình trạng tương tự như cộng đồng người Hoa.
Theo cuộc Khảo sát các Giá trị Thế giới (World Values Survey) năm 2001, 21% số người Trung Hoa được thăm dò đã làm việc tình nguyện, so với 32% người Ấn Độ và 58% người Philippines. Dân Philippines đa số, hơn 90%, là Kitô hữu, trong khi ở Ấn Độ hơn 80,5% dân số là người theo Ấn Độ giáo (Hindu). Ở Trung Hoa, vì người dân bị hạn chế ngặt nghèo về tự do tôn giáo, số liệu thống kê thu được không đủ chính xác. Tuy nhiên, hầu hết người Trung Hoa sống theo triết lý của Phật giáo và Lão giáo và chịu ảnh hưởng nặng nề của Nho giáo.
Cũng từ cuộc khảo sát này, kết quả tại Việt Nam về những sinh hoạt cho thanh thiếu niên không được trả lương (trưởng các đoàn nam nữ hướng đạo, các câu lạc bộ thanh niên, v.v.) cho thấy rằng người Việt Nam theo Kitô giáo có tỉ lệ tình nguyện cao hơn so với thanh niên có tín ngưỡng là các tôn giáo khác. Từ thế kỷ thứ 11 – triều Lý, Trần Việt Nam, ba triết lý chính thống trị văn hóa Việt Nam là Lão giáo, Nho giáo và Phật giáo. thờ cúng tổ tiên và Phật giáo là “tôn giáo truyền thống”, chỉ sợi của mạng văn hóa Việt Nam trong khi Kitô giáo, một tôn giáo phương Tây, chỉ mới đến Việt Nam trong thế kỷ 16 và mới trở thành một tôn giáo trong xã hội Việt Nam từ thế kỷ 19.
Bảng 1: Sinh hoạt thanh niên không lương ở Việt Nam (trưởng nam nữ hướng đạo, các câu lạc bộ thanh niên, v.v..)
Nguồn: World Values Survey, http://www.worldvaluessurvey.org/
Kết quả thăm dò trích từ Bảng 1 đồng ý với kết quả khảo sát những hoạt động tình nguyện tại Trung Hoa, Ấn Độ và Philippines. Những người Phật giáo Việt Nam và Trung Hoa không có tỉ số tham gia các hoạt động tình nguyện chính thức nhiều như người Việt Nam thờ cúng tổ tiên hay có một nền giáo dục ảnh hưởng giá trị Kitô giáo. Những khám phá này tuy nhỏ nhưng cũng cho thấy sự khác biệt văn hóa gây ảnh hưởng đến mức độ để người ta dấn thân tình nguyện.
Cũng trong cuộc thăm dò của World Values Survey năm 2001 tại Việt Nam, kết quả cho thấy mức độ tham gia hoạt động tình nguyện tại đây. Biểu đồ 1 trình bày kết quả này.
Biểu đồ 1: Tỉ lệ hoạt động tình guyện ở Việt Nam theo dữ liệu của cuộc Khảo sát các Giá trị Thế giới của WVS.
Trước nhất tất cả các loại hoạt động liệt kê trong Biểu đồ 1 không thuộc các tổ chức tình nguyện chính thức vì tại Việt Nam hiện không có bất cứ tổ chức nào hoạt động đúng với đặc tính số 1 trong những đặc tính cần có của một tổ chức tình nguyện chính thức, “tự trị, không lệ thuộc vào Nhà nước”.
Thứ hai, kết quả cuộc thăm dò trong Biểu đồ 1 phản ảnh khá đúng với thực trạng của những hoạt động tình nguyện ở một quốc gia theo chế độ cộng sản, độc đảng.
Những vùng hoạt động ít nhậy cảm nhất là nơi có nhiều người tham gia nhất. Tỉ dụ như giúp ích người già, khuyết tật, đói nghèo; Phong trào hòa bình; Sinh hoạt phụ nữ. Sinh hoạt văn hóa, nhạc, mỹ thuật, v.v. số người trả lời có tham gia là từ 15% đến gần 30%.
Đáng chú ý là những hoạt động tình nguyện cho chính đảng có 23,8% người (trả lời cuộc thăm dò) tình nguyện tham gia. Tình nguyện phục vụ đảng nhất định không thể gọi là một hoạt động tình nguyện chính thức. Hơn nữa, trên cả quốc gia đó chỉ có một chính đảng – không kể các tổ chức chính trị khác thỉnh thoảng được lên báo với tên “khủng bố” nước ngoài – thì tỉ lệ 23,8% không có bất kỳ một ý nghĩa tích cực nào hết.
