THUẬT PHONG THỦY ĐỐI VỚI KHOA KIẾN TRÚC NHÀ Ở XƯA VÀ NAY
NỘI DUNG GỒM CÓ :
– Trạch Thuyết.
– Nhà ở Qua Các Thời Đại.
– Kiến Trúc Nhà ở Trên Thế Giới.
– Kiến Trúc Nhà Dân Gian Việt Nam.
– Nhà ở Dân Gian Việt Nam.
– Cung Thất.
– Công Năng Của Các Bộ Phận Trong Ngôi Nhà.
TRẠCH THUYẾT
Bản thân từ Trạch mang ý nghĩa Phong Thủy. “Thích danh” viết : “Trạch nghĩa là chọn lựa, cũng là nói chọn đất tốt để xây cất”.
Về hoàn cảnh bên ngoài của Trạch các triết gia cổ rất coi trọng : “Tả truyện” chép : Tề Cảnh Công Định chuyển chỗ ở cho An tử, nói : “Nhà cửa tử (An tử) gần chợ ướt át bụi bặm, không thể ở”.
Đời Tấn, đã có người tướng trạch (xem đất làm nhà). “Ngự lãm – cư xứ” dẫn “Tấn thư” của vương ẩn nói : Ngụy thư mồ côi cha mẹ từ nhỏ, ở với bà ngoại họ Ninh “Họ Ninh làm nhà thầy tướng bảo nhà này sẽ xuất quí nhân”. Thượng Đảng có người tên Bảo viên mời thầy xem đất sửa nhà, nhà sửa xong, vẫn bị nạn – Thuật sĩ Trần Vũ Phú phê bình ôn thế xem đất nói : Thầy này lấy hướng không tốt, bản thân ông ta bị hại lại bất lợi cho cụ (Bảo Viên) Phía Đông Bắc nhà ở của cụ có một cây dâu lớn …”
Xây dựng nhà cửa phải chú ý phương vị “Hoài Nam tử” chép : Lỗ Ai Công muốn làm nhà hướng Tây, Sử quan cố thuyết phục nói rằng hứong ấy không tốt “Phong tục thông giải thích về chuyện này như sau : Nhà hướng Tây không xây hoặc sửa chữa phòng buồng được, vì hướng Tây là nơi mà các bậc tôn kính ở.Trên nóc trạch có khí. Trong sử sách bậc đại phú, đại quí khi chào đời, trên nóc nhà có khí lành. Khí trên nóc nhà có màu đỏ, trắng, đen, xanh v.v… Hễ nóc nhà có khí màu tía, là phiếm tài có màu trắng là không giữ được củ : màu đen là trong nhà có người phạm pháp, màu xanh là trong nhà có bạc.
Nhà ở của các doanh nhân trong lịch sử, đều chọn nơi đất quí về mặt Phong Thủy, nhà Bách Lý Hề, Phạm Lãi, Trương Huyền, Đào Tiềm, Tạ Huyền, Kê Khang v.v… được truyền tụng hàng ngàn năm nay. Đồn rằng nhà cũ của vua Quang Vũ Đế ở huyện Lục An, kề sông Bạch Thủy, lấy ý nghĩa của Long hổ là bạch Thủy. Nhà Phong Thủy cho rằng đẹp nhất là ở hai nơi : Một là nhà của Khổng Tử ở khúc phụ, Sơn Đông, vùng đất này nằm dưới chân Thái Sơn, nơi giao lưu của hai con sông. Mạt và Sái, được quí cách là bình nguyên đắc thủy, do đó con cháu
hưởng phước lầu bền, ngàn vạn năm không hết. Hai là nơi ở vũ của Trương Đạo Lăng ở Long Hồ Sơn, Giang Tây, mang thế rồng chầu Hổ Phục, tàng phòng tụ khí. Trương Đạo Lăng luyện đơn ở đây, con cháu đều thịnh đạt, truyền hơn 50 đời.
Ngự Lãm – Cư Xứ dân “xuân thu nội sự” viết : “Am trạch lấy mặt trời làm số lẻ, Dương trạch lấy mặt trăng làm số chẵn. Am Trạch lấy đàn ông trong nhà (nội Nam tử) là lẻ, Dương Trạch lấy đàn bà làm trong nhà (nội nữ tử) làm chẵn, thì tốt. Am trạch nội nam từ ba người, Dương trạch nội tử hai người”.
NHÀ Ở QUA CÁC THỜI ĐẠI
Khắp nơi trên thế gian này con người lúc nào cũng lo nghĩ đến chốn nương thân của mình – ngôi nhà. Con người sử dụng nhiều loại vật liệu để làm nhiều ngôi nhà theo nhiều hình dạng và nhiều kích thước khác nhau. Một số người dùng gỗ để dựng nhà, những người khác xây nhà bằng đá hay bằng gạch. Những căn nhà lớn thì được xây dựng bằng thép hay bằng bê tông. Nhiều người lại sống trong những căn liều, hay trên thuyền bỏ neo trên sông. Một số căn nhà được xây dựng trên mặt nước hoặc trên cây cao. Tại sao chổ ở của con người lại quan trọng đến như vậy?
Người ta xây nhà để tránh thời tiết xấu, ở các xứ lạnh ngôi nhà giúp tránh được tuyết và gió lạnh buốt, còn ở các xứ nóng nhà sẽ bảo vệ ta chống lại những cơn gió khô bỏng đến rát da và ánh mặt trời nóng như thiêu đốt. Nhà cũng giúp bảo vệ tài sản riêng của con người, không cho kẻ trộm đột nhập vào. Nhưng nguồn gốc của nhà ở bắt đầu từ đâu và qua thời đại nó có những thay đổi gì?
NHỮNG CĂN NHÀ ĐẦU TIÊN CỦA LOÀI NGƯỜI
Các nhà khoa học nói rằng từ thuở ban sơ con người có ít chổ nương thân hơn loài vật. Một số người dựng những căn liều thô sơ trên cây để tránh nguy hiểm do thú hoang gây nên. Có người lại sống trong các hang đá. Họ đốt lửa trước cửa hang và dùng đá để ngăn chặn thú dữ.
Hầu hết người nguyên thủy tìm kiếm thức ăn bằng cách săn bắt thú cho nên họ phải di chuyển liên tục. Vì thế họ khó có thể tìm thấy những hang đá. Họ dựng những hàng rào chống gió bằng những cành cây, vỏ cây hay bằng da thú. Ngày nay nhiều người vẫn dựng nhà ở như người nguyên thủy, nhiều gia đình ở phía Bắc Trung Hoa khoét những vách đá thành những hang để ở, gần mũi Nam của châu Mỹ, người da đỏ dựng những hàng rào chắn gió thô sơ bằng da thú để tránh khí hậu khắc nghiệt.
NHỮNG CĂN NHÀ CỦA NÔNG DÂN NGUYÊN THỦY VÀ DÂN DU MỤC
Con người đã cải thiện ngôi nhà ở khi họ phát minh ra riều bằng đá và sau này bằng kim loại để dằn gỗ. Đến khi con người biết canh tác mùa màng họ lại ở yên một chỗ, loại nhà thông thường được dựng bằng các cây nhỏ, sau đó họ dùng đất trét kính bên ngoài và mái được lộp bằng sậy hoặc tranh. Ngày nay ở một số vùng nông thôn miền Trung Việt Nam, nông dân vẫn còn dựng những căn nhà bằng vách đất như thế này. Trước hết họ dùng tre làm thành những tấm phên có những lỗ lớn dững lên làm vách. Sau đó họ dùng đất sét ướt có trộn với rơm để đất liên kết với nhau trét kín phên tre, còn mái thì lộp bằng rơm rạ hoặc bằng tranh.
Người nguyên thủy sống bằng cách săn bắt vì thế họ phải sống một cuộc đời du cư. Dân du mục chăn dắt những đàn trâu, bò, cừu, dê cũng có lối sống như vậy. Họ phải di chuyển từ nơi này đến nơi khác để tìm cỏ tươi và nước uống cho súc vật. Thường mỗi lần di chuyển như vậy họ đem theo “ngôi nhà” của họ vì thế họ thường dùng lều (làm bằng da lông thu) để dể mang theo. Người Á rập làm lều ở bằng cách dệt lông dê. Người Mông cổ dùng len kết thành những tấm để dựng lều gọi là yurt.
NHÀ Ở TRÁNH NGUY HIỂM
Ngày xưa con người dựng nhà để tránh kẻ thù. Ơ Thụy sĩ người ta làm nhà trên mặt hồ và dùng chiếc cầu cất nối với bờ hồ. Họ có thể kéo chiếc cầu này vào trong nhà để cho kẻ thù không vào được khi chúng đến. Một số người da đỏ đầu tiên ở miền Tây Nam nước Mỹ dựng ở các hộc đá bằng phẳng trên các vách đá. Như thế họ dễ dàng phòng chống kẻ thù.
Thậm chí ngày nay ở nhiều vùng người ta vẫn còn làm nhà để trốn tránh kẻ thù, không cho chúng đột nhập vào. Người bản xứ ở một số đảo vùng nhiệt đới vẫn còn làm nhà trên cây. Một số dân châu Phi dựng rào chung quanh làng để bảo vệ chính họ và gia súc không bị sư tử hay các thú nguy hiểm khác tấn công.
NHỮNG NGÔI NHÀ CỦA CÁC NỀN VĂN MINH ĐẦU TIÊN
Con người văn minh đầu tiên xây dựng nhà ở tại vùng thung lũng sông Nile (Ai cập) các thung lũng ở hai con sông Tirge và Euphrate (ngày nay thuộc Iraq) và ở thung lũng Indus (ngày nay thuộc Pakistan). Các ngôi nhà giống như những khối lớn và có mái bằng. Họ làm gạch bằng đất sét phơi khô.
Sau này khi các quốc gia trở nên giàu có những người đời sống sung túc xây nhà quanh một cái sân trống. Họ dùng đá để xây thay cho gạch. Ơ Hy lạp và La Mã cổ đại những chủ nhà giàu có dùng vòi nước, dụng cụ vệ sinh, hệ thống các ống dẫn nhiệt. Ơ La mã với phố phường đông đúc thì người ta xây nhà nhiều tầng.
Ơ Bắc Au vì thời tiết quá lạnh cho nên phần chính của ngôi nhà là căn phòng dài như hội trường. Mái nhà được làm cao và có độ dốc đều để giảm lực rơi của những cơn tuyết lớn. Người ta đốt lửa để giữ ấm cho căn phòng. Nhưng vì mái cao nên khói không thoát ra được cho nên người ta mới nghĩ ra cách đục một lỗ thông gió dưới mái để cho khói thoát ra ngoài, đồng thời cho ánh sáng và không khí lọt vào. Khi có những cơn bão lớn, gà vịt gia súc được lùa vào trong nhà.
TỪ NGÔI NHÀ Ở THỜI TRUNG CỔ
Thời trung cổ các vua chúa xây dựng những lâu đài có tường rất dày và có đặt công sự. Nhà quý tộc cùng với gia đình ở trong một gian đại sảnh đồ sộ. Lâu đài tối tăm và nguồn nhiệt duy nhất được dẫn từ một hầm lò ở cuối gian đại sảnh. Gần lâu đài là những căn lều của nông dân. Họ dùng gỗ dựng căn nhà một cách sơ sài, rồi lấy đất trộn với rơm để trét kín gỗ.
