Post date: Jun 11, 2012 1:58:32 PM
Tác giả: Jay Mechling -- Người dịch: Ong trầm tĩnh
Vào tháng Tư 1985, Hội đồng Trung ương Hội Nam Hướng đạo Mỹ [National Council of the Boy Scouts of America] quyết định Paul Trout, một hướng đạo sinh 15 tuổi ở Charlottesville, Virginia, “nên bị trục xuất khỏi Hướng đạo vì em không tin vào Thượng đế.” Hình như Trout đã nói trong lúc chuyện trò với ủy ban cứu xét đẳng hiệu Life Award1 rằng em không tin Thượng đế (hay có lẽ em không tin Thượng đế như một Đấng Tối cao, một khác biệt quan trọng). Báo chí đăng lại lời Carl Hunter, giám đốc Châu Stonewall Jackson của BSA [director of Stonewall Jackson Area Council], nói rằng: “Luật Hướng đạo đòi hỏi trẻ tuyệt đối trung thành với Thượng đế và tổ quốc, và tôn kính Thượng đế. Bạn không thể như vậy nếu bạn không tin vào một Đấng Tối cao.” Tổ chức American Civil Liberties Union (ACLU)2 nhận giúp vụ kiện của Trout, nhưng tới tháng Mười BSA đổi ý và tái nhận Trout. BSA giải thích là Trout chỉ nói em “không tin Thượng đế là một đấng tối cao,” và chọn cách giải thích quan điểm của em chỉ là khác biệt trong định nghĩa về Thượng đế. “Vì thế ban chấp hành trung ương [national executive board] của tổ chức quyết định xoá bỏ tất cả định nghĩa về Thượng đế trong các tài liệu của mình… trong khi vẫn tái xác nhận bổn phận đối với Thượng đế trong Lời hứa Hướng đạo.” Tôi sẽ trở lại vấn đề định nghĩa Thượng đế, nhưng cho phép tôi qua tới năm 1991.
Vào mùa hè 1991, BSA có hai vụ kiện nữa. Gia đình của Mark Walsh, 8 tuổi ở Chicago, và của Michael và William Randall, cặp sinh đôi 9 tuổi ở Anaheim, California, đã kiện hai vụ riêng biệt sau khi con trai họ bị đuổi khỏi Ấu đoàn vì nói chúng không tin Thượng đế. BSA thành lập ngành Ấu năm 1930 cho bé trai từ 8 tới 11 tuổi, bọn trẻ tổ chức thành “đàn” [“den”] dưới sự coi sóc của “mẹ đàn” [“den mother”] và đơn vị lớn hơn là “Bầy” [“Cub Pack”], thường do nam bầy trưởng hướng dẫn.
BSA đã tránh khéo vụ kiện của Trout bằng cách dàn xếp như chỉ là một vụ tranh cãi về nghĩa của chữ “Thượng đế,” nhưng trong hai vụ này những người tự nhận là vô thần kiện vì BSA đòi hội viên tin vào Thượng đế. Hội đồng Trung ương cho rằng BSA là một nhóm tư nhân có thể nhận hay đuổi hội viên dựa theo tiêu chuẩn cá biệt của tổ chức. Một bài báo trên tờ New York Times giải thích: “Ủng hộ hiện trạng còn có Giáo hội Latter-Day Saints, hay Mormons, họ đã lập châu Hướng đạo đầu tiên ở Mỹ năm 1913 và hiện là nhóm bảo trợ Hướng đạo lớn nhất, và Giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã, nhóm bảo trợ Hướng đạo lớn thứ tư. Hai giáo hội hỗ trợ hơn một phần tư tổng số đoàn Hướng đạo, cho rằng BSA có quyền không nhận một số người nào đó làm Hướng đạo sinh, tình nguyện viên, hay nhân viên.”
Dường như trường công lập bảo trợ nhiều Hướng đạo sinh nhất, vì thế nguyên cáo cho rằng BSA là một tổ chức công. Ký giả New York Times nhận xét trường công lập “không nói cùng giọng với giáo hội Mormon và Thiên Chúa giáo,” ông cũng vạch ra một mâu thuẫn căn bản trên thực tế của BSA về niềm tin tôn giáo. Ông viết: “Các viên chức nói tổ chức được thành lập cho thiếu niên tin vào Thượng đế và nên giữ đúng nguyên tắc ấy. Trong khi nhận Phật tử, những người không tin Đấng Tối cao, và tín đồ Unitarian, những người tìm minh triết từ nhiều truyền thống nhưng quyết tránh xác lập tín điều, nhưng BSA lại không dung nạp những ai công khai vô thần, bất khả tri, hay không muốn nói trong lời hứa Hướng đạo rằng họ sẽ phụng sự Thượng đế.”
Trên thực tế, James Grafton Randall, cha của cặp sinh đôi và là luật sư của chúng trong vụ kiện, kịch liệt đả kích sự mâu thuẫn này khi ông chất vấn các nhân chứng của BSA. Trong quyết định có ý nghĩa quan trọng, thẩm phán Richard O. Frazee Sr. của Toà thượng thẩm Orange County phán quyết hồi tháng Sáu 1992 rằng BSA không thể trục xuất cặp sinh đôi “vì niềm tin hay sự thiếu niềm tin của chúng.” Đáng sửng sốt hơn, tối cao pháp viện của tiểu bang khước từ cứu xét thỉnh nguyện của Châu Orange County của BSA.
