Khôn sơn, Cấn hướng, Thân sơn Dần hướng, Mùi sơn Sửu hướng.
Trạch này lợi về năm, tháng Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tý nhập mộ ở Thìn, trung ứng vào trạch môn, phối Kiền là Diên Niê, Cấn là Sinh Khí, Đoài là Thiên Y. nếu Khảm thì Tuyệt Mạng, Ly thì Lục Sát, Chấn thì Hoạ Hại, Tốn thì Ngũ Quỉ, đến sự hợp với tử, Bạch thì Khôn là nhị hắc Thổ tinh hợp với bát bạch là đích Thổ đáo bẩn cung cũng là giúp vượng cung khác đều chưa thuần tuý. Theo như nguyên chính nhất thư, thì Sửu, Cấn, Dần đều có thể mở chính môn lộ, Kiền Đoài thì mở tiểu môn để giúp thêm cát lợi. Luận về hợp với tử, Bạch vế việc khai môn ở tam cát phương mà được thuần cát thì ít lắm, vậy bất tất câu nệ, chỉ Cấn biết là: Tây tứ trạch: Kiền Khôn, Cấn, Đoài nên mở cửa ngõ đi ra đường từ phía bạch hổ (bên tay phải) Đông tứ tr5ch: Chấn, Tốn, Khảm Ly nên mở cửa ngõ đi ở phía thanh long (bên tay trái) thì tốt. Ơ 3 phươgn cát, được lai thuỷ, án hướng đẹp tốt, hướng của chính trạch có thể lập hướng được, thì chẳgn phải tìm hướng bạch ở hướng cát khác, để hướng ở cát phương đó, đều tự lập hướng, được là đích lợi, không nên theo thuỷ khí xuất khẩu lập hướng nữa.
CỬA CÁI VÀ CHỖ ĐẶT BẾP LÒ QUAN HỆ VỚI
CHỦ NHÀ MẠNG KHÔN
Một ngôi nhà có 7 chỗ quan hệ tức là có ảnh hưởng tốt xấu: Cửa ngõ, cửa cái, cửa phòng, cửa bếp, chú nhà hay sơn chú, bếp và hướng bếp.
-Trong 7 chỗ quan hệ có 3 chỗ chính yếu ảnh hưởng trọng đại để quyết định ngôi nhà tốt hay xấu. Còn 4 chỗ kia thuộc hàng thứ yếu (phụ thuộc) ảnh hưởng bình thường, chỉ có thể bớt tốt xấu mà thôi.
Cửa cái là một nơi chính yếu, vì nó là lối đi vào nhà, nếu mở trúng tại cung tốt tức người đi vào chốn may mắn, bằng mở tại cung xấu tức người đi vào chốn nguy hiểm, tối tăm,
chông gai. Cửa cái là mẹ sanh ra các Du Niên cho chủ nhà, cho sơn chủ và cho bếp. Vì vậy hễ chủ nhà, sơn chủ và bếp thừa Du Niên tốt tức cửa cái tốt, vì mẹ tốt mới sanh các con tốt, bằng thừa Du Niên xấu tức cửa cái xấu, vì mẹ xấu mới sanh con xấu.
Chủ nhà hay sơn chủ đều là nơi chình yếu, trụ cột, chủ yếu, làm chủ toàn thể ngôi nhà cho nên gọi là chủ nhà, là sơn chủ. Nếu nó được ở nhằm cung tốt và thừa Du Niên tốt hay sao tốt là nhà thịnh vượng và yên lành. Bằng ở nhằm cung xấu và thừa Du Niên xấu hay Sao xấu là nhà ở suy vi, chẳng yên.
Bếp là nơi chính yếu vì nơi sinh dưỡng, nuôi sống con người, nếu được an trí nơi cung tốt và thừa Du Niên tốt thì sự sinh dưỡng mới đặng ích, ít bệnh hoạn. Bằng an trí tại cung xấu và thừa Du Niên xấu khác nào sự sinh dưỡng bị đầu độc gây ra đủ các chứng bệnh cả tai hoạ. Trăm bệnh đa số do nơi ăn uống sinh ra.
Tóm lại: Ba chỗ chính yếu được đặt vào 3 cung tốt là đối với nhau được tương sanh hay tỷ hoà và 3 cung đều thừa cát Du Niên hay cát tinh thì quyết định một ngôi nhà thịnh vượng. Bằng trái lại đặt đúng vào 3 cung xấu là đối với nhau tương khắc và đồng thừa hung Du Niên hay hung tinh thì quyết định ngôi nhà suy bại.
Sự sai biệt trong 4 chỗ thứ yếu:
Trong 4 chỗ thứ yếu thì hướng bếp có tầm quan trọng hơn cả, kế đó là cửa phòng cửa bếp, sau hết là cửa ngõ. Người xưa không kể tới cửa ngõ, có lẽ vì nói không thuộc về ngôi nhà. Phần này được nói gọn lại là cửa cái, chủ nhà và bếp. Chủ là nói chủ nhà ở tịnh Trạch, là nói sơn chủ ở Đông trạch và Biến hoá Trạch, bếp là nói tại chỗ đặt cà ràng nấu ăn chớ chẳng luận tới hướng mở cửa của cái bếp.
CHỦ NHÀ MẠNG KHÔN Ở CỬA CÁI HƯỚNG KHÔN TÂY NAM PHỤC VÌ
( Cửa cái tại Khôn ( Tây Nam ), chủ nhà hay sơn chủ cũng tại Khôn ).
-Lời tượng ứng về ngôi nhà: Trùng Địa có quả chướng gia viên.
Ý nghĩa: Trùng Địa là hai Đất chỉ vào cửa Khôn ( Tây Nam ) gặp chủ Khôn ( Khôn vi Địa ).Nhà như vậy tức ứng điềm mồ côi, người goá bụa coi sóc lấy nhà vườn.
- Cửa tại Khôn ( Tây Nam ) mà chủ cũng tại Khôn, ấy là Phục Vị trạch.Hai Khôn gặp nhau có câu: nhị thổ đồng điền, tất nhà giàu có ruộng vườn sanh nhiều lợi tức.Sơ niên phát đạt vô ngàn, nhưng vì thuần âm thì âm vượng nên dương phải suy, về lâu dài nam nhơn bị tổn hại, và vì quạnh hiu con cái phải nuôi con nuôi, phụ nữ cầm quyền, nắm giữ tài sản.( Nhà này thiếu dương, vậy đặt bếp tại Kiền (Tây Bắc) Cấn (Đông Bắc) thì sẽ hoàn hảo, sẽ hưng tiến lâu dài mà khỏi cảnh tuyệt tự).
Cửa Khôn (Tây Nam) với chủ Khôn phối 8 chỗ đặt bếp :
Bếp đặt tại Kiền (Tây Nam): Cửa Khôn (Tây Nam) mà chủ cũng Khôn, nhà âm khí dày đặc, nay có bếp Kiền (Tây Bắc) là dương kim phối hiệp lại tương sanh ất làm cho điều hoà âm dương.Nhà vốn tốt nay trở nên rất tốt. Vả lại bếp Kiền (Tây Bắc) đối với Cửa Khôn (Tây Nam) là bếp Diên Niên đăng diện, hỗ biến với chủ Khôn cũng được Diên Niên hữu khí, khiến cho nhà đã giàu ruộng đất lại cũng giàu tiền tài.
Bếp đạt tại Khảm (Chánh Bắc) : Khảm thuỷ đối với Khôn Khôn (cửa và chủ) tương khắc biến thành hai Tuyet Mạng, khiến cho hư hại thân tâm, tim bụng đau đớn, sanh chứng hư lao, sanh bệnh lồi dư xương thịt hoặc bệng tích tụ khí huyết kết thành hòn cục trong kinh tạng.
Bếp đặt tại Cấn (Đông Bắc): Bếp Cấn (Đông Bắc) dương thổ đối với cửa Khôn (Tây Nam) là chủ Khôn đều đặng tỷ hoà có đủ âm dương tạo nên vượng khí rất thịnh, giải được cái hoạ cô quả nhà thuần âm lại tạo nên hai Sinh Khí. Thật là một cái bếp rất tốt vậy.
Bếp đặt tại Chấn (Chánh Đông): Cửa thì bếp tương khắc và là bếp Hoạ hại, bếp Chấn (Chánh Đông) đối với chủ Khôn cũng vậy, cũng tương khắc và hỗ biến sanh ra Họa hại. Một cái bếp mà làm ra hai Hoạ hại khiến cho khuyết điểm tiền tài và rất thường bị người đường thiệt hại do mình tự tạo ra.
Bếp đặt tại Tốn (Đông Nam): Bếp Tốn (Đông Nam) cũng như bếp Chấn (Chánh Đông) khắc cả cửa Khôn (Tây Nam) và chữ Khôn, phối biến thành 2 Ngũ Quỷ.Bếp Ngũ Quỷ làm loạn mạnh lắm, gây ra tai hoạn thứ nhất là bệng hoạn. Đã tương khắc lại thuần âm cho nên nhân khẩu suy tổn, nam nữ chẳng trường thọ. Nhà Phục Vị ở chung bếp Ngũ Quỷ tất bị Ngũ Quỷ lôi cuốn theo, không hưng tiến được.
Bếp đặt tại Ly (Chánh Nam): Cửa tại Khôn (Tây Nam) thì bếp Ly (Chánh Nam): là bếp Lục Sát.Bếp Ly (Chánh Nam): hỗ biến với chủ Khôn cũng là Lục Sát.Sát khí người quá lại thuần âm rất bất lợi, sanh ra dâm dật, phóng túng, lỗi lầm.
Bếp đặt tại Khôn (Tây Nam): Ba cung Khôn gặp nhau( Cửa, chủ, bếp), âm thổ tỷ hỏa và đa thổ sinh kim cho nên phát tiền tài, hưng thổ sản. Nhưng thuấn âm thì hiếm hoi con cái, lạnh lùng hương lửa, gọi là nhà mẹ goá con côi.Am thổ nặng mà trì trệ khó có sự hưng phát mới.
Bếp đặt tại Đoài (Chánh Tây): Đoài kim hiệp với hai Khôn thổ tương sanh và phối biến thành hai Thiên Y hữu khí. Đó là phước thần an trụ tại nhà tại bếp, gìau có lại rạng rỡ công danh. Người người trong nhà có tâm phước thiện, hay đỡ người giúp vật. Bếp này tạo nên một nhà hiền lương nhân hoà bật nhất. Nhưng rồi cũng không thoát
khỏi cái hệ tam âm đồng cư (Khôn Khôn Đoài đồng âm cả), ở lâu năm sẽ đến tình trạng cô quả, tuyệt tự. Lại sanh ra cái cảnh mẹ vợ nuông chìu chành rể và cái canh nuôi con họ khác làm kẻ thừa tự.
Kết luận: Tám hướng bếp trên đây, bếp nào cũng thuộc về chủ nhà mạng Khôn: Phục vị trạch, các kiểu bếp cũng không có gì quan trọng để luận bàn thêm, lẽ tất nhiên gặp bếp xấu thì nhà thêm xấu, gặp bếp tốt cũng được tốt và bớt đều hung.
CHỦ NHÀ MẠNG KHÔN MỞ CỬA CÁI HUỚNG ĐOÀI (CHÁNH TÂY) THIÊN Y
( Cửa cái tại Đoài (Chánh Tây), chủ nhà sơn chủ tại Khôn).
Lời tượng ứng về ngôi nhà: Trạch địa: tài long, dị tánh cư.
Ý nghĩa:
Trạch là đầm nước chỉ vào Đoài (Đoài vi trạch).
Địa là đất chỉ vào Khôn (Khôn vi địa ).
Tài long là tiền tài hưng long (thịnh phát).
Di tánh cư là khác họ (ở chung).
Phàm cửa tại Đoài và chủ tại Khôn là ngôi nhà phát đạt tiền của, nhưng có người khác họ ở chung (ý nói là vì không có con nối dòng nên phải nuôi con khác họ làm kẻ thừa tự, bởi Đoài với Khôn thiếu âm).
Từ cửa Đoài (Chánh Tây) biến 6 lần tới chủ Khôn tất được Thiên Y cho nên gọi là Thiên Y trạch. Và cũng thuộc về Tây tứ Trạch, vì Đoài với Khôn đều là Tây tứ Trạch.
Thiên Y thổ lâm Khôn tỷ hoà và phúc thần đăng diện khiến cho gia đạo hưng long, trọn nhà
ưa làm việc lành, hay lễ Phật, niệm Phật và đọc tụng kinh pháp. Nhưng vì Đoài với Khôn thuần âm tất âm thịnh và dương suy cho nên nữ nhiều mà nam ít, mẹ và con gái hay làm phước tot mà sau mất hay.
Cửa Đoài (Chánh Tây) với chủ Khôn phối 8 chỗ đặt bếp:
Bếp đặt
tại Kiền (Tây Bắc): Bếp Kiền (Tây Bắc) dương kim đối với cửa Đoài
(Chánh Tây) tỷ hoà có đủ âm dương và là bếp Sinh Khí, đối với chủ Khôn tương sanh có đủ âm dương và hỗ biến được Diên Niên. Đây là một hướng bếp đại cát, đại lợi, vì Kiền thuộc dương phá được cái thuần âm của nhà. Lại nhờ Kiền biến Sinh Khí và Diên Niên hợp với Thiên Y trạch thành nhà ba tốt, rất tốt.
Bếp đặt tại: Bếp Khảm (Chánh Bắc) thủy đối với cửa Đoài (Chánh Tây) là bếp Họa hại, đối với chủ Khôn là Tuyệt Mạng khiến cho nam nữ chẳng sống lâu.
Bếp đặt tại Cấn (Đông Bắc): Bếp Cấn (Đông Bắc) dương thổ đối với cửa Đoài (Chánh Tây) là âm dương tương sanh và chính biến Diên Niên đắc vị, đối với chủ Khôn là âm dương tỷ hoà và hỗ biến được Sinh Khí.Đây là hướng bếp….thuộc dương phá được cái thuần âm của nhà, và còn biến sinh thêm Diên Niên với Sinh Khí hiệp với Thiên Y trạch thành nhà ba tốt, rất tốt.
Bếp đặt tại Chấn (Chánh Đông): Bếp Chấn (Chánh Đông) mộc đối với cửa Đoài (Chánh Tây) tương khắc và là bếp Tuyệt Mạng, đối với chủ Khôn cũng tương khắc và hỗ biến ra Họa hại. Như vậy là hung táo.
Bếp đặt tại Tốn (Đông Nam) : Bếp Tốn (Đông Nam) mộc đối với cửa Đoài (Chánh Tây) là chủ Khôn đều tương khắc, biến sinh Lục Sát và Ngũ Quỷ là đại hung táo( bếp rất hung hại).
Bếp đặt tại Ly (Chánh Nam): Bếp Ly (Chánh Nam) hỏa đối với cửa Đoài (Chánh Tây) biến Ngũ Quỷ, đối với chủ Khôn hỗ biến Lục Sát. Bếp này còn hung hại hơn bếp Tốn (Đông Nam) một bực, vì bếp Tốn (Đông Nam) hỗ biến Ngũ Quỷ còn Bếp Ly (Chánh Nam) nay chính biến Ngũ Quỷ. Hại mạnh hơn hỗ biến.
Bếp đặt tại Khôn (Tây Nam): Bếp Khôn (Tây Nam) âm thổ đối với cửa Đoài (Chánh Tây) tương sanh và là bếp Thiên Y đăng diện, đối với chủ Khôn là Phục Vị. Bếp này cũng thuộc về cát táo, tiền bạc nhiều mà nhân đnh thưa thớt. Đó là vì được phước thần đăng diện (Thiên Y), nhưng bởi Đoài Khôn Khôn thuần âm. Chớ dùng bếp này tới lâu sau ắt tuyệt tự.
Bếp đặt tại Đoài (Chánh Tây): Bếp Đoài (Chánh Tây) âm kim, đối với cửa Đoài
(Chánh Tây) là bếp Phục
Vị thất vị, đối với chủ Khôn hỗ biến được Thiên Y hữu
khí.Bếp này cũng thuộc hành bếp tốt, nhưng Đoài Khôn Đoài toàn âm cung hkiến hại chồng khắc con.
Kết luận: Tám hướng bếp trên đây đều thuộc chủ nhà mạng Khôn là Tây tứ Trạch. Vì Tây tứ Trạch nên Tây trù là cát táo mà Đông trù là 4 bếp Kiền Khôn Cấn Đoài, mỗi bếp đều biến sinh hai Du Niên.
CHỦ NHÀ MẠNG KHÔN MỞ CỬA CÁI HƯƠNG KIỀN (TÂY BẮC) Diên Niên
(Cửa cái tại Kiền (Tây Bắc), chủ nhà hay sơn chủ tại Khôn).
Lời tượng ứng về ngôi nhà : Thiên môn đáo Điạ, chủ vinh hoa.
Y nghĩa: Thiên mô là cửa Trời, ám chỉ vào Kiền (Kiền vi thiên). Đáo địa là đất, ám chỉ vào Khôn (Khôn vi địa). Phàm tại cửa Kiền, chủ tài Khôn là căn nhà giàu có, vẻ vang.
Từ cửa Kiền (Tây Bắc) biến 3 lần tới Khôn được Diên Niên cho nên gọi chủ Khôn là Diên Niên Trạch. Diên Niên lâm Khôn tương sanh đắc vị đem vượng khí cho Tây tứ Trạch là ngôi nhà này, ứng người điều cát tường, vợ chồng chánh phối (có đủ âm dương), sanh 4 con (Diên Niên kim số 4), một nhà hoà mỹ, con hiếu thảo, cháu hiền lương, giàu sang một cách vẻ vang, sống lâu thường đặng biếu tặng lễ vật, được ban thưởng … thật là một kiểu nhà rất tốt, rất ky hữu.
Cửa Kiền (Tây Bắc) với chủ Khôn phối 8 chỗ đặt bếp
Bếp đặt tại Kiền (Tây Bắc) : Cửa Kiền (Tây Bắc) mà đặt bếp cũng tại Kiền (Tây Bắc) là bếp Phục Vị nhưng hỗ biến với chủ Khôn được Diên Niên. Vậy ba cung Kiền Khôn Kiền hỗ biến với nhau được 2 Diên Niên và 1 Phục Vị. Phục Vị thất vị tự nó không giúp thêm tốt, nhưng nó ở chung với 2 Diên Niên thì nó xu hướng theo cái tốt của Diên Niên. Kết luận là một cái bếp tốt.
Bếp đặt tại Khảm (Chánh Bắc) : cửa Kiền (Tây Bắc) đặt tại Khảm (Chánh Bắc) là bếp Lục Sát. Khảm thuỷ làm hao khí lực của Kiền kim, vì nước chảy mòn kim. Lại bếp Khảm (Chánh Bắc) hỗ biến với chủ Khôn sanh ra Tuyệt Mạng. Một bếp mà tạo ra tới 2 hung Du Niên (Lụs Sát và Tuyệt Mạng) rất nghuy hại. Trong 3 cung Kiền Khôn Khảm chỉ Khảm bị khắc cho nên hạng trung nam chịu khốn hại, thọ mạng chẳng lâu dài thường sanh bệnh dạ dày, bụng đau nhức.
Bếp đặt tại Cấn (Đông Bắc) : cửa tại Kiền (Tây Bắc) thì bếp Cấb (Đông Bắc) thừa Thiên Y là một phúc thần đắc lực nhất ở tại bếp, giải trừ được mọi bệnh hoạn, tai nạn. Thiên Tuổi thổ lâm Cấn thổ đăng diện khiến nên người việc may, nam nữ trong nhà đều hảo thiện, thường tế nhơn lợi vật. Bếp Cấn (Đông Bắc) hỗ biến với chủ Khôn được Sinh Khí là thêm tốt. Tóm lại bếp Cấn (Đông Bắc) hợp với cửa Kiền (Tây Bắc) và chủ Khôn tạo htành nhà 3 tốt, vì 3 cung hỗ biến có đủ Sinh Khí, Diên Niên và Thiên Y, một ngôi nhà hoàn hảo, giàu có thiên trùng, công danh rạng rỡ.
Bếp đặt tại Chấn (Chánh Đông) : Cửa tại Kiền (Tây Bắc) thì bếp Chấn (Chánh Đông) là bếp Ngũ Quỉ. Lại bếp Chấn (Chánh Đông) hỗ biến với chủ Khôn tạo thành Hoạ Hại.
Bếp Chấn (Chánh Đông) mộc đối với cửa Kiền (Tây Bắc) tương khắc, đối với chủ Khôn cũng tương khắc lại làm ra Ngũ Quỉ và Hoạ Hại, thật là một cái bếp đại hung. Nhà Diên Niên làm ăn phát phú, nhưng gặp cái bếp sanh tai hoạ này còn đâu hạnh phúc
Bếp đặt tại Tốn (Đông Nam): Cửa tại Kiền (Tây Bắc) thì bếp Tốn (Đông Nam) là bếp Họa Hại. Lại bếp Tốn (Đông Nam) hỗ biến với chủ Khôn sanh ra Ngũ Quỉ. Bếp Tốn (Đông Nam) mộc đối với cửa Kiền (Tây Bắc) và chủ Khôn đều bị tương khắc làm ra Hoạ Hại và Ngũ Quỉ là một cái bếp đại hung không khác chi bếp Chấn (Chánh Đông) trên, không nên dùng nó. Nếu gượng dùng thì các bà hạng quí phái hoặc đàn bà lớn tuổi chịu hoạ hoạn và không sống lâu.
Bếp đặt tại Ly (Chánh Nam): Cửa tại Kiền (Tây Bắc) thì bếp Ly (Chánh Nam) là bếp Tuyệt Mạng, và bế Ly (Chánh Nam) hỗ biến với chủ Khôn tác thành Lục Sát. Vậy bếp Ly (Chánh Nam) khắc cửa Kiền (Tây Bắc) lại sanh ra Tuyệt Mạng và Lục Sát chắc chắn là một cái bếp bất lợi. Nó ít xấu hơn bếp Chấn(Chánh Đông) tổn mà ngang hại hung hàng với bếp Khảm (Chánh Bắc).
Bếp đặi tại Khôn (TâyNam): Bấp Khôn (Tây Nam) cũng như chủ Khôn, đối với cửa Kiền (Tây Bắc) tương sanh có đủ âm dương và đồng tác Diên Niên đắc vị. Nó làm gia tăng thể lượng các điều tốt của Diên Niên trạch (xem lời ứng nghiệm của chủ nhà mạng Khôn trên đây).
Thì bếp Đoài (Chánh Tây) là bếp Sinh Khí, đối với chủ Khôn thì bếp Đoài (Chánh Tây) hỗ biến được Thiên Y hữu khí. Vậy ba cung Kiền Khôn Đoài hỗ biến với nhau được Sinh Khí, Diên Niên và Thiên Y là tam tinh hỷ hội, là cái nhà ba tốt. Nhà vậy, bếp vậy, hỷ khí đầy nhà như vườn hoa trăm hoa đua nở, tiền tài lợi lộc như nước bể tràng sông, công danh thắng đạt như con chim Hồng thuận gió, điều sản tăng tích, nhân khẩu yên lành và hay làm điều phườc thiện. Phái nữ phát đạt hơn phái nam.
Kết luận: Tám hường bếp trên đây đều thuộc chủ nhà mạng Khôn. Nhà vốn rất tốt, nhưng gặp bếp tốt thì thật trọn tốt. Nhà thuộc Tây tứ Trạch, dùng Tây trù thêm tốt, dùng Đông trù hại bớt tốt. Tây trù là bếp Kiền, Khôn, Cấn, Đoài. Đông trù là người bếp Khảm, Ly, Chấn, Tốn. Tây trù tạo nhà ba tốt, Đông trù tạo 2 hung Du Niên.
CHỦ NHÀ MẠNG KHÔN MỞ CỬA CÁI HƯỚNG KHẢM (CHÁNH BẮC) TUYỆT MẠNG
(Cửa cái Khảm (Chánh Bắc), chủ nhà hay sơn chủ tại Khôn).
Lời tựa ứng về ngôi nhà: Thuỷ Thổ tương khắc, trung nam tử.
Y nghĩa: Nước với Đất khắc nhau, hàng trung nam chết. Thuỷ là nước chỉ vào Khảm, Thổ là đất chỉ vào Khôn. Trung nam là hàng con trai giữa sanh sau con trai đầu lòng. Tử là chết, vì Khảm với Kho6n hỗ biến là Tuyệt Mạng. Con trai giữa chết là vì Khảm thuộc trung nam bị Khôn khắc.
Từ cửa Khảm (Chánh Bắc) biến 7 lần tới chủ Khôn phạm Tuyệt Mạng, cho nên gọi là Tuyệt Mạng trạch, ứng cho hàng trung nam Tuyệt Mạng, khiến ra có đàn bà goá bụa, bụng dạ đau nhức, sanh các chứng kết hòn nổi cục, da vàng, phù thũng, ghẻ chóc. Và vì Khảm dương với Khôn âm hỗ biến Tuyệt Mạng cho nên cả nam nữ ở nhà này không được trường thọ.
Cửa Khảm ( Chánh Bắc) với chủ Khôn phối 8 chỗ đặt bếp:
bếp đặt tại Kiền (Tây Bắc): Bếp Kiền (Tây Bắc) kim đối với cửa Khảm (Chánh Bắc) là Lục Sát, đối với chủ Khôn là Diên Niên hữu khí. Đó là bên xấu được giảm bên tốt được tăng.