Việc phát minh ra ống khói vào những năm 1100 có thể giúp việc xây dựng một căn nhà có nhiều phòng được cung cấp nhiệt bằng một lò sưởi. Cửa sổ bao giờ cũng để ngõ trừ khi gió bão mới được đóng lại bằng một tấm ván kín, vẫn còn quá đắt nên không thể sử dụng rộng rãi.
Ơ Châu Au thời trung cổ thì dân không dám xây nhà ngoài phạm vi bức tường vây quanh thành phố. Để xây thêm phòng chỉ có cách xây tầng cho căn nhà. Những tầng trên cao vươn ra ngoài đường phố không lát gạch và bụi bặm. Những nhà tầng nhô ra này làm cho đường phố tối tăm và ngăn cản sự lưu thông không khí. Ngày nay kiểu xây nhà này vẫn còn thấy một số nước Châu Au.
Thời Trung cổ đã mang lại được nhiều cải thiện về vật liệu xây dựng. Nhiều căn nhà vẫn được xây bằng gỗ nhưng nhà bằng đá và nửa gỗ trở nên thông dụng hơn. Họ dùng ngối lợp thay cho tranh vì chúng dễ bị cháy. Vào những năm 1800 khi máy móc được phát minh nhiều thì đã có những thay đổi đáng kể trong việc xây dựng nhà. Sự thay đổi này đã cải tiến việc sản xuất và vận chuyển vật liệu.
ĐẾN NGÔI NHÀ Ở HIỆN ĐẠI
Nữa đầu thế kỷ XIX máy móc được sử dụng rộng rãi. Máy cưa sử dụng hơi nước và sức nước đã cung cấp rất nhiều gỗ. Đinh và các sản phẩm kim loại khác lại rẽ và phong phú. Việc phát minh ra tàu thủy chay bằng hơi nước, kênh đào và đường xe lửa đã giúp vận chuyển vật liệu xây dựng với giá rất rẽ.
Những thay đổi này đã cải tiến các phương pháp xây cất. Trước đây người ta xây nhà có những người láng giềng giúp, ngày nay người ta có thể vận chuyển vật liệu từ những nơi xa về. Họ có thể xây dựng theo bất cứ kiểu nào mà họ thích. Các nhà phát minh và sản xuất đã đưa ra những mẫu nhà rất tiện nghi được trang bị lò sưởi hay nồi hơi bếp điện.
KIẾN TRÚC NHÀ Ở TRÊN THẾ GIỚI
Thời nào và nơi nào ngôi nhà luôn gọi cho con người một cái gì ấm cúng thân thương, an toàn… Với các nhà nghiên cứu lịch sử, ngôi nhà ở còn biểu hiện một quá trình tiến hóa với nhiều vấn đề lý thú và phức tạp. Nó không chỉ là một di tích lịch sử mà còn là thước đo trình độ khéo léo và kiến thức của người kiến trúc. Giá trị của nó tuỳ vào nghệ thuật sử dụng vật liệu và khả năng thích nghi với khí hậu.
Sơ đồ lối kiến trúc và bối cảnh của ngôi nhà ở thường biểu hiện một lối sống, trình độ kinh tế gia đình, những truyền thống tư tưởng và cả những truyền thống nghề nghiệp nữa, vì thường nhà ở là nơi làm việc, Đ đó ngôi nhà ở là một bằng chứng trình độ phát triển xã hội và văn hóa của một nền văn minh.
Thời đại chúng ta do hoàn cảnh thiên nhiên, do còn những khác biệt về kinh tế, văn hóa, xã hội…Chúng ta thấy xuất hiện nhiều lối sống khác nhau tạo nên nhiều kiểu nhà khác nhau. Từ ngôi nhà chọc trời ở Nui-Yoóc đến các ngôi nhà làm trên nước ở In-dô-nê-xi-a và Pa-pua-xi-a, từ những ngôi biệt thự xinh đẹp ở Lê-nin-grát đến các nhà chòi ở miền quê Việt nam quả có khác, và chính qua đó mà chúng ta hiểu rằng giữa các nền văn minh có những khác biệt tiến hóa.
Ngay cả ở bên trong cùng một nước, vào cùng một thời điểm, việc xây dựng ngôi nhà cũng có những khác biệt. Một ngôi nhà ở thành phố khác xa một ngôi nhà ở thôn quê và ngay cả ở thôn quê vẫn có những quan điểm về nhà cửa khác nhau và những cách thức thực hiện khác nhau. Do đó muốn phân tích sự tiến hóa trong cách xây nhà cửa của một nước không phải là chuyện dễ.
Để thấy được ngôi nhà ở là một chứng tích Địa Lý, lịch sử và xã hội, chúng ta cần phải lướt qua một vài ngôi nhà ở cổ truyền củ amột vài nước trên thế giới theo dòng thời gian.
NHÀ Ở THỜI THƯỢNG CỔ TRÊN THẾ GIỚI
Ngay từ khi xuất hiện trên mặt đất con người đã cảm thấy cần chống nắng che mưa và đối phó với những hiểm nguy chugn quan, nghĩa là cần có nơi trú ẩn. Lúc ban đầu người hang động tự nhiên cũng đủ vì chưa thật sự có khoa học kỹ thuật, vì dân số trên thế giới chưa có là bao.
Nhưng dần dần với đà phát triển củ aloài người rải rác trên năm Châu và ở vào những khí hậu khác nhau, con người cảm thấy cần phải xây dựng cái mà dần dà gọi là: “nhà ở” mà thời đó là những chòi, làm bằng những nhánh cây đan vào nhau. Muốn hình dung được ngôi nhà đầu tiên này, chúng ta cần gợi lại cuộc sống con người qua 3 thời kỳ văn hóa khác nhau.
THỜI KỲ ĐỒ ĐÁ CŨ
Người ta đã tìm thấy trong các hang động chu Khẩu Điếm ở Trung Quốc dấy vết than củi, tro và bếp lò, được đào ngay trong đất. Thời đó người vượng Bắc Kinh sống không khách thú bao nhiêu. Ở Việt Nam trong các hang Thẳm Khuyên và Thẳm Hai tỉnh Lạng Sơn cũng đã tìm
thấy dấu vết của người vượng ví dụ những chiếc răng. Những chiếc răng bé nhỏ này gần với răng người vượn Bắc Kinh là chứng cứ chắc chắn về sự tồn tại của người vượn. Ở Việt Nam, khí hậu ấm áp chưa đòi hỏi con người phải tìm chổ ẩn náu, do đó thời bấy giờ con người chưa biết che chái hoặc đào hang để ở.
CUỐI THỜI KỲ ĐỒ ĐÁ CŨ
Thời này là thời kỳ băng hà, khí hậu rất lạnh đưa đẩy con người đi tìm nơi ẩn trú che thân. Trước khi nghĩ đến việc tự đào lấy hang ổ con người đã biết tận dụng những hang động sẵn có và đã lưu lại trên nóc các hang này những vết tích của mình. Đó là những hình vẽ bằng màu tự nhiên, hình bò rừng, hưu đực, voi ma mút và cả hình người nữa.
Chính các hang động Lát-xcô được khám phá năm 1910 ở Pháp đã cung cấp cho chúng ta những tư liệu quí báu về người bước đầu của nghệ thuật, ra đời vào thời kỳ này. Văn hóa hậu kỳ đá cũ ở Việt Nam mà hiện nay ta biết là văn hóa Sơn Vi. Theo người điều hiểu biết hiện nay thì các bộ lạc chủ nhân văn hóa Sơn Vi đã cư trú trên một địa bàn rất rộng ở miền Bắc nước ta. Có những bộ lạc Sơn Vi chủ yếu sống ngoài trời như các bộc lạc vùng đồi Vĩnh Phú và Hà Bắc. Cũng có người bộc lạc sống trong các hang động núi đá vôi như ở các tỉnh Sơn la, Lai Châu… Trong hang động, trên vách có khắc hình một con thú và 3 mặt người.
THỜI KỲ ĐỒ ĐÁ MỚI
Ở Việt Nam văn hóa Hòa Bình tiếp nối và bắt nguồn từ văn hóa Sơn Vi. Nếu chủ nhân văn hóa Sơn Vi vừa cư trú ngoài trời vừa cư trú trong hang thì bộc lạc văn hóa Hòa Bình chủ yếu sống trong các hang động. Hang con Mcong ở huyện Cẩm Thuỷ tỉnh Thanh Hóa là một chứng cứ cho thời kỳ văn hóa này, người Hòa Bình thích sống trong các hang núi hay mái đ1a. Họ thích sống ở khu vực tần cửa hang, khoáng đãng có ánh sáng. Đôi khi cũng tìm thấy dấu vết của họ, trong những vách tối. Họ thường chọn những hang thấp gần sông suối, nhưng cũng đã tìm thấy dấu vết của họ trong những hang rất cao trên núi.
Bên Châu Âu các đám người từ Châu Á tràn đến khắp nơi đem theo với họ nền văn minh nông nghiệp và chăn nuôi. Thời này là con người đã biết cãi tiến dần dụng cụ làm việc và từ đó cả ngôi nhà ở của mình nữa. Lúc ban đầu người ta chỉ biết mài giũa những dụng cụ bằng đá và tra cán vào. Kế đó người ta đã khám phá ra đồng và sắt. Từ đó con người có hả năng đào hầm trú thông thương với nhau, bằng những đường hầm, đào trong lớp đá cứng.
Bên Anh người ta đã khai quật được nhiều hầm trú loại đó được đào ngay trong lớp đá hoa cương. Nhưng thường gặp hơn là những đường hầmđào trong lớp đá troi mềm. Ở bang cô-lô- ra-đô bên Mỹ người ta đã tìm thấy vết tích của rất nhiều đường hầm trú kiểu đó và đã gọi các nơi ấy là “những làng của người ở hang” (villages of cave dwellers) ở hẽm vực lớn, đào tong các vách đá vôi. Cũng đã thấy những hang loại đó ở Tu-ni-di (Tunies, Bắc Phi) ở vùng Met- ma-ta (Matmata).
Ngay ở Pháp vào cuối thế kỷ vừa qua, một số đông dân cư vẫn còn sống trong những hần trú được đào trong các sườn đồi hóc hiểm ở bên trên lưu vực sông Loa (Loris).Mãi cho đến năm 1960 một vài hầm trú vẫn còn người ở.
Với những dụng cụ mối bằng đồng con người có thể hoàn thiện túp lều thô sơ ban đầu của mình làm bằng các nhánh cây đan vào nhau.. Con người ở thời kỳ đồ đá mới biết gọt đão gỗ cần thiết cho ngôi nhà mới của mình. Một sườn nhà thô sơ đã ra đời, các góc được buộc bằng da thú hoặc bằng dây leo rút từ rừng về. Ở nước ta, “có thể trong mùa nóng nực, người nguyên thủy đã sống trong những chiếu liều đơn giản ngoài hang động. Ở những nơi có tần văn hóa ngoài trời như Sậy Việt (Sơn La) thì hẳn là con người đã có những ngôi nhà chắc chắn hơn. Để tránh nước lũ và thú rừhg, con người đã có sáng kiến cất nhà sàn. Nhiều vết tích nhà sàn thời
tiền sử đã được tìm thấy ở Thụy Sĩ. Hiện nay nhà sàn trên nước vẫn còn thông dụng. Ở nước ta và ở một số đảo ở Thái Bình Dương, ở Su-ma-tra, người Ba Tắc (Batak) đã có thói quen dựng những ngôi nhà sàn lớn, mái tranh cao và thẳng, trên hồ Tô-ba.
