49
讖曰:
鳥無足 山有月
旭初升 人都哭
頌曰:
十二月中氣不和 南山有雀北山羅
一朝聽得金雞叫 大海沉沉日已過
金聖嘆:「此象疑一外夷擾亂中原,必至酉年始得平 也。」
Đệ tứ cửu tượng: Nhâm tử Khôn hạ Khôn thượng Khôn
Sấm viết: sơn cốc thiểu nhân khẩu, dục tiễu thất kì sào, đế vương xưng đệ huynh, phân phân thị anh hào.
Tụng viết: nhất cá hoặc nhân khẩu nội đề, phân Nam phân Bắc phân Đông Tây, lục hào chiêm tẫn văn minh kiến, kì bố tinh la Nhật Nguyệt
Kim Thánh Thán: cửu phân tất hợp, cửu hợp tất phân, lí sổ nhiên dã, nhiên hữu văn minh chi tượng, đương bất như cát cư giả chi phân nhiễu dã
Tạm lược dịch:
Sấm viết: hang núi ít người, tham muốn ăn hớt mất luôn cả tổ chim (tham quá bắt lấy cả tổ chim làm tuyệt giống), đế vương xưng anh em (mỗi địa phương là một ông vua con), rối bời anh hùng hào kiệt (người nào cũng tự xưng là tài giỏi).
Tụng viết: một cái (gì đó) hoặc một ngừơi kêu khóc ở bên trong (lòng dân đau xót uất hận ở bên trong), chia Nam chia Bắc chia Đông Tây (chia rẽ trầm trọng), xem (bói) hết thảy cả sáu hào thấy được nền văn minh (mới ló rạng), la liệt cờ vải trăng sao mặt trời.
Kim Thánh Thán: chia ra lâu ắt hẳn (có ngày) hợp lại, hợp lâu (rồi) ắt hẳn (có ngày sẽ phải) phân chia ra, lí số tự nhiên (nó là) như vậy (đấy), hiện tượng này (phân chia ra, cửu hợp tất phân ...) có như thế (mới) là sự văn minh, cảnh huống (hiện nay) đang chẳng phải là tốt, cái ấy (hiện tượng ấy, cát cứ địa phương), (hiện nay) là ngổn ngang rối loạn nhũng nhiễu.
Lời bàn: Hiện tượng đồ hình 49 nói chính là thời kỳ của CS Trung Quốc khi Mao Trạch Đông chiếm trọn thống lĩnh toàn cõi Hoa Lục, thực thi chính sách CS tham lam tàn bạo khiến cả trăm triệu người chết trực tiếp hay gián tiếp, khiến cho lòng người dân khắp Hoa Lục phân tán rối loạn ngổn ngang phát sinh ra mọi tệ nạn, suy đồi đạo đức đến tột cùng ở khắp các nơi, và ở mọi nơi ở mỗi tỉnh, mỗi quận, mỗi phường, xã, thôn là một ông vua con nhũng nhiễu cát cứ tự đặt luật riêng, hàng ngàn sứ quân chứ không như thời Xuân Thu chiến Quốc Lục quốc, Tam Quốc ... đúng thực trạng của các nước CS như TQ và VN hiện nay, TU ra lệnh địa phương chẳng tuân theo, ỷ dựa vào thẻ Đảng CS mà không tuân theo pháp luật, luật lệnh của TU ban ra nhưng dưới chẳng thi hành "hào lệnh bất hành, thượng ban chỉ sóc"...