Bếp đặt tại Khảm (Chánh Bắc) : Bếp Khảm (Chánh Bắc) tỷ hoà và là bếp Phục Vị dắc vị khá tốt, nhưng đối với chủ Khôn biến sinh Tuyệt Mạng rất hại. Bếp này hung người hơn cát.
Bếp đặt tại Cấn (Đông Bắc) : Bếp Cấn (Đông Bắc) thổ khắc cửa Khảm (Chánh Bắc) và là bếp Ngũ Qủi đại hung, còn đối với chủ nhà Khôn là Sinh Khí thất vị tốt vừa vừa. Bếp này hung người hơn cát, rất bất lợi cho tiểu nhi và hàng trung nam yểu vọng (chết yểu).
Bếp đặt tại Chấn (Chánh Đông): bếp Chấn (Chánh Đông) mộc đối với cửa Khảm (Chánh Bắc) là bếp Thiên Y thất vị khá tốt, nhưng đối với chủ Khôn tương khắc và hỗ biếb ra Hoạ Hại, khiến cho lão mẫu bất lợi, điền sản thoái bại, sanh bệnh da vàng, bệnh thũng, ghẻ.
Bếp đặt tại Tốn (Đông Nam): Bếp Tốn (Đông Nam) mộc đối với cửa Khảm (Chánh Bắc) tương sanh và là bếp Sinh Khí đăng diện rất tốt cho người sự việc. Nhưng Tốn đối với chủ Khôn tương khắc và phạm Ngũ Quỉ chẳng khỏi cái buồn mẹ lìa cha, phụ nữ chết yểu.
Bếp đặt tại Ly (Chánh Nam): Bếp Ly (Chánh Nam) hoả đối với cửa Khảm (Chánh Bắc) tuy tương khắc nhưng là âm dương chính phối và là bếp Diên Niên tốt, còn đối với chủ Khôn tuy tương sanh mà hỗ biến Lục Sát hung. Bếp này hung cát tương đương.
Bếp đặt tại Khôn (Tây Nam): Bếp Khôn (Tây Nam) thổ đối với chủ Khôn thỷ hoà Phục Vị tốt qua loa. Nhưng đối với cửa Khảm (Chánh Bắc) tương khắc và là bếp Tuyệt Mạng nhưng hại người. Lại hai Khôn khắc một Khảm. Trung nam đoản thọ, hiếm con nối dòng, hao tán tiền của, bất lợi.
Bếp đặt tại Đoài (Chánh Tây): Bếp Đoài (Chánh Tây) kim đối với cửa Khảm (Chánh Bắc) là bếp Họa Hại, đối với chủ Khôn tương sanh và hỗ biến được Thiên Y hữu khí. Vậy phần cát trội hơn phần hung.
Kết luận: tám hướng bếp trên đây đều thuộc chủ nhà mạng Khôn là Đông Tây tương hỗn trạch (Cửa Khảm (Chánh Bắc) thuộc Đông, chủ Khôn thuộc Tây) cho nên bếp nào cũng biến sinh một hung Du Niên và một cát Du Niên, không có bếp nào trọn xấu hay tốt. Các bếp Khảm
Ly Chấn Tốn thì hợp với cửa mà nghịch với chủ, còn các bếp Kiền Khôn Cấn Đoài hiệp với chủ mà bất lợi với cửa.
CHỦ NHÀ MẠNG KHÔN MỞ CỬA CÁI HƯỚNG CẤN (ĐÔNG BẮC) SANH KHÍ
(Cửa cái tại Cấn (Chánh Đông), chủ nhà hay sơn chủ tại Khôn).
Lời tương ứng về ngôi nhà: Sơn Địa điền sản đa tấn ích.
Y nghĩa: Sơn là núi chỉ vào Cấn, Địa là đất chỉ vào Khôn (Cấn vi Sơn, Khôn vi Địa).
Điền sản đa tấn ích là ruộng đất tiến thêm người.
Từ cửa Cấn (Đông Bắc) biến một lần tới chủ Khôn được Sinh Khí nên gọi là Sinh Khí trạch. Cấn thổ mà Khôn cũng thổ, hai thổ cùng nhà ắt giàu có lớn (nhị thổ đồng điền vi phú). Đây là ngôi nhà khiến gia đạo hưng long, ruộng đất cùng sản nghiệp có người lên thêm mãi, công danh hiển đạt, con hiếu cháu hiền, vợ chồng đều sống lâu, hưởng thụ người việc tốt đẹp. Thật là một cái nhà vừa phú vừa quí vừa thọ, lắm cuộc vinh xương. Lại nhờ Cấn với Khôn có đủ âm dương tương phối nên số người càng đông. Tuy có một điều không hay là ở lâu rồi bọn tiểu nhi hay bị phong bệnh và tật ở tỳ vị (lá lách và dạ dày) đó là Sinh Khí mộc khắc Cấn Khôn thổ (tinh cung tương khắc).
Cửa Cấn (Đông Bắc) và chủ Khôn phối 8 chỗ đặt bếp:
Bếp đặt tại Kiền (Tây Bắc) : Bếp Kiền (Tây Bắc) đối với cửa Cấn (Đông Bắc) tương sanh và bếp Thiên Y đắc vị, rất tốt. Bếp Kiền (Tây Bắc) đối với chũ Khôn tương sanh có đủ âm dương và hỗ biến được Diên Niên hữu khí càng tốt hơn. Hơn thế nữa là Sinh khí nay nhờ bếp mà có thêm Diên Niên và Thiên Y hợp thành nhà ba tốt, tốt lắm.
Bếp đặt tại Khảm (Chánh Bắc): Đối với cửa Cấn (Đông Bắc) thì bếp Khảm (Chánh Bắc) thọ khắc và là bếp Ngũ Quỉ, không cò bếp nào hung hại hơn nó. Đối với chủ Khôn thì bếp Khảm (Chánh Bắc) cũng bị khắc và hỗ biến ra Tuyệt Mạng, tai hại cũng chẳng phải ít. Kết luận: Bếp Khãm (Chánh Bắc) đại hung, gây hoạ hoạn người hơn các bếp Ly (Chánh Nam) Chấn (Chánh Đông) Tốn (ĐôngNam)
Bếp đặt tại Cấn (Đông Bắc): Bếp Cấn (Đông Bắc) đối với cửa Cấn (Đông Bắc) tỷ hoà và là bếp Phục Vị đối với chủ Khôn cũng tỷ hoà và hỗ biến được Sinh Khí. Nói tóm lại nhà có Sinh Khí nhờ bếp Cấn (Đông Bắc) mà thêm được một Sinh Khí nữa và một Phục Vị đều được gọi là cát Du Niên, nhưng bếp này chỉ tốt vừa vừa mà thôi vì 2 Sinh Khí và 1 Phục Vị đồng thuộc mộc, đồng bị Tây tứ Trạch khắc.
Bếp đặt tại Chấn (Chánh Đông): đối với cửa Cấn (Đông Bắc) thì bếp Chấn (Chánh Đông) khắc và là bếp Lục Sát, đối với chủ Khôn thì bếp Chấn (Chánh Đông) cũng khắc và hỗ biến ra Hoạ Hại. Nó khắc cả cửa và chủ lại biến sinh Lục Sát với Hoạ Hại tất phải là hướng bếp rất bất lợi ( nhưng ít nguy hại hơn bếp Khảm (Chánh Bắc). Nó sang ra các việc quan tụng, khẩu thiệt, gia đạo bất hoà, nam nữ chết sớm, tiểu nhi khó nuôi.
Bếp đặt tại Tốn (Đông Nam) : Bếp Tốn (ĐôngNam) mộc khắc cả cửa Cấn (Đông Bắc) với chủ Khôn, bíên sinh Tuyệt Mạng và Ngũ Quỉ (tương tự bếp Khảm (Chánh Bắc) chẳng khỏi điều tuyệt tự.
Bếp đặt tại Ly (Chánh Nam): Bếp Ly (Chánh Nam) hoả tuy sanh cửa Cấn (Đông Bắc) và chủ Khôn nhưng không phải sanh mà là tiết khí, vì nó biến sinh ra Hoạ Hại và Lục Sát. Nó khiến có ra hạng đàn bà hung dữ.
Bếp đặt tại Khôn (Tây Nam): Bếp Khôn (Tây Nam) thổ đối với cửa Cấn (Đông Bắc) và chủ Khôn đều tỷ hoà, biến sinh ra Sinh Khí và Phục Vị. Bếp nầy tượng tợ như bếp Cấn (Đông Bắc) và cũng tốt vừa vừa như bếp Cấn (Đông Bắc).
Bếp dặt tại Đoài (Chánh Tây): Bếp Đoài (Chánh Tây) kim đối với cửa chủ Cấn Khôn thổ đều được tương sanh và biến sinh Diên Niên với Thiên Y. nhà Sinh Khí có thêm Diên Niên và Thiên Y gọi là nhà ba tốt. Vậy bếp Đoài (Chánh Tây) đại lợi, đại cát.
Kết luận: Tám hướng bếp trên đây đều thuộc chủ nhà mạng Khôn là Sinh Khí trạch, Cấn Khôn thuộc Tây tứ Trạch cho nên Tây trù là các bếp Kiền Khôn Chấn Đoài đều hiệp với nhà, bếp nào cũng biến sinh được 2 cát Du Niên. Còn Tây trù là các bếp Khảm Ly Chấn Tốn đều không hiệp với nhà, bếp nào cũng biến sinh 2 hung Du Niên.
CHỦ NHÀ MẠNG KHÔN MỞ CỬA CÁI HƯỚNG CHẤN (CHÁNH ĐÔNG) HOẠ HẠI
(Cửa cái tại Chấn (Chánh Đông), chủ nhà hay sơn chủ tại Khôn).
Lời tượng ứng về ngôi nhà: Long nhập nhân môn, thương lão mẫu.
Y nghĩa: Rồng vào cửa người, tổn thương mẹ già. Long là rồng ám chỉ Chấn, Nhân môn là cửa người ám chỉ Khôn. Khôn thụôc mẹ già, nay Chấn khắc Khôn nên nói mẹ già bị tổn hại.
Theo phép Bát biến thì từ cửa Chấn (Chánh Đông) biến 5 lần tới chủ Khôn gặp Hoạ Hại cho nên gọi là Hoạ Hại trạch. Chủ Khôn âm thổ bị khắc lại thừa Hoạ Hại cho nên nhà sanh ra bệnh vàng da, phù thũng, các chứng về tì vị, và theo lời tượng ứng thì mẹ phải lìa cha. Hoạ Hại tức là sao Lộc tồn thổ lâm Khôn tỷ hoà, trong xấu cũng có một ít tốt, sơ niên số nhân khẩu cũng khá đông, về sau số tiền tài và số nhân khẩu không trọn vẹn, hễ có tiền tài thì khuyết kém số người, bằng đông người ắt hẳn bần cùng, được mười mất chín.
Cửa Chấn (Chánh Đông) với chủ Khôn phối 8 chỗ đặt bếp:
Bếp đặt tại Kiền (Tây Bắc): dương kim khắc cửa Chấn (Chánh Đông) và là bếp Ngũ Quỉ đại hung, nhưng đối với chủ Khôn là Diên Niên và là âm dương tương sanh rất tốt cho giới phụ mẫu.
Bếp đặt tại Khảm (Chánh Bắc) dương thuỷ đối với cửa Chấn (Chánh Đông) là Thiên Y giải trừ được các tai hoạn, nhưng Khảm đối với chủ Khôn là Tuyệt Mạng, bất lợi cho hàng trung Nam. Bếp này hung cát tươgn đương.
Bếp đặt tại Cấn (Đông Bắc): dương thổ đối với cửa Chấn (Chánh Đông) bị khắc và là bếp Lục Sát hung, nhưng đối với chủ Khôn tỷ hoà và hỗ biến được Sinh Khí: cát, bếp Cấn (Đông Bắc) hung cát tương đương.
Bếp đặt tại Chấn (Chánh Đông): dương mộc tỷ hoà với cửa Chấn (Chánh Đông) nhưng khắc chủ Khôn, hung người hơn cát.
Bếp đặt tại Tốn (Đông Nam): âm mộc tỷ hoà với cửa Chấn (Chánh Đông) và là bếp Diên Niên thất vị tốt vừa vừa, nhưng đối với chủ Khôn phạm Ngũ Quỉ hung người hơn cát.
Bếp đặt tại Ly (Chánh Nam): âm hỏa đối với chu Khôn là Lục Sát nhưng tương sanh đối với cửa Chấn (Chánh Đông) là bếp sinh khí đắc vị rất bình yên.
Bếp đặt tại Khôn (Tây Nam): âm thổ đối với chủ Khôn tỷ hoà phục vị chẳng tốt bao nhiêu, nhưng bị cửa Chấn (Chánh Đông) và là bếp Họa hại hung người hơn cát.
Đoài (Chánh Tây) : âm kim khắc cửa Chấn (Chánh Đông) và là bếp Tuyệt Mạng, rất bất lợi cho con cái, nam nhân yểu vong. Nhưng Đoài với chủ Khôn tỷ hòa và hỗ biến được Thiên Y hữu khí giải được tai hại, có lợi cho lão mẫu cùng thiếu nữ.
Kết luận: Tám hướng bếp trên đây đều thuộc chủ nhà mạng Khôn, Họa hại trạch. Cửa Chấn (Chánh Đông) thuộc Đông trạch, chủ Khôn thuộc Tây trạch cho nên gọi nhà này
là Đông Tây tương hỗn trạch, không có bếp nào trọn xấu hay trọn tốt, hễ lợi cho cửa thì hại cho chủ, bằng lợi chủ thì hại cửa.
CHỦ NHÀ MẠNG KHÔN MỞ CỬA CÁI HƯỚNG TỐN (ĐÔNG NAM) NGŨ QUỶ
(Cửa cái tại Tốn (Đông Nam), chủ nhà hay sơn chủ tại Khôn).
Lời tượng ứng về ngôi nhà: Phong đáo nhân môn: mẫu tiên vong.
Ý nghĩa: Gió đến cửa người: mẹ chết trước. Phong là gió chỉ vào Tốn.Nhân môn là cửa người, ám chỉ vào Khôn. Khôn thuộc mẹ nay bị Tốn khắc nên nói mẹ bị chết trước (mẹ bị tai hại).
Từ cửa Tốn (Đông Nam) biến 2 lần tới chủ Khôn phạm Ngũ Quỷ cho nên gọi là Ngũ Quỷ trạch. Cửa Tốn (Đông Nam) khắc với chủ Khôn là ngoài khắc vào trong, tai họa hkởi lên cấp tốc. Lại phạm Ngũ Quỷ sanh ra các vụ quan tụng (kiện thưa) , trộm cướp, khẩu thiệt thị phi, vì phóng đáng và tửu sắc tài phiến mà sản nghiệp tiêu ma, bà cháu bất hòa, phụ nữ làm loạn, tà ma tác quái, bệnh tật tỳ vị, vàng da, phù thủng, nam nữ đoản thọ. Trước cũng sanh được hai con, về sau chẳng còn thừa tự. Mẹ goá giữ gìn ra đình, con nuôi tranh điền sản.
Cửa Tốn (Đông Nam) với chủ Khôn phối 8 chỗ đặt bếp:
Bếp đặt tại Kiền (Tây Bắc): duơng kim, đối với cửa Tốn (Đông Nam) tưong khắc nhưng với chủ Khôn tương sanh, bên hại và bên lợi bằng nhau.
Bếp đặt tại Khảm (Chánh Bắc) : dương thủy sanh cửa Tốn (Đông Nam) âm mộc và là bếp Sinh Khí đắc vị, đại cát. Nhưng Khảm bị chủ Khôn khắc: bất lợi cho hàng trung nam.
Bếp đặt tại Cấn (Đông Bắc) : dương thổ bị cửa Tốn (Đông Nam) khắc và là bếp Tuyệt Mạng: không có con nối dõi tông đường. Nhưng Cấn với chủ Khôn là âm dương tỷ hoà, hỗ biến được Sinh Khí tuy thất vị cũng có phần lợi. Bếp này hung người hơn cát.
Bếp đặt tại Chấn (Chánh Đông): duơng mộc đối với cửa Tốn (Đông Nam) tỷ hoà và là bếp Diên Niên kim thất vị, tốt vừa vừa. Nhưng Chấn khắc với cửa Khôn (Tây Nam) bất lợi cho phụ nữ.
Bếp đặt tại Tốn (Đông Nam): âm mộc đối với cửa Tốn (Đông Nam ) tỷ hoà và là bếp Phục Vị đăng diện khá tốt. Nhưng Tốn khắc chủ Khôn bất lợi cho phụ nữ, đàn bà lớn tuổi.
Bếp đặt tại Ly (Chánh Nam) : âm hỏa với chủ Khôn hỗ biến ra Lục Sát, nhưng Hỏa với Thổ tương sanh, cái hại qua loa. Còn bếp Ly (Chánh Nam) được cửa Tốn (Đông Nam) ngoài sanh vào lại là bếp Thiên Y: bình an, vui mừng.
Bếp đặt tại Khôn (Tây Nam) : âm thỗ với chủ Khôn tỷ hoà Phục Vị mộc that vị, sự tốt phớt qua. Nhưng cửa Tốn (Đông Nam ) khắc bếp Khôn (Tây Nam) là ngoài khắc vào trong, gọi là Ngũ Quỷ xuyên cung tác, tai hại đến mau và mạnh.
Bếp đặt tại Đoài (Chánh Tây): âm kim khắc cửa Tốn (Đông nam) và là bếp Lục Sát, lại Tốn Khôn Đoài là ba âm ở chung nam nữ đoản thọ, dùng nghĩa tử làm kẻ thừa tự. Nhưng Đoài với chủ Khôn tương sanh và hỗ biến được Thiên Y thổ hữu khí có lợi về mặt tiền tài, người trong nhà ưa làm việc thiện.
Kết luận: Tám hướng bếp trên đây đều thuộc chủ nhà mạng Khôn, Ngũ Quỷ trạch. Cửa Tốn (Đông Nam) đông trạch gặp chủ Khôn tây trạch nên gọi nhà này là Đông Tây tương hỗn trạch. Vì vậy không có bếp nào trọn tốt hay tron xấu. Hễ Đông trù thì lợi cho cửa mà hại cho chủ, bằng Tây trù thì lợi cho chủ mà hại cho cửa.
CHỦ NHÀ MẠNG KHÔN MỞ CỬA CÁI HƯỚNG LY ( CHÁNH NAM) Lục Sát (Cửa cái tại Ly (Chánh Nam), chủ nhà hay sơn chủ tại Khôn).
Lời tượng ứng cho ngôi nhà: Hỏa đáo nhân môn, quả phụ tuyệt.
Ý nghĩa: Lửa tới cửa người phụ nữ goá tuyệt tự. Hoả là lửa chỉ vào Ly.Đáo là tới tức gặp. Nhân môn là cửa người ám chỉ Khôn, vì Khôn là mẹ hay bụng mẹ. Con người ai cũng từ bụng mẹ sinh ra. Quả phụ tuyệt là phụ nữ góa không có con thừa tự, vì Ly Khôn đều thuộc phái nữ và là thuần âm.
Từ cửa Ly (Chánh Nam) biến 4 lần tới chủ Khôn Phạm Lục Sát cho nên gọi là Lục Sát trạch. Ly là lửa nóng đot Khôn là đất phải khô, tuy sanh mà chẳng phải sanh (Phàm hai cung tương sanh mà hỗ biến ra hung Du Niên thì nói là: tuy sanh mà chẳng hpải sanh).Lại Ly Khôn thuần âm, nhân đinh không vọng lên được và nam nhân chịu đoản thọ. Tuy nhiên sơ niên cũng có lúc phát tài là vì trứơc mắt vẫn thấy Ly sanh Khôn, nhưng về sau không tán phát nữa mà sanh ra các vụ góa bụa, đàn bà chưởng quán nhà cửa, người dưng thọ nhận sản nghiệp vì trong thân tộc chẳng có ai sinh con.
Cửa Ly (Chánh Nam) với chủ Khôn phối 8 chỗ đặt bếp:
Bếp đặt tại Kiền (Tây Bắc): Bếp Kiền (Tây Bắc) kim đối với cửa Ly (Chánh Nam) tương khắc và là bếp Tuyệt Mạng, đối với chủ Khôn tương sanh và hỗ biến được Diên Niên hữu khí. Như vậy bếp này hung cát tương đương.
Bếp đặt tại Khảm (Chánh Bắc): Bếp Khảm (Chánh Bắc) thuỷ đối với cửa Ly (Chánh Nam) tương khắc nhưng là bếp Diên Niên vẫn tốt, nhưng đối với chủ Khôn tương khắc và hỗ biến Tuyệt Mạng khiến cho hàng trung nam va trung nữ yểu vong.
Bếp đặt tại Cấn (Đông Bắc) : Bếp Cấn (Đông Bắc) thổ đối với cửa Ly (Chánh Nam) là bếp Họa hại, đối với chủ Khôn là Sinh Khí, Bếp này tiền tài thì khá, nhân đinh thưa thớt, vợ đoạt quyền chồng, kinh mạch chẳng đều.
Bếp đặt tại Chấn (Chánh Đông): Bếp Chấn (Chánh Đông) mộc đối với cửa Ly (Chánh Nam) tương sanh và là bếp Sinh Khí đăng diện rất tốt, đối với chủ Khôn tương khắc và là hỗ biến Họa hại. Bếp này cát người hơn hung.
Bếp đặt tại Tốn (Đông Nam): Bếp Tốn (Đông Nam) âm mộc đối với cửa Ly (Chánh Nam) là bếp Thiên Y đắc vị, tốt vừa vừa. Nhưng Tốn với chủ Khôn là âm khắc âm và hỗ biến Ngũ Quỷ làm cho lão mẫu chẳng thêm trường thọ, phụ nữ nắm quyền nhà, bà cháu chẳng thuận nhau.
Bếp đặt tại Ly (Chánh Nam): Bếp Ly (Chánh Nam) hỏa đối với cửa Ly (Chánh Nam) tỷ hoà và là bếp Phục Vị đắc vị , đối với chủ Khôn tương sanh nhưng hỗ biến ra Lục Sát. Bếp này sơ niên phát tài mà về sau khuýết giảm nhân đinh.
Bếp đặt tại Khôn (Tây Nam): Bếp Khôn( Tây Nam) đối với chủ Khôn là Phục Vị vô khí, tốt chẳng đáng kể.Nhưng bếp Khôn (Tây Nam ) đối với Ly (Chánh Nam) là bếp Lục Sát thủy, tinh cung tương khắc, nam nữ yểu vong, tuyệt tự, mắt tật, tim đau, kinh mạch chẳng đều.
Bếp đặt tại Đoài (Chánh Tây) : Bếp Đoài (Chánh Tây) kim đối với cửa Ly (Chánh Nam) tương khắc và là bếp Ngũ Quỷ đại hung: tấn tài, phụ nữ đoản thọ và chết cách hung dữ, kiện thưa về nhân mạng, khẩu thiệt, thị phi, trộm cướp. Nhưng Đoài với chủ Khôn thùân âm tương sanh và hỗ biến được Thiên Y hữu khí cũng tốt lắm song ch8ảng đủ bù trừ người cái hại của Ngũ Quỷ.
Kết luận: Tám hướng bếp trên đây đều được luận theo chủ nhà mạng Khôn. Nhà có cửa Ly (Chánh Nam) và chủ Khôn là Đông Tây tương hỗn trạch, các bếp Khảm Ly Chấn Tốn
đều có lợi cho cửa Ly (Chánh Nam) mà hại chủ Khôn, còn các bếp Kiền Khôn Cấn Đoài có lợi cho chủ Khôn mà hại cửa Ly (Chánh Nam).
HÔN PHỐI SỞ THUỘC
CỦA CHỒNG MẠNG Khôn
Những tuổi Khảm, Ly, Chấn, Tốn gọi là Đông tứ mạng nên cưới gả nhau. Còn người tuổi Khôn, Cấn, Kiền, Đoài gọi là Tây tứ mạng nên cưới gả nhau mới được người con người phước.
Nếu tuổi Đông mạng cưới gả với tuổi Tây mạng phải gian khổ về con cái, không hòa thuận, không phát phước.
Như chồng Khảm thuộc Đông mạng, cưới vợ Tốn cũng thuộc Đông mạng dược sanh khí. Có năm đứa con hòa thuận, giúp chồng lập nên gia thất. Nếu chồng Khảm là Đông mạng cưới vợ Cấn thuộc Tây mạng, tất phạm Ngũ quỷ, tuy con được 2 đứa mà gia đạo không hòa, của tiền bị trộm.
Mạng chồng hiệp mạng vợ, được sanh khí thuộc Tham lang, có 5 đứa con. Hiệp với Thiên Y, thuộc Cự môn, được 3 đứa con. Hiệp với Diên Niên, thuộc võ khúc được 4 đứa con. Phạm Ngũ Quỷ, thuộc Liêm trinh có hai đứa. Hiệp Qui hồn thuộc Bồ chúc được nhờ một gái thôi. Hiệp Du hồn, thuộc Văn khúc sau nhờ 1 đứa. Phạm Tuyệt Mạng, thuộc Phá quân, chịu cảnh cô đơn. Phạm Tuyệt Mạng thuộc Lộc tồn không con được thọ.