Lều trại của vài bộ lạc du mục thường là một khung sườn nhẹ bằng gỗ, nhưng thay vì lợp đất hay tranh họ quấn vào cái sườn đó, hoặc là da thú hoặc là những dải vải chấp nối lại với nhau. Cái chòi của các bộ lạc Otx-chắc (Ostiak) ở Liên Xô hoặc bộ lạc Ti-pi-dơ (Tespees) da đỏ ở miền Bắc nước Mỹ, lại có một cấu trúc giống hệt cái chồi ở Phờ-ri-di (Phrygie, miền Trung Tiểu Á). Họ thường đào hầm vào những mô đất cao. Trên miệng hầm, họ cấm sào và túm lại thành hình nón… Nhưng chiếc lều, hiểu theo đúng ý nghĩa của nó, chính là chiếc lều của người Bê-đu-anh (Bédouins), những người du mục Á Rập ở miền Bắc Phi Châu hoặc ở cận Đông. Đó là một tấm bọc lớn, được chống cao lên hờ những cây cột và được căng thậy thẳng hàng những dây thừng buộc vào những cái cọc chôn sâu xuống mặt đất. Cái lều này chính là tiền bối của chiếc lều cắm trại hiện nay.
NGHỆ THUẬT XÂY CẤT RA ĐỜI
Với thời gian con người nghĩ đến việc cải tiến ngôi nhà ở của mình, các tiến bộ của nền văn minh đưa đẩy con người bỏ ngôi nhà thô thiển để tiến tới xây cất những ngôi nhà kiên cố khang trang hơn với những vậy liệu bền chắc hơn. Con người không chỉ muốn ở đó mà còn phải ở đẹp, không phải sống lây lất mà phải sống hẳn hoi.
Ở Ai Cập nghệ thuậtxây cất nghĩa là ngành kiến trúc đã ra đời khá sớm, chính người Ai Cập đã xây cất những “ngôi nhà” đầu tiên. Trong lúc trình độ rất nhiều nước trên thế giới đang ở cấp tiền sử, người Ai Cập đã biết tự tổ chức thành một xã hội chặt chẽ, đã nghĩ ra và đã xây dựng được những công trình khoa học nghệ thuật. Họ biết khai thác điều kiện Địa Lý của đất nước họ, một nước nghèo gỗ nhưng rất nhiều đất sét, cát kết, đá vôi và đá hoa cương.
Họ là những người một đạo thế nên những ngôi nhà đầu tiên được họ xây cất là những đền thờ cho các vị thần của họ, những Kim tự tháp, những ngô mộ cho người chết của họ là vì theo Đi- o-do ở đảo xi-xin họ quan niệm ngôi nhà chỉ là một “một nhà trọ đêm vì cuộc sống ở trần gian quá ngắn ngủi”. Nhà ở của người Ai Cập thời đó thường hoặc bằng “sậy đan” hoặc bằng “gạch”. Đây là một thứ vật liệu được họ chế tạo mang nhiều nét hình thù khác nhau, dần dần được phổ biến trên thế giới. Người Ai Cập đã tiến hành việc đúc gạch như thế nào vào 4000 năm trước Công Nguyên? Họ đã dùng rơm băm nhỏ nhồi với đất sét và dùng khuôn in từng miếng gạch thường có kính thước khác nhau: 11x14x38cm rồi đem phơi nắng. Các viên gạch này được gắn chặt với nhau bằng một loại hồ đất sét hoặc được đặt ngay hàng trên một lớp cát mịn và dùng để xây tường. Người Ai Cập không chỉ biết xây tường mà còn biết xây nóc nhà vòng tròn hình cung bằng cách sắp gạch theo vòng tròn lớp này đè lên lớp kia, vòng trên nhỏ hơn vòng dưới một chút.
Với nguyên vật liệu mới này và chính điều kiện khí hậu đã hướng dẫn họ trong việc chọn lối kiến trúc: nhà không có cửa sổ nhưng có những lỗ thông hơi, mái nhà là một sân thượng nơi người ta có thể hóng gió vào những buổi chiều oi bức, vách dày để có khả năng giữ ngôi nhà luôn mát mẽ. Riên các đền đài vua chúa gồm cả một loại biệt thự thuộc loại nhà như trên, rải rác được vây kín bên tong một thành lũy: một ngôi nhà gọi là “Semelek” dành cho nhà vua, một nhà khác dành cho hoàng hậu, các cung phi, các hoàng tử và công chúa gọi là “harem” và sau cùng ngôi nhà của những người hầu, người giúp việc cũng có thể thông thương với nhau bằng những cổng lớn có cột. Độ sáng và không khí được bảo đảm trong nhà nhờ những kẻ hở, những lỗ thông hơi chạy dài từ nền nhà đến nóc nằm ở các góc nhà.
TIỂU Á: A-XI-RI VÀ CAN ĐÊ
Nếu chúng ta rời khỏi miền lưu vực sông Nil và đi về Đông bằng hai con sông Ơ-phờ-rát và Ti-gơ-rơ chúng ta sẽ nhận thấy rằng trái với người Ai Cập người A-xi-ri và Can-đê không quan tâm đến các đền thờ và các ngôi mộ bằng nhà ở.
Theo các hình chạm nổi còn lưu lại, người A-xi-ri và Can-đê thời đó thường dựng ngôi nhà gồm hai sân thượng chồng lên nhau làm mái nhà để chống nắng. Những ngôi nhà của những bộ lạc Thổ Nhị Kỳ người Cơc-đéx sống trong sa mạc ngày nay khá giống với kiểu nhà hai sân thượng chồng lên nhau này.
Trình độ kiến trúc Ai Cập A-xi-ri và Can-đê đã ảnh hưởng xâu xa đến kiến trúc phương Đông ngày nay. Họ thừa kế loại nóc tròn hình cung được cải tiến thêm, đặc biệt họ đã tìm ra phương thức để nối liền các nóc tòn hình cung với mặt phẳng hình vuông của ngôi nhà. Nghèo về gỗ họ phải đi kéo về từ rất xa có lẽ ở tận Li Băng bây giờ, để dùng làm sân thượng cho các nhà ở cũng như đền đài. Các sân thượng này được đặt nằm trên những đà ngang do những cột nhỏ ở dưới chống đỡ.
HY LẠP VÀ ĐẾ QUỐC LA MÃ
Người Hy Lạp cũng như người Ai Cập đặt nặng vấn đề xây miếu thờ thần, nếu nước Hy Lạp là đất nước của nhiều thành phố văn minh, có tổ chức, gồm nhiều sân vận động, nhiều nhà hát, hội trường… Thì nhà ở của họ rất đơn giản được xây bằng gạch đá, hồ mà hiện nay chỉ còn sót lại một vài đống hoang tàn.
Người ta đã hai quật được nhiều ngôi nhà xiên, sở dĩ còn lưu truyền lại là vì xây bằng đá hoa cương, cứng và bền. Các ngôi nhà này được kiến trúc mang máng giống như ngôi nhà ở phương Đông: ngôi nhà được ngăn với bên ngoài của vòng tường, bên trong nhà lại thông thương với nhiều sân. Nhà được chia thành nhiều căn hộ: một căn cho nam giới gọi là “andro Cite” một căn cho nữ giới gọi là “ghynoeconute”. Ngôi nhà Hy Lạp chỉ có một hoặc hai tầng, mái ngói đôi khi có một sân thượng nhỏ.
Các ngôi nhà La Mã đều có một lối kiến trúc gần như nhau, lối kiến trúc lại giữa ngôi là ê-to- ru-ni và ngôi nhà Hy Lạp. Những ngôi nhà được sắp xếp chung quanh một cái sân bên trong gọi là “atrium”. Một hàng cột theo kiểu Hy Lạp đặt ranh giới giữa nơi tiếp khách và nhà ở là cái sân. Loại nhà này thường chỉ có một hoặc hai tầng, trên lầu là phòng dành cho phụ nữ, và trên nữa là những buồng dành cho nô lệ. Ngôi nhà có thể khang trang rộng rãi nhưng thiếu hẳn tiện nghi: các phòng thường lạnh lẽo không có lò sưởi ấm như các ngôi nhà trong Hy Lạp. Thời dó người ta chưa biết hoặc hầu như chưa biết đến vệ sinh. Một cái hốc đào trong tường được dùng làm “cầu tiêu” và lại thường nằm ngay trong nhà bếp!
PHÁP
Những di tích tìm được qua các lần khai quật ở miền Trung nước Pháp cho thấy là trước cuộc xâm chiếm của đế quốc la Mã (58-50 trước C.N), xứ Gô-lơ (Gaule) đã có một nền văn minh khá cao. Người xứ Gô-lơ, tiến bối của người Pháp nói riêng và người Châu Âu nói cung, đã biết khai thác hầm mỏ, các hầm đá, đã biết dệt và nhuộm vải. Người ta đã khai quật được nền móng của một công trình xây cất chứng tỏ rằng người giàu có thời xứ Gô-lơ đã sống trong những ngôi nhà đầy đủ tiện ghi, gồm nhiều phòng, có phòng dành cho chủ hộ, vợ con, cho người giúp việc và cả nơi nuôi gia cầm nữa.
Do ảnh hưởng của thời đế quốc La Mã xâm chiếm, sau đó ngôi nhà của người Gô-lơ là một sảm lai tạo giữa kiến trúc La Mã và kiến trúc Gô-lơ, thích nghi với điều kiện khí hậu và vật liệu trong xứ. Người Gô-lơ vẫn tiếp tục sử dụng gỗ trong việc xây cất nhà cửa.
Trong ngôi nhà Pháp thời Trung cổ, gỗ được dùng để làm sườn, cột, thanh ngang, đòn tay…còn bên ngoài thường xây bằng đá đẽo hoặc gạch và hồ tùy từng miền hoặc tường cổng lắp bằng
hồ trộn sỏi. Vào thế kỷ XV, người ta dùng cột và gỗ ngắn thay vì dài như trước đây, nhờ vậy có thể xây nhà tần trên nhô ra ngoài, đỡ tốn chổ, nhưng theo kiểu này tầng dưới thường rất tối. Cách sắp xếp bên trong như sau: tầng dưới là cửa hàng, phía sau là bếp, một hành lang bên hông dẫn ra phía sau một chiếc cầu thanh hình trôn ốc dẫn lên lầu một. Tần này gồm phòng của gia đình chủ nhà, tầng hai gồm nhiều phòng khác. Các cánh cửa sổ bằng gỗ được dần thay thế bằng kính hai bản vào thế kỷ XIII rồi được chia thành bốn bản vào thế kỷ XIV. Các cánh của sổ, lần đầu tiên được gắn liền với khung cửa bằng những chiếc bản lề, tùy nghi mở ra để không khí bên ngoài tuôn vào. Chiếc lò sưởi còn rất thô sơ: một ống dẫn khói từ dưới lên trên dùng để tống khói ra khỏi nhà.
Ngôi nhà thời Trung Cổ, thường rộng rãi nhưng chưa mấy tiện nghi. Cuối thời Trung cổ những ngôi nhà ở trên không còn đáp ứng đủ như cầu của các người tư sản mới giàu, những người buôn bán, những nhà tu hành, những người quí tộc mà nghề nghiệp và chức vụ đòi hỏi họ vãng lai một thời gian dài ở các thành phố lớn. Chính như cầu đó đã khai sinh ra các ngôi nhà thời Phục Hưng, tiền thân của các khách sạn ngày nay.