Những hoạt động khác, có vẻ nhạy cảm như những sinh hoạt giúp thanh thiếu niên, công đoàn lao động, tôn giáo (chùa, nhà thờ), số người tham gia xấp xỉ 10%; hai hoạt động xem ra không có gì nhạy cảm như hoạt động y tế, môi trường lại chỉ có 7-8% người trả lời tham gia. Đặc biệt nhất là quan tâm của người Việt Nam đến việc “phát triển nhân quyền ở các nước thế giới thứ ba” đứng đúng cuối bảng, 1,3% người thăm dò trả lời có hoạt động tình nguyện.
Tham gia làm việc tình nguyện là góp phần nuôi dưỡng một xã hội công bằng và dân chủ. Nó khuyến khích người dân có trách nhiệm, tham gia và tương tác xây dựng xã hội.
Tham gia làm việc tình nguyện là gây sức mạnh cho cộng đồng xã hội. Nó thúc đẩy thay đổi và phát triển bằng cách xác định được và đáp ứng đúng nhu cầu của cộng đồng xã hội.
Con đường phát triển xã hội dân sự ở Việt Nam vẫn còn dài đến tận chân trời.
Một mặt khác, cộng đồng người của Việt Nam sống ở nước ngoài tập trung vào các hoạt động thiện nguyện như giảm nghèo, phát triển bền vững môi trường, chăm sóc y tế và giúp người khuyết tật tại Việt Nam. Với một thế hệ thứ hai hội nhập khá tốt ở các các nước định cư, tuy nhiên, vẫn còn một câu hỏi về khả năng tồn tại lâu dài của cộng đồng người Việt hải ngoại làm việc tình nguyện ở Việt Nam khi mối quan hệ với “quê hương” ngày mỗi giảm đi. Ước tính có khoảng 400.000 người Việt Nam sống ở nước ngoài đã tốt nghiệp đại học nhưng chỉ có 200 người trở lại Việt Nam mỗi năm để giảng dạy hoặc tư vấn. (Truong T. K. C., Small, I., & Vuong, D., 2008)
Phong trào Hướng đạo do Baden Powell sáng lập tại Anh Quốc từ năm 1907. Đến năm 1930 người Pháp đem sinh hoạt Hướng đạo vào miền Bắc Việt Nam; bị gián đoạn vì chiến tranh, phong trào hướng đạo tại đây đã phát triển chậm khắp 3 miền cho đến năm 1954. Từ năm 1955 đến 1975, do sự khác biệt về hệ thống chính trị, phong trào hướng đạo chỉ tồn tại, phát triển trong hoạt động hợp pháp tại miền Nam Việt Nam (Việt Nam Cộng hòa, VNCH). Hội Hướng đạo Việt Nam (VNCH) là một thành viên của Tổ chức Thế giới của Phong trào Hướng đạo (World Organization of the Scout Movement WOSM) từ năm 1957 đến năm 1975. Thống kê của Hội HĐVN ngày 31 Tháng 12 năm 1974, cho biết Hội đã có 14.432 thành viên thanh thiếu niên và người lớn (trưởng) sinh hoạt trong 145 ấu đoàn, 246 thiếu đoàn, 70 Kha đoàn và 49 tráng đoàn. (GVMD 6, 2011)
30 Tháng 4 năm 1975, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Cộng Sản Việt Nam (VNDCCH), chiếm lãnh thổ VNCH. Ngày 15 tháng 5 năm 1975, do đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) thành lập và kiểm soát, Chính phủ Cách mạng Cộng hoà miền Nam Việt Nam, đã thông qua một nghị định của Ủy ban Quân Quản Sài Gòn - Gia Định, giải tán, tịch thu tài sản và trụ sở chính của Hội HĐVN tại Sài Gòn cũng như đã xếp tất cả các hoạt động hướng đạo trên khắp miền Nam Việt Nam ra ngoài vòng pháp luật.
Tuy nhiên, phong trào hướng đạo thế giới bắt đầu tại Anh Quốc vẫn tiếp tục phát triển trên toàn thế giới sau cái nấc cục ở Việt Nam Cộng hòa năm 1975. Đại diện của WOSM ở vùng chấu Á Thái Bình Dương (APR) vẫn thường xuyên liên lạc với trưởng hướng đạo đang sinh hoạt tại Việt Nam hiện nay.
Hiện nay, tại miền Nam và miền Trung Việt Nam (dưới vĩ tuyến 17) có khoảng 5-7 ngàn hướng đạo sinh, trong nhiều đoàn, liên đoàn, đang sinh hoạt. Tuy nhiên, chính quyền nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam không cho phép hay công nhận sinh hoạt hướng đạo tại đây. Những năm gần đây, sinh hoạt hướng đạo ở Việt Nam đã được nâng cấp từ loại sinh hoạt “chui” lên đến cấp “chui chính thức” nghĩa là trưởng Hướng đạo không còn thường xuyên bị lôi ra làm việc với công an phường, công an quận như những năm mới phục hoạt vì Đảng Cộng sản Việt Nam nay đã có Tổng đoàn Sao Bắc đẩu thuộc Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam Tp Hồ Chí Minh, sao chép hình thức sinh hoạt của các đoàn Hướng đạo Việt Nam. Tuy vậy, tung tuần tháng 7, 2015 đảng cộng sản Việt Nam đã huy động công an Bửu Long phá tan Trại Hợp Lực 2015, Kỷ niệm 85 năm Hướng Đạo Việt Nam, Kỷ niệm 50 năm Ngành Kha Việt Nam.