Hãy tường tận sự sanh khắc hưu tù hiệp tuổi chồng vợ. Đường đi vào nhà, bếp núc đặt để đúng phương hướng, cũng quyết được sự có con hay không, nhiều hay ít, nuôi được hay không nữa.
Ở chung một nhà có ông bà, cha mẹ, chú bác, anh em, chị em và vợ chồng, nên phân phòng hạp trạch. Em Đông mạng ở phía Đông, anh Tây mạng ở phía Tây mới được phước thọ, bằng không hạp thì khó thoát bần yếu. Còn vợ chồng. Ví dụ: Chồng Tây mạng nhà ở tây tứ trạch nhưng vợ Đông mạng phải làm sao?
Nếu Trụ Bắc phòng: (Phòng ở hướng Bắc): Chồng ở gian phía Tây, vợ ở gian giữa thuộc Khảm Đông trạch hạp với vợ.
Bằng Trụ Nam phòng: Chồng ở gian nhà phía Tây, vợ ở trung gian hoặc gian nhà phía Đông bởi Trung gian là gian căn giữa thuộc Ly và gian nhà phía Đông thuộc Tốn đều Đông Tứ Trạch hạp mạng vợ.
Hoặc ở phòng phía Đông: Chồng ở gian nhà phía Bắc thuộc Cấn hạp mạng chồng, vợ ở Trung gian thuộc Chấn hoặc nam gian thuộc Tốn đều hạp.
Hay là ở phòng phía Tây: Chồng ở Trung gian, vợ gian nhà phía Nam thuộc Ly, hoặc ở gian nhà phía Bắc thuộc Khảm. Đại để vợ chồng cung mạng chẳng đồng, cứ giữ mạng chồng làm chủ. Các cung khác cũng vậy.
BÁT SAN TUYỆT MẠNG
Kiền với Ly Đoài với Chấn
Khôn với Khảm ÂM KHẮC DƯƠNG Cấn với Tốn
BÁT SAN NGŨ QUỶ
Kiền với Chấn
Tốn với Khôn DƯƠNG KHẮC DƯƠNG
Khảm với Cấn ÂM KHẮC ÂM Đoài với Ly
LỤC THÂN TƯƠNG HÌNH
Kiền với Khảm Cấn với Chấn Tốn với Đoài Khôn với Ly
BÁT SAN HỌA HẠI
Kiền với Tốn Khảm với Đoài Cấn với Ly Khôn với Chấn
Sau đây là bảng lập thành, có lời bình giải rõ ràng, ai cũng có thể xem qua là hiểu, muốn biết người đó tuổi gì, thuộc cung gì trong 8 cung xem bài cung phi và bảng BÁT TRẠCH TAM NGUYÊN để biết rõ cung tuổi của chồng và vợ, qua cột 3 là cung phi của chồng, cột 4 là cung phi của vợ.
Ngoài ra ta có thể xem 1 trong 8 hình bát quái tuỳ theo bổn mạng của mình để đoán số vợ chồng bằng cách nhìn chính giữa là 8 cung của vợ. Dưới đây là bảng hôn phối cát, hung của vợ chồng sở thuộc mạng khôn.
KHÔN
CÁT
Khôn – Khôn: Cát Khôn – Kiền: “ Khôn – Cấn : “
Khôn – Đoài: “
HUNG
Khôn – Chấn: Hung Khôn- Khảm : “ Khôn- Tốn : “
Khôn – Ly : “
TRAI MẠNG KHÔN LẤY GÁI KHÔN
(Phục vì) (Khôn vi địa)
Tai nạn liên miên khổ dập dồn Nếu tình duyên kết Khôn với Khôn Công danh sự nghiệp mòn con mắt Kẻ ở người đi cách nước non.
TRAI MẠNG KHÔN LẤY GÁI ĐOÀI
(Thiên Y) ( Địa trạch lâm) Thiên y Kim Thổ lộc trời ban
Phước thọ miên trường con cháu sang Vườn ruộng cửa nhà đầy mỹ lệ
Trăm năm vui hưởng chữ bình an 3.TRAI MẠNG KHÔN LẤY GÁI KIỀN
“Diên Niên” (Địa thiên thái )
Diên Niên ấy phước lộc miên trường Con cháu lâu dài hưởng thọ xương Dựng nghiệp chuyên cần lại tánh thiện Trai hiền rể hiếu rạng gia đường.
TRAI MẠNG KHÔN LẤY GÁI KHẢM “Tuyệt Mạng” (Đại thuỷ sư)
Khảm càn số khắc khó nên duyên Nếu giàu thì yểu, khói nghèo yên Cháu con vất vả thân đa bịnh
Gia đạo suy vi lắm lụy phiền
TRAI MẠNG KHÔN LẤY GÁI CẤN (Sinh khí ) (Dịu sơn khiêm)
Phải chịu gian nan cực buổi đầu Ba năm nghỉ cũng chẳng bao lâu Sau này phước lộc trời cho đó Nhà cửa vinh quang lọ phải cầu.
TRAI MẠNG KHÔN LẤY GÁI CHẤN (Họa hại) (Địa lôi phục)
Họa hại trùng phùng kéo tới đây Chấn Khôn khó hợp nợ duyên này Sống lâu thêm khổ giàu ky biệt Con cháu vô can bị vạ lây.
TRAI MẠNG KHÔN LẤY GÁI TỐN (Ngũ Quỷ) (Địa phong thăng)
Hồi ở xa nhau thương nhớ nhau Gần nhau không cãi cũng sanh đau
Trong nha Ngũ Quỷ năm phương dậy Kết cuộc nhà xiêu gío thổi nhào
TRAI MẠNG KHÔN LẤY GÁI LY (Lục Sát) (Địa hỏa minh vi)
Lục Sát hình dung khó kết thành Ngân hà trắng xoá nước mong manh Tha hương gặp gỡ còn nhàn hạ
Một xứ giao hoà hoạn họa sanh.
CON NỐI DÒNG
CỦA CHỦ NHÀ THUỘC MẠNG KHÔN
Bài con Nối Dòng ở đây có ý nghĩa như cung tử tức trong khoa tử vi, chuyên lý giải về dòng dõi như số lượng con cái, trai người hay gái người, có con hay không con, nói khác đi là sự phong túc hay hiếm muộn.
Hạnh phúc giữa cha mẹ và con cái, và hạnh phúc chính bản thân của con cái chủ nhà. Tương lai tổng quát của các con nói chung, (số phận, chết, cách chết, dễ nuôi, khó nuôi,
tình trạng con đầu lòng). Muốn hiểu rõ các sự kiện trên đây khoa tử vi cần hội đủ: Năm,
tháng, ngày, giờ sanh, rất phiền phức vì có nhiều người trên đời này chưa chắc hội đủ các chỉ tiêu đó.
Đối với thuật Phong Thủy, chỉ cần biết mạng chủ nhà (cung phi) là đủ để cơ sở xét đoán các tình huống như: hôn nhân của con cái, nếp sống, bệnh tật, tai họa.
Dưới đây là các bài nói về con nối dòng của chủ nha thuộc mạng:
Khôn mạng được Cấn phương là sinh khí có 5 con trai, được phương Kiền có 4 con trai, phương Khôn chỉ có con gái. Phạm vào phương Khảm sẽ bị tuyệt tự. Có 1 người khách mạng Khôn đi chơi ở phương Khảm 1 năm trong nhà con chết! Đau bị thương hàn, mãn kinh, sốt rét, kiết kị, đậu mùa v.v …Đó là do bệnh chướng ở phương Khảm phát xuất.
Lại có 1 con quả phụ, Táo khẩu hướng vào phương Khảm, trong 3 năm bị hai đứa cháu chết đuối dưới sông. Phạm váo phương Ly sẽ tổn thương Trưởng tử về sau bị tuyệt tự! Phạm vào phương Tốn tổn thương cả trưởng nam, trưởng nữ sau con 2 trai.
KHÔN MẠNG:
(Phục: Đoài, Kiền, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn: Thiên
,Diên, Tuyệt, Sinh, Họa, Ngũ, Lục).
HÔN NHÂN
Khôn mạng nên phối Cấn mạng thê là cát hạng nhất, Kiền mạng, Đoài mạng là thứ cát, cầu hôn nên đặt giường nằm vào hướng Kiền để thành hôn.
TỬ TỨC:
Người có mạng Khôn Táo khẩu hướng Cấn có 5 con trai, hướng Đoài có 3 con trai, hướng Kiền có 4 con trai.
TẬT BỆNH:
Khôn mạng nam, nữ phạm vào Ly thì mắc bệnh đau bụng, viêm hỏa, thổ huyết, và các chứng. Dùng Đoài phương là Thiên Y, lai lộ mà trừ trị, phạm vào phương Chấn, Tốn sinh bệnh sốt rét, tả lị, sang độc và các chứng v.v…Phạm vào phương Khảm tuyệt mạng, nam sanh bện thương hàn sốt rét, ốm yếu không thọ, nữ thì sinh bệnh bế kinh, băng huyết, lao ế, trừ bệnh có thể dùng hướng Thiên Y là phương Đoài, 5 ngày thấy công hiệu! 11 ngày dậy được, 2 tháng trừ hết bệnh, dùng hướng Kiền là Tuy có 3 phần tật bệnh mà phần Diên Niên thì có thọ. Hướng táo là Thiên Y dùng lai lộ là Diên Niên phương, như lai lộ là Thiên Y táo hướng nên dùng Diên Niên chỗ khác đại loại cũng vậy.
TAI HỌA
Người Khôn mạng mà phạm vào Khảm phương hay có nạn đâm đầu xuống sông chết, hoặc gío sóng chết chìm, lại ainh bệnh sốt rét, thường con trai thứ 2 trước rồi sau đến con trưởng chết, tuyệt tư, trẻ nhỏ bệnh kinh phong số yểu vong! Phạm vào Ly phương có nhân mạng bị quan phi. Lại biến thê dâm đãng, thương tổn the thiếp, con gái thứ 2 và người tỳ nữ,
sinh bệnh viêm hỏa, tâm thống, con dâu thứ nhì ngỗ nghịch. Nếu có mẹ thì làm con gái thứ hai (lấy tuổi thứ tự trong nhà, lớn nhỏ phân biệt) Phạm vào phương Chấn có sự đắc quan phi (tức được kiện mà phá tài). Trưởng tử bất hiếu, lão bộc bất nhân. Lại có một người Khôn mạng đã lớn (trưởng thành) tạo thêm một căn phòng ở phương Chấn. Thấy tôi cản nó chớ nên làm mà nói rằng: Nếu tu tạo sau 1 năm thì chà mày sẽ từ mày về tội ngỗ nghịch! Người đó nói: Cha yêu tôi, chỉ ghét người em làm gì co chuyện đó! Được 1 năm quả nhiên cha nó từ bỏ nó, vì tội phá tài! Người đó lại hỏi tôi muốn đến nhà lớn ở phương Bắc kia như thế nào? Thầy nói: Nhà ở phương Bắc tuy đẹp, nhưng mày Khôn mạng, phạm vào Khảm phương thì Tuyệt Mạng! Vậy trước nên xa nhà về phương Khôn, hoặc phương Cấn của nhà đó vài tháng, rồi sẽ tiến tới ở nhà lớn đó, chẳng người không tai hoạ, mà có phúc thọ nữa. Y không nghe, cứ đến ở luôn, được hơn 1 năm thì chết. Lại 1 người nữ mạng Khôn, tạo nhà ở phương Chấn, sau bị chồng trách hận mãi. Thầy bảo bỏ nhà đó là yểu, nam nhân mạng Khôn phạm vào Tốn phương thì mẹ già, vơ, con, lấy lén tiền của và tỳ bộc (người ở gái) đào tẩu rồi cướp lại bị hỏa tai! Chết mẹ, con lớn, vợ lớn, dâu lớn v.v…
PHƯƠNG HƯỚNG ĐẶT
BẾP LÒ
CỦA CHỦ NHÀ MẠNG
KHÔN
CHỦ MẠNG KhÔN ĐẶT HƯỚNG BẾP LÒ TẠI KHÔN (Tây Nam)
Theo bát quái đồ sở thuộc cung Phục Vị chủ nhà tất vô tài, tổn thọ, cả đời túng khó.
CHỦ MẠNG KHÔN CHỌN HƯỚNG ĐẶT BẾP LÒ TẠI ĐOÀI (Chánh Tây)
Theo bát quái đồ sở thuộc cung Thiên Y chủ nhà bệnh hoạn liên miên, thuốc thang không hiệu quả. Nên dời bếp về phương vị tốt hơn.
CHỦ MẠNG KHÔN CHỌN HƯỚNG BẾP LÒ TẠI KIÊN (Tây Bắc)
Theo bát quái đồ sở thuộc cung Diên Niên chủ nhà sống không thọ, hôn nhân khó thành, vợ chồng không hợp, vị người gièm siềm ruộng vườn hao hụt, súc vật bệnh hoạn, gia đạo túng khó v.v…
CHỦ MẠNG KHÔN ĐẶT BẾP LÒ TẠI KHẢM (Chánh Bắc)
Theo bát quái đồ sở thuộc cung Tuyệt Mạng chủ nhà sống lâu, không bệnh hoạn, của nhiều, không bị kiện thưa, con đông, tôi tớ đầy đàn, không nạn tai thuỷ hoạ.
CHỦ MẠNG KHÔN CHỌN HƯỚNG ĐẶT BẾP LÒ TẠI CẤN (Đông Bắc)
Theo bát quái đồ sở thuộc cung Sinh Khí chủ nhà làm quỉ thai, lạc thai, khó bế sanh sản. Có con cũng không thông minh không đắc tài, không người trợ giúp, ruộng vườn súc vật tổn thâu.
CHỦ MẠNG KHÔN CHỌN HƯỚNG ĐẶT BẾP LÒ TẠI CHẤN (Chánh Đông )
Theo bát quái đồ sở thuộc cung Hoạ Hại chủ nhà khỏi lo thối tài, không hại người, không sợ đau ốm, không chuyện kiện thưa, khỏi nạn tai họa, gia môn yên ổn.
CHỦ MẠNG KHÔN CHỌN HƯỚNG ĐẶT BẾP LÒ TẠI TỐN ( Đông Nam)
Theo bát quái đồ sở thuộc cung Ngũ Quỉ chủ nhà không gặp nạn và tai hoạ. Không lo trộm cướp, tôi tớ ngay thẳng, siêng năng đắc lực, không bệnh hoạn, chủ nhà thịnh vượng, súc vật gia tăng.
CHỦ MẠNG KHÔN HƯỜNG ĐẶT BẾP LÒ TẠI LY (Chánh Nam)
Theo bát quái đồ sở thuộc cung Lục Sát chủ nhà được thêm người, phát tài không sợ đau ốm, không chuyện kiện thưa, khỏi nạn tai hoạ, gai môn yên ổn.
HƯỚNG XOAY
MIỆNG LÒ
CỦA CHỦ NHÀ MẠNG
KHÔN
CHỦ NHÀ MẠNG KHÔN XOAY MIỆNG LÒ TẠI KHÔN (Tây Nam)
Theo bát quái đồ sở thuộc cung Phục Vị chủ nhà tâm cầu sở tắc.
CHỦ NHÀ MẠNG KHÔN XOAY MIỆNG LÒ TẠI ĐOÀI (Chánh Tây)
Theo bát quái đồ sở thuộc cung Thiên Y chủ nhà được giải bệnh trừ tai.
CHỦ NHÀ MẠNG KHÔN XOAY MIỆNG LÒ TẠI KIÊN (Tây Bắc)
Theo bát quái đồ sở thuộc cung Diên Niên chủ nhà tăng tuổi thọ.
CHỦ NHÀ MẠNG KHÔN XOAY MIỆNG LÒ TẠI KHẢM (Chánh Bắc)
Theo bát quái đồ sở thuộc cung Tuyệt Mạng chủ nhà bị tật bệnh tử vong.
CHỦ NHÀ MẠNG KHÔN XOAY MIỆNG LÒ TẠI CẤN (Đông Bắc)
Theo bát quái đồ sở thuộc cung Sinh Khí chủ nhà sẽ cò con.
CHỦ NHÀ MẠNG KHÔN XOAY MIỆNG LÒ TẠI CHẤN (Chánh Đông)
Theo bát quái đồ sở thuộc cung Hoạ Hại chủ nhà sanh thù oán.
CHỦ NHÀ MẠNG KHÔN XOAY MIỆNG LÒ TẠI TỐN (Đông Nam)
Theo bát quái đồ sở thuộc cung Ngũ Quỉ chủ nhà bị kiện tụng khẩu thiệt.
CHỦ NHÀ MẠNG KHÔN XOAY MIỆNG LÒ TẠI LY (Chánh Nam)
Theo bát quái đồ sở thuộc cung Lục Sát chủ nhà hao tài mất đức.
CẦU TÀI BÍ TRUYỀN
DÀNH CHO CHỦ NHÀ MẠNG
KHÔN
CHỦ NHÀ MẠNG KHÔN CẦU TÀI BẰNG CÁCH XOAY MIỆNG LÒ TẠI KHÔN (Tây Nam)
Theo bát quái đồ sở thuộc cung Phục Vị kết quả chủ nhà sẽ có tiền tài, tiền ích ứng vào năm tháng, ngày giờ Hợi, Mẹo, Mùi cảng thử nhiều thì càng thấy ứng nghiệm.
CHỦ NHÀ MẠNG KHÔN CẦU TÀI BẰNG CÁCH XOAY MIỆNG LÒ TẠI ĐOÀI (Chánh Tây)
Theo bát quái đồ sở thuộc cung Thiên Y kết quả chủ nhà sẽ phàt tài có trăm ngàn lượng vàng thuộc Cự Môn, thổ tinh ứng vào năm Thân, Tý, Thìn, năm, tháng, ngày, giờ.
CHỦ NHÀ MẠNG KHÔN CẦU TÀI BẰNG CÁCH XOAY MIỆNG LÒ TẠI KIÊN (Tây Bắc)
Theo bát quái đồ sở thuộc cung Diên Niên kết quả chủ nhà không có tài lộc nhưng được tăng tuổi thọ.
CHỦ NHÀ MẠNG KHÔN CẦU TÀI BẰNG CÁCH XOAY MIỆNG LÒ TẠI KHẢM (Chánh Bắc)
Theo bát quái đồ sở thuộc cung Tuyệt Mạng kết quả chủ nhà không có tài lộc còn mang tật bệnh tử vong.
CHỦ NHÀ MẠNG KHÔN CẦU TÀI BẰNG (Đông Bắc)
CÁCH XOAY MIỆNG LÒ TẠI CẤN
Theo bát quái đồ sở thuộc cung Sinh Khí kết quả chủ nhà được đại phú, độ một tháng thì phát tài. Sinh Khí là mộc tinh ứng tại Hợi, Mẹo, Mùi, năm, tháng, ngày, giờ.
CHỦ NHÀ MẠNG KHÔN CẦU TÀI BẰNG CÁCH XOAY MIỆNG LÒ TẠI CHẤN (Chánh Đông)
Theo bát quái đồ sở thuộc cung Hoạ Hại kết quả chủ nhà không có tài lộc mà lại sanh thêm thù oán.
CHỦ NHÀ MẠNG KHÔN CẦU TÀI BẰNG CÁCH XOAY MIỆNG LÒ TẠI TỐN (Đông Nam)
Theo bát quái đồ sở thuộc cung Ngũ Quỉ kết quả chủ nhà bị kịên tụng khẩu thiệt.
CHỦ NHÀ MẠNG KHÔN CẦU TÀI BẰNG CÁCH XOAY MIỆNG LÒ TẠI LY Chánh Nam)
Theo bát quái đồ sở thuộc cung Lục Sát kết quả chủ nhà hao tài thất đức.
BẢNG TỔNG KẾT CÁC VIỆC QUAN HỆ THIẾT YẾU TRONG ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI CHỦ NHÀ MẠNG
KHÔN
BÀN THỜ TỔ TIÊN, TÀI VỊ
Bàn thờ tổ tiên hoặc Bàn thờ thần Tài nên đặt về hướng Tây Nam : Tốt.
BẾP LÒ
Nên đặt bếp lò về hướng Chánh Nam, Chánh Bắc, Chánh Đông, Đông Nam : Tốt. Kỵ hướng Tây Nam, Chánh Tây, Đông Bắc, Tây Bắc gặp đại hung.
CẦU TÀI BỊ BÍ TRUYỀN
Muốn có tiền của vô nhiều xoay miệng lò về hướng Chánh Tây, Đông Bắc, Tây Nam.
Các hướng khác đều kỵ.
CỬA CÁI
Nên trổ cửa về hướng Tây Bắc, Chánh Bắc, Đông Bắc: Tốt. Kỵ hướng Tây Nam, Chánh Tây, Đông Nam, Chánh Nam gặp đại hung.
DAO VÀ ĐỒ GIA DỤNG BẰNG SẮT
Các đồ gai dụng : dao, kéo, búa, nồi chảo làm bằng gang hoặc sắt nên cất giu64 hoặc đặt về hướng Chánh Đông :Tốt.
ĐƯỜNG ĐI VÀO NHÀ
Nên chọn hướng Chánh Bắc,Chánh Đông :Tốt. Kỵ hướng Chánh Tây Nam, Tây Bắc, Đông Bắc gặp hung.
GIƯỜNG NGỦ
Nên đặt giường ngủ về hướng Tây Bắc: Tốt.
HÔN PHỐI
Nên cưới vợ mạng Đoài, Kiên , Cấn: Tốt. Kỵ vợ mạng Khôn, Khảm, Chấn, Tốn, Ly.
LU HOẶC BỒN CHỨA NƯỚC UỐNG
Các loại này nên đặt về hướng Đông Nam : Tốt.
MIỆNG LÒ
Nên xoay miệng bếp lò về hướng Tây Nam, Tây Bắc: Tốt. Kỵ các hướng Chánh Bắc, Chánh Đông, Đông Nam gặp đại hung.
MỒ MẢ
Nên xoay đầu mả về hướng Đông Bắc : Tốt.
MUỐI, MẮM, CÁ MẶN
Các thức ăn này nên cất giữ về hướng Chánh Bắc : Tốt.
NẰM NGỦ
Nên nằm nghiêng mình và mặt đều xoay về hướng Tây Nam: Tốt.
NGŨ CỐC
Các loại ngũ cốc dùng trong gia đình cụ thể như: Gạo, Đậu, Các loại bột để làm bánh v.v… nên cất giữ hướng Chánh Tây: Tốt.
NHÀ Ở
Nên chọn nhà ở hướng Chánh Tây, Tây Bắc : Tốt. Kỵ hướng Chánh Bắc, Đông Bắc gặp đại hung.
TU TẠO NHÀ Ở
Nên thực hiện công tác trước ở vào hướng Đông Bắc :Tốt.
Nơi thường ngày tích trữ các đồ vật ô-uế, nhiễm khuẩn, hôi thíu cụ thể như: Cầu tiêu, Nhà tắm, Chuồng nuôi gia súc, v.v… nên đặt tại các hướng xấu của bổn mạng chủ nhà như:
Hướng : Chánh Bắc
Hướng : Chánh Đông
Hướng : Đông Nam
Hướng : Chánh Nam
Quan trọng nhất là địa điểm đặt cầu tiêu nên chọn phươgn vị hung, để trấn áp hung thần trú ẩn, sẽ phản hoạ sanh phước. Tạo sự yên lành giàu có và trường thọ cho chủ nhà.
Lưu ý:
Các dữ kiện khác trong ngôi nhà nếu không có đề cập ở đây thường là có quan
hệ chung cho tất cả 8 mạng trạch của chủ nhà. Nếu cần, đề nghị tham khảo bổ sung ở chương trước. Trong các bài viết chuyên đề về chọn ĐẤT LÀM NHÀ hoặc trong Bộ Tự Điển Phong Thuỷ Học cùng một tác giả.
CHỌN NĂM, THÁNG, NGÀY, GIỜ TỐT ĐỂ KHỞI CÔNG XÂY DỰNG NHÀ Ở CỦA CHỦ NHÀ MẠNG KHÔN
chủ nhà mạng Khôn. _Năm đại- lợi: Thân, Dậu, Mùi, Tuất. Hợi_ Năm tiểu- lợi: Sửu, Dần _ Tháng đại-lợi : Tháng 7-8-10-12_ Tháng tiê-lợi: Tháng 9-6-1 _ Ngày đại-lợi: Mùi, Thân, Tuất _ Ngày tiểu-lợi: Ngày Dậu, Hợi, Sửu, Dần _ Giờ tốt: Sửu, Dần, Mùi, Thân, 4 người đỡ đòn dông hạ thủ tốt.
Xây nhà day hướng, năm tháng ngày giờ thụân thàng sanh ngày, ngày sanh giờ, giờ sanh phối hợp lại ngày tháng thì tốt, năm tháng ngày giờ hướng đều thuận, vượng tương sanh hợp bất kỵ kiêm lâu khoan ốc, dầu lâm vào hung thần cũng không lo. Còn xem ngày, giờ phải câhm chế, hung thần, cát thần, nửa tốt nửa xấu là sử dụng được 2 tốt 1 xấu là tốt, 2 xấu 1 tốt, ngày lâm vô tháng, tháng lâm vô ngày xem cũng dùng được, gặp ngày Tử Tù Hưu, không tốt, hại nhứt là ngày Tử, còn ngày Hưu Tù thì nhẹ hơn.