Trong khi đó, Hội Nữ Hướng đạo Mỹ [Girl Scouts of America] gặp thử thách tương tự. Tháng 11 năm 1992, James Randall kiện Hội Nữ Hướng đạo nhân danh một bé gái 6 tuổi ở San Diego và cha em, cho rằng lời cam kết “phụng sự Thượng đế” của Hội Nữ Hướng đạo là “lời hứa kiểm tra tôn giáo” vi phạm Hiến pháp. Trong vòng một năm, Hội Nữ Hướng đạo đổi lời hứa, cho phép các em gái thay thế “Thượng đế” bằng “chữ nào chúng thấy thích hợp hơn” khi đọc Lời hứa Nữ Hướng đạo. Một bài báo của hội nghị toàn quốc phê chuẩn chính sách mới với đa số tuyệt đối giải thích: “Các trưởng nói điều này … thừa nhận tính đa dạng ngày càng tăng về tôn giáo và sắc dân trong số 2,6 triệu nữ hướng đạo sinh trên toàn quốc. Trong những vùng đông người Á châu và da đỏ, tổ chức đã gặp khó khăn khi tuyển nhận các em gái có truyền thống tôn giáo không cùng khái niệm Thượng đế với Do Thái-Kytô giáo…”
Hội Nữ Hướng đạo tìm được giải pháp tiện lợi cho hoàn cảnh khó xử vì sự đa dạng tôn giáo, chọn cách mở rộng tổ chức cho mọi thiếu nữ. Điều gì đã khiến Hội Nam Hướng đạo không làm tương tự? Khi các ký giả băn khoăn hỏi đám con trai nghĩ gì về việc loại trừ thiếu niên khỏi tổ chức vì chúng không tin Thượng đế, các ký giả thấy chúng “từ ôn hoà tới mạnh mẽ ủng hộ thay đổi.” Và đây là điều tôi trông đợi từ mối liên hệ lâu dài của mình với Hướng đạo, vừa như một Hướng đạo sinh vừa như một người nghiên cứu quan sát một đoàn đã trên hai mươi năm. “Các Trưởng hướng đạo chuyên nghiệp [professional Scouters]” là viên chức hành chính làm việc cho văn phòng trung ương của BSA, cảm thấy phải nói một cách quyết đoán về điều gì tốt hay xấu cho trẻ và thanh thiếu niên mà không thực sự hỏi ý của bất kỳ người trẻ nào.
Tại sao Hội đồng Trung ương bám chặt quan điểm của mình trong vấn đề này? Điều gì quá quan trọng tới nỗi BSA không thể theo gương Hội Nữ Hướng đạo và điều chỉnh để dung nạp sự đa dạng tôn giáo?
Một phần câu trả lời nằm trong mối liên hệ lịch sử giữa Kytô giáo và một dạng nam tính năng nổ [an aggressive version of masculinity]. Chúng ta cần khảo sát một chút lịch sử mối liên hệ này. Và có lẽ cách tốt nhất để hiểu giai đoạn lịch sử này là nhìn sơ qua năm nhân vật chính cùng sáng lập BSA – Ernest Thompson Seton, Daniel Carter Beard, Edgar M. Robinson, John L. Alexander, và James E. West – vì họ biểu hiện rất nhiều sự bấp bênh và căng thẳng nối kết Kytô giáo với nam tính hồi đầu thế kỷ 20.
Seton sinh năm 1860 tại Anh thời Nữ hoàng Victoria, và lớn lên ở Canada, ông là một nghệ sĩ, một người yêu thiên nhiên, và tác giả nhiều truyện về thú vật trước khi lao vào công tác thiếu niên hồi cuối thế kỷ 19. Trong thập niên 1890, Seton bắt đầu hệ thống hoá “Woodcraft Idea” [“Ý niệm Nghề rừng”] của ông, một lý thuyết về công tác thanh niên dựa theo thuyết tâm lý bản năng kiểu Darwin của G. Stanley Hall3. Seton nghĩ dân rừng kiểu mẫu là người da đỏ, và năm 1898 Seton (với sự thúc giục của Rudyard Kipling4) bắt đầu đưa Ý niệm Nghề Rừng của ông vào tiểu thuyết. Trong vài năm kế, Seton viết truyện Two Little Savages: Being the Adventures of Two Boys Who Lived as Indians and What They Learned (1903), đồng thời soạn cuốn cẩm nang cho tổ chức mà ông hình dung. Năm 1902, tạp chí Ladies Home Journal đồng ý lập ban American Woodcraft for Boys, giúp Seton phát động tổ chức của ông bằng cách đăng mỗi tháng một bài viết của ông. Two Little Savages năm 1903 và The Red Book, or How to Play Indian năm 1904 củng cố danh tiếng trên toàn quốc của Seton như một thủ lãnh công tác thanh niên, và ông được mời làm chủ tịch ủy ban họp năm 1910 để thành lập BSA. Seton làm Chief Scout đầu tiên của tổ chức5, và ông viết phần lớn ấn bản đầu tiên cuốn Handbook for Boys (1911), cuốn cẩm nang rất giống cuốn Birch Bark Roll [1906, cũng của Seton] hơn là cuốn sổ tay đầu tiên bên Anh của Lord Robert Baden-Powell. Seton ngày càng cảm thấy xa rời cấp lãnh đạo BSA, kết tội nhiều doanh nhân và chủ ngân hàng New York bỏ rơi Woodcraft Idea mà ông nghĩ là nền tảng tư tưởng cho phong trào và là đặc điểm khác biệt rất rõ với mô hình có tính quân sự của Baden-Powell. Năm 1915, xung đột bùng nổ vì sự kiện Seton chưa hề trở thành công dân Mỹ6. Chức vụ Chief Scout bị hủy bỏ, và giữa lời qua tiếng lại rất cay đắng, Seton bỏ BSA để một lần nữa dành hết mình cho phong trào Woodcraft Indian của ông.
Hai khía cạnh trong ý tưởng của Seton ở giai đoạn này giúp chúng ta hiểu quan niệm về Thượng đế của ông. Trước nhất, Seton chủ yếu xem tín ngưỡng của người da đỏ như kiểu mẫu tinh thần và đạo đức. Seton tham khảo tài liệu và chứng nhân sống để đúc kết “The Indian’s Creed”. “Redman” tin nhiều thần, nhưng anh ta chấp nhận “một Thần Tối cao”. Để chứng minh luận điểm “tín ngưỡng của redman” có thể phục hồi sức sống cho xã hội da trắng thế kỷ 20, Seton mô tả chi tiết những đặc điểm của “redman”: tôn kính, sạch sẽ, trong sạch, can đảm, cần kiệm, vui vẻ, vâng lời, tử tế, hiếu khách, chân thật, danh dự, và ôn hoà, mẫu mực của sự ưu tú về thể xác. Nói tóm lại, Seton gắn bó với tín ngưỡng da đỏ hơn các đức tin truyền thống Âu châu, và có vẻ ông đưa ra Tecumseh, tù trưởng lừng danh của bộ lạc Shawnee, như một kiểu mẫu nhân cách tinh thần giống Chúa Jesus. Vì thế, nói Seton tin vào Thượng đế là chính xác, nhưng ông tin vào một Đấng Tối cao rất khác với đấng được mô tả trong hầu hết các tôn giáo Tây phương, và tôi nghĩ chắc ông không muốn loại khỏi BSA bất cứ thiếu niên hay người lớn nào tỏ ý hoài nghi đối với quan điểm truyền thống về Thượng đế như tổ chức hiện nay đòi hỏi.
