Post date: Apr 14, 2012 4:55:26 PM
Công hay diễu
Phong trào hướng đạo đang có tại Việt Nam qua sinh hoạt thường xuyên của hàng ngàn hướng đạo sinh từ Cần Thơ ra Huế là một sự thực không có tranh cãi.
Một thực tế khác – Những hướng đạo sinh Việt Nam hôm nay hay những hướng đạo sinh tại miền Nam Việt Nam trước 1975 còn yêu mến phong trào hẳn không ai không mơ đến một ngày hướng đạo Việt Nam – một tổ chức dân sự, tự nguyện, giúp giáo dục thanh thiếu niên góp phần xây dựng xã hội và làm thế giới tốt đẹp hơn – trở thành một thực thể, một pháp nhân, một hội đoàn vô vị lợi, phi chính trị, ngoài chính phủ, có hoạt động hợp pháp từ Cao Bằng cho đến Cà Mau. Đến nay, đó vẫn chỉ là một giấc mơ chung của anh chị em hướng đạo Việt Nam.
Trên mặt pháp lý, có hai quan điểm trái ngược về tư cách pháp nhân của Hội Hướng đạo Việt Nam. Quan điểm thứ nhất cho rằng tại Việt Nam hiện không có pháp nhân nào là Hội Hướng đạo Việt Nam. Quan điểm thứ hai, biện luận rằng Việt Nam hiện nay có đến hai pháp nhân Hội Hướng đạo Việt Nam; một là pháp nhân thành lập năm 1946 dưới chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Pháp nhân thứ hai là một phần của Hội Hướng đạo Việt Nam 1946, vì đất nước chia cắt nên trở thành một hội khác sinh hoạt ở miền Nam. “Hội HĐVN cũng đã chịu chung vận mệnh như đất nước khi bị chia cắt thành 2 Hội HĐVN ở 2 miền, 2 quốc gia VN từ sau năm 1954.” (Nguyễn Lệnh, 2011). Trong một bài viết mới đây cùng tác giả, ông viết,
“Một Hội HĐVN thứ 2 được thành lập sau khi Hiệp định Genève 1954 được ký kết phân chia nước VNDCCH thành 2 quốc gia. Hội HĐVN thứ 2 đó được thành lập ở miền Nam VN theo qui định của Nghị định số 326 NĐTN ngày 09/02/1953 của chính quyền Bảo Đại mà về sau là chính thể Việt Nam Cộng hòa.” (Nguyễn Lệnh, 2012)
Hội Hướng đạo Việt Nam (Quốc gia Việt Nam) thành lập ngày 9 tháng 2, 1953, mười bẩy (17) tháng trước ngày Hiệp định Geneva được ký kết, 20 tháng 7, 1954.
Thứ nhất, tại nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà,
“[…] Sau 1954, Hướng đạo miền Bắc không phát triển, […]” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1997)
“[…] Từ sau kháng chiến chống Pháp, ở miền Bắc tổ chức hướng đạo đã ngừng hoạt động và gia nhập Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam […]” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2004).
“Hội HĐVN ở miền Bắc được mời tham dự Đại hội thành lập Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam (HLHTNVN) ở Hà Nội ngày 9/4/1957 và chính thức tham gia vào HLHTNVN với tư cách là thành viên tập thể […]” (Nguyễn Lệnh, 2011).
Thứ hai, Hội Hướng đạo Việt Nam hoạt động ở miền Nam Việt Nam trong lãnh thổ nước Việt Nam Cộng hoà đến ngày 30 tháng 4, 1975 đã được phép hoạt động bằng Nghị định số 326–NĐ/TN do Bộ trưởng Bộ Thanh niên Thể thao Vũ Hồng Khanh ký ngày 9/2/1953. Như thế Hội Hướng Đạo Việt Nam 1953 đã được thành lập trong Quốc gia Việt Nam, dưới thời chính phủ Nguyễn Văn Tâm, và đã liên tục sinh hoạt và phát triển cho đến ngày 30 tháng 4, 1975, khi chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, với quyết định của Uỷ ban Quân quản thành phố Sài Gòn-Gia Định, giải thể và tịch thu tài sản, cùng trụ sở tại số 18 Bùi Chu, Sài Gòn vào tháng 5, 1975.
Thứ ba, đối với WOSM, Tổ chức Thế giới của Phong trào Hướng đạo, tại Việt Nam chỉ có một Hội Hướng đạo Việt Nam duy nhất là thành viên quốc gia (National scouting organization, memberNSO) từ năm 1957 đến tháng 4, 1975. Đó là Hội Hướng đạo Việt Nam trong chính thể Việt Nam Cộng hoà. Từ ngày đó, 30 tháng 4, 1975, đến nay hướng đạo Việt Nam không còn là thành viên của WOSM.
Cho rằng Hội Hướng đạo Việt Nam 1946 vẫn là một pháp nhân hoạt động, trong bài thuyết trình “Hướng đạo Việt Nam ? ? ?” mới đây, tác giả Nguyễn Lệnh không đồng quan điểm với Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về cả nội dung lẫn hình thức của Thông báo số 143-TB/TW (20 tháng 4, 2004) và phủ nhận hiệu lực của thông báo này.