BẢNG TRA TÌM NĂM SANH DƯƠGN LỊCH HOẶC TUỔI THEO ÂM LỊCH CHO NHỮNG NGƯỜI THUỘC MẠNG
KHÔN
PHẦN DÀNH RIÊNG CHO PHÁI NAM (ĐÀN ÔNG)
PHẦN DÀNH RIÊNG CHO PHÁI NỮ (ĐÀN BÀ)
Dưới đây chúng tôi sẽ giải thích rõ về đặc điểm và vận mạng của chủ nhà mạng Khôn.
CHỦ NHÀ MẠNG ĐOÀI
Tươgn Đươgn với Thiên Vương Tinh (Uranus) thuộc hành Kim.
BẢN CHẤT
Bản chất thâm trầm, có óc mỹ thuật, biết phân tách ra điều hay lẽ phải, có nhiều sáng
công việc, dù làm được hay thất bại cũng giữ bí mật và không bao giờ thổ lộ cho ai biết công việc của mình làm, là con người có óc ích kỷ, làm gì cũng dấu kín đáo, không muốn cho ai biết công việc của mình.
SỞ THÍCH
Con người thích những sự kín đáo, không muốn ai xen vào công việc của mình làm, thích bợ đỡ và ngọt ngào, rất dễ bị quyến rũ vì cái đẹp trước mắt, là người có óc độc đoán, không muốn có một kẻ nào, dù trong gia đình xen vào những chuyện của mình, hay nghĩ lên cao, và tự xem mình là người cao thượng, không muốn ai cãi lại sự quyết định hay lời nói của mình dù lời nói đó không đi đúng với thời gian và việc làm hiện tại.
TÌNH DUYÊN
Vấn đề tình duyên có nhiều điểm khác biệt, vừa bứơc vào cuộc đời thì muốn xây dựng hạnh phúc quá sớm. Nhưng nếu quá muộn thì lại lính quýnh sợ già đi trước tuổi rất khắc khe với người cùng chung chăn gối, gay gắt nhiều khi dễ trở thành ích kỷ và độc đoán. Thường thường sự kết hôn lại tìm những người hay giống tính tình cũng như về nhân cách. Hôn nhân hạnh phúc có khi suýt đổ vỡ vì tính qua khắt khe của mình. Làm cho người ta khó chịu và có khi phải lắc đầu chán nản, quá nhỏ mọn và quá tham vọng.
CÔNG DANH
Công danh chỉ ở vào mức độ tầm thường, có thể đi vào mực chót của nấc thang danh vọng. Cuộc đời chỉ có những năng khiếu tầm thường như bao nhiêu người khác, không có vấn đề đỗ đạt và sự học thức không cao rộng, có thể có sáng kiến về vấn đề nghề nghiệp. Thành công một vài nghề chuyên môn mà không có khiếu về lĩnh vực chính trị hay tự khuếch trương công việc cho bản thân. Số cuộc đời không tự tạo được cơ nghiệp nếu có là do gia đình, thân tộc, bạn bè giúp sáng kiến hay kiến tạo giùm trong thời gian đầu.
SỰ NGHIỆP
Sự nghiệp không được đảm bảo hoàn toàn, có thể bị đổ vỡ vào thời kỳ giữa cuộc đời và muốn xây dựng rất khó khăn vì không có óc sáng tạo và tinh thần xây dựng sự nghiệp vì đó mà trở thành bấp bênh sự nghiệp hoàn toàn trống rỗng.
TÀI LỘC
Tiền tài thường lên xuống thất thường, có khi cũng nắm được nhiều tiền của, nhưng rồi sau đó không lâu, hoàn cảnh và bệnh tật làm trở nên hao hụt bất thường, tiền bạc khó khăn, nhưng khi đuợc rồi thì giữ rất kỹ, khó mà xuất ra, nhung có những trường hợp đặc biệt làm cho tiền bạc trở nên hao hụt thường xuyên.
CUỘC ĐỜI
Cuộc đời không được người ta ưa thích vì có tánh gian trá và mâu thuẫn thường bị mọi người ngờ vực, không được thành công trong vấn đề xã giao với bạn bè, cho nên cuộc đời sống
cô độc, họ hành thân thích không ưa. Nói tóm lại cuộc đời không được may mắn, vì tính tình có trường hợp sửa đổi thì may ra “cuộc đời như con thuyền trước gió”.
THỌ YỂU
Số này không đuợc hay lắm chỉ hưởng thọ vào hai phần ba cuộc sống là may mắn lắm
Ý THƠ BỔ SUNG
Cung Đoài thuộc kim chánh Tây
Người sanh cung ấy, số sau thanh nhàn. Tuổi thơ lắm lúc tai nạn
Nhưng nhờ hồng phúc, nạn nào cũng qua. Đệ huynh nghịch ý ở xa,
Tha phương tự lập của tiền làm ra. Vợ chồng lở dở nhiều phen,
Khi tan khi hiệp đôi lần mới lên. Số này cũng khó nuôi con,
Chừng một hai đức, chắt chiu tuổi già. Tuổi thọ được sáu mươi ba
Có làm ân đức sống ngoài bảy mươi. Khi cất đám đuợc rỏ ràng,
Hòa thượng, cổ nhạc, láng giềng đưa đông Cung Kim khắc Hỏa rỏ ràng,
Chết vào mùa hạ Thiên tào sổ ghi.
Tuổi Dậu làm nhà trổ cửa cái về hướng Chánh Tây là hướng sanh, hay là hướng Tây Bắc cũng khá.
BÁT QUÁI ĐỒ
CỦA CHỦ NHÀ MẠNG ĐOÀI
PHƯƠNG HƯỚNG XÂY NHÀ CỦA NGƯỜI
MẠNG ĐOÀI
CHỦ MẠNG ĐOÀI CHỌN HƯỚNG ĐOÀI (CHÁNH TÂY )
ĐỂ QUAN HỆ VỀ VIỆC XÂY NHÀ
Theo bát quái đồ sở thuộc cung Phục Vị là quẻ Đoài Vi trạch trong kinh dịch. Hướng này chủ nhà được tăng thọ, tăng phú quí, thứ cát.
CHỦ MẠNG Bắc CHỌN HƯỚNG KIỀN
(Bắc Bắc )
ĐỂ QUAN HỆ VỀ VIỆC XÂY NHÀ
Theo bát quái đồ sở thuộc cung Sinh Khí là quẻ Trạch Thiên Quải trong kinh Chu dịch. Hướng này theo lý thuyết chủ nhà sẽ được thượng cát (tốt) nhưng không nên sử dụng nhà này vì sinh khí thuộc sao Tham Lang, Dương, Mộc còn cung Kiền thuộc Dương Kim khắc hại cho người chủ nhà.
CHỦ MẠNG ĐOÀI CHỌN HƯỚNG KHẢM (CHÁNH BẮC)
ĐỂ QUAN HỆ VỀ VIỆC XÂY NHÀ
Thuỷ khốn trong kinh Chu dịch. Chủ nhà sẽ bị nhiều chuyện thị phi, kiện tụng (quan sự) tổn thương nhân khẩu. Thứ hung.
CHỦ MẠNG ĐOÀI CHỌN HƯỚNG CẤN (ĐÔNG BẮC)
ĐỂ QUAN HỆ VỀ VIỆC XÂY NHÀ
Theo bát quái đồ sở thuộc cung Diên Niên là quẻ Trạch Sơn Hàm trong kinh Chu dịch.
Chủ nhà sẽ được hạn trung phú (giàu có bất thường) sống lâu, đắc tài, thứ cát.
CHỦ MẠNG Đông CHỌN HƯỚNG CHẤN
(Đông Đông )
ĐỂ QUAN HỆ VỀ VIỆC XÂY NHÀ
Theo bát quái đồ sở thuộc cung Tuyệt Mạng là quẻ Trạch Lôi Thuỳ trong kinh Chu dịch. Chủ nhà tuyệt tự (không con nối dòng) vô thọ (chết yểu) bệnh tật liên miên. Đại hung.
CHỦ MẠNG Nam CHỌN HƯỚNG TỐN
(Nam Nam )
ĐỂ QUAN HỆ VỀ VIỆC XÂY NHÀ
Theo bát quái đồ sở thuộc cung Lục Sát là quẻ Trạch Phong Địa trong kinh Chu dịch.
Chủ nhà tất tài (không tiền bạc nhiều) khẩu thiệt (mang tai tiếng) thứ hung.
CHỦ MẠNG ĐOÀI CHỌN HƯỚNG LY (CHÁNH NAM )
ĐỂ QUAN HỆ VỀ VIỆC XÂY NHÀ
Theo bát quái đồ sở thuộc cung Ngũ Quỉ là quẻ Trạch Hoả Cách trong kinh Chu dịch.
Chủ nhà hoả tai (tai hoạ về lửa, cháy nhà v.v…) khẩu thiệt (mang lời ăn tiếng nói) đại hung.
CHỦ MẠNG ĐOÀI CHỌN HƯỚNG KHÔN (TÂY NAM )
ĐỂ QUAN HỆ VỀ VIỆC XÂY NHÀ
Theo bát quái đồ sở thuộc cung Thiên Y là quẻ Trạch Địa Tụng trong kinh Chu dịch.
Chủ nhà giàu có. Trong nhà không bệnh tật, cuộc sống yên lành thượng cát.
LƯU Ý:
Nếu khinh xuất mà xây cất nhà cửa, cánh hướng về các hướng đại kỵ, thứ kỵ kể trên hoặc nghe biết mà không chịu sửa chữa bằng cách dời đổi hay xoay lại bếp lò, nhà tiêu để trấn áp hung thần, giải trừ tai hoạ thì khó tránh khỏi những tai biến sẽ xảy ra trong một thời gian sớm muộn.
Chọn phương hướng trổ cửa CỦA CHỦ NHÀ MẠNG ĐOÀI
Dậu sơn Mão hướng, Canh sơn Giáp hướng, Tân sơn At hướng, Trạch này lại ở năm, tháng: Tỵ, Mùi, Thân, Dậu , nhập mộ ở Sửu tương ứng vào thiếu nữ (con gái út) phối với Kiền là sinh khí Khôn là Thiên y đều thành phối cát, mà Kiền liên trùng trùng sinh khí càng tốt thêm nữa! Nếu Khảm thì Hoạ Hại, Chấn thì Tuyệt Mạng, Tốn tuy là Lục Sát, Ly tuy là Ngũ Quỉ, không cùng tỷ hoà mà cát còn ở vậy, đến sự hợp tử, Bạch thì Đoài là thất xiách Kim Tinh, được hợp cứu tử hoả tinh tai cung thì toạ bất toàn mỹ, thì hậu môn (cửa sau) có thể mở tránh ra hai bên tả, hữu là Kiền và 2 phương rất tốt! Nhất Bạch tại Tốn tuy thoái khí, nhưng Diên Niên trợ (giúp) kim. Tứ lục tại Khôn là ngã khắc (ta phá nó) vì tài (phát tài) chẳng hiềm tử khí (khí chất) ngũ hoàng tại Chấn, Mộc không khắc kim. Bát trạchtại Kiền sinh không nghĩ lợi ích vô cùng! Lấy số so sánh ở Đoài trạch mà làm Kiền môn phươgn vị là : “thuần nhất bất tạo”. Thấy nguy chính nhất thư: khai môn ở Cấn không dùng lịch nghiệm! “Đoài trạch khai Cấn môn giả, vị Kiền kỳ bất cát giả” nghĩa là: Đoài trạch mà mở cửa đi ở Cấn phương chưa bao giờ thấy là bất cát, tức lá ích lợi tốt lành. Giáp. Mão, At. Ba hướng mà mở cửa đăng đời cũng cát tường, như là hai lần cửa mà cửa thứ hai mở thang chiếu với cửa lớn thứ nhứt ở ngoài đó, như At, Mão hướn gmở cửa phương Giáp, Giáp hướng mở cửa ở phương Cấn cũng được.
CỬA CÁI VÀ CHỖ ĐẶT BẾP LÒ
QUAN HỆ VỚI
CHỦ NHÀ MẠNG ĐOÀI
Một ngôi nhà có 7 chỗ quan hệ tức là có ảnh hưởng tốt xấu: Cửa ngõ, cửa cái, cửa phòng, cửa bếp, chú nhà hay sơn chú, bếp và hướng bếp.
-Trong 7 chỗ quan hệ có 3 chỗ chính yếu ảnh hưởng trọng đại để quyết định ngôi nhà tốt hay xấu. Còn 4 chỗ kia thuộc hàng thứ yếu (phụ thuộc) ảnh hưởng bình thường, chỉ có thể bớt tốt xấu mà thôi.
Cửa cái là một nơi chính yếu, vì nó là lối đi vào nhà, nếu mở trúng tại cung tốt tức người đi vào chốn may mắn, bằng mở tại cung xấu tức người đi vào chốn nguy hiểm, tối tăm,
chông gai. Cửa cái là mẹ sanh ra các Du Niên cho chủ nhà, cho sơn chủ và cho bếp. Vì vậy hễ chủ nhà, sơn chủ và bếp thừa Du Niên tốt tức cửa cái tốt, vì mẹ tốt mới sanh các con tốt, bằng thừa Du Niên xấu tức cửa cái xấu, vì mẹ xấu mới sanh con xấu.
Chủ nhà hay sơn chủ đều là nơi chình yếu, trụ cột, chủ yếu, làm chủ toàn thể ngôi nhà cho nên gọi là chủ nhà, là sơn chủ. Nếu nó được ở nhằm cung tốt và thừa Du Niên tốt hay sao tốt là nhà thịnh vượng và yên lành. Bằng ở nhằm cung xấu và thừa Du Niên xấu hay Sao xấu là nhà ở suy vi, chẳng yên.
Bếp là nơi chính yếu vì nơi sinh dưỡng, nuôi sống con người, nếu được an trí nơi cung tốt và thừa Du Niên tốt thì sự sinh dưỡng mới đặng ích, ít bệnh hoạn. Bằng an trí tại cung xấu và thừa Du Niên xấu khác nào sự sinh dưỡng bị đầu độc gây ra đủ các chứng bệnh cả tai hoạ. Trăm bệnh đa số do nơi ăn uống sinh ra.
Tóm lại: Ba chỗ chính yếu được đặt vào 3 cung tốt là đối với nhau được tương sanh hay tỷ hoà và 3 cung đều thừa cát Du Niên hay cát tinh thì quyết định một ngôi nhà thịnh vượng. Bằng trái lại đặt đúng vào 3 cung xấu là đối với nhau tương khắc và đồng thừa hung Du Niên hay hung tinh thì quyết định ngôi nhà suy bại.
Sự sai biệt trong 4 chỗ thứ yếu:
Trong 4 chỗ thứ yếu thì hướng bếp có tầm quan trọng hơn cả, kế đó là cửa phòng cửa bếp, sau hết là cửa ngõ. Người xưa không kể tới cửa ngõ, có lẽ vì nói không thuộc về ngôi nhà. Phần này được nói gọn lại là cửa cái, chủ nhà và bếp. Chủ là nói chủ nhà ở tịnh Trạch, là nói sơn chủ ở Đông trạch và Biến hoá Trạch, bếp là nói tại chỗ đặt cà ràng nấu ăn chớ chẳng luận tới hướng mở cửa của cái bếp.
CHỦ NHÀ MẠNG ĐOÀI MỞ CỬA CÁI HƯỚNG ĐOÀI (CHÁNH TÂY) PHỤC VÌ
(Cửa cái tại Đoài (Chánh Tây) chủ nhân hay sơn chủ cũng tại Đoài).
Lời tượng ứng về ngôi nhà: Trạch trùng thiếu phụ chưởng binh quyền.
Y nghĩa: Đầm trùng nhau, phụ nữ trẻ cầm binh quyền. Trạc là cái đầm nước chỉ vào Đoài (Đoài vi trạch). Trạch trùng là Đoài gặp Đoài. Thiếu phụ là hạng con gái hoặc đàn bà trẻ tuổi. Chưởng binh quyền là ý nói cầm cán gia đình.
Từ cửa Đoài (Chánh Tây) biến 8 lần tới chủ Đoài được Phục Vị cho nên gọi là Phục Vị trạch. Hai Đoài kim tỷ hoà vượng khí, sơ niên khá được phát tài, nhưng vì Đoài Đoài thuấn âm tất làm cho dương suy, về sau lâu Nam nhân đoản thọ, nhân dinh lần lần thưa thớt, cho đến cảnh mẹ goá con mồ côi. Tóm lại nhà này tốt ít. Nếu gặp bếp tại Kiền
hay Cấn thuộc dương lại biến sinh toàn là cát Du Niên thì giải hoá được các sự bại của thuần âm.
Cửa Đoài (Chánh Tây) với chủ Đoài phối 8 chỗ đặt bếp:
Bếp đặt tại Kiền (Tây Bắc): Cửa tại Đoài (Chánh Tây) thì bếp Kiền (Tây Bắc) kim tỷ hoà và là bếp Sinh Khí. Bếp Kiền (Tây Bắc) đối với chủ Đoài cung hỗ biến được Sinh Khí. Đây là một cái bếp tốt, nhưng tốt vừa vừa thôi vì Sinh Khí mộc gặp Kiền Đoài kim thất vị. Tuy nhiên nó là một cứu tinh rất cần vì có bếp Kiền (Tây Bắc) dương kim thì nhà khỏi thuần âm.
Bếp đặt tại Khảm (Chánh Bắc): Bếp Khảm (Chánh Bắc) tiết khí hai Đoài và biến sinh hai Lục Sát khiến cho hao tán tiền của và khắc vợ.
Bếp đặt tại Cấn (Đông Bắc): Bếp Cấn (Đông Bắc) dương thổ sanh hai Đoài âm kim, âm dương có đủ, biến sinh ra hai Diên Niên hữu khí là một hướng bếp đại cát, đại lợi, vợ chồng chánh phối, khiến nên việc may, hay. Bếp này còn tốt hơn bếp Kiền (Tây Bắc).
Bếp đặt tại Chấn (Chánh Đông): Bếp Chấn (Chánh Đông mộc bị hai Đoài khắc và biến sinh ra hai Tuyệt Mạng là một hướng bếp hung hại, tuyệt khí đầy nhà.
Bếp đặt tại Tốn (Đông Nam): Bếp âm mộc bị hai Đoài âm kim khắc, đó là khắc âm và ba âm ở chung (thuần âm) khiến cho phụ nữ làm loạn, chết ỷeu, tuyệt tự.
Bếp đặt tại Ly (Chánh Nam): Bếp Ly (Chánh Nam) âm hỏa khắc hai Đoài âm kim, biến sinh hai Ngũ Quỷ, cũng như bếp Tốn (Đông Nam ) trên: âm khắc âm và thuần âm. Nhưng bếp Ly (Chánh Nam này còn hung hại hơn: yêu ma vào nhà, những chuyện quỷ quái xuất hiện hoài hoài.
Bếp đặt tại Khôn (Tây Nam): Bếp Khôn (Tây Nam) vớ hai Đoài là thùân âm, ba nữ ở chung âm thắng dương suy, nam nữ đoản thọ tuyệt tự.
Bếp đặt tại Đoài (Chánh Tây ): Ba cung Đoài ở chung, kim vuợng khí nhưng là thuần âm, vì vậy tài ngân có mà nhân đinh thì không.
Kết luận: Tám hướng bếp trên đây đều thuộc về chủ nhà mạng Đoài là Phục Vị trạch. Nhà thuộc Tây tứ trạch nên các bếp Kiền Khôn Cấn Đoài đều tốt, còn các bếp Khảm Ly Chấn Tốn đều bất lợi.
CHỦ NHÀ MẠNG ĐOÀI MỞ CỬA CÁI HƯỚNG KIỀN (TÂY BẮC) SANH KHÍ
(Cửa cái tại Kiền (Tây Bắc), chù nhà hay sơn chủ tại Đoài )
Lời tượng ứng về ngôi nhà: Thiên Trạch: tài vượng, đa dâm loạn.
Ý nghĩa: Thiên túc Kiền (Kiền vi Thiên). Trạch tức Đoài (Đoài vi trạch). Kiền Đoài phối nhau thì tiền của thịnh vượng nhưng hay dâm loạn.
Từ cử Kiền (Tây Bắc) biến hai lần tới Đoài thừa Sinh Khí cho nên gọi chủ Đoài là Sinh Khí trạch. Sinh Khí tuy tốt nhưng làm Đoài kim thất vị, sức làm cho phát đạt bị giảm không ít. Kiền với Đoài là âm dương tỷ hòa tương phối rất tốt, nhưng Kiền là ông già, Đoài là thiếu nữ hiệp nhau chẳng khỏi sẽ có sự trở ngại vì bất tương xứng như người già cưới vợ trẻ. Ở nhà này lúc sơ niên cũng được phát đạt lắm, phú quý song toàn, số người cư trú cũng khá đông và khá trường thọ. Nhưng về sau, do trên đã luận mà suy ra: Kiền đã già nay sẽ quá già, Đoài quá trẻ nay vẫn còn trẻ, sự tương ứng không thể còn mãi như trứơc mà lại sanh ra điều dâm loạn, lầm lạc. Cũng như người chồng đã quá già bạc nhược mà người vợ còn đang xuân trẻ sẽ sanh tâm lầm lỗi. Vả lại, với ý đầu tiên, già cưới trẻ, trẻ ưng già đâu khỏi đa dâm loạn. Rồi ra cảnh cô đơn, mẹ goá chưởng quản gia đình, đàn ông cưới những lần vợ. Kết luận: nhà này tốt vừa vừa.
Cửa Kiền (Tây Bắc ) với chủ Đoài phối 8 chỗ đặt bếp:
Bếp đặt tại Kiền(Tây Bắc): Cửa tại Kiền(Tây Bắc) mà bếp cũng tại Kiền(Tây Bắc) là bếp Phục Vị. Bếp Phục Vị nương theo cái tốt của Sinh Khí trạch, nhưng cả hai đều thuộc mộc không hợp với Tây tứ trạch kim là ngôi nhà này. Vì vậy, tuy là Sinh Khí trạch mà khó phát đạt. Hai Kiền dương cương ngạch thắng hiếp một Đoài âm non nớt khiến cho phụ nữ yểu vong, goá bụa, dâm đãng.
Bếp đặt tại Khảm (Chánh Tây): Cửa tại Kiền(Tây Bắc) thì bếp Khảm (Chánh Tây là bếp Lục Sát. Bếp Khảm (Chánh Tây) hỗ biến với chủ Đoài sinh ra Họa hại. Một bếp vừa Lục Sát vừa Họa hại sinh ra tán tài, hiếm hoi con cái, khắc thê thiếp, lại còn sanh
ra các vụ dâm dật, phóng đãng. (Chú ý: Bếp
Khảm (Chánh Tây) thuỷ đối với cửa
Kiền(Tây Bắc) và chủ Đoài được tương sanh, nhưng hễ tương sanh mà hỗ biến ra Lục Sát hay Họa hại thì không gọi là tương sanh mà gọi là tiết khí, tức là làm cho tiêu mòn khí lực: nước chảy đá mòn).
Bếp đặt tại Cấn (Đông Bắc): Cửa tại Kiền (Tây Bắc) thì bếp Cấn (Đông Bắc) là bếp Thiên Y đăng diện đem lợi vào nhà mà xua đuổi tai họa cho nhân khẩu. Lại bếp Cấn (Đông Bắc) với chủ Đoài tương sanh hỗ biến được Diên niên hữu khí, thật là một cái bếp tấn lợi và hưng phú bậc nhất. Nhờ bếp này mà ngôi nhà tạo nên ba tốt: có đủ Sinh Khí , Diên Niên và Thiên Y.
Bếp đặt tại Chấn (Chánh Đông): Cửa tại Kiền (Tây Bắc) thì bếp Chấn (Chánh Đông) là bếp Ngũ Quỷ. Lại bếp Chấn (Chánh Đông hỗ biến với chủ Đoài sanh ra
Tuyệt Mạng. Ngũ Quỷ và Tuyệt Mạng là hai Du Niên đại hung, gây ra lắm sự tiêu tàn, đoạn, dứt, tai họan. Tính về sự hơn thua, nhà Sinh Khí mà gặp bếp này là thua lỗ rõ rệt.
Bếp đặt tại Tốn (Đông Nam): Cửa tại Kiền (Tây Bắc) thì bếp Tốb (Đông Nam) là bếp Hoạ Hại. Lại bếp Tốn (Đông Nam) hỗ biến với chủ Đoài sang ra Lục Sát. Nhà Sinh Khí không dương nỗi với một cái bếp sanh ra hai Dui Niên Hoạ Hại và Lục Sát, gây ra tai họa gầnbằngbếp Chấn(Chánh Đông) bếp Tốn (Đông Nam ) bị Kiền Đoài khắc, khiến cho phái nữ bị tai nạn, đàn bà do sanh đẻ mà chết, thường bị bệnh đau nhức thấu gân cốt.