Chiến tranh Việt Nam kết thúc cũng là lúc cuộc di cư vĩ đại thứ hai trong lịch sử Việt Nam bắt đầu và chỉ ngưng lại vào đầu những năm 1980. Cuộc di cư này đã đưa 1,75 triệu người đi thuyền vượt biển, đi bộ vượt biên, những người tị nạn cộng sản, ra sinh sống ở nước ngoài. Trưởng hướng đạo Việt nam định cư ở hải ngoại đã bắt đầu lập đoàn sinh hoạt lại với những hội hướng đạo bản xứ tại Mỹ, Canada, Úc, Đức, Pháp, v.v. Những Liên đoàn Hướng đạo gốc Việt là các đơn vị trong Tổ chức Hướng đạo Quốc gia của nước cư trú như Boy Scouts of America, Scouts Canada, Association des Scouts du Canada, Scouts Australia, và Scoutisme Francais...
Tổ chức Thế giới của Phong trào Hướng đạo (WOSM), một tổ chức phi chính trị, độc lập, phi chính phủ, là tập hợp của 161 Tổ chức Hướng đạo Quốc gia (NSO). Những hội hướng đạo quốc gia hoạt động tại 223 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Với hơn 40 triệu thành viên trong một triệu liên đoàn hướng đạo ở những cộng đồng địa phương, WOSM là một trong những phong trào giáo dục thanh niên lớn và bền vững nhất thế giới.
Phong trào Hướng đạo phát triển và bền vững hơn một thế kỷ là nhờ kỷ cương, giềng mối chặt chẽ của tổ chức, nguyên lý, phương pháp sinh hoạt và sự ứng phó bén nhạy với mọi thay đổi của xã hội và những đặc thù ở mỗi địa phương, hay lãnh thổ. Hơn 1 thế kỷ qua phong trào hướng đạo thế giới vẫn tiếp tục sinh hoạt giáo dục thanh thiếu niên với tất cả trưởng là những người tình nguyện
Phần kế của bài viết cho những khoá huấn luyện là một số dữ kiện và những công tác, phương án, quản trị khô khan để giúp cho những tổ chức thiện nguyện nhỏ, như một một Liên đoàn Hướng đạo, có người tình nguyện thừa kế ban lãnh đạo đã đến tuổi nghỉ hưu, tiếp tục gìn giữ và phát triển bền vững sinh hoạt của tổ chức.
Vì mục đích chính của bài viêt lần này là để chia sẻ một số suy nghĩ về vấn đề “thiện nguyện” chứ không phải là thủ bản đào tạo nhân sự có trách nhiệm quản trị với tổ chức, nên người viết xin được ngưng lại ở đây và cảm ơn bạn đọc đã bỏ thời gian đọc đến hết.
Tháng 3, 2012; bổ túc và hiệu đính tháng 3, 2016, tháng 12 2017.
Tham khảo
1. M&G NSW’s Volunteer Succession Planning resource.
2. Scouts Canada, Milestone Recognition, and Milestone Recognition Program (MRP) – FAQs, January 2012.
3. Paullette Vinette, CAE, Tools for nonprofit leaders: Succession planning in the not-for-profit world. 2006.
4. Helmut K Anheier and Lester M Salamon, Volunteering in cross-national perspective: Initial comparisons, 62 Law & Contemp. Probs. 43 (Autumn 1999).
5. Wilson, John, “Volunteering”, Annual Review of Sociology, 26: 215-40. 2000.
6. Tuckness, Alex, “Locke's Political Philosophy”, The Stanford Encyclopedia of Philosophy (Winter 2011 Edition), Edward N. Zalta (ed.), URL = <http://plato.stanford.edu/archives/...>.
7. Richard A. Sundeen, Cristina. Garcia, Lili. Wang, Volunteer Behavior among Asian American Groups in the United States, Journal of Asian American Studies, Volume 10, Number 3, October 2007, pp. 243-281.
8. Sáo dễ thương, Bốn gỗ xưa, bốn gỗ nay. Gỗ nào hay, gỗ nào dở. Giữ vững mối dây 6, 2011, pages 92-94.
9. Elaine Howard Ecklund and Jerry Z. Park, “Asian American Community Participation And Religion: Civic “Model Minorities?””, Journal of Asian American Studies 8 (1), 1-21, 2005.
10. Truong T. K. C., Small, I., & Vuong, D. (2008). Diaspora giving: An agent of change in Asia Pacific communities: Vietnam [Conference paper for the diaspora giving: An agent of change in Asia Pacific Communities Conference, Hanoi, Vietnam].