Nhưng Seton ra khỏi BSA. Còn Beard và các người sáng lập khác thì sao? Quan điểm tôn giáo của Daniel Carter Beard7 cũng ra ngoài quy ước như Seton. Thời thơ ấu của Beard ở Cincinnati dọn đường cho ông kết hợp nghệ thuật và thiên nhiên giống như chúng ta thấy trong suy nghĩ của Seton. Cha ông, James N. Beard, là một nghệ sĩ lỗi lạc, và gia đình mẹ ông (dòng họ Carter) rất thành công trong kinh doanh ở thung lũng Ohio. Thần học Swedenborg của John Chapman, được biết đến nhiều hơn dưới tên Johnny Appleseed8, đặt nền tảng đạo đức cho giá trị nghệ thuật và doanh nghiệp mà Beard đã học ở nhà thời thơ ấu, sau khi cả hai dòng họ Beard và Carter cải đạo theo đức tin này hồi đầu thế kỷ 19. Sau khi được đào tạo chính qui cả về kỹ thuật lẫn nghệ thuật, Beard nổi tiếng ở New York là nhà minh hoạ của tạp chí St. Nicholas cho trẻ em, rồi biên soạn và minh hoạ loạt bài ông viết cho cuốn sách đầu tiên của ông, tác phẩm cổ điển American Boys’ Handy Book: What to Do and How to Do It.
Năm 1886, Beard gia nhập phong trào một-thuế của Henry George9 và viết cuốn tiểu thuyết về một-thuế, Moonblight. Năm 1889, danh tiếng của Beard khiến Samuel Clemens, bút hiệu Mark Twain, tìm ông để minh hoạ cho cuốn A Connecticut Yankee in King Arthur’s Court, một việc khiến Beard thích thú. Chính trị và đạo lý của bộ tiểu thuyết hấp dẫn Beard, và ông chú ý đặc biệt tới chủ đề của Twain về đạo đức giả và mối liên hệ giữa bề ngoài và cá tính. Minh hoạ của Beard cho cuốn tiểu thuyết gây ra tranh cãi, vì ông dùng các nhân vật nổi tiếng đương thời (như Jay Gould10) làm mẫu cho các nhân vật của mình cũng như ông ra mặt tấn công giáo hội và giới tư bản. Twain hài lòng với minh hoạ của Beard cho cuốn Connecticut Yankee, nhưng nhiều nhà phê bình cho rằng các bức vẽ là tuyên truyền, và nhà minh hoạ Beard bị cho vào sổ bìa đen.
Thất vọng vì vũ đài kinh tế và chính trị của cải cách, Beard trở về công tác thiếu niên năm 1905. William E. Annis, chủ nhân và nhà xuất bản mới của tập san Recreation, thuê Beard làm biên tập viên cho tờ báo. Ngoài chủ trương bảo tồn mà họ cùng có, kể cả bảo tồn văn hoá da đỏ, Beard và Annis muốn dùng tờ nguyệt san để phát động phong trào trẻ. Số tháng Bảy 1905 giới thiệu The Sons of Daniel Boone11, một mục mới của tạp chí. Mục đích của tổ chức mới này là kêu gọi giới trẻ tham gia việc bảo tồn của tạp chí. Nhưng quan trọng không kém đối với Beard là lời hứa cổ động “tính trai tráng” [manliness] của phong trào qua tổ chức dân chủ (thiếu niên sẽ lập những nhóm địa phương gọi là “fort”), trò chơi ngoài trời, nghề rừng (học hỏi thiên nhiên), và thủ công (làm những món trước tiên được minh hoạ trong Handy Book của ông). Phong trào không có quan chức trung ương, và các bài báo hàng tháng của Beard cùng các tài liệu khác do ông viết đều nhắm nối kết các nhóm địa phương. Dù vậy, năm 1908 đã có hai mươi ngàn thiếu niên là thành viên của The Sons of Daniel Boone.
Mâu thuẫn trong tổ chức khiến Beard cắt đứt liên hệ với Recreation năm 1906 và gia nhập tờ Woman’s Home Companion, nơi ông tiếp tục viết cho The Sons of Daniel Boone. Xung đột giữa Beard với các nữ biên tập của tạp chí khiến ông từ chức năm 1909 và dùng Pictorial Review như một tạp chí mới để cổ động ý tưởng phong trào trẻ của mình. Vụ kiện tụng xảy ra sau đó với Woman’s Home Companion về quyền dùng danh hiệu “The Sons of Daniel Boone”, và cuối cùng hai bên thoả thuận, tạp chí giữ danh hiệu và Beard giữ bản quyền các bài viết của mình. Beard chọn tên Young Pioneers cho phong trào mới của ông và viết đầy trong cẩm nang của phong trào những câu chuyện về các anh hùng tiền phong như Davy Crockett12 và Johnny Appleseed. Các phong trào này đã định hình năm 1910 khi Beard cùng với Seton và nhiều người khác sáng lập BSA.
Từ trái qua phải: Seton, Baden-Powell, Beard. (Nguồn: U.S. Library of Congress. Không rõ ngày và địa điểm, nhưng có lẽ trong văn phòng của James E. West (xem chữ trên kính cánh cửa bên phải).
Nếu Seton và Beard đều không sùng tín theo tiêu chuẩn thông thường hồi 1910, chắc chắn chúng ta có thể nói Edgar M. Robinson13, John L. Alexander14, và James E. West15 theo sát “giáo lý Kytô mạnh mẽ” [muscular Christianity] gắn liền thể xác cường tráng với đạo đức chính trực của phái Tin Lành cuối thế kỷ 19. Robinson và Alexander thành công trong việc tổ chức công tác thanh niên cho Young Men’s Christian Association (YMCA), và West là tổng ủy viên [chief executive] đầu tiên của BSA, cũng có kinh nghiệm với YMCA lại thêm văn bằng về luật. Nhưng ngay cả khi họ sùng tín nhất, Robinson và Alexander và West, giống như Seton và Beard, đều quan tâm hơn đến việc thiếu niên có đức tính trai tráng. Alexander viết chương “Hiệp sĩ” [Chivalry] cho ấn bản Handbook đầu tiên, và toàn bộ Handbook chỉ nhắc tới tôn giáo trong một đoạn dài ở mục “Tôn giáo của Hướng đạo sinh”. Alexander giải thích:
BSA chủ trương rằng thiếu niên không thể trở thành loại công dân tốt nhất nếu không ý thức bổn phận của mình với Thượng đế… Công nhận Thượng đế như một lực quyết định và dẫn đường trong vũ trụ, và biết ơn đặc ân và phúc lành Ngài ban là điều cần thiết cho loại công dân tốt nhất và là điều lành mạnh trong việc giáo dục thiếu niên đang lớn… Do đó BSA thừa nhận yếu tố tôn giáo trong việc huấn luyện thiếu niên, nhưng có thái độ tuyệt đối phi giáo phái trong giáo dục tôn giáo.