Bếp đặt tại Ly (Chánh Nam): bếp Ly (Chánh Nam) hoả khắc cả cửa Kiền (Tây Bắc) và chủ Đoài, nội sự đó cũng đủ thấy bếp Ly (Chánh Nam) rất bất lợi rồi. Huốn gchi bếp đối với cửa Kiền (Tây Bắc) là Tuyệt Mạng, đối với chủ Đoài là Ngũ Quỉ. Bếp như vậy tai nạn cũng như bếp Chấn (Chánh Đông) Tốn (Đông Nam), làm tiêu phá cái hay của Sinh Khí trạch mà khiến cho hao tiền mất vật, nam nữ chẳng sống lâu, lần đến cảnh suy tàn, thảm bại.
Bếp đặt tại Khôn (Tây Nam): bếp Khôn (Tây Nam) thổ sanh Kiền Đoài kim, là xái bếp đem những sự lợi tốt cho cửa và chủ. Bếp Khôn (Tây Nam) đối với cửa Kiền (Tây Bắc) là Diên Niên đắc vị, đối với chủ Đoài là Thiên Y hữu khí, cộng với chủ thừa Sinh Khí làm nên cái nhà ba tốt, phú quí nói chẳng hết lời.
Bếp đặt tại Đoài (Chánh Tây): cửa tại Kiền (Tây Bắc) thì bếp Đoài (Chánh Tây) là bếp Sinh Khí. Nhà Sinh Khí bếp cũng Sinh Khí, ấy là lưỡnglong nhập trạch, hai rồng vào nhà (Sanh Khí mộc tượng thanh long).
Sanh kế dồi dào, điềm lành tấn tiếp, sự may mắn thường đến có đôi hoặc vồn vập. Tuy vậy chưa phải là tuyệt duyệt lắm, vì Sinh Khí mộc không hiệp với Tây tù trạch kim.
Kết luận: Tám hướng bếp trên đây, bếp nào cũng thuộc về chủ nhà mạng Đoài. Nhà vốn tốt trung bình, có htể gặp bếp tốt hoá nên rất tốt, bằng gặp bếp xấu thì nhà chỉ còn được chút ít may mắn, hoặc có thể sanh ra tai hoạ những hơn lợi ích.
CHỦ NHÀ MẠNG ĐOÀI MỞ CỬA CÁI HƯỚNG KHẢM (CHÁNH BẮC) HOẠ HẠI
(Cửa cái tại Khảm (Chánh Bắc), chủ nhà hay sơn chủ tại Đoài).
Lời tượng ứng về ngôi nhà : Trạch ngộ Thuỷ tiết, thiếu nữ vong.
Y nghĩa: Đầm gặp Nước rỉ, gái nhỏ mất (chết). Trạch là cái đầm nước chỉ vào Đoài, Thuỷ lá nước chỉ vào khảm. Tiết là tiết khí. Đoài sanh Khảm thì Đoài phải tổn hao khí lực, tức là Đoài bị Khảm làm tiết khí nên nói gái nhỏ chết.
Từ cửa Khảm (Chánh Bắc) biến 5 lần tới chủ Đoài phạm Hoạ Hại cho nên gọi là Hoạ Hại trạch, là ngôi nhà tấn tài, phá gia, cưới thê thiếp những lần, phụ nữ chết nhỏ, thường sanh các chứng bệnh ho hen, khạc đàm, lao tổn, ghẻ độc.
Cửa Khảm (Chánh Bắc) với chủ Đoài phối 8 chỗ đặt bếp:
Bếp đặt tại Kiền (Tây Bắc): bếp Kiền (Tây Bắc) kim đối với cửa Khảm (Chánh Bắc) tương sanh nhưng là bếp Lục Sát, đối với chủ Đoài được Sinh Khí nhưng vô khí. Như vậy là nửa sát nửa hung.
Bếp đặt tại Khảm (Chánh Bắc): bếp Khảm (Chánh Bắc) thuỷ đối với cửa Khảm (Chánh Bắc) là bếp Phục Vị, nhưng đối với chủ Đoài là Hoạ Hại, hại những hơn lợi.
Bếp đặt tại Cấn (Đông Bắc): bếp Cấn (Đông Bắc) thổ đối với cửa Khảm (Chánh Bắc) phạm Ngũ Quỉ đại hung bất lợi cho hàng con trẻ. Nhưngcấn với chủ Đoài hỗ biến được Diên Niên hữu khí đại cát : khiến cho giàu có, vẻ vang. Vậy là hung cát tương đương.
Bếp đặt tại Chấn (Chánh Đông): bếp Chấn (Chánh Đông) mộc đối với cửa Khảm (Chánh Bắc) thuần dương tương sanh và là bếp Thiên Y thất vị, tốt vừa vừa. nhưng Chấn với chủ Đoài xung khắc và hỗ biến ra Tuyệt Mạng khiến cho nam nữ chết yểu.
Bếp đặt tại Tốn (Đông Nam): bếp Tốn (Đông Nam) âm mộc đối với cửa Khảm (Chánh Bắc) dương thuỷ là âm dương tương sanh và là bếp Sinh Khí đăng diện, rất tốt. Nhưng Chấn với chủ Đoài tương khắc và hỗ biến ra Lục Sát chỉ khiến cho phụ nữ bất
lợi.
Bếp đặt tại Ly (Chánh Nam): bếp Ly (Chánh Nam) hoả đối với cửa Khảm (Chánh Bắc) là bếp Diên Niên thất vị, lại Ly Khảm tươn gkhắc, chỉ tốt vừa vừa. nhưng Ly với chủ Đoài tương khắc và hỗ biến Ngũ Quỉ khiến cho ohụ nữ bất lợi, hay làm tổn hại người hiền phụ, ghẻ độc làm chết người.
Bếp đặt tại Khôn(Tây Nam): bếp Khôn (Tây Nam) thổ khắc với cửa Khảm (Chánh Bắc) và là bếp Tuyệt Mạng rất tai hại. Nhưng Khôn sanh chủ Đoài và hỗ biến được Thiên Y rất phát tài. Bếp này hung cát tương đương.
Bếp đặt tại Đoài (Chánh Tây): bếp Đoài (Chánh Tây) kim đối với chủ Đoài là Phục Vị vô khí đối với cửa Khảm (Chánh Bắc) là Hoạ Hại. Như bếp Khảm (Chánh Bắc), bếp Đoài (Chánh Tây) hại những hơn lợi.
Kết luận: Tám hướn gbếp trên đây đều là luận theo chủ nhà mạng Đoài, và cửa Khảm (Chánh Bắc) thuộc Đông mà chủ Đoài thuộv Tây cho nên gọi là Đông Tây tương hỗn trạch. Các bếp Khảm Ly Chấn Tốn lợi cho cửa Khảm (Chánh Bắc) hoạ hại chủ Đoài, các bếp Kiền Khôn Cấn Đoài lợi cho chủ Đoài mà hại cửa Khảm (Chánh Bắc).
CHỦ NHÀ MẠNG ĐOÀI MỞ CỬA CÁI HƯỚNG CẤN (ĐÔNG BẮC) DIÊN NIÊN
(Cửa cái tại Cấn (Đông Bắc), chủ nhà hoặc sơn chủ tại Đoài).
Lời tượng ứng về ngôi nhà: Sơn trạch; nhân vượng, gia phú quí.
Y nghĩa: Sơn là núi chỉ vào Cấn, Trạch là cái đầm chỉ vào Đoài. (Cấn vi sơn, Đoài vi trạch). Nhân vượng là người thêm đông. Gia phú quí là nhà giàu sang (giàu là chỉ vì tiền của, sang là nói về quyền chức). Cửa Cấn (Đông Bắc) với chủ Đoài là mẫu nhà đông người, giàu có và danh vọng.
Từ cửa Cấn (Đông Bắc) biến ba lần tới chủ Đoài được Diên Niên cho nên gọi là Diên Niên trạch. Diên Niên kim lâm Đoài là tỷ hoả đăng diện. Đối với cửa Cấn (Đông Bắc) thổ thì Diên Niên kim cũng tương sanh đắc Vị. Cửa Cấn (Đông Bắc) và chủ Khôn được Tây tứ trạch chỉ có Diên Niên kim là tốt đệ nhất, đem vượng khí vào nhà, không nhà nào hơn nó được. Cửa Cấn (Đông Bắc) với chủ Đoài là âm với dương không khí tương sanh và cửa sanh chủ là từ ngoài sanh vào trong thì nhà mau phát đạt lắm, thường hay được của bất ngờ. Được những điều tốt nên ứng những sự may mắn: vợ chồng chánh thức và ăn ở rất hài hoà, tuổi trẻ thi đậu cao, lục súc hưng vượng, điền sản có thêm, con hiếu cháu hiền, phụ nữ tuấn tú mà có chí khí trượng phu, nam nữ đều sống lâu mà hưng gia lập nghiệp, sanh 4 trai, thường ứng con nhỏ làm nên gia sản (Cấn, Đoài và Diên Niên đều thuộc hạng thiếu nam và thiếu nữ). Xưa Cam La 12 tuổi làm tể tướn glà do kiểu nhà này. (nếu ngôi nhà này là Đông trạch mà cửa Cấn (Đông Bắc) ở góc bên trái mặt tiền thì nên chọn ngăn 4 làm phòng chúa ắt được Cự môn thổ tinh đắc Vị hay chọn ngăn 5 làm phòng chúa ắt được Vũ khúc kim tinh đăng diện thì thêm tốt trăm phần trăm. Hoặc cửa Cấn (Đông Bắc) chính giữa mặt tiền thì nên chọn ngăn 3 làm phòng chúa ắt được Cự môn thổ tinh đăng diện thì nhà cũng tốt thêm trăm phần trăm.
Cửa Cấn (Đông Nam) với chủ Đoài phối 8 chỗ đặt bếp:
Bếp đặt tại Kiền (Tây Bắc): cửa tại Cấn (Đông Bắc) thì bếp Kiền (Tây Bắc) tương sanh và là bếp Thiên Y đắc Vị. Đối với chủ Đoài thì bếp Kiền (Tây Bắc) tỷ hoà ( hỗ biến được Sinh Khí. Vậy nhà Diên Niên nhờ có bếp Kiền (Tây Bắc) mà thêm Thiên Y
và Sinh Khí hợp nên nhà ba tốt. Bếp này khiến cho liên tục phát phú quí, hanh thông và trường thọ tới 60, 90 tuổi, là một cái bếp đại cát.
Bếp đặt tại Khảm (Chánh Bắc): cửa tại Cấn (Đông Bắc) thì bếp Khảm (Chánh Bắc) bị khắc và là bếp Ngũ Quỉ, chẳng bếp nào hung hại bằng. Huống chi bếp Khảm (Chánh Bắc) đối với chủ Đoài là bị tiết khí và hỗ biến ra Hoạ Hại.
Bếp đặt tại Cấn (Đông Bắc): đối với cửa Cấn (Đông Bắc) thì bếp Cấn (Đông Bắc) tỷ hoà, đối với chủ Đoài thì bếp Cấn (Đông Bắc) tương sanh và hỗ biến được Diên Niên, rất tốt.
Bếp đặt tại Chấn (Chánh Đông): cửa tạo Cấn (Chánh Đông) thì bếp Chấn (Chánh Đông) khắc cửa và là bếp Lục Sát. Bếp Chấn (Chánh Đông) đối với chủ Đoài là bị khắc và hỗ biến ra Tuyệt Mạng. Vậy bếp Chấn (Chánh Đông) là bếp hung.
Bếp đặt tại tốn (Đông Nam): bếp Tốn (Đông Nam) khắc cửa Cấn (Đông Bắc) lại bị chủ Đoài khắc lại, chính biến là Tuyệt Mạng, hỗ biến là Lục Sát. Bếp này khiến cho phụ nữ đoản thọ, hiếm con thừa tự, chẳng tốt chút nào.
Bếp đặt tại Ly (Chánh Nam): bếp Ly (Chánh Nam) tiết khí cửa Cấn(Đông Bắc) và là bếp Hoạ Hại, lại khắc chủ Đoài và hỗ biến ra Ngũ Quỉ, thiếu phụ chết một cách hung dữ.
Bắc) thì bếp Khôn(Tây Nam) tỷ hìa và chính biền Sinh Khí, đối với chủ Đoài thì bếp Khôn (Tây Nam) tương sanh và hỡ biến được Thiên Y hợp lại thành nhà ba tốt. Bếp này sanh 3 con, 5 con, phước ộc thọ ba thứ gồm đủ, trăm việc đề đại cát. Bếp Khôn (Tây Nam) còn tốt hơn bếp Kiền (Tây Nam) một bực, vì Khôn với cửa Cấn (Đông Bắc) có đủ âm dương.
8) Bếp đặt tại Đoài (Chánh Tây): bếp Đoài (Chánh Tây) nào khác chủ Đoài, đối với cửa Cấn (Đông Bắc) tương sanh và là bếp Diên Niên đăng diện,,rất tốt, cò hiền phụ chăm sóc nhà cửa, sanh xuất bực nữ tú (con gái tuấn tú).
Kếy luận: Tám hướng bếp trên đây đều thuộc về chủ nhà mạng Đoài là Diên Nịên trạch. Đây là tứ trạch cho nên các Tây trù hiệp với nhà, bếp nào đối với cửa chủ cũng biến sinh được 2 cát Du Niên. Còn Đông trù không hợp với nhà, bếp nào cũng biến sinh ra 2 hung du Niên.
CHỦ NHÀ MẠNG ĐOÀI MỞ CỬA CÁI HƯỚNG CHẤN (CHÁNH ĐÔNG) TUYỆT MẠNG
(Cửa cái tại Chấn (Chánh Đông), chủ nhà hay sơn chủ tại Đoài).
Lời tượng ứng về ngôi nhà: Long trang Hổ đấu: ưu thương trưởng.
Y nghĩa: Rồng tranh Hổ đánh, lo buồn cho hạng cả (lớn). Long tức Thanh Long ám chỉ vào Chấn, Hổ TỨC Bạch hổ ám chỉ vào Đoài. Chấn với Đoài tương khắc cho nên noí là tranh, là đấu. Đoài thuộc thiếu nữ là nàng nhỏ khắc Chấn trưởng nam là hạng lớn nên nói: lo buồn cho hạng cả (người lớn).
Theo phép Bát biến, từ cửa Chấn (Chánh Đông) biến 7 lần tới chủ Đoài tất phạm Tuyệt Mạng cho nên gọi là Tuyệt Mạng trạch. Chấn với Đoài âm dương tương khắc, nhân din hcùng tiền tài đều chẳng vượng. Kim với Mộc hình chiến, đau nhức lưng, mông, tim, bụng, sanh ra các vụ ở goá, thiếu con thừa tự, linh dinh, cô khổ vô cùng. Nếu ngôi nhà này là Đông trạch nằm (5) ngăn thì nên chọn ngăn 5 làm phòng chúa để được Cự môn dắc Vị thì phát phú được vài chục năm rồi sau đó mới suy vi. Hoặc là Bát trạch dung sáu ngăn thì nên chọn ngăn 2 làm Phòng chúa để được Vũ khúc kim tinh đăng diện thì nhà phát phú tới 30 năm rồi sau đó mới suy dần.
Cửa Chấn (Chánh Đông) với chủ Đoài phối 8 chỗ đặt bếp:
Bếp đặt tại Kiền (Tây Bắc): dương kim, đối với chủ Đoài tỷ hoà và là bếp Sinh Khí thất vị tốt vừa vừa. nhưng Kiền khắc chủ Chấn, hỗ biến Ngũ Quỉ đại hung.
Bếp đặt tại Khảm(Chánh Bắc): dương thuỷ đối với cửa Chấn (Chánh Đông) tương sanh và là bếp Thiên Y rất bình yên. Nhưng dùng lâu về sau thì nam nữ đoản thọ vì khảm tiết khí chủ Đoài và hỗ biến ra Hoạ Hại.
Bếp đặt tại Cấn (Đông Bắc): dương thổ đối với chủ Đoài tươgn sanh và hỗ biến được Diên Niên hữu khí rất tốt. Nhưng vì cửa Chấn (Chánh Đông) khắc bếp Cấn (Đông Bắc) khiến cho hàng tiểu nhi yểu vong.
Bếp đặt tại Chấn (Chánh Đông): dương mộc đối với cửa Chấn (Chánh Đông) tỷ hoà và là bếp Phục Vị đăng diện tốt tầm thường. Nhưng Chấn đối với chủ Đoài tương khắc, hỗ biến Tuyệt Mạng lại chẳng ít. Bếp này hung những hơn cát.
Bếp đặt tại Tốn (Đông Nam): âm mộc đối với cửa Chấn (Chánh Đông) là âm dương tỷ hoà và là bếp Diên Niên tốt trung bình. Nhưng Tốn với chủ Đoài tương khắc và hỗ biến Lục Sát khiến cho ohụ nữ yểu vong.
Bếp đặt tại Ly (Chánh Nam): âm hoả đối với cửa Chấn (Chánh Đông) tương sanh và là bếp Sinh Khí rất tốt, nhưng Ly với chủ Đoài tương khắc và hỗ biến Ngũ Quỉ rất tốt nhưng hung hại khiến cho hàng phụ nữ hoặc nhỏ tuổi chết cánh hung dữ.
Bếp đặt tại Khôn(Tây Nam): âm thổ bị cửa Chấn (Chánh Đông)khắc, lão mẫu bị tổn thương. Nhưng Khôn sanh chủ Đoài và hỗ biến Thiên Y lợi cho hàng thiếu nữ.
Bếp đặt tại Đoài (Chánh Tây): âm kim cùng với chủ Đoài đồng khắc cửa Chấn (Chánh Đông) gây tổn hại cho nam nhân, khắc con cháu, thiếu con thừa tự. Bếp Đoài (Chánh Tây) đối với cửa Chấn (Chánh Đông) là bếp Tuyệt Mạng.
Kết luận: Tám hướng bếp trên đây đều thuộc về chủ nhà mạng Đoài Tuyệt Mạng trạch. Cửa Chấn (Chánh Đông) thuộc phía Đông, cửa Đoài (Chánh Tây) thuộc phía Tây, nhà này là Đông Tây tương hỗn trạch (Đông Nam lẫn lộn). Vì vậy bếp nào cũng không trọn tốt hay trọn xấu, hể lợi cho cửa thì hại chủ lợi cho chủ thì hại cửa.
CHỦ NHÀ MẠNG ĐOÀI MỞ CỬA CÁI HƯỚNG TỐN (ĐÔNG NAM) LỤC SÁT
(Cửa tại Tốn (Đông Nam), chủ nhà hay sơn chủ tại Đoài).
Lời tượng ứng về ngôi nhà: Phong sinh hiện Hổ, thương trương phụ.
Y nghĩa: Gió sanh thì hiện ra con Cọp, thương tổn đàn bà lớn. Phong là gió chỉ vào Tốn, Hổ là Bạch hổ ám chỉ Đoài. Phong sanh hiện hổ là ý nói cửa Tốn (Đông Nam) gặp chủ Đoài. Đàn bà Tốn bị tổn hại, vì Tốn thuộc trướng nữ bị Đoài khắc.
Từ cửa Tốn (Đông Nam) biến 4 lần tới chủ Đoài phạm Lục Sát cho nên gọi là Lục Sát trạch. Đoài khắc Tốn là âm khắc âm: phụ nữ bất hoà. Kim khắc mộc ứng gân xương đau nhức. Tốn với Đoài thuần âm, nam nữ chẳng trường thọ, các việc bất hạnh như: goá bụa, không con thừa tự, dùng nghĩa tử giữ gia sản.
Cửa Tốn (Đông Nam) cới chủ Đoài phối 8 chỗ đặt bếp:
Bếp đặt tại Kiền (Tây Bắc): dương kim khắc cửa Tốn (Đông Nam)âm mộc, dương khắc âm rất tai hại cho phụ nữ, thứ nhất là trưởng nữ. Nhưng Kiền đối với chử Đoài tỷ hòa và hỗ biến Sinh Khí tuy thất Vị vẫn có lợi cho lão ông và thiếu nữ hay cho cha và con gái nhỏ.
Bếp đặt tại Khảm(Chánh Bắc): dương thuỷ sanh cửa tốn (Đông Nam) âm mộc và là bếp Sinh Khí đắc vị rất tốt. Còn Khảm với chủ Đoài hỗ biến Hoạ Hại nhưng tương sanh. Bếp này lợi những hơn hại.
Bếp đặt tại Cấn (Đông Bắc): dương thổ bị cửa Tốn (Đông Nam) khắc và là bếp Tuyệt Mạng, nhưng Cấn với chủ Đoài tương sanh và hỗ biến Diên Niên hữu khí. Bếp này hung cát tương đương.
Bếp đặt tại Chấn (Chánh Đông): dương mộc với cửa Tốn (Đông Nam) tỷ hoà và là bếp Diên Niên, nhưng Chấn với chủ Đoài tương khắc và hỗ biến Tuyệt Mạng. Bếp này hung cát tương đương.
Bếp đặt tại Tốn (Đông Nam): âm mộc đối với cửa Tốn (Đông Nam) tỷ hoà và là bếp Phục Vị đăng diên khá tốt, nhưng Tốn với chủ Đoài tương khắc và hỗ biến ra Lục Sát khá hung. Suy theo Du Niên thì lợi hại có thể tươgn đương, Tốn Đoài Tốn thuần âm mà tuyệt dương, bếp này hung những hơn cát.
Bếp đặt tại Ly (Chánh Nam): âm hoả đối với cửa Tốn (Đông Nam) tương sanh và là bếp Thiên Y, phúc thần tương trợ. Nhưng Ly với chủ Đoài tương khắc và hỗ biến Ngũ Quỉ đại hung. Cũng như bếp Tốn (Đông Nam) trên, bếp này thuần âm mà tuyệt dương, hung những hơn cát.
Bếp đặt tại Khôn(Tây Nam): âm thổ bị cửa Tốn (Đông Nam) khắc và là bếp Ngũ Quỉ xuyên cung, mọi việc bất lợi. Dù Khôn với chủ Đoài tương sanh và hỗ biến Thiên Y hữu khí rất tốt cũng không cứu trừ hết các việc hại của Ngũ Quỉ.
Bếp đặt tại Đoài (Chánh Tây): âm kim với chủ Đoài tỷ hoà Phục Vị vô khí chẳng thấy rõ sự tốt. Nhưng Đoài khắc cửa Tốn (Đông Nam) rất bất lôi, nam nữ yểu thọ, chẳng có con thừa tự, gân xương đau nhức.
Kết luận: Tám hướng bếp trên đây đều thuộc về chủ nhà mạng Đoài: Lục Sát Trạch. Cửa Tốn (Đông Nam) Đông trạch gặp chủ Đoài Tây trạch, ngôi nhà này là Đông Tây tương hỗn trạch, không có bếp nào trọn tốt hay trọn xấu. Vì Đông trù lợi cho cửa mà hại chủ, bằng Tây trù thì lợi cho chủ mà hại cửa.
CHỦ NHÀ MẠNG ĐOÀI MỞ CỬA CÁI HƯỚNG LY (CHÁNH NAM) NGŨ QUỈ
(Cửa cái tại Ly (Chánh Nam), chủ nhà hay sơn chủ tại Đoài).
Lời tượng ứng về ngôi nhà: Ly Đoài: hoả quang, thương thiếu nữ.
Y nghĩa: có cửa Ly (Chánh Nam) và chủ Đoài và kiểu nhà sanh ra các tai nạn lửa, làm hại gái trẻ. Hoả quang là lửa sáng ám chỉ vào những vụ bị phóng lửa, thiêu, đốt cháy…thương là bị tổn hại, thương tích.
Từ cửa Ly (Chánh Nam) biến 2 lần tới cửa Đoài (Chánh Tây) phạm Ngũ Quỉ cho nên gọi là Ngũ Quỉ trạch. Nhà Ngũ Quỉ tán tài, khắc vợ, phụ nữ tá loạn, án mạng trộm cướp, thiếu con thừa tự, chết yểu, ho khạc đàm, ghẻ độc, nuôi con người dưng, bị người ngoài khi dễ và đàn áp. Và vì thuần âm nên gái những trai ít.
Cửa Ly (Chánh Nam) với chủ Đoài phối 8 chỗ đặt bếp:
Bếp đặt tại Kiền (Tây Bắc): bếp Kiền (Tây Bắc) kim bị cửa Ly (Chánh Nam) khắc và là bếp Tuyệt Mạng, khiến Kiền với chủ Đoài tỷ hoà và hỗ biến được Sinh Khí mộc tuy vô khí cũng có phần bớt tai hại.
Bếp đặt tại Khảm(Chánh Bắc): bếp Khảm (Chánh Bắc) thuỷ với cửa Ly (Chánh Nam) tuy tương khắc nhưng âm dươgn chính phối và là bếp Diên Niên khá tốt. Nhưng khảm tiết khí chủ Đoài và hỗ biến ra Hoạ Hại khiến cho phụ nữ chẳng trường thọ.
Bếp đặt tại Cấn (Đông Bắc): bếp Cấn (Đông Bắc) thổ đối với cửa Ly (Chánh Nam) là bếp Hoạ Hại có tương sanh, xấu qua loa. Nhưng Cấn với chủ Đoài tương sanh và hỗ biến được Diên Niên hữu khí, lại là tượng thiếu nữ, âm dương tương phối, tất hợp tốt. Bến này hung ít mà cát rất những.