Vào thế kỷ XVI hầu hết các ngôi nhà đều có kiểu kiến trúc trên và rõ nét thêm vào thế kỷ XVII để rồi đưa đến các ngôi nhà xinh đẹp trong lịch sử kiến trúc nước Pháp đầu thế kỷ XVIII. Bên trong ngôi nhà lúc đầu phòng ở và phòng tiếp khách là một. Bà chủ nhà thường nằm trong giường để tiếp khách! Giữa thế kỷ XVII lại thêm các hốc kẽ giường và vào thời kỳ này, các phòng bắt đầu có chức năng riêng. Phòng ăn bắt đầu được ra đời, các cầu thang hình trôn ốc được thay thế bằng cầu thang tay vịn và một loại phòng khác mang tính “phô trương” hơn là có công dụng thật sự: đó là phòng ngoài, phòng chờ đợi, hành lang…phòng tiếp khách. Chỉ vào thế kỷ XVIII là lần đầu tiên người ta mới thật sự nghĩ đến việc xây phòng vệ sinh và phòng tắm. Các hoạ sĩ, thợ dệt thảm và các nhà trang trí cũng đã tiếp tay với kiến trúc sư để taọ nên những ngôi nhà duyên dáng và mang tính cân đối. Vào thế kỷ XIX các cao ốc cho thuê trở thành một yêu cầu lớn do hiện tượng tăng dân số trong các thành phố lớn nhưng thường các ngôi nhà này được xây vội để kiếm tiền nên rất thiếu sót về tiện nghi và không mang chút tính kiến trúc nào cả. Đây là những dãy phòng nối đuôi nhau, không mấy sáng sủa và hầu như vắng bóng các “phòng vệ sinh”.
Dưới thời Đệ Nhị Đế Chế Pháp thế kỷ XIX Sác Gác-Niê (Charles Garnier) một kiến trúc sư người Pháp đã lên tiếng đặt vấn đề tiện nghi nhà ở và yêu cầu tách riêng phòng ở và phòng tiếp khách. Tuy vậy các phòng ở còn nghèo nàn và các nhà tư sản thường đặt trọng tâm vào các phòng phụ: phòng ăn, phòng khách, bàn giấy, phòng trang điểm phụ nữ chiếm phía trước và được sưởi ấm, các phòng ở bị dồn về phía sau. Nhà vệ sinh thường chật chội tối tăm có khi nằm ở đầu gầm cầu thang “không mấy vệ sinh”.
Sau thế chiến thứ hai phải kiến thiết lại nhà của và xây thêm nhà mới, để giải tỏa những trung tâm lớn. Cuộc cách mạng công nghiệp đã xáo trộn ngành xây dựng: kiến trúc bằng bê-tông cốt sắt ra đời và ngày càng phát triển trước nhu cầu ngày càng lớn của xã hội, những ngôi nhà vệ sinh hơn. Những loại nhà mới, nhiều tầng, ra đời gấp rút để đáp ứng nhu cầu nhà ở. Người ta đặt trọng tâm váo các phòng ở, nhà vệ sinh, phòng tắm bắt đầu xuất hiện trong mỗi nhà.
NGÔI NHÀ TRUNG QUỐC VÀ NHẬT BẢN CỔ TRUYỀN.
Ngay từ thế kỷ thứ III trước công nguyên, người Trung Quốc đã dùng đấn một thứ gạch nung được chết tạo rất hoàn hảo. Những kiến trúc sư Trung Quốc là những người đầu tiên đã xây dựng những bức tường rổng bên trong: hai bức tường chiếc được xây lên song song, được nối liền với nhau ngoài mép bởi một hàng gạch ngang làm cho tường ngay ngắn và bền chắc hơn.
Người La Mã vào thế kỷ XIV – XVI cũng đã dùng loại tường rổng này nhưng cho hồ trộn sỏi vào giữa.
Nhân dân Trung Quốc nhiều người biết nghề mộc, thế nên nhà ở cũng như chùa chiền của họ được xây cất bằng những loại gỗ thông hoặc bằng tre nứa, theo phương pháp của kiến trúc Lỗ Ban, vị tổ sư nghề mộc sống vào thế kỷ thức tư trước công nguyên. Theo Lỗ Ban, nhà không nên để vách thủng, vì như vậy người chủ sẽ bần hàn hoặc nhà để cổng nhỏ, hư hỏng thì trộm cướp dễ dòm ngó.
Kiến trúc Nhật Bản tạo dựng những ngôi nhà nhẹ nhàng, xinh xắn, thích hợp với những điều kiện Địa Lý của nước thường bị động đất. Thoáng khí sáng sũa, ngôi nhà Nhật thường được nới rộng ra bởi một hành lang như ở các xứ nóng. Việc sắp xếp các phòng ốc không cố định mà tùy thuộc mỗi gia đình. Các vách là những khung gỗ lớn được dán giấy, có thể xê dịch được dễ dàng, nhằm tránh đổ vỡ lớn khi có động đất đồng thời có thể thay đổi tùy theo thời tiết hoặc theo sở thích của chủ nhà. Cũng có trường hợp, nhà gồm hoặc hai vách xây và các vách còn lại làm bằng giấy.
Ngôi nhà được chia thành nhiều phòng, nền nhà thường được trải đệm, một loại đệm làm bằng rơm dài khoảng 4cm gọi là “tatami”. Trên tấm đệm đón còn được trải thêm một loại chiếu manh. Trên nguyên tắc, trong các phòng không có bàn ghế. Tuy nhiên khi có, dù giản dị, dù sang trọng, lúc nào cũng rất tươm tất gọn gàng. Mỗi phòng bất cứ lúc nào đều có thể biến thành phòng ăn, phòng ngủ. Để ăn cơm, người Nhật chỉ dùng một chiếc bàn thấp và vài chiếc gối đệm. Trong phòng không bao giờ kê giường, người Nhật dùng những tấm nệm bông, đặt trên nền nhà nghĩ đêm, ban ngày được cuốn lại, đút vào tủ lớn, thường là một cái hốc lớn được dục khoét ngay trong chiếc vách xây.
KIẾN TRÚC NHÀ DÂN GIAN VIỆT NAM
TỪ THẾ KỶ 3-4 SAU CÔNG NGUYÊN CHO ĐẾN NGÀY NAY
Thế kỷ 3-4 sau Công Nguyên. Ngôi nhà Việt Nam thời xa xưa là một ngôi nhà lợp tranh hay lá, có hai mái chính và hai mái đầu hồi che hai chái, cũng có loại chỉ có hai mái bịt dốc không chái. Vách bằng tre nứa hoặc bằng đất bùn nhồi rơm. Ngôi nhà có thể gồm từ một đến 5 gian còn là căn. Nhưng thường gặp nhất là ngôi nhà ba gian và một gian:
“Nhà anh chỉ có một gian
Nửa thì làm bếp nửa toan làm buồng”
Hai kiểu nhà trên đã có rất lâu, khoảng thế kỷ thứ 3-4 sau công nguyên ở miền Bắc. Trong các ngôi mộ cổ đào được tại Bắc Ninh, Vĩnh yên và Thanh Hóa, đều có những chiếc nhà nhỏ bằng đất nung giống hai kiểu nhà trên.
Từ thế kỷ XVIII –XIX ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và miền đông nam bộ ngôi nhà ba gian cũng rất phổ biến. Ngôi nhà ba gian tuy nhỏ bé nhưng đã giữ vị trí quan trọng trong buổi đầu con người đến khai phá mảnh đất này. Thuở sơ khai ấy, ông cha ta đã dựng lều, chòi để trồng tỉa chăn nuôi. Dần dần theo thời gian hình thành những ngôi nhà lợp bằng rơm rạ, lá dừa nước, lá trung quân…và sau này là gạch, xi măng đúc sẵn, ngói…
Kiểu nhà thay đổi tùy theo từng địa phương và cũng tùy địa vị xã hội của chủ hộ. Tại miền Bắc nhà được làm theo kiểu chữ Đinh ba gian hoặc năm gian. Ở miền Trung nhà cũng được làm theo kiểu chữ Đinh, lại có thêm nhà vuông, nhà rương. Nhà vuông tức là nhà ba gian chính thông nhau, hai gian nhà chái cũng thông nhau bằng một ngăn rộng sau những gian giữa. Còn nhà rương là nhà ba gian hoặc năm gian không chái trông tương tự như một chiếc rương.
Thời phong kiến, nhà các quan thường được cất theo kiểu chữ Cong hoặc chữ Môn và có gác. Nhà dân thì không được làm theo hai kiểu trên và không được làm gác.
Loại nhà đặc biệt của miền Nam là loại nhà “bánh ít” bốn mái đều nhau nóc cao, mái dốc, loại này thỉnh thoảng còn thấy tồn tại ở một vài khu trong Sài Gòn. Bên trong gian này ngăn với gian kia bằng hàng cột. Gian giữa là nơi thờ cúng tổ tiên cũng là nơi tiếp khách. Trước bàn thờ thường có kê một bộ trường kỹ và đôi khi giữa bộ trường kỹ bàn thờ có thêm một chiếc sập. Khách khứa được chủ nhà tiếp ở đó, bạn bè xa xôi cũng được mời cơm uống rượu ở trên chiếc sập này. Phụ nữ không được phép có mặt ở gian này, mà chỉ được tiếp khách ở các gian phụ. Các gian phụ này bên phải thường là phòng của con trai và bên trái phòng của con gái. Các giam nằm thành dãy được chia ra thành nhà trên, nhà ngang và nhà bếp. Nhà trên gồm có nhà thờ tổ tiên ở giữa, nhà ngang và nhà bếp ở hai bên. Những dãy nhà này có thể vây cung quanh một cái sân rộng. Trước nhà có mái hiên, có khi chạy suốt cả mấy gian, có khi chỉ đủ cho ban gian nhà chính. Nhiều nhà thay mái hiên bằng một giàn bông thiên lý hoặc bông giấy… Sau nhà thường là vườn trước sân là ao. Cổng vào nhà thường ở bên cạnh dãy nhà ngang.
Nhiều nhà của người dân nông thôn ở các tỉnh phía Bắc đều có cổng. Đi dần từ Huế vào Nam, cổng nhà ít thấy nữa nhất là ở thôn quê, nhiêu nhà chỉ có một hàng rào cây xanh thấp hoặc một cái chà gai vững chải để đến đêm kéo ngang đủ ngăn ngõ ra vào.
Theo P.Gu-ru (Gourou), một nhà nghiên cứu sử, “các ngôi nhà Việt Nam, đặc biệt ở miền Bắc, không chỉ là những ngôi nhà chòi, nhà tranh được dựng lên không chủ định, mà đó là những ngôi nhà chắc chắn trong đó người ta đọc được ước muốn tạo dựng một cái gì bền bỉ và hài hòa. Những ngôi nhà không kém gì những ngôi ngà nông hôtn ở nhiều nơi bên Châu Âu”. Thực vậy, lối kiến trúc nhà ở Phương Đông nói chung và ở Việt Nam nói riệng không chỉ nhằm dựng nên một nơi trú nắng tránh mưa mà còn tạo được một nơi thnh lịch có cây, có cảnh.Nhìn riêng mỗi nhà không có gì là đặc sắc nhưng toàn bộ rất ăn khớp với phong cảnh chung quanh. Dù là đình, chùa hay nhà ở. Kiến trúc truyền thống Việt Nam luôn nhằm tạo ra môi trường dễ chịu cho người ở bên trong, hạn chế những bất lợi của thiên nhiên.