Alexander giải thích thêm rằng BSA để việc giáo dục tôn giáo cho tổ chức tôn giáo riêng của mỗi thiếu niên; đó không phải là việc của BSA.
Tôi nghĩ đọc kỹ các bản Boy Scout Handbook, Scoutmaster Handbook, và các ấn phẩm Hướng đạo khác từ lúc thành lập tới thập niên 1940 sẽ phải kết luận rằng khăng khăng lập trường tôn giáo năng nổ không phải là chủ trương chính của BSA. Dĩ nhiên, Lời hứa Hướng đạo do ủy ban 1910 soạn ra để “Mỹ hoá” các yếu tố vay mượn từ phong trào của Baden-Powell buộc trẻ hứa gắng hết sức làm bổn phận với Thượng đế, nhưng cách nói của cuốn Handbook đầu tiên về tôn giáo rất dịu. Lời giải thích cho điều thứ 12 của Luật Hướng đạo, “Hướng đạo sinh tôn kính”, nhấn mạnh cả bổn phận lẫn khoan dung: “Hướng đạo sinh tôn kính Thượng đế. Anh ta làm tròn bổn phận tôn giáo của mình và tôn trọng niềm tin của người khác về phong tục và tôn giáo.” Cách tiếp cận khá lỏng lẻo này không đổi trong các ấn bản thứ hai (1911), thứ ba (1915), hay thứ tư (“có sửa chữa”, 1927).
Chỉ trong ấn bản lần thứ năm (1948) các tác giả cuốn Handbook mới bắt đầu nới rộng giải thích về “bổn phận với Thượng đế” và “Hướng đạo sinh tôn kính”. Thí dụ, “Bổn phận với Thượng đế”:
Cùng với gia đình, bạn thường xuyên thờ phụng Thượng đế nơi giáo đường hay đền thờ. Bạn cố đi theo lời dạy tôn giáo mà bạn đã được dạy, và bạn làm tròn nhiệm vụ trong lớp giáo lý, và giúp các sinh hoạt của giáo hội. Trên hết bạn trung thành với Lời Răn của Thượng đế Toàn năng.
Hầu hết vĩ nhân trong lịch sử là người có đức tin tôn giáo sâu đậm. Washington quỳ trên tuyết để cầu nguyện ở Valley Forge. Lincoln luôn tìm sự hướng dẫn Linh Thánh trước khi có quyết định quan trọng. Hãy hãnh diện về niềm tin tôn giáo của mình.
Hãy nhớ làm bổn phận của mình với Thượng đế, để biết ơn Ngài. Mỗi khi bạn thành công trong một việc gì, hãy cám ơn Ngài. Đôi khi bạn nhìn lên bầu trời sáng sao trong một đêm yên tĩnh, và cảm thấy gần gũi với Ngài – hãy cám ơn Ngài là Đấng ban mọi điều lành.
Một cách để bày tỏ bổn phận và lòng biết ơn của bạn với Thượng đế là giúp đỡ người khác, và điều này cũng là một phần trong lời hứa Hướng đạo.
Lời bàn mở rộng điều thứ 12 Luật Hướng đạo cũng đặt ra những chỉ dẫn rõ hơn để làm sao một hướng đạo sinh “tôn kính”:
Tôn kính là sự tôn trọng, quan tâm, lưu ý, nhã nhặn, tận tụy, và quý mến mà bạn giành cho một người, nơi chốn hay sự vật vì nó linh thánh. Hướng đạo sinh tỏ lòng tôn kính chân thành bằng hai cách chính. Thứ nhất, bạn cầu nguyện Thượng đế, bạn yêu Thượng đế và bạn phụng sự Ngài. Thứ hai, trong sinh hoạt hàng ngày bạn giúp đỡ người khác, vì họ do Thượng đế tạo ra theo hình ảnh của chính Thượng đế. Bạn và mọi người được Thượng đế tạo ra theo hình ảnh của chính Thượng đế. Bạn và mọi người đều quan trọng dưới mắt Thượng đế vì Thượng đế tạo ra bạn. “Những quyền không thể từ bỏ” trong bản Tuyên ngôn Độc lập16 lịch sử của chúng ta là do Thượng đế ban cho.
Đó là lý do bạn tôn trọng những người có tôn giáo và phong tục có thể khác với bạn. Một số người nghĩ họ láu lỉnh bằng cách bịa chuyện hay giễu cợt người có tôn giáo hay chủng tộc khác. Cả đời mình bạn sẽ liên hệ với những người khác niềm tin và phong tục. Bổn phận của bạn là tôn trọng những người này vì niềm tin và phong tục của họ, và sống niềm tin và phong tục của mình.
Chúng ta có thể thấy đoạn văn này nói tỉ mỉ về điều được Alexander giới thiệu lần đầu hồi năm 1911 kết hợp niềm tin vào Thượng đế với “loại công dân tốt nhất”. Chúng ta thấy sự gắn kết tôn giáo với tư tưởng dân chủ, tôn giáo với chủ nghĩa yêu nước. Và chúng ta cũng thấy sự khoan dung và điều mà các ấn bản Handbook trước kia gọi là “tôn giáo thực tiễn” vẫn còn tiếp tục – đó là thi hành bổn phận và lòng tôn kính Thượng đế bằng cách giúp đỡ tha nhân.
Được dùng suốt thập niên 1950, ấn bản Handbook 1948 này cũng có Chương trình Đẳng hiệu Tôn giáo. Chương trình này đòi hỏi sự cộng tác giữa BSA và một số giáo phái, vì mục sư, tu sĩ hay giáo sĩ Do Thái sẽ chứng nhận đứa trẻ đã thi hành bổn phận và phụng sự xứng đáng để nhận đẳng hiệu. Handbook 1948 mô tả huy hiệu tôn giáo cho trẻ theo đạo Công giáo, Do Thái giáo, Mormon, Lutheran và Phật giáo và một huy hiệu chung cho Tin Lành gọi là Đẳng hiệu Thượng đế và Tổ quốc [God and Country Award].