Bếp đặt tại Chấn (Chánh Đông): bếp Chấn (Chánh Đông) dương mộc đối với cửa Ly (Chánh Nam) là âm dương tương sanh và là bếp Sinh Khí đăng diện rất tốt, sanh xuất phụ nữ thông minh tốt bụng. Nhưng Chấn với chủ Đoài tương khắc và hỗ biến Tuyệt Mạng, bất lợi cho hàng trưởng nam. Ly Đoài Chấn là hai âm thắng một dương, trong số nhân khẩu những nữ mà ít nam.
Bếp đặt tại Tốn (Đông Nam): bếp Tốn (Đông Nam) mộc với chủ Đoài kim tương khắc và hỗ biến Lục Sát là chỗ không quá hại, vì Lục Sát thuỷ đối với Tốn Đoài đều tương sanh. Còn Tốn đối với cửa Ly (Chánh Nam) tương sanh và là bếp Thiên Y, tốt khá những, phụ nữ ưa làm phước đức, nhưng số nhân dinh chẳng gia tăng vì Tốn Ly thầun âm, mà Đoài cũng thuần âm.
Bếp đặt tại Ly (Chánh Nam): bếp Ly (Chánh Nam) hoả đối với Ly tỷ hoà và là bếp Phục Vị đắc Vị, tốt vừa vừa. nhưng Ly với chủ Đoài tương khắc và hỗ biến Ngũ Quỉ rất hại.
Bếp đặt tại Khôn(Tây Nam): bếp Khôn (Tây Nam) âm thổ đối với chủ Đoài tương sanh và hỗ biến Thiên Y hữu khí rất phát đạt và phụ nữ ưa làm việc phước thiện. Nhưng Khôn với cửa Ly (Chánh Nam) là bếp Lục Sát và Ly Đoài Khôn thuần âm tất nam nhân chết yểu, lâu sau thiếu con thừa tự.
Bếp đặt tại Đoài (Chánh Tây): bếp Đoài (Chánh Tây) âm kim với chủ Đoài là Phục Vị thất Vị, sự tốt không đáng kể. Nhưng Đoài đối với cửa Ly (Chánh Nam) tương khắc và là bếp Ngũ Quỉ đại hung, tántài, phụ nữ đoản mạng, nhân mạng chết cách hung dữ.
Kết luận: Tám hướng bếp trên đây đều được luận theo chủ nhà mạng Đoài. Nhà có cửa Ly (Chánh Nam) và chủ Đoài thuộc về Đông Tây tương hỗn trạch (cửa Đông mà chủ Tây),vậy nên các Đông trù hiệp với cửa Ly (Chánh Nam) mà chẳng hiệp với chủ Đoài, còn các Tây trù hiệp với chủ Đoài mà chẳng hiệp với cửa Ly (Chánh Nam). Không cò bếp nào trọn hung hay trọn cát.
CHỦ NHÀ MẠNG ĐOÀI MỞ CỬA CÁI HƯỚNG KHÔN (TÂY NAM) THIÊN Y
(Cửa cái tại Khôn (Tây Nam), chủ nhà hay sơn chủ tại Đoài)
Lời tượng ứng cho ngôi nhà: Địa Trạch tấn tài, tuyệt hậu tự.
Y nghĩa: Địa chỉ vào Khôn. Trạch chỉ vào Đoài (Khôn vi Địa, Đoài vi trạch). Đây là kiểu nhà giàu có lớm nhưng không có con nối dòng.
Từ cửa Khôn (Tây Nam) biến 6 lần tới Đoài được Thiên Y nên gọi là Thiên Y trạch. Khôn với Đoài đều thuộc âm và tương sanh lại có phúc thần (Thiên Y) cho nên nhà này phụ nữ ưa làm việc thiện, tâm tánh hiền hoà. Cửa Khôn (Tây Nam) sanh chủ Đoài là bên ngoài sanh vào trong cho nên nhà phát tài phát phước mau lắm, nhưng về sau lâu bởi âm khí thuần thịnh mà dương phải suy nhược, nam nhân chết sớm, trẻ nhỏ khó nuôi, mẹ goá cầm quyền gia đình, cửa nhà chẳng thanh khiết, nuông chìu con cái, sủng ái chàng rể, bảo dưỡng con người khác làm kế thừa tự.
Cửa Khôn (Tây Nam) với chủ Đoài phối 8 chỗ đặt bếp:
Bếp đặt tại Kiền (Tây Bắc): cửa tại Khôn (Tây Nam) thì bếp Kiền (Tây Bắc) là bếp Diên Niên đăng diện rất tốt. Bếp Kiền (Tây Bắc) đối với cửa Khôn tương sanh, đối với chủ Đoài tỷ hoà ấy là một cái bếp thịnh vượng vô song. Cũng nhờ bếp Kiền (Tây Bắc) và trong kim mới giải được cái bất lợi thuần âm của cửa Khôn (Tây Nam) và chủ Đoài. Lại bếp Kiền (Tây Bắc) hỗ biến với chủ Đoài được Sinh Khí, khiến cho nhà này được mệnh danh là nhà ba tốt, vì có đủ Sinh Khí, Diên Niên và Thiên Y, ở lâu càng phát đạt lớn, người vượng mà tiền tài cũng vượng, công danh hiển đạt, trường thọ.
Bếp đặt tại Khảm(Chánh Bắc): cửa tại Khôn (Tây Nam) thì bếp Khảm (Chánh Bắc) tương khắc và là bếp Tuyệt Mạng. Lại bếp Khảm (Chánh Bắc) hỗ biến với chủ Đoài sanh ra Hoạ Hại. Như vậy là cái bếp nguy hại, khiến cho nhà Thiên Y chẳng còn tốt được bao nhiêu.
Bếp đặt tại Cấn (Đông Bắc): cửa tại Khôn (Tây Nam) thì bếp Cấn(Đông Bắc) tỷ hoà lại có đủ âm dương và là bếp Sinh Khí. Bếp Cấn (Đông Bắc) hỗ biến với chủ Đoài được Diên Niên hữu khí và cũng tương sanh mà có đủ âm dương. Vậy ba cung Khôn Đoài Cấn phối kết với nhau đều được tương sanh và tỷ hoà lại hỗ biến thành nhà ba tốt: có đủ Sinh Khí, Diên Niên và Thiên Y. bếp như vậy, nhà như vậy ứng nghiệm biết bao điềm lành, làm ăn phấn chấn, danh vị cao thăng, mưu tính hợp thời, khởi làm hợp cảnh.
Bếp đặt tại Chấn (Chánh Đông): bếp Chấn (Chánh Đông) đối với cửa Khôn (Tây Nam) tương khắc, đối với cửa Đoài tương khắc, nó làm đảo loạn trong nhà, gây những trở ngại. Đối với cửa Khôn (Tây Nam) nó là bếp Hoạ Hại, đối với chủ Đoài nó sinh ra Tuyệt Mạng, gây ra những sự bại tuyệt không vừa.
Bếp đặt tại Tốn (Đông Nam): bếp Tốn (Đông Nam) đối với cửa Khôn (Tây Nam) tương khắc mà đối với chủ Đoài cũng tương khắc, mộc khắc thổ, kim khắc mộc. Ba cung chính yếu Khôn Đoài Tốn thuần âm khắc đi khắc lại như vậy. Bếp này còn xấu hơn bếp Chấn (Chánh Đông) một phần. Bếp Tốn (Đông Nam) với cửa Khôn (Tây Nam) là bếp Ngũ Quỉ rất nguy hại, và hỗ biến với chủ Đoài sinh ra Lục Sát cũng rất đáng ngại. Những việc quỉ quái, bất chính, tà tâm phóng đãng thường xảy ra do cái bếp Tốn (Đông Nam) này.
Bếp đặt tại Ly (Chánh Nam): bếp Ly (Chánh Nam) phối với cửa Khôn (Tây Nam) và chủ Đoài ba cung thuần âm đã là một việc bất lợi không sanh hoá được. Bếp Ly (Chánh Nam) đối với cửa Khôn (Tây Nam) tương sanh là biến ra Lục Sát thì dễ làm điều tà vạy trong bóng tối. Bếp Ly (Chánh Nam) lại khắc chủ Đoài hỗ biến ra Ngũ Quỉ hay sanh ra tai nạn máu lửa. Nói chung nó thường khin đưa đến những điều không hay do kẻ lòng ma dạ quỷ, kể nó là cái bếp đại hung.
Bếp đặt tại Khôn(Tây Nam): cửa tại Khôn (Tây Nam) thì bếp Khôn (Tây Nam) là bếp Phục Vị. Bếp Khôn (Tây Nam) đối với chủ Đoài tương sanh và hỗ biến được Thiên Y hữu khí. Như vậy kể chứng nhà này có một Phục Vị và hai Thiên Y. Phục Vị thấ Vị chẳng lợi chi, nhưng có tới hai phước thần năng trừ hoạ hoạn và hai thổ sanh một kim thì kim phải thịnh, chủ sự tấn phát tiền tài, châu ngọc. Nhưng cũng biết Khôn Khôn Đoài thuần âm, chẳng khỏi kém khuyết nhân dinh và lục súc hay bị chết mất.
Bếp đặt tại Đoài (Chánh Tây): cửa Khôn (Tây Nam) thì bếp Đoài (Chánh Tây) tương sanh và là bếp Thiên Y đắc Vị, tài lộc dồi dào, công danh tấn tới. Nhưng ba có dương) khiến cho quạnh hiu con cái, s người ở càng ngày càng thưa thớt. Bếp Đoài (Chánh Tây) này tương tự với bếp Khôn (Tây Nam) trên về sự tốt xấu.
Kết luận : Tám hướng bếp trên đây, bếp nào cũng thuộc về chủ nhà mạng Đoài: Thiên Y trạch, các kiểu bếp cũng không có gì quan trọng để luận bàn thêm, lẽ tất nhiên gặp bếp xấu thì nhà thêm xấu, gặp bếp tốt cũng được điều tốt và bớt sự hung.
HÔN PHỐI SỞ THUỘC CỦA CHỒNG MẠNG ĐOÀI
Những tuổi Khảm, Ly, Chấn, Tốn gọi là Đông tứ mạng nên cưới gả nhau. Còn những tuổi Khôn, Cấn, Kiền, Đoài gọi là Tây tứ mạng nên cưới gả nhau mới được những con những phước.
Nếu tuổi Đông mạng cưới gả với tuổi Tây mạng gian khổ vể con cái, không hoà thuận, không phát phước.
Như chồng Khảm thuộc Đông mạng, cưới vợ Tốn cũng thuộc Đông mạng được Sanh Khí. Có 5 đứa con hoà thuận, giúp chồng lập nên gia thất. Nếu chồng Khảm là Đông mạng cưới vợ Cấn thuộc Tây mạng, tất phạm Ngũ Quỉ, tuy con được 2 đứa mà gia đạo không hoà, của tiền bị trộm.
Mạng chồng hiệp với mạng vợ được Sanh Khí thuộc Tham Lang, có 5 đứa con. Hiệp với Thiên Y, thuộc Cự môn, được 3 đứa con. Hiệp với Diên Niên, thuộc Võ khúc được 4 đứa con. Phạm Ngũ Quỉ, thuộc Liêm trinh có 2 đứa con. Hiệp Qui hồn thuộc Bồ chúc được nhờ một gái thôi. Hiệp Du hồn, thuộc Văn khúc sau nhờ 1 đứa. Phạm Tuyệt Mạng, thuộc Phá quân chịu cảnh Cô đơn. Phạm Tuyệt Mạng thuộc Lộc tồn không con, được thọ.
Hãy tường tận sự sanh khắc hưu tù hiệp tuổi chồng vợ.
Đường đi vào nhà, bếp núc đặt để đúng phương hướng, cũng quyết được sự có con hay không, những hay ít, nuôi được hay không nữa.
Ơ chung một nhà nhà có Ong bà, cha mẹ, chú bác, anh em, chị em và vợ chồng, nên phân phòng hạp trạch. Em Đông mạng ở phía Đông. Anh Tây mạng ở phía Tây mới được phước thọ, bằng không hạp thì khó thoát bần yểu. Còn vợ chồng.
Ví dụ: Chồng Tây mạng nhà ở Tây tứ Trạch nhưng vợ Đông mạng phải làm sao?
Nếu Trụ Bắc phòng: (Phòng ở hướng Bắc). chồng ở gian phía Tây, vợ ở gian giữa thuộc Khảm Đông trạch hạp với vợ.
Bằng Trụ Nam phòng : Chồn gở gian phòng phía Tây ở Trung gian hoặc gian nhà phía Đông bởi Trung gian căn giữa thuộc Ly và gian nhà phía Đông thuộc Tốn đều Đông Tứ Trạch hạp mạng vợ.
Hoặc ở phòng phía Đông : chồng ở gian nhà phía Bắc thuộc Cấn hạp mạng chồng, vợ ở Trung gian thuộc Chấn hoặc Nam giam thuôc Tốn đều hạp.
Hay là ở phía Tây: Thì chồng ở Trung gian, vợ ở gian nhà phía Nam thuộc Ly, hoặc ở gian nhà phía Bắc thuộc Khảm. Đại để vợ chồng cung mạng chẳng đồng, cứ giữ mạng chồng làm chủ. Các cung khác cũng vậy.
BÁT SAN TUYỆT MẠNG
Kiền với Ly Đoài với Chấn
Khôn với Khảm Cấn với Tốn
BÁT SAN NGŨ QUỈ
Kiền với Chấn
ÂM KHẮC DƯƠNG
Tốn với Khôn DƯƠNG KHẮC DƯƠNG
Khảm với Cấn ÂM KHẮC ÂM Đoài với Ly
LỤC THÂN TƯƠNG HÌNH
Kiền với Khảm Cấn với Chấn Tốn với Đoài Khôn với ly
BÁT SAN HOẠ HẠI
Kiền với Tốn Khảm với Đoài Cấn với Ly Khôn với Chấn
Sau đây là bảng lập thành, có lời bình giải rõ ràng, ai cũng có thể xem qua là hiểu, muốn biết người đó tuổi gì, thuộc cung gì, trong 8 cung xem bài cung phi và bảng BÁT TRẠCH TAM NGUYÊN để biết rõ cung tuổi của chồng và vợ, qua cột 3 là cung phi của chồng, cột 4 là cung phu của vợ.
Ngoài ra, có xem 1 trong 8 hình bát quái tuỳ theo bổn mạng của mình để đoán số vợ chồng bằng cách nhìn chính giữa của bát quái đồ là cung phi của người chồng, chung quanh là 8 cung của vợ.
Dưới đây là bảng hôn phối cát, hung của vợ chồng sở thuộc mạng Đoài.
ĐOÀI
Chú ý: Ô 1- theo chiều mũi tên dành cho HƯỚNG ĐẶT BẾP Còn HƯỚNG XÂY NHÀ thuộc ch iều mũi tên của Ô 2.
Ví dụ: Tuổi Hợi đặt bếp hướng Đông Tuổi Tý Tuổi Sửu đặt hướng Đông Bắc. xây nhà hướng Tây với tuổi Hợi.
CHUYÊN ĐỀ CHO CHỦ NHÀ MẠNG ĐOÀI
ĐOÀI VI TRẠCH ĐẦM
CHUYÊN ĐỀ LY GIẢI CÁC SINH HOẠT TẠI NỘI THẤT CỦA CHỦ NHÀ MẠNG ĐOÀI
Chú ý: Ô 1- theo chiều mũi tên dành cho HƯỚNG ĐẶT BẾP Còn HƯỚNG XÂY NHÀ thuộc chiều mũi tên của Ô 2.
Ví dụ: Tuổi Hợi đặt bếp hướng Đông Tuổi Tý Tuổi Sửu đặt hướng Đông Bắc. Xây nhà hướng Tây với tuổi Hợi.
BIỂU TƯỢNG VẠN VẬT SỞ THUỘC CUNG ĐOÀI
BIỂU TƯỢNG VẠN VẬT SỞ THUỘC CUNG Đoài
Những điều nói trong “Tượng Loại Vạn Vật” là tượng vật của quẻ thuần. Nhiều người thắc mắc: khi quẻ thượng và quẻ hạ không giống nhau thì làm thế nào, làm sao? ( gặp trường hợp
này phải xem quẻ trên là quẻ gì, quẻ dưới là qủe gì, đoán việc gì, sau đó xem mỗi thẻ chủ tượng gì, như vậy là được. Ví dụ: đoán về ăn uống được quẻ “tụng” quẻ Kiền của quẻ thượng trong tượng vật của thức ăn là vật gì, quẻ Khảm của quẻ hạ trong tượng vật của thức ăn là vật gì, như thế là trong bàn ăn có những món gì sẽ rất rõ ràng. Đối với quẻ hỗ, quẻ biến cũng làm như vậy. Tượng quẻ khác cũng làm như vậy, trong việc nghiên cứu về chuyên đề tượng loại vạn vật, chúng ta cần lưu ý các điều sau đây:
1/ Giao thời giữa tháng 9 và tháng 10 mùa Thu chuyển từ tháng, năm : Tuất sang Hợi, giờ ngày tháng năm của ngũ kim nghĩa là tháng 9 là Tuất, tháng 10 là Hợi, quẻ Kiền chính ở ngôi này, cho nên thời gian ứng sự của quẻ này có thể đoán định vào các năm, tháng, ngày, giờ Tuất , Hợi. Giờ ngày tháng năm của ngũ kim là “ngũ kim” là chỉ “kim” trong ngũ hành, tức thời gian ứng sự của quẻ Kiền, có htể đoán giờ ngày tháng thành sự (các quẻ khác cách giải thích cũng như vậy).
2/ Ngôi hàng 1, 4, 9: quẻ Kiền vượng tướng ở tháng một, tháng 4, tháng 9 là kim, là chính ngôi của quẻ Kiền, ngôi hàng 1, 4, 9 tức người đó là con đầu (một) hoặc thứ tư hoặc thứ chín, các quẻ khác cách nói cũng như thế.
3/ Số 1, 4, 9 : có nghĩa là lệnh của 9 tháng giêng, tháng tư hoặc số là 1, hoặc số 4 hoặc 9 hoặc là 149: cụ thể là bao nhiêu phải tuỳ sự việc mà đoán. Các quẻ khác cách nói cũng tươgn tự.
4/ Tháng Thìn Tuất Sử Mùi, ngày giờ tháng năm: Mùi Thân: quẻ Khôn ngũ hành thuộc Thổ, gặp tháng Thổ, Thìn Tuất, Sửu, Mùi thì vượng. Thời gian ứng sử của nó có thể đoán vào tháng năm hoặc ngày giờ Thìn Tuất Sửu Mùi. Vị thân là phươgn vị của quẻ Khôn nên còn có thể đoán quẻ Khôn vào tháng năm hoặc ngày giờ Mùi Thân. Các quẻ khác cách nói cũng tương tự. Dưới đây là các biểu tượng vạn vật thuộc sắp xếp theo mẫu tự.
ĂN UỐNG
(An uống): thịt dê, vật ở ao hồ, vị bình thường, vật đắng cay.
BÁT MÔN TIỂU ĐỘN
Bát môn là tám cung, tám cửa: Khảm, Cấn,Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài, Kiền, Hưu, Sanh, Thương, Đỗ, Kiển, Tử, Kinh, Khai. Đối với cung Đoài thuộc kinh môn sở thuộc 6 ngày Kỷ Mẹo; Canh Thìn; Tân Tỵ; Quí Mẹo; Giáp Thìn; At Tỵ; những ngày này không nên xuất hành xấu lắm.
BỆNH TẬT
(Bệnh tật): Bệnh ở miệng, lưỡi, yết hầu; bệnh thở dốc ngược; ăn uống không được.
BÓI KIỀU
Trong phạm vi cói kiều quẻ Đoài ứng về thương mại buôn bán lơì hay lỗ.
CẦU DANH
(Cầu danh): Khó thành, vì danh mà có tổn thất; lời về nhận việc ở phía Tây; nên làm hình quan (quan toà); chức võ: người diễn viên, người phiên dịch.
CẦU TÀI
(Cầu tài): Không lợi, có hại, tài lợi gây ra cãi vã, mùa thu có tinvui, có của, mùa hạ không lợi.
CHỮ SỐ
(Chữ số): 4,2,9
CHỮ TÊN HỌ
(Chữ tên họ): Chữ viết tên họ có chữ khẩu ( ) chữ kim ( ) ở bên cạnh. Ngôi hàng 4,2,9.
ĐỊA LÝ
(Địa lý): Ao đầm, mép nước, ao nhỏ, giếng bỏ đi, chỗ núi nẻ sụt lở, chỗ đất sỏi.
ĐỘNG VẬT
(Động vật): Dê, vật trong ao hồ.
GIAO DỊCH
(Giao dịch): Khó có lợi; đề phòng cãi vã; có cạnh tranh mùa thu có lợi do giao dịch; mùa hạ không lợi.
HỘI KIẾN
(Hội kiến): Lợi đi về phía Tây; gặp sẽ có chửi mắng.
HÔN NHÂN
(Hôn nhân): Không thành, mùa thu không thành, có hỉ (vui); tốt cho người chủ hôn; kết hôn với thiếu nữ; mùa hạ không lợi.
KIỆN TỤNG
(Kiệntụng): Tranh kiện mãi không thôi; quanh co không dứt khoát; vì kiện mà bị tổn hại; đề phòng bị hình sự; mùa thu thắng lý được kiện.
MÀU SẮC
(Màu sắc): Trắng.
NGŨ VỊ
(Ngũ vị): cay.
NHÀ CỬA
(Nhà cửa): Ở hướng Tây; ở gần ao; nhà tường vách hổng; nhà có hao tổn.
NHÀ Ở
(Nhà ở): Không yên; đề phòng cãi vã mùa thu vì vui mừng; mùa hạ nhà có tai hoạ.
NHÂN VẬT
(Nhân vật): Thiếu nữ; thiếp; kĩ sư, diễn viên, người phiên dịch, thầy bói, con gái đi ở.
PHẦN MỘ
(Phần mộ): Nên ở hướng Tây; phòng trong huyệt có nước; mộ gần ao hồ; hoặc táng ở huyệt đất hoang; mùa hạ không nên.
PHƯƠNG HƯỚNG
(Phươgn hướng): Phương Tây.
SINH ĐẺ
(Sinh đẻ): Không lợi; e có tổn thai hoặc là sinh con gái; mùa hạ không lợi; nên ngồi hướng Tây.
TÍNH CÁCH
(Tính cách): Vui mừng, cãi vã (miệng lưỡi); nói xấu; ăn uống.
TĨNH VẬT
(Tĩnh vật): Kim đao (dao kilm loại); kim loại; nhạc khí; vật phế thải; vật liệu các phụ tùng; vật có miệng, vật hư gãy.
THÂN THỂ
(Thân thể): Lưỡi, miệng, hầu. Phổi, đờm, nước bọt.
THIÊN THỜI
(Thiên thời): Mưa, trăng non, sao.
THỜI GIAN
(Thời gian): Tháng tám mùa thu; giờ; ngày; tháng; năm Dậu, ngày tháng năm Kim, ngày 2,4, 9.
XUẤT HÀNH
(Xuất hành): Không nên đi xa; đề phòng cãi vã, hoặc mất mát; nên đi phía Tây; mùa thu có lợi nên đi.
VẬN MẠNG TRỌN ĐỜI CỦA CHỦ NHÀ MẠNG Đoài
Bát quái của kinh Chu dịch nếu đem so sánh với hành tinh trong thái dương hệ ta sẽ thấy có sự tương đương về bản chất như :
Kiền tương đương với Kim Tinh (ve’nus) thuộc hành Kim
Khảm tương đương với Thuỷ Tinh (Mercure) thuộc hành Thuỷ
Cấn tương đương với Thổ Tinh (Saturne) thuộc hành Thổ
Chấn tương đương với Mộc Tinh (Jupiter) thuộc hành Mộc
Tốn tương đương với Hải Vương Tinh (Neptune) thuộc hành Mộc
Ly tương đương với Hoả Tinh (Mars) thuộc hành Hỏa
Khôn tương đươgn với Diêm Vương Tinh (Pluton) thuộc hành Thổ
Đoài tương đương với Thiên Vương Tinh (Uranus) thuộc hành Kim
Theo tài liệu của KYSERLING NE’CIPHORE và TÀO TUYẾT LONG để biết:
Công Danh Bản Tánh và Nhân Cách
CẠT
Đoài - Đoài : Cát Đoài - Kiền : “ Đoài - Cấn : “
Đoài - Khôn : “
HUNG
Đoài - Chấn : Hung Đoài - Khảm : “ Đoài - Tốn : “
Đoài - Ly : “
TRAI CUNG ĐOÀI LẤY GÁI ĐOÀI “Phục Vì” (Đoài vi trạch)
Nhựt lạc non đoài sương khắp rơi Gặp nhau rồi cũng cách đôi nơi Nếu không khắn trắng trùm lên tóc Thì khổ triền miên cả cuộc đời
TRAI CUNG ĐOÀI LẤY GÁI KIỀN “Sinh Khí” (Trạch thiên quả)
Đoài Kiền Phước Đức lớm vô cùng Kim Thuỷ tương sanh được ở chung Con cháu sau nầy thành đại nghiệp Trai hiền gái hiếu vẹn âu tùng
TRAI CUNG ĐOÀI LẤY GÁI KHẢM “Hoạ Hại” (Trạch thuỷ khốn)
Khảm Đoài Hoạ Hại mà tương sanh Gặp nhau xa xứ chắn nên danh
Dầu không phú quí vinh hoa lớn Cũng hưởng an khang con cháu vinh
TRAI CUNG ĐOÀI LẤY GÁI CẤN “Diên Niên” (Trạch sơn hàm)
Cháu quí con vinh phước đức nhân Diên Niên ấy phước tự trời ban Đầu xanh yêu kính như đầu bạc
Không được giàu chắc cũng được sang
TRAI CUNG ĐOÀI LẤY GÁI CHẤN “Tuyệt Mạng” (Trạch lôi tuỳ)
Mộc khắc Kim thương quá rõ ràng Chấn Đoài tương hợp khó bình an Nếu không nghèo khổ những đau bệnh At cũng chia Ly người một đàng
TRAI CUNG ĐOÀI LẤY GÁI TỐN “Lục Sát” (Trạch phong đại quả)
Trái dố nên không trọn nợ duyên Hình xung Lục Sát ở sao yên Công danh tài lộc cầu không được Tử biệt sanh Ly con cháu hiền
TRAI CUNG ĐOÀI LẤY GÁI LY “Ngũ Quỉ” (Trạch hoả cách)
Mẹ cha tang tóc cháu con buồn Ngũ Quỉ phạm thì giọt lệ tuông Đa sanh bệnh tật đa tai nạn
Vui ở buồn bay, mỏng cánh chuồn
TRAI CUNG ĐOÀI LẤY GÁI KHÔN “Thiên Y” (Trạch đại tuy)
Trời dành cung số được Thiên Y Hợp mặt đủ đầy có thiếu chi
Nhà cửa đường hoàng vườn ruộng tốt Cháu con vinh hiển mấy ai bì
CON NỐI DÒNG
CỦA CHỦ NHÀ THUỘC MẠNG ĐOÀI
Bài con nối dòng ở đây có nghĩa như khoa tử tức trong cung tử vi, chuyên lý giải về giòng dõi như số luợng con cái, trai những hay gái những, có con hay không con, nói khác đi là sự phong túc hay hiếm muộn.