Hình ảnh nổi bật của ngôi nhà cổ truyền là bộ phận mái, chiếm tỷ lệ khá lớn trên chính diện của nhà, có khi chiếm tới quá nữa. Mái được cấu tạo rất dày bao gồm nhiều lớp ngói chồng lên nhau, xem giữa ngói là những lớp không khí có tác dụng rất lớn trong việc hạnh chế ảnh hưởng của những tia bức xạ nhiệt. Trong ngôi nhà ở dân gian, mái lợp bằng lá gối hoặc rơm rạ cũng có tác dụng tương tự.
Bình thường nhà được dựng ngay trên mặt đất, khác với các ngôi nhà sản ở Lào và Campuchia. Tuy nhiên ở những vùng cao nguyên và ở miệt Châu Đốc, Bạc Liêu cũng có nhiều nhà sàn trên đất hoặc trên nước. Cho dù có nhiêu kiểu nhà khác nhau, những ngôi nhà Việt Nam ở nông thôn vẫn trung thành với một đường nét chung nhất mang nhiều đặt tính cổ truyền của dân tộc.
Dần dần nhà ngói vách xây đã thay thế cho những ngôi nhà tranh vách đất. Tuy nhiên, “những tòa ngói cao” này là sở hữu của những gia đình khá giả và mái nhà tranh lụp xụp vẫn là nơi ăn chốn ở của người lao động.
Sự phát triển của ngành kến trúc trên thế giới cũng giúp cho sự phát triển kiến trúc ở nước ta. Cuộc chiến tranh vừa qua ở nước ta đã phá đổ biết bao nhieu nhà cửa, tổ ấm của nhân dân. Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, nền kinh tế rồi đây sẽ phát triển, chắc chắn nhân dân ta sẽ có những ngôi nhà xinh đẹp, đầy đủ tiện nghi và hiện đại.
NHÀ Ở DÂN GIAN QUA CÁC THỜI ĐẠI QUÂN CHỦ TẠI VIỆT NAM
Từ thời đại đồ đá tiến sang thời đại đồ đồng, tổ tiên xa xưa của chúng ta cũng rời bỏ hang động miền núi để tiến ra miền trung du và đồng bằng, quần tụ theo từng cụm ở các đỉnh gò, sườn đồi,chân núi và doi đất. Trải qua một quá trình dài thực nghiệm à cải tiến, đến gia đoạn văn hóa Đông Sơn. Và dấu vết vật chất của nó cũng tìm thấy ở di chỉ Đông Sơn (Thanh Hóa) là những dóng tre, những mảnh phên và đặc biệt là những cột nhà bằng gỗ dài đến 4-5 mét có lỗ mộng cách chân cột 1,25mét. Đó là những ngôi nhà ở trên sàn, không có tường, mái cong võng hình thuyền và chạy xuống sát sàn, kiêmluôn chức năng vách che.
NHÀ Ở DÂN GIAN QUA CÁC THỜI ĐẠI QUÂN CHỦ TẠI VIỆT NAM
Từ thời đại đồ đá tiến sang thời đại đồ đồng, tổ tiên xa xưa của chúng ta cũng rời bỏ hang động miền núi để tiến ra miền trung du và đồng bằng, quần tự theo từng cụm ở các đỉnh gò, sườn đồi, chân núi và doi đất.
Do sinh tụ giữa trời nên việc dựng nhà trở thành nhu cầu bức thiết.
Trải qua một quá trình dài thực nghiệm và cải tiến, đến giai đoạn văn hó Đông sơn, mô hình ngôi nhà đã hoàn chỉnh và khá phong phú, mà hình ảnh cụ thể của nó cũng tìm thấy ở di chỉ Đông sơn (Thanh Hóa) là những dóng tre, những mảnh phên và đặc biệt là những cột nhà bằng gỗ dài đến 4 – 5 mét có lỗ mộng (để bắt sàn?) cách chân cột 1.25 mét. Đó là những ngôi nhà ở trên sàn, không có tường, mái cong võng hình thuyền và chạy xuống sát sàn, kiêm luôn chức năng cách che, hai đầu mái phía trên uốn cong lại và nhô ra xa, trên nóc mái là có một hoặc hai con chim đậu.
Cạnh nhà ở còn có nhà kho cũng ở trên sàn, mái cong vòng lên hình mui thuyền, hai sườn mái rất dày. Những mẫu hình nhà này đều mang dáng dấp con thuyền, tĩnh mà rất động, thon thả mà chắc chắn, thích nghi với khí hậu nắng nóng và mưa to, hợp với khung cảnh thiên nhiên còn nhiều ngòi lạch chằng chịt mà hằng năm vào mùa mưa nước dâng lên ngập trắng cả vùng. Để dựng lên những ngôi nhà sàn này, cư dân Đông sơn dùng ngay vật liệu có sẵn trong vùng là tranh, tre, gỗ với cấu trúc khung cột – kèo – sà, toàn bộ sức năng dồn vào các cột để chuyển xuống đất, mặt ngoài có một số một típ trang trí như chim, gà ở độ vừa phải không lạm dụng, đủ để làm duyên. Ngôi nhà sàn Đông sơn võng nóc hình thuyền này còn được thấy ở các dạng nhà hình thuyền khác của người Đại ắc (Dayale) và người Tôratrgia (Toradja) trên quần đảo Indonexia. Biến dạng một chút ngôi nhà sàn Đông Sơn để có nóc thẳng, còn được thấy một số dạng nhà ở khác hoặc nhà mồ của một bộ phận thổ dân trên quần đảo Indonexia, thấy được cả ở nhà của người Ê đê trên Tây nguyên … chứng tỏ giữa các khối cư dân này có một mối liên quan mật thiết, riêng ở kiến trúc có một sự “bảo thủ” dai dẳn, để qua đó (không hề khiên cưỡng) thấy cả khung cảnh Đông Nam Á của văn hóa Đông Sơn.
Do cách “kiến trúc Đông Sơn” đã hoàn chỉnh, nên sau đó trong cuộc tiếp xúc hơn ngàn năm văn hóa Hán, mặc dù bị cưỡng bức, kiến trúc Việt Nam vẫn còn được dân gian duy trì với bản sắc dân tộc độc đáo, mà đến kỷ nguyên tự chủ sẽ phát triển mạnh mẽ. Trong tình hình tư liệu kiến trúc thời Bắc thuộc còn rất nghèo nàn, việc Thái thú Tôn Tú bắt hơn 1.000 thợ thủ công ở Giao Chỉ đưa về Bắc dâng cho vua Ngô để góp vào việc xây dựng kinh đô Kiến Nghiệp, chứng tỏ rằng trong dân gian Giao Chỉ lúc này có nhiều thợ xây dựng nhà cửa giỏi.
Cũng trong thời kỳ Bắc thuộc, phật giáo được nhân dân ta tiếp nhận và tin theo, nên nhiều chùa tháp được xây dựng nhưng cho đến nay đã qua nhiều lần tu sửa không còn dấu vết gì của buổi khởi tại nửa. Đồng thời một số đền thờ các anh hùng truyền thuyết, có cả một số anh hùng dân tộc cũng được xây dựng, tuy nhiên ngày nay cũng không còn dấu vết vật chất nào.
Còn nhà của nhân dân, đương nhiên vẫn được phát triển, với sự kiềm hảm và bốc lột của nặng nề của phong kiến ngoại xâm, chắc chắn rất đơn sơ.
Dù sao, với tình hình thợ thủ công có tay nghề cao với sự xây cất nhà cửa, đền và chùa mà sử dụng còn khẳng định kiến trúc dân gian dưới thời Bắc thuộc chắc chắn giữ được sự phát triển tiệm tiến, chậm nhưng là cơ sở để khi đất nước độc lập sẽ phát huy.
Ơ buổi đầu thời Lý, trong khí thế đi lên của nhà nước Đại Việt, đời sống nhân dân ổn định liên tục nhiều năm được mùa, cùng với việc xây dựng của nhà nước, thì việc xây dựng của nhân dân cũng được đẩy mạnh. Từ nhà tranh tre mọi người còn muốn có ngôi nhà ngói mới khang trang hơn.
Thể theo yêu cầu ấy năm 1.084 vua Lý Nhân Tông xuống chiếu “cho thiên hạ nung ngói lợp nhà (Đại Việt sử ký toàn thư)”.
Theo truyền thống kiến trúc nhà lợp ngói phải là nhà gỗ và thông thường chủ nhân của nó thuộc loại “gia cư thời cũng bậc trung”. Có lẽ do được luật pháp cho phép, ngôi nhà sân gạch được xây dựng ồ ạt. Các công trình chà tháp trong thôn đã không còn địa vị độc tôn nữa, nên năm 1.097 vẫn vua Lý Nhân Tông ra lệnh “cấm dân gian bá tánh không được xây nhà ngói, làm nhà lớn” (Việt sử lược). Và như vậy, trong dân gian từ những năm cuối chót của thế kỷ XI nhà cửa của người bình dân chỉ còn là những nếp nhà tranh.
Tình hình kiến trúc này cũng phù hợp với tình hình xã hội từ thời Lý cả về kinh tế và chính trị đều không ổn định. Nhà Trần vẫn duy trì tình trạng trên, nên cuối thế kỷ XIII xứ nhà Nguyên là Trần Phu (tức Trần Cương Trung) sang ta thấy trong dân dã hầu hết là nhà tranh đã ghi lại trong sách “An Nam tức sự” : “Làm nhà không có kiểu gấp mái hoặc chống kèo, mà mái nhà từ đòn dong (nóc) đến giọt tranh cứ thẳng tuột một mạch như đổ thẳng xuống.
Vì vậy, nóc nhà rất cao nhưng mái hiên chỉ cách mặt nền chừng 4 – 5 thước (khoảng 1.3 mét đến 1.7 mét) có nhà mái còn xuống thấp hơn nữa nên trong có phần tối phải chỗ cửa. Trong nhà không bày bàn ghế, có giường, bộ ngựa hoặc trải chiếu cối ngay xuống nền cạnh giường ngủ có là than để sưởi khi trời lạnh, cũng để tránh hơi ẩm xông lên khi mưa, nắng. Cũng có nhà lợp ngói, kiểu ngói ta lợp như hình vẫy cá”.
Ngôi nhà tranh thời Trần rõ ràng đã là một sáng tạo độc đáo của dân tộc ta, chống cả được mưa nắng và ẩm lạnh, lại biết khắc phục tình trạng thiếu sáng giản đơn mà thanh thoát, vương cao mà bám chắc, chú ý ở mảng lớn. Chẳng những thứ dân mà nhiều danh sĩ cũng thích ở nhà tranh, đưa nhà tranh vào trong thơ văn. Và do đó qua thơ văn thời Trần chúng ta hiểu thêm hình ảnh người nhà tranh. Đó là chỗ ở thanh u của Nguyễn Tử Thành :
“Thềm rêu loang vách vết sên bò, Gió xuân cỏ mọc xanh rờn cả sân …”
Nguyện Uc từng làm quan trong viện hàn lâm cũng “nương thân dưới mái nhà tranh”. Quan Tư Đồ Trần Nguyên Đán cuối đời cũng về Côn Sơn “dựng am” ở trong “lều cỏ”. Nói chung đó là những ngôi nhà sơ xài “nhà trắng, đèn xanh” của kẻ sĩ như Nguyễn Hán Anh, Nguyên Phi Khanh rất tự hào về cái thú quê nhà của mình :
“Rào tre bao quanh nhà có muôn nhánh ngọn, Nhà củ chừng hơn năm thước ở bên chùa cổ” Cả quán khách của ông cũng rất bình dị : “Nhà tranh bên khóm hoa, xuân đẹp mãi, Cửa sài ngoài cột liểu, khách dễ tìm”
Ơ đó trong cảnh nhà tranh thanh bần, cửa cũng chỉ là tấm phên che ghép bằng những cành cây nhỏ. Cánh cửa ấy ở nhà Chu Văn An như một mảng trang trí : “Cánh cửa phên che nghiêng ngăn cái rét nhẹ”.