““Thông báo 143” có đưa ra căn cứ pháp lý là “ở miền Bắc tổ chức hướng đạo đã gia nhập Hội Liên hiệp Thanh niên VN” để cho rằng Hội HĐVN đã ngưng hoạt động. Tôi cho rằng đã có sự hiểu lầm về thuật ngữ pháp lý được sử dụng trong Thông báo. Các thuật ngữ pháp lý được giải thích rằng: hợp nhất, sáp nhập mới chấm dứt pháp nhân; còn gia nhập vào một pháp nhân khác không chấm dứt pháp nhân cũ. Hơn nữa, hiện nay vẫn còn nhiều chứng cứ khác xác định Hội HĐVN ở miền Bắc vẫn tồn tại, hoạt động từ sau ngày gia nhập Hội LHTNVN.” (Nguyễn Lệnh, 2012).
Thực ra Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ đưa ý kiến về thực tế của Hội HĐVN miền Bắc trong hai vế rất đơn giản.
Một là “Từ sau kháng chiến chống Pháp, ở miền Bắc tổ chức hướng đạo đã ngừng hoạt động”.
Và hai là “và [tổ chức hướng đạo đã] gia nhập Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam”.
Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ đưa ý kiến mà không “đưa căn cứ pháp lý” như tác giả Nguyễn Lệnh tưởng.
Về Hội HĐVN ở miền Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng rất vắn tắt:
“[…] ở miền Nam hoạt động hướng đạo tiếp tục phát triển và phân hoá, ngoài tổ chức hướng đạo chính thống, Mỹ nguỵ xây dựng các loại hướng đạo trong tôn giáo, quân đội, cảnh sát… Sau 1975 tất cả các tổ chức này mặc nhiên đã giải thể.” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2004).
Về điểm này, tác giả Nguyễn Lệnh cũng bác bỏ quan điểm của Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, ông viết,
“Còn đối với Hội HĐVN ở miền Nam thì “Thông báo 143” không đưa ra một căn cứ pháp lý nào để chứng minh đã chấm dứt pháp nhân Hội HĐVN mà chỉ nêu một số lý do thuộc về chính trị, […]” (Nguyễn Lệnh, 2012).
Tiếp tục biện luận về mặt pháp lý, trong bài “Về Bài viết “Hai Hội HĐVN” của tác giả Thanh Nam”, tác giả Nguyễn Lệnh viết tiếp:
“[…] cho đến nay tôi vẫn chưa tìm thấy văn bản của “Chính phủ CMLTCHMNVN tịch thu tài sản và trụ sở 18 Bùi Chu, Sài Gòn, vào tháng 5 năm 1975 của Hội HĐVN ở miền Nam” […]”
“[…] khi chính thể VNCH không còn vào năm 1975 thì chế độ mới lên nắm quyền đương nhiên phải bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp mà cá nhân và tổ chức dân sự đã có được hợp pháp dưới chế độ cũ.”
Coi vậy mà không phải vậy.
Sau 30 tháng 4, 1975 chế độ mới nắm quyền ở miền Nam đến 1976 hay từ 1976 đến nay vẫn do một đảng lãnh đạo dù có đổi tên từ Đảng Lao Động Việt Nam thành Đảng Cộng Sản Việt Nam. Và Đảng Cộng sản Việt Nam đã viết:
“Sau 30/4/1975, ta chủ trương giải thể tất cả các Hội-Đoàn quần chúng có ở miền Nam trước năm 1975, trong đó có Hội Hướng đạo.” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1997)
“Ta” ở câu văn trên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Như thế ý kiến của Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2004, năm 2008 về Hội Hướng đạo Việt Nam ở miền Nam cũng chỉ là kiên định lập lại một quan điểm đã có từ trước.
Hơn nữa, theo Nghị định của Chính phủ Quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội số 45/2010/NĐ-CP, ngày 21 tháng 4, 2010, Điều 29 ghi:
“Điều 29. Hội bị giải thể
Hội bị giải thể theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 của Nghị định này trong các trường hợp sau:
1. Hội không hoạt động liên tục mười hai tháng; […]” (Nghị định số 45/2010/NĐ-CP, 2010)
Tóm lại, luật pháp của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thống nhất với quan điểm của Đảng Cộng sản Việt nam là cả hai Hội Hướng đạo Việt Nam ở hai miền Nam Bắc “mặc nhiên đã giải thể”.