BSA đạt tới thời hoàng kim, cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, vào cuối thập niên 1950; năm 1960 đánh dấu kỷ niệm 50 năm của tổ chức. Đặc tính dân số của thập niên 1950 vẫn còn ảnh hưởng tới cách BSA nghĩ về chính mình. Dân số gia tăng là một đặc trưng của thập niên 1950, vì đợt trẻ đầu tiên ra đời trong nhóm đó (1946-62) tạo sức ép lên các tổ chức phục vụ trẻ em của thập niên 1950. Tôi biết vì tôi là một thành viên của nhóm đó. Sinh tháng 7 năm 1945, tôi được tám tuổi khi gia nhập Sói năm 1953. Lớp ba của tôi phải họp trong lớp học một phòng “di động” vì quận học chánh South Florida không thể xây thêm trường tiểu học đủ nhanh để chứa bọn trẻ ngoại ô mới sinh. Da trắng, ngoại ô, trung lưu là đặc điểm dân số của bọn trẻ mới sinh lũ lượt kéo vào Hướng đạo hồi thập niên 1950. Một bà mẹ giỏi thập niên 1950 sẽ ở nhà nuôi con, kể cả đưa trẻ đi Hướng đạo, tới lớp khiêu vũ, chơi bóng chày, và nhiều nữa. Một tổ chức ban đầu nhắm tới trẻ nhập cư thuộc tầng lớp lao động thành phố, đến năm 1960 đã chủ yếu trở thành tầng lớp trung lưu, da trắng.
Tác động của “đặc trưng nhân khẩu” thập niên 1950 thật đáng kể. Khi nói đặc trưng nhân khẩu, tôi muốn nói tới mớ biểu tượng và ý nghĩa thể hiện qua các câu chuyện văn hoá Mỹ trên phương tiện truyền thông đại chúng. Máy truyền hình phổ biến trong thập niên 1950 có ảnh hưởng sâu đậm trên đặc trưng nhân khẩu của thời đại, vì truyền hình đưa đến cho khán giả trung lưu rất nhiều chuyện về “đời sống Mỹ” và “cách sống Mỹ”, từ các vở kịch gia đình như Father Knows Best, Ozzie and Harriet, và Leave It to Beaver tới những chuyện Chiến tranh Lạnh hiển nhiên như I Led Three Lives và tinh tế như Gunsmoke.
Trên nhiều mặt, kiểu nước Mỹ thập niên 1950 và BSA thập niên 1950 gắn chặt vào tâm tưởng tầng lớp da trắng trung lưu, bất kể thực tế khác hẳn trong cách dân Mỹ sống cuộc sống Mỹ từ 1945 tới 1960. Truyền thông đại chúng sáng chế ra một cách sống Mỹ trung lưu, mà một sử gia mô tả là một cách “chúng ta chưa hề có”. Nhưng bịa đặt này, kiểu đời sống gia đình trung lưu thập niên 1950 này, đã trở thành “chuẩn”, trở thành cách sống “truyền thống” để so sánh tất cả kinh nghiệm đến sau.
Bây giờ xét tới vai trò của tôn giáo trong nền văn hoá chung này của Hoa Kỳ trong thập niên 1950. Xét mọi mặt, dân Mỹ thập niên 1950 là một dân tộc “sùng đạo”. Tín đồ trong các giáo hội có tổ chức và các giáo phái khác tăng từ 64,5 triệu năm 1940 lên 114,6 triệu năm 1960. Các cuộc thăm dò dư luận luôn cho thấy đại đa số dân Mỹ tin vào Thượng đế và cầu nguyện ngài mỗi ngày. Các lãnh tụ tôn giáo như Reinhold Niebuhr, Giám mục Fulton J. Sheen, và Billy Graham trở thành nhân vật nổi tiếng trong văn hoá chung, và cuốn sách bán chạy The Power of Positive Thinking năm 1952 của mục sư Tin Lành Norman Vincent Peale17 bắt đúng giọng và kiểu cách lạc quan của hầu hết tôn giáo phổ cập.
Tôn giáo thập niên 1950 bị vướng vào chính trị quốc gia và quốc tế. Tôn giáo trở thành dấu hiệu quan trọng để phân biệt người Cộng sản với dân chủ Tây phương. “Họ” là “cộng sản vô thần”, trong khi chúng ta sùng đạo. The World Council of Churches18 ra đời năm 1948, nhưng chẳng bao lâu chính trị thời Chiến Tranh Lạnh làm tan vỡ nước cờ tôn giáo hoàn vũ. Năm 1950, The National Council of Churches ra đời ở Mỹ, liên minh này chủ yếu gồm Tin Lành dòng chính, và các giáo phái cấp tiến đại diện khoảng 30 triệu giáo dân. Không phải tình cờ mà nhà xã hội học Robert Bellah19 đăng bài viết đầu tiên của ông về “Niềm tin Quần chúng Mỹ” [the American Civil Religion] năm 1967. Mặc dù Bellah nhìn thấy sự pha trộn giáo lý Tin Lành với học thuyết chính trị thời Khai sáng trong những chuyện kể trước kia, chẳng hạn bài diễn văn nhậm chức lần thứ hai của Lincoln, nhưng sống ở Mỹ thời Eisenhower thập niên 1950 khiến mọi người thấy rõ giáo lý Tin Lành và ý thức hệ Chiến Tranh Lạnh đan quấn nhau để làm thành nước Mỹ. Thậm chí các tác giả viết về Do Thái và Công giáo, chẳng hạn, cũng nhận thấy chuyển biến văn hoá ở Mỹ đã “tin lành hoá” các tôn giáo khác. Và đây là thời điểm cụm từ “under God” được thêm vào Lời tuyên thệ Trung thành và “In God We Trust” được in trên tiền Mỹ. Cờ Mỹ, niềm tin quần chúng, và chủ nghĩa yêu nước trộn lẫn nhau trong thập niên 1950. Niềm tin Quần chúng Mỹ được tán đồng mạnh mẽ trong văn hoá chung, ngay cả khi người ta không thể đồng ý hoàn toàn về thái độ chính trị hàm ý trong niềm tin đó. Martin Luther King Jr. có thể viện dẫn Niềm tin Quần chúng như bất kỳ ai, và phong trào Dân quyền (về nhiều mặt, khởi sự từ vụ tẩy chay xe buýt ở Montgomery cuối năm 1955) ngay từ đầu đã dựa trên năng lực tôn giáo.