50
讖曰:
水火相戰 時窮則變
貞下起元 獸貴人賤
頌曰:
虎頭人遇虎頭年 白米盈倉不值錢
豺狼結隊街中走 撥盡風雲始見天
金聖嘆:「此象遇寅年遭大亂,君昏臣暴,下民無生息 之日,又一亂也。」
Đệ ngũ thập tượng: Quý Sửu Chấn hạ Khôn thượng Phục
Sấm viết: Thủy Hỏa tương chiến, thì cùng tắc biến, trinh hạ khởi nguyên, thú quý nhân tiện
Tụng viết: hổ đầu nhân ngộ hổ đầu niên, bạch mễ doanh thương bất trị tiễn, sài lang kết đội nhai trung tẩu, bát tẫn phong vân thủy kiến thiên
Kim Thánh Thán: thử tượng ngộ Dần niên tao đại loạn, quân hôn thần bạo, hạ dân vô sanh tức chi nhật, hựu nhất loạn dã
Tạm lược dịch:
Sấm viết: nước lửa đánh nhau, thời (đã tới lúc) cùng cực ắt sẽ biến dạng, dưới chính đính mới đầu khởi lên, loài cầm thú thì quỳ loài người thì hèn mọn.
Tụng viết: người đầu hổ gặp đầu năm hổ, gạo trắng đầy bao chẳng cầm nắm được tiền, loài lang sói kết thành bầy chạy giữa bốn bên (nơi nào cũng thấy loài lang sói), gió mây (làm u ám) hết sạch mới thấy được trời xanh.
Kim Thánh Thán: tượng hình này năm Dần gặp nạn lớn, vua hôn ám bầy tôi tàn bạo, dân ở dưới hàng ngày sống khó thở (bị áp bức uất ức nghẹn ngào đến khó thở), lại sẽ có một sự rối loạn (trong xã hội) vậy.
51
讖曰:
陰陽和 化以正
坤順而感 後見堯舜
頌 曰:
誰雲女子尚剛強 坤德居然感四方
重見中天新氣象 卜年一六壽而康
金聖嘆:「此象乃明君得賢後之助,化行 國內,重見昇平,又一治也。卜年一六,或在位七十年。」
Đệ ngũ nhất tượng: Giáp Dần Đoái hạ Khôn thượng Lâm
Sấm viết: âm dương hòa, hóa dĩ chánh, khôn thuận nhi cảm, hậu kiến Nghiêu Thuấn
Tụng viết: thùy vân nữ tử thượng cương cường, khôn đức cư nhiên cảm tứ phương, trọng kiến trung thiên tân khí tượng, bặc niên nhất lục thọ nhi khang.
Kim Thánh Thán: thử tượng nãi minh quân đắc hiền hậu chi trợ, hóa hành quốc nội, trọng kiến thăng bình, hựu nhất trì dã, bặc niên nhất lục, hoặc tại vị thất thập niên
Tạm lược dịch:
Sấm viết: Âm Dương hoà, biến hoá thành chánh đáng, nhu thuận mà cảm hoá, sau thấy được vua Nghiêu Thuấn.
Tụng viết: rằng ai là người đàn bà con còn cứng rắn mạnh mẽ, đức của nhu hoà như thế cảm thông được bốn phương, hình tượng mới được xem trọng giữa bầu trời, bói thử yên được lâu trong một sáu năm.
Kim Thánh Thán: tượng hình này là vua hiền được vợ giỏi trợ giúp, thi hành chuyển hoá trong nước, coi trọng sự công bằng, lại có một sự sửa chữa vậy, bói thử một sáu năm, hoặc là ở địa vị bẩy mươi năm.
讖曰:
慧星乍見 不利東北
踽踽何之 瞻彼樂國
頌 曰:
欃槍一點現東方 吳楚依然有帝王
門外客來終不久 乾坤再造在角亢
金聖嘆:「此象主東北被夷人所擾,有遷 都南方之兆。角亢南極也。其後有明君出,驅逐外人,再度昇平。」
52
Đệ ngũ nhị tượng: Ất Mão Kiền hạ Khôn thượng Thái
Sấm viết: Tuệ tinh sạ kiến, bất lợi Đông Bắc, củ củ hà chi, chiêm bỉ nhạc quốc
Tụng viết: thương nhất điểm hiện Đông phương, Ngô Sở y nhiên hữu đế vương môn ngoại khách lai chung bất cửu, Kiền Khôn tái tạo tại Giác Kháng
Kim Thánh Thán: thử tượng chủ Đông Bắc bị di nhân sở nhiễu, hữu thiên đô Nam phương chi triệu, Giác Kháng Nam cực dã, kì hậu hữu minh quân xuất, khu trục ngoại nhân, tái độ thăng bình
Tạm lược dịch:
Sấm viết: chợt thấy sao Tuệ, chẳng lợi (ich nơi) Đông Bắc, lủi thủi một mình làm chi ?, nhìn xem nước bên cạnh vui thích.