Hạnh phúc giữa cha mẹ và con cái, và hạnh phúc chính bản thân của con cái chủ nhà. Tương lai tổng quát của các con nói chung (số phận, chết, cách chết, dễ nuôi, khó nuôi,
tình trạng con đầu lòng). Muốn nêu rõ các sự kiện trên đây khoa tử vi cần hội đủ: Năm, tháng,
ngày, giờ sanh, rất phiền phức vì có những người trên đời này chưa chắc hội đủ các chỉ tiêu đó.
Đối với thuật Phong Thủy, chỉ cần biết mạng chủ nhà (cung phi) là đủ cơ sở để xét đoán các tình huống như: hôn nhân của con cái, nếp sống, tật bệnh, tai họa.
Dưới đây là bài nói về con nối dòng của chủ nhà thuộc mạng:
Đoài mạng được Kiền phương là lai lộ, táo hướng, có 5 trai, được Cấn phương có 4 trai, được Khôn phương có 3 trai. Đoài phương chỉ có 1 gái! Phạm vào phương Chấn bị Tuyệt Mạng, con bị bệnh lỵ, sốt rét, bệnh kinh, cam sài mà tuyệt tự. Phạm Khảm thì thương tổn con trung Nam, sau không con. Những táo hướng hung, nếu mà không thay đổi được, thì đừng nấu ăn ở đó, hoặc trong nhà có bếp hợp nấu ở đó cũng được. Nếu làm thêm cái bếp nhỏ hoặc hỏa lò cũng được. Chỉ luận táo khẩu hướng vào 3 phương cát là ứng nghiệm.
ĐOÀI MẠNG:
(Phục: Kiền, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài: Sinh, Họa, Diên, Tuyệt, Lục,Ngũ, Thiên).
HÔN NHÂN:
Người Đoài mạng phới với Kiền mạng có 5 con trai, phối với Cấn mạng có 4 trai là thứ cát, phối Khôn mạng có 3 trai là thứ cát, cầu hôn nên an sàng ở Cấn phương để thành hôn.
TỬ TỨC:
Đuợc họp nhà như vậy mạng 3 cung kể trên là có đúng số coi như vậy, các cung thì chỉ có con gái, hoặc suy ra thì có 1 trai, nếu phạm vào phương Chấn thì tuyệt tự.
TẬT BỆNH:
Đoài mạng phạm ở cung Ly, viêm hỏa, huyết quang mọi chứng phạm vào cung Chấn thì tổn thương mắt, bịnh sốt rét, kiết lỵ, đau bụng và chân tay. Phạm phương Tốn xỏ đầu, thương mục, tật chân tay. Phạm phương Khảm bịnh thương hàn, bịnh gầy ốm yếuv.v…đàn bà htì bệnh kinh bế, tiểu sản, các chứng đều nên dùng phương Thiên Y, Diên Niên để giải trừ thì cát.
TAI HỌA:
Đoài mạng phạm Chấn phương thương trưởng nữ, nô bộc gãy chân tay, đau lưng v.v…Có một phú ông mạng Đoài, tạo thêm vài gian nhà lớn ở Chấn phương, sau ba năm 2 đứa cháu đều chết tuyệt về sau tự thân cũng chết. Phạm Tốn phụ nữ có thân dài ngọng ở phương Đông Nam xúi giục kiện cáo, hoặc mẹ những lời ầm ĩ miệng tiếng vợ lại dâm ô, tổn thương trưởng tử, mù mắt, què chân. Phạm Ly phương thì mất cướp nhà cháy.Thê thiếp lấy cắp tiền tài, nô tỳ đào tẩu, vợ ầm ĩ, thương cha mẹ, con gái thứ, tỳ nữ. Phạm vào phương Khảm sẻ có những điều quan phi đắc thắng !Bị phá tài, thủy tai…Tổn thương trọng tử, nữ bộc. Nếu trong tử mạng hợp cát phương của bát trạch thì thương quý tử (con thứ 3). Từng thấy người đàn bà mạng Đoài, phạm Khảm phương sẽ có bệnh băng huyết, con trai chết đuối.
PHƯƠNG HƯỚNG ĐẶT BẾP LÒ
CUẢ CHỦ NHÀ MẠNG ĐOÀI
CHỦ MẠNG ĐOÀI CHỌN HƯỚNG ĐẶT BẾP LÒ TẠI ĐOÀI (CHÁNH TÂY)
Theo Bát Quái Đồ sở thuộc cung Phục Vị chủ nhà tất vô tài, tổn thọ, cả đời túng khó.
CHỦ MẠNG ĐOÀI CHỌN HƯỚNG ĐẶT BẾP LÒ TẠI KIẾN (TÂY BẮC)
Theo Bát Quái Đồ sở thuộc cung Sinh Khí chủ nhà làm quỷ thai, lạc thai, khó bề sinh sản. Có con cũng không thông minh, không đắc tài, không người trợ giúp, ruộng vườn, súc vật tổn thất.
CHỦ MẠNG ĐOÀI CHỌN HƯỚNG ĐẶT BẾP LÒ TẠI KHẢM (CHÁNH BẮC)
Theo Bát Quái Đồ sở thuộc cung Hoạ Hại khỏi lo thất tài, không hại người, không bệnh hoạn, khỏi chuyện thị phi gây gổ kiện thưa.
CHỦ MẠNG ĐOÀI CHỌN HƯỚNG ĐẶT BẾP LÒ TẠI CẤN (ĐÔNG BẮC)
Theo Bát Quái Đồ sở thuộc cung Diên Niên chủ nhà sống không thọ hôn nhân không thành, vợ chồng không hợp bị người gièm pha, ruộng vườn hao hụt, súc vật bệnh hoạn, gia đạo túng khó v.v…
CHỦ MẠNG ĐOÀI CHỌN HƯỚNG ĐẶT BẾP LÒ TẠI CHẤN (CHÁNH ĐÔNG)
Theo Bát Quái Đồ sở thuộc cung Tuyệt Mạng chủ nhà sống lâum không bệnh hoạn, cuả nhiều, không bị kiện thưa, con đông, tôi tớ đầy đàn, không nạn tai thủy họa.
CHỦ MẠNG ĐOÀI CHỌN HƯỚNG ĐẶT BẾP LÒ TẠI TỐN (ĐÔNG NAM)
Theo Bát Quái Đồ sở thuộc cung Lục Sát chủ nhà đuợc thêm người, phát tài, không sợ đau ốm, không chuyện kiện thưa, khỏi nạn tai họa, gia môn yên ổn.
CHỦ MẠNG ĐOÀI CHỌN HƯỚNG ĐẶT BẾP LÒ TẠI LY (CHÁNH NAM)
Theo Bát Quái Đồ sở thuộc cung Ngũ Quỷ chủ nhà không gặp nạn và tai họa, không lo trộm cướp, tôi tớ ngay thẳng, siêng năng đắc lực, không bệnh hoạn, cửa nhà thanh vượng, súc vật gia tăng.
CHỦ MẠNG ĐOÀI CHỌN HƯỚNG ĐẶT BẾP LÒ TẠI KHÔN (TÂY NAM)
Theo Bát Quái Đồ sở thuộc cung Thiên Y, chủ nhà bệnh hoạn liên miên, thuốc htang không hiệu quả. Nên dời bếp về phương vị tốt hơn
HƯỚNG XOAY
MIỆNG LÒ
CỦA CHỦ NHÀ MẠNG ĐOÀI
CHỦ MẠNG ĐOÀI XOAY HƯỚNG MIỆNG LÒ TẠI ĐOÀI (CHÁNH TÂY)
Theo Bát Quái Đồ sở thuộc cung Phục Vị chủ nhà tâm cầu sở đắc.
CHỦ MẠNG ĐOÀI XOAY HƯỚNG MIỆNG LÒ TẠI KIỀN (TÂY BẮC)
Theo Bát Quái Đồ sở thuộc cung Sinh Khí chủ nhà sẽ có con.
CHỦ MẠNG ĐOÀI XOAY HƯỚNG MIỆNG LÒ TẠI KHẢM (CHÁNH BẮC)
Theo Bát Quái Đồ sở thuộc cung Họa Hại chủ nhà sanh thù oán.
CHỦ MẠNG ĐOÀI XOAY HƯỚNG MIỆNG LÒ TẠI CẤN (ĐÔNG BẮC)
Theo Bát Quái Đồ sở thuộc cung Diên Niên chủ nhà tăng tuổi thọ.
CHỦ MẠNG ĐOÀI XOAY HƯỚNG MIỆNG LÒ TẠI CHẤN (CHÁNH ĐÔNG)
Theo Bát Quái Đồ sở thuộc cung Tuyệt Mạng chủ nhà bị tật bệnh tử vong.
CHỦ MẠNG ĐOÀI XOAY HƯỚNG MIỆNG LÒ TẠI TỐN (ĐÔNG NAM)
Theo Bát Quái Đồ sở thuộc cung Lục Sát chủ nhà hao tài mất đức.
CHỦ MẠNG ĐOÀI XOAY HƯỚNG MIỆNG LÒ TẠI LY (CHÁNH NAM)
Theo Bát Quái Đồ sở thuộc cung Ngũ Quỷ chủ nhà lại kiện tụng khẩu thiệt.
CHỦ MẠNG ĐOÀI XOAY HƯỚNG MIỆNG LÒ TẠI KHÔN (TÂY NAM)
Theo Bát Quái Đồ sở thuộc cung Thiên Y chủ nhà giải bệnh trừ tai.
CẦU TÀI BÍ TRUYỀN
DÀNH CHO CHỦ NHÀ MẠNG
ĐOÀI
CHỦ MẠNG ĐOÀI CẦU TÀI BẰNG CÁCH XOAY HƯỚNG MIỆNG LÒ TẠI ĐOÀI (Chánh Tây)
Theo Bát Quái Đồ sở thuộc cung Phục Vị kết quả chủ nhà sẽ có tiểu tài, tiền, ứng vào năm, tháng, ngày , giờ, Hợi, Mẹo, Mùi càng thử nhiều thì càng thấy ứng nghiệm.
CHỦ MẠNG ĐOÀI CẦU TÀI BẰNG CÁCH XOAY HƯỚNG MIỆNG LÒ TẠI KIỀN (Tây Bắc)
Theo Bát Quái Đồ sở thuộc cung Sinh Khí kết quả chủ nhà được đại phú, độ 1 tháng thì phát tài. Sinh Khí là Mộc tinh ứng tại Hợi, Mẹo, Mùi, năm, tháng, ngày, giờ.
CHỦ MẠNG ĐOÀI CẦU TÀI BẰNG CÁCH XOAY HƯỚNG MIỆNG LÒ TẠI KHẢM (Chánh Bắc)
Theo Bát Quái Đồ sở thuộc cung Họa Hại kết quả chủ nhà không có tài lộc mà lại sanh thêm thù oán.
CHỦ MẠNG ĐOÀI CẦU TÀI BẰNG CÁCH XOAY HƯỚNG MIỆNG LÒ TẠI CẤN (Đông Bắc)
Theo Bát Quái Đồ sở thuộc cung Diên Niên kết quả chủ nhà không có tài lộc nhưng đuợc tăng tuổi thọ.
CHỦ MẠNG ĐOÀI CẦU TÀI BẰNG CÁCH XOAY HƯỚNG MIỆNG LÒ TẠI CHẤN (Chánh Đông)
Theo Bát Quái Đồ sở thuộc cung Tuỵệt Mạng kết quả chủ nhà không có tài lộc còn mang tật bệnh tử vong.
CHỦ MẠNG ĐOÀI CẦU TÀI BẰNG CÁCH XOAY HƯỚNG MIỆNG LÒ TẠI TỐN (Đông Nam)
Theo Bát Quái Đồ sở thuộc cung Lục Sát kết quả chủ nhà bị hao tài, thất đức.
CHỦ MẠNG ĐOÀI (Chánh Nam)
CẦU TÀI BẰNG CÁCH XOAY HƯỚNG MIỆNG LÒ TẠI LY
Theo Bát Quái Đồ sở thuộc cung Ngũ Quỷ kết quả chủ nhà bị kiện tụng, khẩu thiệt.
CHỦ MẠNG ĐOÀI CẦU TÀI BẰNG CÁCH XOAY HƯỚNG MIỆNG LÒ TẠI KHÔN (Tây Nam)
Theo Bát Quái Đồ sở thuộc cung Thiên Y kết quả chủ nhà sẽ phát tài có trăm ngàn lượng vành thuộc cự môn. Thổ tinh ứng vào năm Thân, Tý, Thìn, năm, tháng, ngày, giờ.
BẢNG TỔNG KẾT CÁC VIỆC QUAN HỆ THIẾT YẾU TRONG ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI CHỦ NHÀ MẠNG
ĐOÀI
BÀN THỜ, TỔ TIÊN, TÀI VỊ
Bàn thờ tổ tiên hoặc bàn thờ thần tài nên đặt về hướng Chánh Tây: tốt.
BẾP LÒ
Nên đặt bếp lò về hướng Đông Nam, Chánh Bắc, Chánh Đông: tốt. Kỵ hướng Chánh Tây, Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nam gặp đại hung.
CẦU TÀI BÍ TRUYỀN
Muốn có tiền của vô nhiều xoay miệng lò vế hướng Tây Nam, Tây Bắc, Chánh Tây.
Các hướng khác đều kỵ.
CỬA CÁI
Nên trổ cửa cái về hướng Đông Bắc, Tây Bắc: tốt. Kỵ hướng Chánh Bắc, Chánh Nam, Tây Nam gặp đại hung.
DAO VÀ ĐỒ GIA DỤNG BẰNG SẮT
Các đồ gia dụng: dao, kéo, búa, nồi, chảo làm bằng gang hoặc sắt, nên cât giữ hoặc đặt về hướng Chánh Bắc :tốt.
ĐƯỜNG ĐI VÀO NHÀ
Nên chọn hướng Chánh Bắc, Chánh Đông: tốt. Kỵ hướng Chánh Tây, Tây Bắc, Đông Bắc gặp đại hung.
GIƯỜNG NGỦ
Nên đặt giường ngủ về hướng Đông Bắc: tốt.
HÔN PHỐI
Nên cưới vợ mạng: Kiền, Khôn: tốt. Kỵ vợ mạng Đoài, Chấn, Ly.
LU HOẶC BỒN CHỨA NƯỚC UỐNG
Các loại này nên đặt về hướng Chánh Nam: tốt.
MIỆNG LÒ
Nên xoay miệng bếp lò về hướng Chánh Tây, Đông Bắc:tốt. Kỵ hướng Chánh Đông, Đông Nam, Chánh Nam.
MỒ MẢ
Nên xoay đầu mả về hướng Tây Bắc: tốt.
MUỐI, MẮM, CÁ MẶN
Các thức ăn này nên cất giữ về hướng Chánh Đông: tốt.
NẰM NGỦ
Nên nằm nghiêng mình và mặt đều xoay về hướng Chánh Tây: tốt.
NGŨ CỐC
Các loại ngũ cốc dùng trong gia đình cụ thể như : Gạo, đậu, các loại bột để làm bánh v.v…nến cất giữ ở hướng Tây Nam: tốt.
hung.
NHÀ Ở
Nên chọn nhà ở hướng Tây Nam: tốt. Kỵ hứơng Chánh Đông, Chánh Nam : gặp đại
TỰ TẠO NHÀ Ở
Nên thực hiện công tác trứơc ở vào hứơng Tây Bắc: tốt.
Nơi thường ngày tích trữ các đồ vật ô uế, nhiễm khuẩn, hôi thối cụ thể như: Cầu tiêu, nhà tắm, chuồng nuôi gia súc v.v… nên đặt tại các hướng xấu của bổn mạng chủ nhà như:
-Hướng: Chánh Bắc
-Hứơng: Chánh Đông
-Hướng: Đông Nam
-Hướng: Chánh Nam.
Quan trọng nhất là địa điểm đặt cầu tiêu nên chọn phương vị hung, để trấn áp hung thần trú ẩn, sẽ phản họa sinh phước. Tạo sự yên lành giàu có và trường thọ cho chủ nhà.
Lưu ý:
Các dữ kiện khác trong ngôi nhà nếu không có đề cập ở đây thường là có quan
hệ chung cho tất cả 8 mạng trạch của chủ nhà. Nếu cần, đề nghị tham khảo bổ sung ở chương trước. Trong các bài viết chuyên đề về chọn ĐẤT LÀM NHA hoặc trong bộ Từ Điển Phong Thủy Học cùng một tác giả.
CHỌN NĂM, THÁNG, NGÀY, GIỜ TỐT ĐỂ KHỞI CÔNG XÂY DỰNG NHÀ Ở CỦA CHỦ NHÀ MẠNG
ĐOÀI
Chủ nhà mạng Đoài._Năm đại lợi: Sửu, Mùi, Thân, Dậu, Tuất,_Năm tiểu lợi: Dần, Hợi._Tháng đại lợi: tháng 6,7,8,9_Tháng tiểu lợi: tháng 10, giêng,_Ngày đại lợi: Sửu, Mùi, Thân, Dậu, Tuất ,_Ngày tiểu lợi:Dần, Hợi ,_Giờ tốt: Thân, Dần, Sửu, Mùi, 7 người đỡ đòn đông hạ thủ tốt.
Xây nhà day hướng, năm tháng ngày giờ thuận tháng sanh ngày, ngày sanh giờ, giờ sanh phối hợp lại ngày tháng thì tốt, năm tháng ngày giờ hướng đều thuận, vuợng tướng sanh hợp bất kỵ kiêm lâu khoan ốc, dầu lâm vào hung tầhn cũng không lo. Còn xem ngày giờ phải châm chế, hung thần, cát thần, nửa tốt, nửa xấu là sử dụng được, 2 tốt 1 xấu là tốt, 2 xấu 1 tốt ngày lâm vô tháng, tháng lâm vô ngày sem cũng dùng được, gặp ngày Tử, Tù, Hưu không tốt, hại nhất là ngày Tử, còn ngày Tù, Hưu thì nhẹ hơn.
BẢNG TRA TÌM NĂM SANH DƯƠNG LỊCH HOẶC
TUỔI THEO ÂM LỊCH, CHO NHỮNG NGƯỜI THUỘC MẠNG ĐOÀI
A.PHẦN DÀNH RIÊNG CHO PHÁI NAM (ĐÀN ÔNG)
PHẦN DÀNH RIÊNG CHO PHỤ NỮ (ĐÀN BÀ)
Chú ý: Ô 1- theo chiều mũi tên dành cho HƯỚNG ĐẶT BẾP Còn HƯỚNG XÂY NHÀ thuộc chiều mũi tên của Ô 2.
Ví dụ: Tuổi Hợi đặt bếp hướng Đông Tuổi Tý Tuổi Sửu đặt hướng Đông Bắc. Xây nhà hướng Tây với tuổi Hợi.
TRẦN VĂN HẢI
NGUYÊN TRƯỞNG BAN SOẠN THẢO CHƯƠNG TRÌNH HUẤN LUYỆN KHOA ĐỊA LÝ PHONG THUỶ VIỆT NAM QUỐC TỰ SÀI GÒN NĂM 1972
THỰC HÀNH THUẬT
PHONG THUỶ (TIẾP THEO)
CHƯƠNG III BÁT TRẠCH
Với 24 SƠN HƯỚNG
NỘI DUNG GỒM CÓ:
PHẦN 1
Bát Trạch với 24 Sơn Hướng Định Vị
Phụ Lục 8 Bát Quái Đồ PHẦN 2
Dẫn Giải Ý nghĩa 24 Sơn Hướng Huỳnh Tuyền
PHẦN 3
Luận Giải công tác tu tạo A- Mạng Trạch B- Hướng Nhà
C- Đất cắm nền
PHẦN 4
Chọn Phương Hướng Trổ Cửa Chủ Nhà Mạng KIỀN
Chủ Nhà Mạng KHẢM Chủ Nhà Mạng CẤN Chủ Nhà Mạng CHẤN Chủ Nhà Mạng TỐN Chủ Nhà Mạng LY Chủ Nhà Mạng KHÔN Chủ Nhà Mạng ĐOÀI
PHẦN 5
Chọn Hướng đặt Cống Rãnh PHẦN 6
Khai Môn Phóng Thuỷ PHỤ LỤC 1
Giếng Nước PHỤ LỤC 2
Cây Cối Chung Quanh Nhà PHỤ LỤC 3
A- Chọn Hướng Xây Bếp Lò B- Miệng Lò
PHẦN 1
BÁT TRẠCH
Với 24 SƠN HƯỚNG
Theo từ chuyên môn trong Thuật Phong Thuỷ: Khai sơn nghĩa là mới khởi xây dựng, hoặc chôn cất ở một chỗ đất nào, gọi chỗ đó là tọa sơn, mới xây dựng gọi là chỗ lập hướng. Còn công việc làm xong rồi, sau cần sửa lại chỗ hư đổ, gọi là chỗ tu phương.
Hai mươi bốn Sơn Hướng trong Bát Quái Đồ được hợp thành bởi tám thiên can, mười hai địa chi và Kiền, Khôn, Cấn, Tốn.
Hai mươi bốn là số thành của Trời Đất Thiên số 25 trừ 1, Địa số 30 trừ 6, đều là số 24. số này, trong thì ứng với Thiền thời 24 Tiết Khí, dưới thì hành ở Địa trung 24 Sơn Hướng.
Thứ tự của 24 vị là :
CHÁNH BẮC KHẢM NHÂN TÝ QUÍ
ĐÔNG BẮC CẤN SỬU, CẤN DẦN
CHÁNH ĐÔNG CHẤN GIÁP MẸO ẤT
ĐÔNG NAM TỐN THÌN TỐN TỴ
CHÁNH NAM LY BÍNH NGỌ TÝ
CHÁNH NAM MÙI KHÔN THÂN
CHÁNH TÂY ĐOÀI CANH TÂN DẬU
TÂY NAM ĐOÀI CANH DẬU TÂN
TÂY BẮC KIỀN TUẤT KIỀN HỢI
Công dụng của 24 phương vị là định hướng núi (Sơn hướng), nhận hướng sông (Biện thuỷ hướng). Cà 24 sơn trên thuộc vào Bát Trạch tóm lại.
BÁT TRẠCH ĐÔNG TÂY :
Kiền Khôn, Cấn, Đoài, là Tây tứ trạch. Tốn, Khảm, Ly, Chấn là Đông tứ trạch.
BÁT QUÁI SỞ THUỘC:
Kiền là Phụ thuộc kim.
Khảm là Trung nam thuộc thuỷ. Cấn là thiếu nam thuộc thổ.
Chấn là Trưởng nam thuộc mộc, đều là dương. Tốn là Trưởng nữ thuộc mộc.
Ly là Trung nữ thuộc hoả. Khôn là Mậu thuộc thổ.
Đoài là thiếu nữ thuộc kim, đều là âm.
ĐỊNH VỊ
PHƯƠNG HƯỚNG TU TẠO
( Cất nhà – trổ cửa – đặt bếp lò)
Đây là những phương hướng tốt xấu để xem mà chọn khi mua nhà, cất nhà, hay đặt bếp, ráp giường và đặt bàn viết.