Đúng như Trần Phu nhận thấy, nhà ngói không nhiều nhưng cũng được xây dựng. Nguyễn Phi Khanh khi nói về cái thú ở thôn xóm đã tự hào về một ngôi nhà ngói đơn sơ :
“Vài gian nhà học, khuất trong lau lạch
… Sương phủ trên mái nhà, trĩu nặng ngàn viên ngói:
… Gió xuân đầy thềm, thú biết bao nhiêu!
Song thời Lê tình hình xây cất nhà cửa vẫn chủ yếu bằng tranh tre.
Nguyễn Trãi trong lúc long đong “Triều quan chẳng phải, ấn chẳng phải” đã ở “Góc thành Nam, lều một gian”. Một gian lều thì hẳn là nhà tranh đơn sơ nhỏ bé, phù hợp với gia cảnh : “Ao bởi hẹp hòi, không thả cá,
Nha quen xú xứa, ngại muỗi vằn”
Va ngày sau khi hiển đạt nhất, ông vẫn sống trong căn nhà nhỏ bé như người ở ẩn, được cái xinh xắn mà ông đã tức cảnh :
“Hiên và sông nho nhỏ, nhà tranh thấp thấp Nhà quan bổng thấy giống như nhà ẩn dật”
Và cái thú của kẻ sĩ “Lều tranh đọc sách cạnh hoa chơi”, tự bằng lòng với ngôi nhà mới ở “chỗ quạnh chỉ hơn một cung đất nữa đầy gai bụi”, tức gần như túp lều giữa mảnh vườn hoang rộng chừng 5 thước.
Ngôi nhà có hiên và cửa ấy nhìn ngay ra vường hoa, suốt ngày đêm mang thiên nhiên đẹp đến với Nguyễn Trãi, hòa quyện trong nhà với ngoài vườn, cảnh với tình :
“Hé cửa đêm chờ hương quế lọt Quét hiên ngày lệ bóng hoa tan”
Và ngôi nhà của Nguyễn Như Đổ còn đơn sơ đến gần như hoang dã : “Nhà tranh vẫn sơ sài,
Rêu biếc thềm phủ khấp, Cỏ xanh xanh mọc đầy …”
Cho đến thế kỷ XVIII, danh y Lãn Ong định cư ở Hương Sơn (Nghệ Tỉnh) cũng chỉ “dựng lều nuôi mẹ”. Cả cụ Tam Nguyên Yên Đổ cũng rất hài lòng với “Năm gian nhà cỏ thấp lè tè”.
Từ “lều một gian” đến “năm gian nhà cỏ” quy mô có mở rộng, không có chạm khắc trang trí và điều dùng những vật liệu só sẳn ở địa phương. Đương nhiên cũng có nhà lợp ngói, như “Vài gian nhà học” của Nguyễn Phi Khanh và thông thường nhà mái ngói thì khung bằng gỗ. Dù sao thì những nếp nhà tranh và những ngôi nhà mới của tư nhân mà thư tịch cổ kể ra cũng đều dung dị, hòa lẫn trong môi trường thôn dã nằm trong khuôn khổ mà luật pháp phong kiến cho phép.
Luật Gia Long ở điều 156 qui định về kiến trúc của dân gian rất ngặt nghèo : “Tất cả nhà cửa, xe cộ, quần áo và tất cả mọi vật dụng của quan chức và thường dân phải phân biệt rõ ràng. Ai dùng trái phép thì bị trị tội.
“Nhà ở trong bất cứ trường hợp nào cũng không được dựng trên nền hai cấp hay chồng hai mái (chồng diềm) không được sơn vẽ và trang trí. Cấm làm nhà gác cao bằng vai kiệu của trưởng quan đi tuần … Cấm dân dùng gỗ lim làm nhà. Cấm trạm trỗ các vì kèo. Cấm làm nhà chữ “công” chữ “Môn”…
Nhà dân không được làm quá ba gian năm vì kèo không được trang trí … Kiểu nhà làm đẹp quá thì bị tội lộng hành. Vườn có cây đẹp thì phải tiến vua.
Để nội dung trong Luật Gia Long truyền được đến nhân dân, Minh Mạng còn ban hành những huấn điều được diễn ca cho dễ nhớ :
“Dân phường mà giáp đường quan
Không được làm gác trông ngang ra đường Có cần làm chỗ chứa hàng
Chiều cao không được cao bằng kiệu quan”.
Những qui định luật pháp như trên đã quyết định qui mô, kết cấu hình thức ngôi nhà dân gian nói chung là nhỏ và đơn sơ. Phải đến ngày nay nhà cửa của nhân dân mới có thay đổi lớn.
CUNG THẤT
Theo quan niệm hiện đại “cung” là nơi ở hoặc kiến trúc tương đối cao quí. Ơ thời thượng cổ “cung” chỉ nhà ở thông thường nhà dân cũng có thể gọi là “cung”, có thể gọi gộp lại là “cung thất” “cung” đồng nghĩa với “thất”.
Về nguồn gốc của cung thất “Mặc tử – Từ hóa” chép “Người cổ xưa chưa biết làm cung thất, mà đào lổ ở hang trên các đồi gò, dân ốm đau do ẩm ướt, nên bậc thánh nhân mới nghĩ ra cung thất. Phép xây dựng cung thất : thất cao khả dĩ chống ẩm ướt, các bệnh đủ để tránh phong hàn, che mưa nắng”. Đoạn văn trên đây chứng tỏ thời thượng cổ dựa vào núi non gò đống mà làm nhà để che mưa nắng ẩm thấp. Thời xuân thu, cung thất nói chung quay mặt về hướng Nam, cung có tường bao quanh, trong cổng có sân trong sân thì kiến trúc dịch về phía Bắc, không có đường (sảnh đường) thất phòng.
Đối với cung xưa nay vẫn coi trọng địa điểm. “Sử Ký” chép : “huyền vũ nguy chủ cung thất” Thư li tử tìm đất xây mộ, dự đoán 100 năm sau sẽ có hai cung Thất Tí và Tí cung ở hai bên mộ của mình. Hán Vũ để đi tuần du Hà đông thấy rất nhiều chim phượng đậu ở một nơi bèn hạ lệnh xây Bộ thọ cung ở nơi đó, để đón điều lành. Nơi ở củ của Đường Cao Tông ẩm ướt nên bị phong thấp nhà vua ra lệnh xây cung đại Minh trên đồi cao phía Nam cung giáp với phía Bắc của kinh thành. Đường Cao Tông những năm cuối đời trong thượng dương cung, đồn rằng khi xây cung Thượng Dương này, đào được một mâm đồng đựng 2 con cá chép, có khắc chữ “để lại dài lâu cho con cháu” kiểu chữ lệ. Cao Tông cho rằng đến cung này có thể trung hưng.
Người xưa cũng rất quan tâm màu sắc và tác dụng của khung “Thần dị kinh” chép : “phía Đông có cung, tường xây bằng đá xanh cao khoảng 2 nhẫn, khuyết cao trăm thước, cổng vẽ năm màu, có ngân bảng khắc chữ trên thạch bích : “Thiên Địa trưởng Nam chi cung” phía Tây có cung tường xây đá trắng, huyền hoàng môn ngữ sắc có kim bảng khắc chữ nam bạc “Thiên hoàng nữ chi cung”, Tây Nam có cung lấy kim loại làm tường, cửa khuyết treo kim bảng khắc chữ bạc “Thiên hoàng chi cung”.
Phía Nam có cung dùng đá đỏ xây tường, đồng đỏ làm cửa, cửa khuyết treo ngân bảng khắc chữ “Thiên địa trung nữ chi cung”. Phía Đông Nam có cung, dùng đá vàng xây tường có bảng màu vàng khắc chữ “Thiên địa thiếu nam chi cung” Hai bên dưới Tây Nam có âm dương câu dê ngựa bằng đá xếp đối diện hai bên đường đi”. Phần ghi ở trên có đề cập tới sáu phương vị (Đông, Tây, Tây Nam, Nam, Bắc, Đông Nam) còn đề cập tới “cổng năm sắc” phân biệt “trung nam” “trung nữ” phản ảnh các quan niệm Phong Thủy.
CÔNG NĂNG CỦA CÁC BỘ PHẬN TRONG NGÔI NHÀ
A – KIẾN TRÚC NHÀ Ở THEO LỐI SỐNG CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
Không có ai xây ngôi nhà của mình chỉ để nhìn ngắm. Bởi vậy ngoài vẻ đẹp, ngôi nhà còn phải rất tiện nghi để có thể phục vụ tối đa nhu cầu sinh hoạt của con người. Thậm chí người ta còn đưa nhu cầu tiện nghi lên hàng đầu. Trong một thời gian dài trước đây, người làm thiết kế phải thuộc lòng phương châm : “Thích dụng, bền chắc, tiết kiệm, mỹ quan”. Khi đã khấm khá, yếu tố “tiết kiệm” được dặt dưới “mỹ quan” nhưng “thích dụng” thì không bao giờ bị coi nhẹ. Với các thể loại công trình khác nhau công năng cũng rất khác nhau (nhà hát, trường học, bệnh viện …). Tất nhiên trong nhà ở thì công năng chính của ngôi nhà là để ở. Kiến trúc sư người Pháp Le Corbusier khẳng định thêm điều đó bằng câu tuyên bố bất hữu : “Nhà là cái máy để ở”, và chính ông khởi xướng ra trường phái công năng (Funtionalism) có ảnh hưởng sâu rộng trong kiến thức toàn cầu. Thoạt nghe, lời tuyên bố trên có vẻ cực đoan, xong ngày càng được thực tế chứng minh đứng đắn, nhứt là trong thời đại công nghiệp phát triển như ngày nay.
CÔNG NĂNG VÀ TẬP QUÁN SINH HOẠT
Có thể giải thích thế nào về sự đa dạng của kiến trúc nhà ở trên các vùng lãnh thổ khác nhau, của các dân tộc khác nhau? Tập quán sinh hoạt có lẽ đóng vai trò không nhỏ để tạo sự khác biệt này. Tập quán đó nói rõ hơn là những thói quen về làm việc, ăn ở và sinh hoạt được hình thành qua nhiều thế hệ, nhiều giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế và tiến bộ kỹ thuật. Xết về một mặt nào đó thì các ứng dụng kỹ thuật mới vào ngôi nhà lại làm thay đổi cách sinh hoạt, thay đổi các quan niệm về ở một cách tích cực.
Ta hãy cùng nhau điểm sơ một vài kiểu nhà điển hình cho các phương thức sống khác nhau. Hình 1 là một ví dụ về ngôi nhà ở của một gia đình trung nông sống ở đồng bằng Bắc bộ. Nhà thường có cấu trúc ba gian hai chái và một nhà dãy nhà ngang.