Trong khi chưa tìm thấy văn bản chứng minh tài sản và trụ sở của Hội Hướng đạo Việt Nam (VNCH) tại 18 Bùi Chu – nay là 18 Tôn Thất Tùng – bị tịch thu từ 1975, người ta có thể tham khảo thêm Điều 31 của Nghị định số 45/2010/NĐ-CP, ngày 21 tháng 4, 2010 về cách “Giải quyết tài sản, tài chính khi hội giải thể; hợp nhất; sáp nhập; chia, tách”. Hay, đơn giản hơn nữa, người ta có thể truy cứu và tìm hiểu thông tin về bằng khoán nhà đất (sổ đỏ?) của cao ốc hiện ở số 18 đường Tôn Thất Tùng, Quận 1, T.p. Hồ Chí Minh – ngay trước nhà thờ Huyện Sĩ – sẽ rõ, từ trước 1975 đến nay, những ai đã và ai đang là sở hữu chủ của tài sản vừa nêu.Hình bên: NOVA Computer, số 16-18 Tôn Thất Tùng (tên cũ: Bùi Chu), Quận 1, T.p. Hồ Chí Minh
Vẫn trên mặt pháp lý, Điều 99, Chương IV về Pháp nhân của Bộ luật Dân sự (2005) viết:
“Điều 99. Chấm dứt pháp nhân
[…]
2. Pháp nhân chấm dứt kể từ thời điểm xoá tên trong sổ đăng ký pháp nhân hoặc từ thời điểm được xác định trong quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.”
Muốn chứng minh tư cách pháp nhân của hai Hội Hướng đạo Việt Nam ở hai miền còn tồn tại một cách thuyết phục người ta chỉ cần dẫn chứng hai Hội Hướng đạo Việt Nam đang có tên trong sổ đăng ký pháp nhân của chính phủ Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ở trang số xyz, với ngày, tháng, năm đã đăng ký. Nếu không có thì hẳn rằng tư cách pháp nhân của hai Hội Hướng đạo Việt Nam đã chấm dứt như luật định ở Điều 99.2, Bộ luật Dân sự 2005.
Sau cùng, vấn đề của anh chị em Hướng đạo Việt Nam hôm nay là công việc thật của những con người rất thật. Vì thế, trong tinh thần làm việc khoa học, có đem ông Hồ Chí Minh, người đã chết, vào việc của người thật hôm nay cũng chẳng giúp ích được gì. Nếu không người ta có thể nói: ví mà Vua Quang Trung không mất sớm thì dân chúng Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay đã nói tiếng Việt và còn biết đọc áng văn Nôm:
“Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó chích luân bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam Quốc anh hùng tri hữu chủ.
Quang Trung Nguyễn Huệ” (Lê Trọng Hàm, 1922)
Hướng đạo Việt Nam khó khăn coi thường …
Montréal, một ngày tháng 4 năm 2012.
Tham khảo
(1) Nguyễn Lệnh, Giải trình vì sao chưa tái lập Hội Hướng đạo Việt Nam, 5/2011, http://www.boxitvn.net/bai/21313, truy cập ngày 11/4/2012.
(2) Nguyễn Lệnh, Hướng đạo Việt Nam ? ? ?, 8/4/2012, Giúp Ích, http://giupich.org/Tin-tuc-trong-nuoc/Huong-dao-Viet-Nam.html, truy cập ngày 11/4/2012.
(3) Thanh Nam, Hai Hội Hướng đạo Việt Nam, Scouts Abound – Chuyện Hướng đạo, https://sites.google.com/site/scoutabound/Downhome/Chuyen-bay-gio/hai-hoi-huong-dao-viet-nam, truy cập ngày 11/4/2012.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Thành Uỷ Thành phố Hồ Chí Minh, Ban Dân Vận, Tổ chức Hướng đạo – Phương án xử lý. Vấn đề tổ chức Hướng đạo tái sinh trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh hiện nay. (Tài liệu tham khảo – phục vụ nghiên cứu). Văn kiện 10 trang A4, không ghi ngày; tuy nhiên nội dung dữ kiện cho biết đây là một văn kiện viết trong khoảng sau Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh lần VI (9/10/1996 - 12/10/1996) đến đầu năm 1997.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Thông báo Số 143-TB/TW (Mật), Phan Diễn, Ý kiến của Ban Bí thư về hoạt động Hướng đạo Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh, 20/4/2004.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Thông báo Số 157-TB/TW, Trương Tấn Sang, Ý kiến của Ban Bí thư về hoạt động hướng đạo hiện nay tại một số tỉnh, thành phố, 20/5/2008.
(7) Chính phủ Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định Quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội, Số 45/2010/NĐ-CP, Hà Nội, ngày 21 tháng 4 năm 2010.
(8) Chính phủ Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội, Hà Nội, ngày 13 tháng 4 năm 2012. Có hiệu lực từ ngày 1 tháng 6 2012. Cổng thông tin điện tử chính phủ.
(9) Bộ Luật Dân sự của Quốc Hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Số 33/2005/QH11, ngày 14 tháng 6 năm 2005.
(10) Lê Trọng Hàm, Tân đính Nam Á Đại Minh đô đế quốc, quốc sử vựng toản xuân thu đại toàn, gọi tắt là Minh Đô sử viết bằng chữ Hán và có cả thơ văn Nôm. Nam Việt Đồng Thiên hội, Giao Thuỷ, Nam Định (1922-1932).