Tụng viết: một ngôi sao chổi nhỏ bé hiện ra ở phương Đông, Ngô Sở vẫn cứ như cũ có được đế vương, khách đến ngoài cửa chẳng lâu sau, Kiền Khôn tạo lại (nơi ngôi sao) Giác (Giốc) Kháng (Cang).
Kim Thánh Thán: tượng này chủ nơi Đông Bắc bị người (nước) bên cạnh quấy rối, có triệu chứng dời kinh đô về phương Nam, sao Giác Kháng ở cực Nam vậy, về sau có vua sáng xuất hiện, xua đuổi người ngoài, làm cho được yên bình.
Các nhà Thiên Văn Học chia bầu trời ra 4 hướng : Đông Tây Nam Bắc . Mỗi hướng gồm có 7 chùm sao . Hay là 4 hướng x 7 chùm sao = 28 chùm sao . Ngày nay chúng ta thường gọi là Nhị Thập Bát Tú
Bảy chòm sao hợp lại thành một phương trời và được biểu tượng thành một con vật có mầu sắc theo sự phối thuộc của ngũ hành- Phương Bắc là con rùa đen gọi là Hoa Cái (Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích).
- Phương Tây là con hổ trắng gọi là Bạch Hổ (Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chuỷ, Sâm).
- Phương Nam là con phượng đỏ gọi là Phượng Các (Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn).
- Phương Đông là con rồng xanh, gọi là Thanh Long (Giốc, Cang, Đê, Phòng Tâm Vĩ, Cơ).
53
讖曰:
闕中天子 禮賢下士
順天休命 半老有子
頌 曰:
一個孝子自西來 手握乾綱天下安
域中兩見旌旗美 前人不及後人才
金聖嘆:「此象有一秦姓名孝者,登 極關中,控制南北,或以秦為國號,此一治也
Đệ ngũ tam tượng: Bính thần Kiền hạ Chấn thượng Đại Tráng
Sấm viết: quan trung thiên tử, lễ hiền hạ sĩ, thuận thiên hưu mệnh, bán lão hữu tử
Tụng viết: nhất cá hiếu tử tự tây lai, thủ ác kiền cương thiên hạ an, vực trung lưỡng kiến tinh kì mĩ, tiền nhân bất cập hậu nhân tài
Kim Thánh Thán: thử tượng hữu nhất Tần tính danh hiếu giả, đăng cực quan trung, khống chế Nam Bắc, hoặc dĩ tần vi quốc hào, thử nhất trì dã
Tạm lược dịch:
Sấm viết: vua ở Quan Trung (ở nơi giữa cửa), lấy lễ hiền với kẻ sĩ ở dưới, thuận lòng trời sai khiến mệnh lệnh, đến gần già mới có con.
Tụng viết: có một đứa con hiếu nghĩa đến từ phía Tây, cầm nắm lấy kỷ cương thiên hạ yên lành, bờ cõi cờ quạt cả hai thấy đẹp đẽ, người thời trước chẳng theo kịp được sự tài giỏi của người thời sau.
Kim Thánh Thán: tượng này có một tên họ Tần hiếu thảo vậy, lên cao ở Quan Trung (chính giữa, đứng đầu ngôi chính giữa …), cầm nắm cai quản Nam Bắc, hoặc là lấy pháp chế (từ thời) nhà Tần làm pháp chế (cai trị nước coi như là) quốc bảo.