Gian giữa thường đặt bàn tổ tiên và một bộ tràn kỹ (bàn ghế cổ) để tiếp khách. Hai gian bên bố trí các bộ ván làm chỗ ngủ cho con cái, người già, đồng thời làm nơi ăn uống khi có giỗ, kỵ đám hỏi. Một chái làm chỗ ngủ cho vợ chồng chủ nhà, là nơi cất giữ đồ quí, hạt giống hay có khi là lương thực dự trữ. Gian chái còn lại là nơi chế biến nông sản đôi khi là nơi sản xuất hàng thủ công, một nghề phụ của gia đình. Dãy nhà ngang là bếp nấu, nơi trữ chất đốt, chuồng gia súc (trâu, bò, heo, gà, vị …)
Phía trước là một sân phơi rộng để phơi nông sản và rơm ra. Ba gian nhà chính có thể không lót gạch khi chưa có tiền nhưng sân phơi thì bao giờ cũng được lót gạch hoặc ít nhất cũng láng xi măng. Kế đến là một vườn rau nhỏ để trồng rau ăn hằng ngày, trong đó có một khoảnh nhỏ dành cho giếng khơi hoặc một bồn chứa nước mưa thu từ mái ngói. Có một ao nhỏ thả cá, trên đó đặt một cầu ao dùng làm nơi rửa rái. Người nông dân thường dọn cơm ra mâm đặt trên nền bếp và ngồi ăn tại đó. Khi có khách khứa người ta mới dọn cơm ăn trên bộ bàn ghế đặt giữa nhà, ngôi nhà loại này cho thấy ngay lối sống giản dị của người nông dân vá phát họa một bức tranh sinh hoạt khá mộc mạc nơi thôn dã.
Đo thị được hình thành bắt đầu từ những phố chợ nơi người ta trao đổi và mua bán hàng hóa. Ơ đây mực độ cư trú cao hơn, đất đai trở nên hiếm đắt hơn, bắt đầu ra đời loại nhà căn phố có chiều ngang hẹp và sâu.
Sau này chúng phát triển theo chiều cao (nhà có gác, lầu) và mặt tiền được mở rộng hết bằng cách loại cửa kéo nhăm phục vụ cho buôn bán kinh doanh.
Sau này cho dù không buôn bán gì nhưng ta hiếm thấy ngôi nhà nào thuộc dạng này lại mở cửa ra vào nhỏ phía trước. Ngoài việc giúp co buôn bán thuận tiện, việc mở rộng cửa còn
nhằm mục đích tăng cường ánh sáng cho căn nhà vốn có các phòng hình ống hẹp và sâu. Hình 2 là một ví dụ của một dạng nhà này tại Sài Gòn hay Chợ lớn được xây dựng vào thời Pháp, Mỹ và cả bây giờ.
Dần dần thì những nhà hình ống như vậy vẫn tồn tại nhưng được cải thiện nhiều về chế độ ánh sàng và thông gió bằng cách chừa những khoảng trống.
Cuối cùng người sử dụng vũng hiểu được rằng thà căn phòng hẹp đi một tí nhưng tiện nghi hơn thì vẫn tốt hơn nhiều so với căn phòng rộng nhưng tối tăm và thiếu gió. Ơ những phố sầm uất thì căn phòng ngoài mặt tiền của tầng trệt vẫn được dành cho việc buôn bán hoặc cho thuê để người khác kinh doanh. Vào phía trong một chút là phòng khách rồi đến cầu thang. Phía sau cùng là bếp, phòng ăn và một khu vệ sinh nhỏ. Việc đặt phòng vệ sinh kiểu này khá bất tiện vì mỗi khi khách đến nhà muốn đi vệ sinh thì phải đi ngang qua bếp đang nấu nướng.
Có thể khắc phục bằng cách đưa các khu vệ sinh dịch ra phía phòng cạnh cầu thang. Song không ít người lại có ấn tượng về khu vệ sinh xấu xí bẩn thỉu, gây mùi hôi nên họ vẫn chấp nhận bất tiện kể trên.
Các nhà thiết kế đôi khi phải tốn khá nhiều thời gian và lý lẻ để thuyết phục cho các thân chủ hiểu rằng quan niệm đó đã lỗi thời và rất không thích hợp với lối sống ngày nay.
“Các chung cư (Apartment) được ra đởi ở nước Anh vào thờikỳ cách mạng công nghiệp. Sự bùng nổ số lượng công nhân làm việc trong nhà máy buộc các ông chủ phải nghĩ đến giải pháp ở cho họ. Loại hình này tồn tại cho đến nay và có nhiều biến đổi. Ơ một số thành phố lớn, các khu chung cư được coi là nơi ở của đa số cư dân trong vùng. Đặc điểm của loại nhà này là cho phép mật độ dân khá cao sống khá thoải mái với một hệ thống phục vụ khép kín của một thiểu khu (gồm nhiều dãy nhà) như nhà tre, trường học, bách hóa …
Một tòa chung cư thường từ 2 đến 12 tầng hoặc cao hơn. Mỗt tầng có từ hai căn hộ trở lên được thiết kế độc lập khép cho từng gia đình. Từ “độc lập khép kín” có thể hiểu như sau : Ngoài việc sử dụng chung khối cầu thang, mỗi căn hộ đều có các phòng khách, phòng ăn, phòng ngủ, bếp, vệ sinh riêng biệt. Cánh cửa ra vào của mỗi căn hộ được coi là sự ngăn cách biệt lập với xã hội bên ngoài không khác gì cánh cửa của một ngôi nhà riêng. Kiểu nhà này thích hợp với những cư dân ít tiền, đa số là các công chức, công nhân xí nghiệp sống trong đô thị.
Nếu giải quyết tốt các vấn đề điện nước, chổ để xe thì mô hình này có thể được coi là khá là lý tưởng, được các nhà quy hoạch đô thị rất quan tâm ứng dụng trong tổ chức đô thị. Đa số các chung cư này được xây dựng dựa trên các đồ án kiến trúc được vạch sẵn nên rất thích dụng cho mỗi gia đình sinh sống tại đó.
Nhà ở biệt thự hay nhà vườn có thể coi là mẫu mực cho mô hình của con người bởi sự tiện nghi, thoải mái. Vẻ đẹp đa dạng của nó. Được đặt trên những khu đất rộng, có tường rào và sân vường bao quanh, dạng nhà này thường có mặt tại các vùng ven đô, các khu phố sang trọng, là nơi ở của tầng lớp trung lưu có thu nhập khá và xe hơi riêng. Loại nhà này chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong số lượng nhà ở của một đô thị.
NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT KHI MUA NHÀ Ở
Người Trung Quốc rất chú trọng nơi ở, nếu điều kiện kinh tế cho phép, họ nhất định phải tìm mua bằng được một căn hộ đàng hoàng, vì họ hco rằng làm như vậy mới được coi là “có ngói che đầu”, mới có thể sinh căn lập mệnh được. Nếu không sẽ luôn cảm thấy phận mình lưu lạc, phiêu dạt không yên.
Do đó người Trung Quốc dù ở đâu bao giờ cũng coi việc an cư lạc nghiệp là mục tiêu hàng đầu. Một khi đã phải hao tổn nhiều tâm huyết cho việc mua nhà thì lẽ đương nhiên ngôi nhà mà họ trôn gđợi sẽ đem lại sự dễ chịu và thịnh vượng.
Nhiều người muốn chọn một ngôi nhà thuận Phong Thủy để ở, nhưng lại không biết chọn thế nào? Nay xin giới thiệu 8 điều cơ bản trong việc chọn nhà theo thuật Phong Thủy để giúp những ai đang có nhu cầu tham khảo.
KHÔNG MUA NHÀ CÓ GIÓ TO
Khi chọn nhà, trước tiên hãy đến tận nơi quan sát một lượt, xem môi trường xung quanh có khiếm khuyết gì không? Điều đầu tiên cần vhú ý là quan sát phong thế (thế gió). Nếu thấy gần nhà có gió to và mạnh thì không nên mua nữa. Bởi vì cho dù ngôi nhà đó đúng là có sự ngưng tụ vượng khí thì cũng sẽ bị gió làm cho tiêu tán hết. Phong Thủy học rất coi trọng sự “tàng phong tụ khí”, điều đó chứng tỏ nơi mà có thể có gió lớn chắc chắn sẽ không phải là vượng địa. Nhưng cũng cần lưu ý một điểm, phong thế quá lớn cố nhiên là không hay, nhưng nếu phong thế quá yếu, không khí kém lưu thông thì cũng lại chẳng hay.
Môi trường nhà cửa lý tưởng nhất là có gió nhẹ lui riu thổi lại, gió mát trong lành, đó mới hợp với thuật Phong Thủy.
CÓ ĐỦ ÁNH NẮNG MẶT TRỜI
Phong Thủy dương trạch (nhà ở) rất chú ý đến ánh sáng mặt trời và không khí, cho nên khi ta chọn nhà ở không chỉ phải có không khí trong lành, mà phải có đủ ánh sáng mặt trời (dương quang). Nếu một căn phòng không đủ ánh sáng mặt trời, thì luôn luôn bị âm khí nặng nề, sẽ làm cho gia trạch bất ổn, do đó không nên ở ngôi nhà đó.
Ví dụ: một c8an phòng không đủ ánh nắng mặt trời, qua cổng là gặp ngay một đường hành lang vừa dài vừa hẹp, phòng khách, phòng ăn gần như không có cửa sổ, do đó ánh sáng ở bên ngoài khó mà lọt được vào. Những loại phòng như vậy, chẳng những không khí và ánh sáng đều thiếu mà còn có thể đó như một vũng nước chết âm khí nặng nề, không thể sống động được.
Ở GIỮA Ô NHIỄM
Điều này muốn nói rằng, vị trí trung tâm không nên làm nhà xí, làm như vậy chỉ đem lại điều không may. Chẳng hạn, nhà xí ở ngay chính giữ angôi nhà, như vậy chẳng có lợi chút nào. Còn nếu nhà xí không nằm ở trung tâm mà nằm ở giữa nữa phía sau củ nhà, tạo thành một đường thẳng với cống rãnh thì cũng không hay. Bởi làm như vậy sẽ dẫn đến sự khuynh gia bại sản.
NGÕ PHỐ ĐÂM THẲNG VÀO NHÀ
Phong Thủy học “thích vòng lượn, kỵ trực xung” bởi cái thế trực xung (đâm thẳng) rất mạnh, nếu nhà ở bị thế trực xung thì sẽ gặp hoạn nạn, nên phải hết sức thận trọng. Vì thế trước lúc mua nhà, phải đến tận nơi xem trái phải, trước sau của ngôi nhà có bị con hẻm hay đường trực xung hay không?
Khi cổng của ngôi nhà bị con đường đâm thẳng vào, con đường này càng to dài thị sự hung hiểm càng lớn, xe cộ càng nhiều, tai họa càng lớn. Do đó có người gọi đó là
“hổ khẩu ốc” (nhà miệng cọp), vì thế khó mà ở yên được trong ngôi nhà đó.