BSA, tổ chức tinh hoa của nước Mỹ thập niên 1950, hãnh diện ôm lấy niềm tin quần chúng này. BSA “phi giáo phái”, hẳn nhiên, và có nhiều huy hiệu tôn giáo tiêu biểu cho mỗi nhóm tôn giáo lớn. Nhưng “phi giáo phái” không thể bao gồm chủ nghĩa bất khả tri hay vô thần ở Mỹ thập niên 1950, vì “phi giáo phái” chỉ có nghĩa là không một giáo phái nào có thể áp đặt giáo lý và cách hành đạo của mình lên tổ chức. Trẻ em thuộc mọi đức tin được tự do gia nhập tổ chức, nhưng “đức tin” là điều then chốt. Một đứa trẻ phải có đức tin, vì vô thần – và có lẽ cả thuyết bất khả tri – là đặc điểm của Cộng sản, kẻ thù truyền kiếp của chúng ta.
Ấn bản lần thứ sáu của Boy Scout Handbook, phát hành năm 1959, phản ảnh đức tin chung của thập niên 1950 khi sửa lại đoạn văn giải thích “bổn phận đối với Thượng đế” và “tôn kính”. Đoạn về Lời hứa giải thích: “Cha mẹ và các lãnh tụ tôn giáo của bạn dạy bạn biết và yêu Thượng đế, và cách bạn phụng sự ngài. Làm theo những lời dạy này trong cuộc sống hàng ngày là bạn làm bổn phận với Thượng đế như một Hướng đạo sinh.” Đoạn văn về “Hướng đạo sinh tôn kính” nói rất rõ về Niềm tin Quần chúng và đáng được trích nguyên vẹn:
Hãy lấy đồng một xu Lincoln ra khỏi túi rồi nhìn nó. Bạn thấy gì? Ngay trên đầu Lincoln là hàng chữ “In God We Trust”. Mười hai mẫu tự nhỏ trên đồng xu khiêm tốn của chúng ta. Không chỉ cá nhân mà cả nước, chúng ta cam kết sống và làm việc hài hoà với Thượng đế và hoạch định của Ngài.
Hầu hết vĩ nhân trong lịch sử là những người có đức tin tôn giáo sâu đậm, họ chứng tỏ niềm tin của họ qua việc làm. Washington quỳ trên tuyết để cầu nguyện ở Valley Forge. Lincoln luôn tìm sự hướng dẫn linh thánh trước khi có quyết định quan trọng. Einsenhower cầu nguyện Thượng đế trước khi tuyên thệ nhậm chức Tổng thống Hoa Kỳ. Những người này có nhiều điểm chung: yêu cuộc sống ngoài trời, nhân hậu, và sốt sắng cùng làm với Thượng đế để tạo nên một thế giới tốt đẹp hơn.
Bạn tôn kính khi bạn phụng sự Thượng đế trong hành động mỗi ngày và làm tròn bổn phận tôn giáo của bạn như cha mẹ và các bậc lãnh tụ tinh thần đã dạy bạn.
Cả đời bạn sẽ liên hệ với những người khác niềm tin. Ở Mỹ chúng ta tin vào tự do tôn giáo. Vì thế chúng ta tôn trọng người có tôn giáo khác mình, mặc dù trong nhận thức chúng ta không đồng ý với họ.
Nói rốt ráo, đoạn văn này gom bổn phận với Thượng đế và tổ quốc thành một, bổn phận của cá nhân đối với cả hai và cả bổn phận của tổ quốc đối với hoạch định của Thượng đế. Các tác giả cuốn Handbook biến Washington, Lincoln, và Eisenhower thành những người thực hành đức tin chung của tổ quốc, trong khi vẫn khuyến khích khoan dung sự khác biệt giáo phái dưới mái dù lớn của đức tin chung. Điều đáng chú ý là đoạn văn này cũng hồi phục lại kiểu “giáo lý Kytô mạnh mẽ” hồi thập niên 1950. Chuyện “yêu cuộc sống ngoài trời” và “sốt sắng cùng làm với Thượng đế” gợi lại niềm tin thế kỷ 19 rằng một nam tính năng nổ và cường tráng sẽ nuôi dưỡng và củng cố tinh thần và đạo đức cho cá tính của trẻ em.
Tới năm 1960 BSA có hai hình tượng mạnh giúp củng cố vai trò của đức tin và lòng sùng kính tôn giáo trong việc hội nhập thiếu niên Mỹ vào xã hội. Thứ nhất là tác phẩm của Norman Rockwell20. Rockwell có liên hệ với BSA rất sớm. Năm 1912, văn phòng trung ương đã mua tạp chí Boy’s Life của một anh chàng 18 tuổi ở Providence, Rhode Island. Không lâu sau, một anh chàng 18 tuổi khác, Norman Rockwell, bắt đầu làm việc cho biên tập viên Boy’s Life là Edward Cave, để minh hoạ cho tạp chí, sách, lịch Hướng đạo từ 1925 tới thập niên 1970, và bìa các ấn bản Handbook năm 1927, 1959 và 1979, và ấn bản Scoutmaster’s Handbook năm 1959. Cuốn sách đầy hình vẽ của William Hillcourt21 nói về công việc của Norman Rockwell nhân danh Hướng đạo kể chi tiết mối liên hệ này, tôi không kể lại chi tiết ở đây. Tôi muốn nói là nhờ các bìa báo Saturday Evening Post, vô số bức vẽ của ông về Hướng đạo, và nhất là các bức “Four Freedoms” của ông được dùng để bán trái phiếu chiến tranh trong Thế chiến thứ hai, năm 1960 Norman Rockwell đã trở thành nhà minh hoạ lớn của Niềm tin Quần chúng Mỹ. Trong lời thuyết minh cho bức “Our Heritage” năm 1950 của Rockwell, Hillcourt viết rằng trong tờ tranh lịch này “Norman kết hợp ‘bổn phận với Thượng đế’ và ‘bổn phận với tổ quốc’ trong một bức hình duy nhất. Bức hoạ này có một ý nghĩa nữa: năm đó hơn năm chục ngàn Hướng đạo sinh tham dự Trại họp bạn Hướng đạo toàn quốc lần thứ hai ở Valley Forge, Pennsylvania, nơi Washington đã cầu nguyện trong những ngày đen tối của mùa đông 1777-78.”
Thật vậy, Valley Forge là nơi tổ chức cả hai kỳ Họp bạn toàn quốc 1950 và 1957, cuộc tụ họp đông đảo thứ hai và thứ tư của Hướng đạo sinh trên khắp Hoa Kỳ. Văn phòng trung ương chọn nét mặt nhìn nghiêng của George Washington lúc quỳ cầu nguyện xin Thượng đế giúp cho binh lính đang túm tụm dưới cái lạnh ở Valley Forge làm hình ảnh cho hai kỳ họp bạn này. Dĩ nhiên, Washington cũng xin Thượng đế ban phúc lành cho toàn bộ sự nghiệp Cách mạng Mỹ. Bức ảnh cô đọng rực rỡ cả hai yếu tố tôn giáo lẫn chính trị của Niềm tin Quần chúng Mỹ thập niên 1950 và thậm chí chứa đựng điều tôi hình dung là tính đa nghĩa không chủ ý về Chiến Tranh Lạnh. Biểu trưng chính thức của trại họp bạn xuất hiện trên các huy hiệu, áo khoác, ly cà phê và nhiều vật kỷ niệm khác có sẵn cho Hướng đạo sinh.
Văn phòng trung ương BSA chưa bao giờ ra khỏi đặc trưng dân số của thập niên 1950. Năm 1992, ông bố luật sư theo thuyết bất khả tri của cặp sinh đôi ở Anaheim, James Randall, nói với ký giả Los Angeles Times: “Giống như lại đối phó với thập niên 1950 một lần nữa – hay ít nhất là với tất cả những chỗ dở của thập niên 1950”, và ký giả đó thấy nhiều “Hướng đạo sinh già nói kinh nghiệm thời thiếu niên của họ với la bàn, nút dây phức tạp và bạn đồng đội Hướng đạo đã để lại dấu ấn sâu đậm đối với họ. ‘Đó là một trong những thời có ý nghĩa nhất của đời tôi,’ Edward C. Jacobs nói, hồi xưa là thiếu sinh ở Missouri, nay là châu trưởng Los Angeles, châu lớn thứ hai toàn quốc.” Điểm quan trọng của đặc tính dân số về mặt biểu tượng và thực tế của thập niên 1950 là rất nhiều người lớn đang điều hành tổ chức đã là Hướng đạo sinh hay trưởng trẻ trong thập niên 1950.Những nỗ lực liên tục để đưa tổ chức đi xa hơn tầng lớp trung lưu da trắng, nhiều nỗ lực có ý tốt, ít đạt được thành công và thỉnh thoảng gặp tai tiếng. Trong thập niên 1970, trụ sở trung ương dời từ New Brunswick, New Jersey, về Irving, Texas, một khu ngoại ô giữa Dallas và Fort Worth, thể hiện đặc tính nhân số của phong trào. Tổ chức toàn quốc đã chọn phe trong cuộc chiến tranh văn hoá.
Câu chuyện chiến tranh văn hoá đã xâm nhập vào thảo luận chung và đối thoại hàng ngày tới mức hầu hết dân Mỹ hiểu khá rõ ý nghĩa của cụm từ này. Đây là cuộc chiến về giá trị và uy tín đạo đức. James Davison Hunter22, một trong các tác giả hàng đầu về chiến tranh, nói chúng ta đang chứng kiến “những cú thúc phân cực” từ hai phe. Đối với một phe trong dân Mỹ, “phe chính thống”, uy tín đạo đức dựa trên “uy tín bên ngoài, có thể xác định, và siêu việt,” phe này gồm những người bảo thủ văn hoá và các nhà đạo đức truyền thống. Đối với phe kia, “phe tiến bộ”, uy tín đạo đức không cứng nhắc như thế, vì phe này có khuynh hướng “hình dung lại các niềm tin lịch sử theo những giả định phổ cập của cuộc sống đương thời”. Họ là “những người cấp tiến” và “những người tiến bộ về văn hoá”. Hai loại này xoá bỏ và làm xáo trộn các nhóm đức tin truyền thống, kể cả nhóm theo chủ nghĩa thế tục, chúng ta có thể tìm thấy họ trong cả hai phe. Đối với Hunter và một số nhà bình luận về chiến tranh văn hoá, yếu tố nhân dạng mới này – chứ không phải giới tính, chủng tộc, tầng lớp xã hội, truyền thống tôn giáo – trở thành thước đo tốt nhất để biết tư tưởng chính trị của một người.
Vì thế với tất cả lý do này BSA đã không thể nhượng bộ thách thức của người vô thần vào cuối thế kỷ 20. Bất kể các nhà sáng lập phong trào, kể cả Baden-Powell, không quan tâm lắm tới việc cổ động tôn giáo xa hơn một niềm tin rất khái quát về Đấng Tối cao, một sự kiện lẽ ra đã dễ cho Hội Nam Hướng đạo, như Hội Nữ Hướng đạo, sửa lời hứa (trên thực tế, nếu không trên văn bản) từ niềm tin vào Thượng đế sang niềm tin vào một Đấng Tối cao. Các người bảo thủ tôn giáo điều khiển văn phòng trung ương của BSA tự xem mình là đoàn quân quan trọng trong cuộc chiến tranh văn hoá. Nếu tôn giáo, nam tính, và tư cách công dân rối vào nhau như cách nói của BSA và những người khác hình như gây cuộc chiến tranh văn hoá, và nếu, như nhiều sử gia và nhà phê bình xã hội đã ngụ ý, có chứng cớ khắp nơi về “một cuộc khủng hoảng nam tính da trắng”, một cuộc cách mạng địa vị trong đó nam giới da trắng cảm thấy như tầng lớp bị bao vây, thì hẳn nhiên các ông điều hành BSA thấy người vô thần và các luật sư ACLU của họ là đặc vụ của một trận tấn công vào nam tính và da trắng (được biểu tượng hoá qua các tôn giáo Âu châu và tôn giáo Mỹ chính tông là Mormonism). Sự gắn liền nam tính da trắng với tôn giáo hồi cuối thế kỷ 20 giải thích vì sao BSA sẽ không thoả hiệp, khác với Nữ Hướng đạo; rất đơn giản, Nữ Hướng đạo chẳng có lợi ích gì trong phần nam tính của mớ rối rắm này.
Tháng 6, 2012.