ĐỊA THẾ NÊN BẰNG PHẲNG
Nếu nhà ở chẳng may nằm ở phị trí trên dốc thì khi chọn mua phải đặc biết chú ý quan sát kỹ hoàn cảnh xung quanh, bởi vì, xét từ gói độ Phong Thủy học, những ngôi nhà có địa thế bằng phẳng thường vững chắc, còn bị nghiêng và dốc phần nhiều gặp nguy hiểm tai nạn xe cộ. Có lẽ vì vậy mà họ cho rằng: cửa chính của ngôi nhà chiếu thẳng với một do gia sản bị tiết lậu mà người nhà bị ly tán, một đi không trở lại. Họ cũng quan niệm những nhà ở nơi dốc thường bị lậu tài (mất của), còn những nhà ở dưới dốc thường lại hay bị tổn đinh (mất người).
PHÍA TRƯỚC NHÀ CÓ ĐƯỜNG PHỐ CẢN PHẢN CUNG.
Caí gọi là “phản cung” là chỉ đường phố trước nhà quanh Côn Lôn, mà góc cong lại đâm thằng vào cổng nhà. Phong Thủy học gọi đó là “liêm đao cát yên”, vì nó có lợi ích mà hại nhiều. Còn trong sách “Dương Trạch nhập thủ” lại cho rằng ở trong ngôi nhà đó hay bị chết người và hỏa hoạn, bệnh tật…Tóm lại là ợ trong những ngôi là loại đó đều là hung (dữ).
KHÔNG NÊN Ở GẦN NƠI CÓ NHIỀU ỐNG KHÓI
Sách Phong Thủy học “Dương Trạch nhiếp yến” viết: “ống khói đối diện với giường sẽ làm cho phụ nữ khó sinh đẻ”, điều đó đủ thấy ống khói đồi với sức khỏe con người có hại thế nào. Chỉ riêng việc hkói than mà ta phải hít hằng ngày đã đủ hại đến sức khỏe.
KHÔNG NÊN Ở NHÀ TIỀN, MIẾU HẬU
“Nhà tiền miếu hậu” là chỉ nơi phía trước quan phủ nha môn và phía sau tự viện đạo quan, những nơi dày đều không thuận cho sự ở. Bởi vì nơi nha môn sát khí nặng nề, nếu ở trước nó sẽ bị xung, chịu không nổi sẽ chịu tổn vong, còn miếu chùa là nơi ngưng tụ âm khí nên chớ ở gần.
“NHẤT CẬN THỦY, NHÌ CẬN SƠN”
“Nhất cận thủy, nhì cận sơn” (nhất gần sông nước, nhì gần núi) là kinh nghiệm của ông cha ta truyền lại, nhà ở gần sông, gần núi thì ấm no, chẳng sợ đói. Dứng trên quan điểm kinh tế và lịch sử hiện nay mà suy xét thì chắc chắn lời khuyên trên có từ thời chưa có kinh tế hàng hóa, mà là nền kinh tế tự cung cấp. Ngày ấy, sông có tôm cá nhiều, trên các bãi sông phù sa lại có thể làm rau màu tươi tốt quanh năm. Nhà gần núi thì dễ săn bắn nhỏ loại có trại tiện chăng nuôi, các thứ rau củ đầu sẵn, khong Long cả lương thực lẫn chất đốt. Lại thêm, gần sông thì ôn hòa, mùa hè mát mẻ, mùa Đông ấm áp, gần núi thì che được gió lạnh từ phương Bắc. Trong điều kiện địa hình như vậy khí hậu như vậy thì con người có thêm sức khỏ, cũng không lấy gì làm khó hiểu.
Tuy nhiên, theo Phong Thủy học thì ông cha ta cũng đã đúc kết được nhiều điều cụ thể, bất kể gần núi hay sông đều nên kiên kỵ những loại địa hình thẳng tuốt, hoặc gãy khúc mà phải uốn lượn mềm mại, như đường nét cơ thể của một cô gái đẹp thì mới hội tụ được nhiều khí tốt lành. Các nhà cảnh quan của Trung Quốc cho rằng thế núi nhấp nhô, cao thấp muôn hình vạn tạng, lúc ẩn lúc hiện như thể rồng bay, đó là nơi “sinh Long”. Nếu thế núi bằng phẳng đơn điệu thì chẳng những không có sinh khí mà còn là nơi “tử Long”. Nhà ở vào những thế núi như vậy thường xuyên không mai mắn. Sông cũng vậy, sông càng lớn, uốn khúc càng quanh co, mềm mại thì càng hội tụ nhiều khí tốt lành. Trước nah2, phóng tầm mắt ra thấy sông uốn 3-4 đoạn
thì vui, 8-9 đoạn thì đúng là đại cát. Ông cha ta cũng thường nói “9 khúc sông” là muốn nói tới thế sông uốn lượn, phú quý, con cháu 9 đời vinh hiển.
Làm nhà mà tựa vào lưng núi, trông ra mặt nước là thế cực tốt, nhưng tựa vào núi gần quá, núi dốc quá thì cũng không nên. Nếu núi dốc quá thì coi chừng núi sụp lở. Nếu gần núi quá thì chủ nhân thường an phận thủ thường, nhụt đi nhuệ khí phấn đấu, thích nhàn hạ. Nếu nhà ở quá chon von, không còn đất để làm sân, mà đằng sau là vách núi dựng đứng thì chủ nhân thường bị tổn thọ.
Văn phòng làm việc ở những nhà như vậy có thể không cần trổ cửa sổ ra phía sau, như ghế ngồi không nên sát tường hậu quá, dễ sinh tù túng. Được làm việc trong những văn phòng như vậy bạn sẽ yên tâm, vững vàng nhưng cũng có nhược điểm là người lãnh đạo “quá mạnh”, ta khó lòng độc lập tư duy và hành động để phát huy được cái độc đáo của riêng mình, trở thành cái bóng của “xếp” mình mà thôi. Núi thường đi với sông. “Non, nước” xưa nay vẫn khắn khích tạo nên bức tanh thủy mạc hữu tình và sinh tình, càng thêm gắn bó với nơi mình sinh thành khiến cho “lá vàng rơi về cội”. “Cáo chết ba năm còn quay đầu về núi”. Nhà ở trong thế non nước ấy sẽ thịnh vượng, yên ổn cho con cháu. Nhưng xua nay, sự thật thường không trọn vẹn 10 phân vẹn 10, nên sự bộc phát mang tính cách mạng thường ít có từ những ngôi nhà, làng xóm như vậy.
THẾ VÀ HƯỚNG NHÀ
Ông cha ta đã từng “ăn xem nồi, ngồi xem hướng”. Nguyên tắc ứng xử của con người trong phút chốc còn vậy, huống chi hướng của ngôi nhà, nơi con người ăn ở, sinh hoạt, vui buồn cả cuộc đời lại càng quan trọng. Hiện nay đã có nhiều thống kê, tổng kết cho thấy rằng vị trí nhà, hướng nhà có ảnh hưởng tới sức khỏe của chủ nhân.
Một số nghiên cứu cho thấy ở những vị trí khác nhau, đất có những bức xạ khác nhau, một số nơi có công suất bức xạ rất lớn gọi là miền địa chấn. Và nếu như con người tiếp xúc lâu dài ở những miền đó tất sẽ mắc bệnh hiểm nghèo như ung thư. Smimov, một chuyên viên về định vị sinh học cho biết ở chỗ bình thường vùng địa chấn có đường kính 30-40cm và cách nhau t72 2,0-2,5m. Đôi khi vùng nguy hiểm này hẹp lại tạo nên những chấn địa chấn có công suất bức xạ rất lớn và đó là nguyên nhân của những “ngôi nhà ma”, “ngôi nhà quỷ ám” của những “đoạn đường thường xảy ra tai nạn” mà không giải thích được.
Thực tế có nhiều ngôi nhà rơi vào vị trí xấu mà theo thuật Phong Thủy là không vượng khí, không tụ khí khiến cho chủ nhân sa sút trên nhiều mặt và phải bán đi, người mua sau ở được một thời gian rồi lại bán…Cứ thế, chủ của ngôi nhà này liên tục thay đổi. Đã có nhiều người phạm sai lầm “thấy cây không thấy rừng” thấy nhà đẹp, kiến trúc chắc chắn, giá lại rẻ thế là mua gấp mà không điều tra kỹ nguyên nhân bán nhà của chủ trước, và hậu quả là chỉ ở được một thời gian lại phải ra đi.
Ở một quãng phố nọ có rất nhiều nhà rao bán, giá lại rẻ. Điều kỳ lạ là những ngà bán đều ở phía tay trái, nơi nền nhà thấp hơn mặt đường. Tìm hiểu kỹ mới thấy giá nhà phía tay trái thấp hơn nhiều so với bên phải chỉ với nguyên do quãng phố này là đường núi, bên cao bên thấp.
Nhà ở phía bên cao thì gia chủ xuất môn dễ dàng, việc làm hạnh thông. Ngược lại ở phía bên thấp thì mỗi lần ra đường đều khó khăn nên những nhà này chỉ có thể dùng để dưỡng lão mà không thể làm ăn, vì hãm tài thất lộc.
Cũng có kết cấu nhà hải hòa nhưng lối vào lại khúc khủyu, chật hẹp không thuận cho việc làm ăn. Lại cũng có những nhà đẹp, thoáng, xây cất trên khu đất không vướng tầm mắt nhưng bán
cũng khó. Nguyên do là nhà ở ngay tại khúc rẽ ngoặt của đường cái, xe cộ qua lại nhiều. Chủ nhân sống trong những nhà này không được khỏe mạnh, danh lợi thất bát. Bởi vậy, khi mua nhà thì chủ cần xem xét kỹ càng, thận trọng, chớ thấy rẻ được một ít mà ham.
Ngoài vị trí của ngôi nhà, hướng nhà cũng là một yếu tố quan trọng giúp cho chủ nhân của nó có phát đạt hay không. Tứ trước tới nay người ta thường thích nhà hướng Nam, kỵ hướng Bắc. Nguyên nhân là do nước ta ở phía Bắc xích đạo, mùa hè có gió Đông Nam, mùa Đông có gió Tây Bắc. Nhà hướng Nam đón gió Nam mát m3, dương khí, tránh được gió Bắc lạnh lẽo, âm khí. Nếu cứ theo cách nghĩ trên thì ở thành phố, nơi nhà cửa san sát cả hai bên đường thì hướng Nam và Bắc sẽ như thế nào, chẳng lẽ một bên suốt đời phải chịu cảnh hẩm hiu? Thực tế bất kể là Xuân, Hạ, Thu, Đông phàm ở đâu gió dương, tránh được gió âm thì đều tốt. Thuật Phong Thủy có nói “khí thăng phong tắc tán” (một khi khí không tụ htì hưng vượng sẽ mất).
Như vậy cần tụ khí, tránh khí tán. Khí vượng thì nhân khí càng vượng, làm ăn phát đạt, phước lộc song toàn. Tuy nhiên khí tụ là phải khí tốt, khí dương chứ không phải loại khí tử, khí âm. Muốn tụ được khí tốt trước hết nhà phải có địa hình tốt, thứ nữa phải có hướng tốt. Đón được gió dương từ từ, hiu hiu, thông thoáng mà không bị oi bức. Còn loại gó thẳng, ào ào như mũi tên bắn thẳng vào nhà là loại gió âm, không tốt, cần tránh. Nếu nhà không có gió dương tới, mà chỉ có gió âm thổi trực diện thì tốt nhất là phải trồng tre trúc để ngăn chặn bớt. Trong trường hợp hiếm đất có thể trồng cây trong chậu, đặt ở ban công, trước nhà cũng có thể hạn chế được gió âm.