Nguồn: Trích trang 35-47, On My Honor: Boy Scouts and the Making of American Youth của Jay Mechling, University of Chicago Press © 2001. Jay Mechling nhận đẳng hiệu Eagle Scout năm 15 tuổi, là biên tập viên tờ Western Folklore 1984–89, giáo sư môn American Studies tại UC Davis. Ông đang viết một cuốn sách mới, Saving Scouting from the Boy Scouts of America. Truy cập tháng 6/2012, tại trang http://press.uchicago.edu/Misc/Chicago/517047.html.
1 Còn gọi là Tree of Life hay Etz Chaim Award, đẳng hiệu dành cho thiếu sinh từ 14 tới 17 tuổi và thanh sinh từ 14 tới 20, nhằm khuyến khích thanh thiếu niên tìm hiểu vai trò của người Do Thái trưởng thành trong gia đình, cộng đồng, và dân tộc Do Thái. [Mọi chú thích là của người dịch].
2 Một tổ chức ở Mỹ có mục đích bảo vệ nhân quyền trong các vụ tranh chấp, lập pháp, và giáo dục công chúng về quyền tự do cá nhân.
3 Granville Stanley Hall (1844-1924), nhà tâm lý học và giáo dục trẻ em của Mỹ.
4 Joseph Rudyard Kipling (1865-1936), người Anh sinh tại Bombay. Tác giả nhiều truyện về đời sống lính Anh ở Ấn Độ và truyện thiếu nhi. Tác phẩm thường được nhắc đến của ông là The Jungle Books, với nhân vật Mowgli và bầy sói được dùng trong ngành Ấu. Ông nhận giải Nobel năm 1907.
5 Ngoài Seton, BSA cho tới nay chỉ phong Chief Scout cho hai Chief Scout Executive khi họ về hưu là James E. West (1943) và Elbert K. Fretwell (1948).
6 Seton nhập quốc tịch Mỹ năm 1931 và chết năm 1946. Seton Memorial Library and Museum hiện đặt tại Philmont Scout Ranch của BSA ở New Mexico. Về Seton và phong trào Woodcraft, xem trang http://www.etsetoninstitute.org/.
7 Daniel Carter Beard (1850-1941).
8 John Chapman (1774-1845) người cổ động trồng táo ở Illinois, Indiana, Ohio, và Pennsylvania, nhà truyền giáo theo phái Emanuel Swedenborg (1688-1772).
9 Henry George (1839-97), nhà văn, chính trị gia Mỹ, cho rằng con người sở hữu những gì mình làm ra, nhưng đất đai và thiên nhiên thuộc về mọi người, vì thế chỉ có một thuế đất (single-tax) là hiệu quả và công bằng nhất.
10 Jay Gould (1836-92), nhà tư bản khai thác và đầu cơ trong ngành xe lửa.
11 Daniel Boone (1734-1820), người khai phá nhiều vùng đất mới của Mỹ, chỉ huy dân quân ở Kentucky thời Chiến tranh Cách mạng (1775-83), và trở thành nhân vật dân gian huyền thoại trong lịch sử Mỹ sau khi bài viết về những cuộc phiêu lưu của ông được xuất bản năm 1784.
12 David Crockett (1786–1836), nhà tiền phong, dân biểu Tennessee ở Hạ viện Mỹ. Ông cùng dân định cư ở Texas chống lại chính quyền Mexico dẫn đến việc thành lập nền Cộng hoà Texas (2/3/1836 – 19/2/1846). Ông mất ngày 6/3/1836 khi bảo vệ thành Alamo ở San Antonio, Texas.
13 Edgar Munroe Robinson (1867-1951), Bí thư Công tác Thanh niên thuộc Ủy ban Quốc tế của YMCA, bảo trợ cho Hướng đạo được sinh hoạt tại các trung tâm YMCA. Năm 1910, ông làm giám đốc điều hành BSA (managing director) và tuyển mộ nhiều nhà lãnh đạo vào Ban quản trị (Executive Board).
14 John L. Alexander (1878-1932), gốc Scotland, giữ nhiều chức vụ lãnh đạo trong YMCA và BSA. Ông là một trong những người sáng lập American Youth Foundation năm 1925.
15 James E. West (1876-1948), mồ côi cha mẹ và sống trong viện cô nhi từ khi còn nhỏ. Ông làm phụ tá cho tổng thư ký YMCA khi đang học luật và trở thành quyền tổng thư ký trong thời chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ (1898). Ông là Chief Scout Executive đầu tiên của BSA, từ 1911 đến 1943.
16 Trích Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ: “… mọi người sinh ra đều bình đẳng, Đấng Tạo hoá ban cho họ những Quyền không thể từ bỏ, trong số đó là Sự sống, Tự do và theo đuổi Hạnh phúc …"
17 Norman Vincent Peale (1898-1993), tác giả hơn 40 bộ sách, chủ tịch Institutes of Religion and Health, xuất bản tập san Guideposts với hơn 4,5 triệu bản mỗi số, thuyết giảng trên truyền thanh và truyền hình trong hơn 50 năm. The Power of Positive Thinking của ông bán trên 20 bản và được dịch qua 41 ngôn ngữ.
18 WCC hiện có ở hơn 110 nước thuộc các phái Chính thống, Anh giáo, Baptist, Lutheran, Methodist, Reformed và không thuộc phái nào.
19 Robert Neelly Bella là giáo sư môn Xã hội học tại UC Berkeley, tác phẩm mới nhất của ông là Religion in Human Evolution (Havard University Press, 2011). “Civil Religion in America” đăng trên Journal of the American Academy of Arts and Sciences, số Winter 1967. Năm 2000, ông được tổng thống Clinton trao National Humanities Medal.
20 Norman Percevel Rockwell (1894-1978).
21 William Hillcourt (1900-92), gốc Đan Mạch, nhập cư sang Mỹ khi còn nhỏ, ông lập nhiều chương trình huấn luyện trẻ cho BSA, thúc giục BSA dùng chương trình huấn luyện Huy hiệu Rừng, đóng góp trong nhiều ấn bản Handbook và trên các tập san Hướng đạo. Ở đây Jay Mechling nhắc tới cuốn Norman Rockwell’s World of Scouting (1977) của Hillcourt.
22 James Davison Hunter là giáo sư tại University of Virginia, giám đốc Institute for Advanced Studies in Culture. Tác phẩm mới nhất của ông là To Change the World: The Irony, Tragedy, and Possibility of Christianity in the Late Modern World (Oxford University Press, 2010).