Tám bát quái này biết được nhà trạch nào hạp tuổi nào. Vòng trong là 8 tượng Bát Quái. Vòng 2 là 8 phương. Vòng 3 là để bếp. Vòng ngoài 24 cung để cửa. Nếu nhà để cửa Chánh Đông, thì sau hè là Chánh Tây.
Lấy cây thước gạch gát lên giữa , Bát quái đầu này nhằm chữ Tý đầu nọ chữ Ngọ. Hay đầu này nhằm chữ Kiền, thì đầu kia Tốn, bởi 24 cung đối nhau: Tý-Ngọ, Sửu-Mùi, Dần-Thân, Mẹo-Dậu, Thìn-Tuất, Tỵ-Hợi, v.v… Muốn rõ cát hung hoạ phúc, phải biết chủ nhà ấy cung gì? Sẽ đặt La Bàn (địa bàn, boussole) chính giữa nhà, cây kim La Bàn luôn luôn chỉ hướng Chánh Bắc, chúng ta biết ngôi nhà ấy trạch gì.
Ví dụ: như nhà ấy day cửa hướng Nam nhà trạch Ly (hướng Nam là hướng Ly) hoặc day cửa hướng Đông Bắc là hướng Cấn là nhà ấy trạch Cấn.
Trường hợp chủ nhà mạng Khảm nhà trạch Ly tức là Khảm phối Ly dặng Diên Niên Phước Đức là đại cát.
Còn đặt La Bàn lên giữa hình Bát quái đặt ngay giữa nhà, từ từ xoay tròn HÌNH BÁT QUÁI lừa khi kim La Bàn chỉ đúng giữa Chánh Bắc của Bát quái thì dừng lại. Vòng trong có 8 tương Bát quái : Kiền, Khảm, Cấn, Chấn. Tốn, Ly, Khôn, Đoài.
Vòng kế ghi 24 sơn: Tuất, Kiền, hợi, Nhâm, Tý, Quí, Sửu, Cấn, Dần, Giác, Mẹo, At, Thìn, Tốn, Tỵ, Bính, Ngọ, Đinh, Mùi, Khôn, Thân, Canh, Dậu, Tân. Xem lò bếp nhà ấy ngay nhằm sơn nào của 24 sơn này? Sơn nào có để vòng trắng (o) là cát, bằng gặp điểm đen (.) là hung. (Xem toàn bộ 8 hình Bát Quái Đồ có thể kèm theo sau bài này).
Nhưng cung Khảm thuộc về Đông tứ trạch phải để lò bếp bên hướng Tây tứ trạch là để bên hướng Khôn, Cấn, Kiền, Đoài mới yểm trấn chủ hung được. Day miệng lò bếp, Ong Táo phải ngó về hướng Đông tứ trạch là ngó 4 hướng : Khảm, Ly, Chấn, Tốn, mới đúng.
Vòng ngoài của Bát Quái Đồ cũng 24 sơn:
1. Phúc Đức 2. On Hoàng
3. Tấn Tài 4. Trường Bịnh
Tố Tụng
Quan Tước
Quan Quí 8. Tự Ai
9. Vượng Trang 10. Hưng Phước
11. Pháp Trường 12. Điên Cuồng
13. Khẩu Thiệt 14. Vượng Tàm
15. Tân Điền 16. Khấp Khốc
17. Cô Quả 18. Vinh Phú
19. Thiểu Vong 20. Xương Dâm
21. Thân Hôn 22. Hoan Lạc
23. Bại Tuyệt 24. Vượng Tài
Là để xem đường ra vào ngay sơn nào, cứ coi sơn nào có hoành trắng (o) là cát, chấm đen (.) là hung.
24 cung Sơn hướng trên đây thấy rằng 12 cung thuộc Thập nhị địa chi không phạm Huỳnh Tuyền là gồm có Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, còn 12 cung nọ là Kiền, Khôn, Cấn. Tốn, và Giáp, At, Bính, Đinh, Canh, Tân, Nhâm, Quí thường phạm Huỳnh Tuyền, vậy khai môn Phước Đức mà phạm Huỳnh Tuyền vẫn là Hung phạm lầm dữ đến Đô Thiên ắt gặp tai hoạ.
CANH ĐINH (Khôn) thương thị Huỳnh Tuyền (hướng Canh đinh kỵ Khôn Sơn) Khôn hướng “Canh Đinh bất khả ngôn” (hướng Khôn kỵ Canh Sơn).
ẤT BÍNH: Tu phòng (Tốn) Thuỷ Tiên (hướng At và Bính kỵ Tốn Sơn) Tốn hướng At Bính hoạ việc nhiên (hướng Tốn kỵ At Sơn và Bính Sơn).
GIÁP QUÍ: (Cấn) hướng trung hữu kiến (hướng Giáp và Quí kỵ Cấn Sơn, Cấn Kiền Giáp Quí ) hung Bá Niên (hướng Cấn kỵ Giáp Sơn, Quí Sơn).
TÂN NHÂM: (Kiền) Thuỷ lộ phạ đương (hướng Tân và hướng Nhâm ky Kiền Sơn) Kiền hướng “Tân Nhâm” Hoạ thâm Thiên (hướng Kiền kỵ Tân Sơn, và Nhâm sơn).
Ví dụ: nhà day cửa hướng thuộc Canh Sơn hay Đinh Sơn thì kỵ Khôn Sơn vì đó là Huỳnh Tuyền chẳng nên đào giếng hay làm đường đi, hoặc ngay hướng Khôn thì là Canh Sơn và Đinh Sơn là Huỳnh Tuyền.
Tuổi vợ chồng cung Phi cũng có những may rủi cát hung như trên. PHỤ LỤC
BÁT QUÁI ĐỒ
VỚI 24 SƠN HƯỚNG NỘI DUNG GỒM CÓ
Nhà day cửa Trạch Kiền
Nhà day cửa Trạch Khảm
Nhà day cửa Trạch Cấn
Nhà day cửa Trạch Chấn
Nhà day cửa Trạch Tốn 6, Nhà day cửa Trạch Ly
Nhà day cửa Trạch Khôn
Nhà day cửa Trạch Đoài
BÁT QUÁI ĐỒ SỐ 1 TRẠCH KIỀN
BÁT QUÁI ĐỒ SỐ 2 TRẠCH KHẢM
BÁT QUÁI ĐỒ SỐ 3 TRẠCH CẤN
BÁT QUÁI ĐỒ SỐ 4 TRẠCH CHẤN
BÁT QUÁI ĐỒ SỐ 5 TRẠCH TỐN
BÁT QUÁI ĐỒ SỐ 6 TRẠCH LY
BÁT QUÁI ĐỒ SỐ 7 TRẠCH KHÔN
BÁT QUÁI ĐỒ SỐ 8 TRẠCH ĐOÀI
PHẦN 2
DẪN GIẢI Ý NGHĨA
24 SƠN HƯỚNG TRÊN BÁT QUÁI ĐỒ
Để tiện trong việc truy tìm, chúng tôi sắp xếp 24 sơn hướng trên 1 bát quái đồ theo mẫu tự như từ điển.
BẠI TUYỆT
Bại Tuyệt chi phương bất khả tu Tu chi lịnh lạc bất khảm sầu
Nhân đinh tổn việc vô tông tích Phụ tử đông, tây các tự cầu.
Nghĩa là: phương vị Tuyệt bại không nên tu tạo, nếu tu tạo ở đó thì bị lêng đênh, phiêu lưu không chịu nổi cảnh khổ sầu, tổn người tiêu diệt mất tung tích. Cha đi đông, con đi tây đều mất xác.
Tóm lại: Phương này trổ cử ngõ, hoặc kiến tạo phòng ốc, cửa ra vào trong nhàv.v…đều bất lợi, còn gặp bọn giặc cướp phá hại, bịnh tật, đau buồn, tự tử v.v…
CÔ QUẢ
Cô quả chi phương, tai đại hung Tu chi quả phụ, tọa đường trung. Lục súc điền tàn, cụ Tốn bại, Cánh liêm nhơn tán, tẩu tây đông.
Nghĩa là: Vị cô quả này tai họa lớn lắm, tu tạo ở phương đó thì có quả phụ ngồi trong nhà, tức chồng chết non, lục súc nghề nghiệp đều tồn hại, người cũng tẩu tán, mỗi người 1 phương, ly hương bại hoại.
3.ĐIÊN CUỒNG
Điên cuồng chi vị, bất khả khoa Sinh ky, tử biệt, cập điên tà.
Điên địa tiêu hao nhân khẩu bại, Thủy hoả ôn hoàng tuyệt diệt gia.
Nghĩa là: Vị điên cuồng này, mà đặt cửa vào đó thì không nói hết cái hung, sống lìa nhà, chết mất xác, vì điên rồ sinh ra đủ chứng bệnh, tuyệt giống.
HOAN LẠC
Hoạn lạc, môn tu cánh tấn tài Thưởng hữu huy âm, nhân tông lai
Điền người tâm lục súc, giai hưng vượng Phát phước thanh danh thọ tự lôi.
Nghĩa là: Vị hoạn lạc mà tu tạo hay trổ cửa ở đó thì được tiền tài, thường có người phước đức to đưa của lại. Điền viên chăn nuôi đều hưng vượng, phát phước tiếng tăm vang lừng như sấm động, chiêu được của cài lụa là ở mọi người phương Nam đưa đến. Người thủy mạng thì phát đạt.
HƯNG PHƯỚC
Hưng phước an môn thọ mạng trường Niên niên tứ quý, thiểu tai ương.
Sĩ nhân tấn chức, gia quan lộc
Thứ nhân phát phước tấn điền trang.
Nghĩa là: Ở vị hưng phúc này, trổ cửa thì thọ và khang, quanh năm ít tai ương, người làm quan thì tiến chức, thăng quan, tăng bổng lộc. Người thường dân thì phát phước tiên điền trang, sinh người hiếu nghĩa, trung hậu v.v…
KHẤP KHỐC
Khấp Khốc chi ngoại, bất khả khai Niên niên tai hoạ, đáo gia lai Uỗng tử, thiểu vong,nam tổn nữ Bi đế lưu lệ, nhứt doanh tai
Nghĩa là: Vị trí kháp khốc này, để trổ cửa ngõ luôn luôn có tai hoạ đến, gia đình cả nam nữ cùng bị chết non, chết uổng, hằng ngày than khóc, nước mắt không ngưng, vì bệnh tật đau yếu, phải là đàn bà bị tai ách, hao tiền tổn lực lắm.
KHẨU THIỆT
Khẩu thiệt an môn tối bất tường Thường chiêu vô hành bị tai ương Phu thê tương tiễn nhựt trực hữu Vô đoan huỳnh đệ tranh đấu cường
Nghĩa là: Vị khẩu thiệt này mà trổ cửa vào đó tất là hung, thường không có chuyện gì ở mình, mà bị tai bay hoạ gió đưa đến vợ chồng cãi lộn nhau suốt tháng ngày, chẳng có đâu nỗi gì, mà anh em tranh đấu nhau, rất hùng cường, sinh re nhiều sự bất lợi cho cả gia đình.
ÔN HOÀNG
On hoàng chi vị mạc khai môn
Tam niên ngũ tái, nhiễm thời ô Cánh hữu ngoại nhân lai tự ải Nữ nhân sinh sản mạng nan tồn
Nghĩa là: Vị của ôn hoàng này, trổ cửa đi, thì bịnh nhiễm ác khí sinh bệnh đậu tả lị, người lớn con trẻ bạo bịnh, hoặc uống nước chết, hoặc bịnh tai, rắn cắn, tai ách v.v… có người ở ngoài đến tự tử, đàn bà khó sinh đẻ, mọi sự bất lợi, hao tài, bại sản, v.v…
PHÁP TRƯỜNG
Pháp tường vị thượng đại hung ương Nhược an thử vị, thọ thương trường Phi tai lao nhục, phi đa sảo
Lưu đồ phát phối xuất tha hương
Nghĩa là: Vị pháp trường này là đại hung, nếu đặt cửa vào đó thì chịu tội hình thương nặng, gông cùm tù ngục xiềng xích đầy đi phương xa.
PHƯỚC ĐỨC
Phước đức khai môn đại cát xương Niên niên tiến bảo đắc điền trang
Chủ tăng tiền địa, kim ngân khí (đồ bằng kim loại) Hữu sinh quí tử, bất tầm thường
Giải nghĩa: Vị trí của phước đức này, trổ cửa ngõ là điền đại cát xương thì tăng điền về lục súc, như trâu, bò, lừa, ngựa, nuôi tằm, cây lúa v.v… lại tiến về phương Đông: Giáp ấn như người, đồ vật thuộc về loại kim ngân, sắt đồng hoạnh tài, ưng nghiệm trong 3 năm thì tiến thêm người và sinh quí tử, gia quan thăng chức, tiến triển sản nghiệp thịnh vượng.
QUAN QUÝ
Quan quí vị thượng bảo, an môn, Định chủ danh vang vị tước tôn
Thiếu vong chi vị, bất khả đoàn Điền địa tự tài nhân khẩu vượng, Kim ngân tài vật , bất tu luân.
Nghĩa là: Vị quan quí này trổ cửa ở trong khoảng đó rất tốt, sinh quí tử, sau làm nên tước vị tôn quí lừng danh, tài sản tự có, người nhiều thịnh vượng, vàng ngọc, tiền của không phải làm cũng có dư.
QUAN TƯỚC
Quan tước, tối cao cường
Sĩ nhân cao trác nhập đề hương Thứ nhân điền địa, tiền tài vượng
Thiên ban cát khánh, tổng tương đương.
Nghĩa là : Vị an môn này, là ngôi quan tước rất cao mạnh, bậc sĩ nhân thì được đề nghị, càng lên tới gần vua. Người thường dân thì vượng tài, nhà cửa, ruộng nương đầy đủ, được hưởng thọ lâu dài, nên trổ cửa ở vị đó.
TẤN ĐIỀN
Tấn điền vị thượng phước miên miên Thường chiêu tài bửu tử tôn hiền Cánh hữu hoại nhân lai kí vật
Kim ngân tài bạch phú điền viên
Nghĩa là: Vị tiến điền này phúc tài lắm, chiêu nhiều của báu, con hiền cháu quí, có người ngoài đem tài vật đến gởi, giàu có tiền bạc, ngọc ngà, điền viên, lục súc bội phần, nếu trổ cửa ở vị đó thì đời đời được hưởng như vậy.
TẤN TÀI
Tấn tài chi vị, thị tài tinh Tại thử an môn, bá sự thành
Lục súc diên niên, nhân khẩu vượng Gia quan tấn tước, hữu thanh danh
Nghĩa là: ngôi tiền tài này, trổ cửa đi, thì tiến tài lộc thóc lúa, số người thêm ra, lợi về phương Tây, mọi sự cát xương, thăng quan tiến chức v.v…
THÂN HÔN
Thân hôn vị thượng hảo tu phương Tu chi thân thích chúng hiền lương Thường thời vãng lai đa cát khánh Kim ngân tài bảo mãn dinh thương
Nghĩa là: vị thân nhân này tu tạo ở đó rất tốt, hoặc là trổ cửa ngõ đi thì họ hàng thân thích có nhiều người hiền lương danh giá, thường thường đi lại thị được nhiều hạnh phúc, vàng ngọc tiền của đầy kho. Người mạng hoả thì được phát đạt lắm.
6.THIẾU VONG
Nhứt niên chi nội, khốc thạnh hoa
252
Hiếu tử âm nhơn, tự ải tử,
Lôi môn thương tử tử khiên khê
Nghĩa là: Vị thiếu vong này không thể nói dóc được, trong một năm tiếng khóc vang âm. Đàn ông tham sắc đàn bà rượu trà, du đãng, rồi tự tử mất xác, xét đánh chết con ở chân trời xa vắng, nếu tu tạo hoặc trổ cửa vào vị trí đó, thì ứng hung như vậy.
TỐ TỤNG
Tố tụng chi phương, đại bất tường An môn chiêu hoạ, nhạ phi ương Điền viên, tài vật, âm nhân hoạ
Thời tạo khẩu thiệt, não nhân trường
Nghĩa là: vị tố tụng này mà trổ cửa đi vào đó thì hung hoạ lớn, tài sản, nhà, ruộng, đàn bà đều hao tán. Vận bí gặp nạn, thì sầu não lắm, thưa kiện bị kẻ tiểu nhân phản lại rất đau lòng.
TRƯỜNG BỊNH
Trường bịnh chi vị, tật bịnh trùng Thử vị an môn, lập kiền hung
Gia trưởng hộ, đinh, mục tật hoạn Thiếu niên bạo tử lao ngục trung
Nghĩa là: vị trường bịnh này là tật bịnh luôn luôn, sẽ hết bịnh nọ lại đến bịnh khác, nếu trổ cửa đi vào đó thì thấy hung ngay. Người gia trưởng và anh em thân nhân trong nhà đều bị tai nạn. Như: đau bụng, đau mắt, người sinh bất nhân, bất nghĩa, bạo ngược, bị tù đầy chết ở trong ngục, người ngoại xâm nhiều, nhiều sự phi lý bại tuyệt.
TỬ ẢI
Tự ải vị thượng, bất tương đương An môn lập kiến hữu tai ương Đao binh ôn hoả, tào hoành sự Ly hương tự ải, nữ nhân thương
Nghĩa là: Vị tự ải này không nên phạm vào, nếu đặt cửa đi ở vị đó, thì thấy tai hại ngay trước mắt, hoặc bị đao binh tử trận, hoặc bọ chết vì hoả tai, hoặc bị rơi xuồng nước, còn bị nhiều sự ngang tắt xảy đến, như tự tử, hoặc bỏ làng đi đàn bà bị tang thương lắm.
INH PHÚ
Vinh phú vị thượng, tới kham tu
253
An môn đoan đích, vượng nhân trù Phát tích gia đình vô ách hoạ
Phú qúi vinh hoa sự nghiệp thâu
Nghĩa là: Vị vinh tú này, cần nên tu tạo, trổ cửa đó, đích thực là vượng, người nhiều, phát tài, gia đình không tai hoạ, giàu sang thành sự nghiệp, mọi việc hanh thông bội hậu.
VƯỢNG TÀI
Vượng tài môn thượng yếu quân tri Phú quí lũng thương nhiệm phát uy Hiếu đạo nhơn đinh, gia nghiệp thắng Nhứt sinh phong hậu thọ tề mi bao
Nghĩa là: phương vị Vượng tài này, người nên biết rằng: dời đổi tới chỗ đó mà tu tạo, nhất là chỗ cửa ngõ được phát đạt, thăng tiến người được hiển đạt, gia nghiêp thành công, đời sống thịnh vượng phong lưu, sung túc, thọ khang, hoà vui, thanh thú, thương nghề phát tài v.v… người hoả mạng tốt.
VƯỢNG TÀM
Vượng tàm vị thượng hảo tu phương Thử vị an lai gia đạo xương
Lục súc tàm ti giai đại lợi
Toạ thu mễ cốc mãng tưởng thương
Nghĩa là: vị vượng tàm này, tu tạo vào nhân đức tốt, nhà nên phước lộc, lại thịnh vượng, chăn nuôi súc vật, tằm tơ được đại lợi. Ngôi thu lúa gạo đầy kho. Người hoả mạng khỏi gia nghiệp thêm con cháu, bội vượn gvề nông nghiệp.
VƯỢNG TRANG
Vượng trang an môn toi cát lợi Tấn tài, tấn bảo, cập điền trang
Bắc phương thuỷ âm, nhân tấn khiết Đại hoạch tàm ti, lợi thắang thường
Nghĩa là: vị vượng trang này trổ cửa ở đó thì rất tốt, như pht tài, phát lộc, bảo vật và ruộng nương tăng tiến, người của phát đạt thịnh vượng, người nào bổn mạng hợp với cung vị đó được thắng lợi phi thường.
XƯƠNG DÂM
254
Xương dâm chư vị, bất kham tu Tu chi dâm loạn, sự vô hưu
Thất nữ, hoài thai, tuỳ nhập định Nhứt gia đại tiểu, bất hảo nhơn
Nghĩa là: vị trí của xương dâm này (con hát điềm dâm) không nên tu tạo ở đó, nếu tu tạo thì sinh ra điên loạn, không thể thoát qua được, con gái ở nhà bị chữa hoang, đi theo trai toàn gia lớn, nhỏ đều không biết hổ thẹn, cả trai, gái đều ham mê tửu sắ, dâm ô, gian loạn vô sỉ, bại hoại gia phong.
HUỲNH TUYỀN
Là danh từ Hán Việt Huỳnh: vàng, Tuyền : Suối, có nghĩa là suối vàng, chỉ cõi Am. Theo luật Phong Thuỷ Huỳnh Tuyền là nơi đất chết, không còn một chút nào may mắn cho con người. Trên 24 cung sơn hướng thì 12 cung địa chỉ không phạm Huỳnh Tuyền là:
Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, dậu, Tuất, Hợi. Còn 12 cung nọ là: Kiền, Khôn, Kiền, Tốn, và Giáp. At, Bính. Đinh, Canh, Tân, Nhâm, Quí thường phạm Huỳnh Tuyền, khai môn cung phước đức mà phạ Huỳnh Tuyền vẫn hung. Phạm lầm chỉ đến Đô thiên ắt lâm tao hoạ. Canh Đinh (Khôn) thương thị Huỳnh Tuyền (hướng Canh, Đinh kỵ Khôn sơn). Khôn hướng “Canh Đinh” bất khả ngôn. (hướng Khôn kỵ Canh sơn, đinh sơn).
At Bính tu phòng “Tốn” Thuỷ tiên.
(Hướng At và Bính kỵ Tốn sơn).
Tốn hướng At, Bính hoạ việc nhiên.
(Hướng Tốn kỵ At sơn và Bính sơn).
Giáp, Quí hướng trung hưu kiên “Cấn”
(Hướng Giáp và Quí kỵ Cấn sơn).
Cấn kiến “Giáp, Quí” hung bá niên
(Hướng Cấn kỵ Giáp sơn và Quí sơn).
Tân, Nhâm thuỷ lộ phạ dương “Kiền”
(Hướng Tân và hướng Nhâm kỵ Kiền sơn).
Kiền hướng “Tân, Nhâm” hoạ thâm niên.
(Hướng Kiền kỵ Tân sơn vàv Nhâm sơn).
Ví dụ: như nhà ngay hướng Canh sơn và Đinh sơn thì kỵ cung Khôn sơn là Huỳnh Tuyền chẳng nên đào giếng hay đường đi, hoặc nagy hướng Khôn thì là Canh sơn và Đinh sơn là Huỳnh Tuyền.
Xem thuỷ Huỳnh Tuyền, bất luận là mấy lần nóc nhà, đều ở chỗ giọt nước đổ xuống, lấy La Bàn xem cửa Huỳnh Tuyền ở giữa nền nhà chính để đặt La Bàn biết phương nào nên trổ Đại Môn (cửa cái) còn các phòng kế căn cứ giữa gian chính mà xem. Xét Huỳnh Tuyền Lộ Thiên thì đặt La Bàn ở giữa cửa cái như hướng Kiền. Tốn đặt La Bàn ở dưới chỗ giọt nước mái
255
nhà rơi xuống, chiếu xem ở phương At Thìn có đường cái là Huỳnh Tuyền thì tuyệt nhất phòng. Cửa phạm Huỳnh Tuyền dù có trổ cửa lớn làm phước đức cũng bị hung.
PHẦN 3
LUẬN GIẢI
VỀ MỘT SỐ CÔNG TÁC TU TẠO
(Theo Bát Trạch với 24 Sơn Hướng)
A- MẠNG TRẠCH
Tức là cung phi của chủ nhà nó nằm ở trung tâm (chính giữa) các BÁT QUÁI ĐỒ.
Luận mạng thường phải luận Toạ sơn, luận mạng Trạch không xét đến Toạ sơn vẫn có hung mà tiểu hung, dưới đây là một ví dụ: Trên 24 cung hướng để bếp có cung Cát cũng có cung không thay đổi. Như Bính sơn, Đinh sơn và Ngọ sơn thuộc cung Ly thì Đinh sơn hung, còn Bính sơn và Ngọ sơn thì Cát là tốt, nhưng tốt cho những người mạng Tây tứ Trạch, còn những người tuổi Đông tứ Trạch, đặt bếp lên đó không cần luận mạng Trạch là đại hung. (Luận sơn hướng nhi bất luận mạng giả đại hung).
Nếu người mạng Tây tứ Trạch đặt bếp lên đó là hạp Trạch là tốt mà không để đúng vào Bính sơn và Ngọ sơn Cát lại lầm để lên Đinh sơn cũng lâm tiểu hung, đó là: “Luận mạng nhi bất luận sơn hướng giả tiểu hung”.
Đại để thấy cung Phước đức hoặc T6án tài để cửa ngõ tốt, nhưng phải xem nó thuộc sơn hướng nào, có hạp mạng Trạch, chủ nhân mới tốt, không hạp mạng vẫn hung.
B- HƯỚNG NHÀ Ở
TÂY BẮC
Nhà day cửa Tây Bắc thì đường ra vào gặp ngay cung Sơn Tấn Tài, Quan Tước và Quan Quí, như vậy là hướng tốt. Phải tránh Sơn Cung Tố Tụng, Tự Ai, Pháp Trường, Điên Cuồng đó là hướng xấu.
CHÁNH BẮC
Nhà day cửa hướng Bắc, thì đường ra vào có một cung Phương Xương Dâm, vậy nên tránh khỏi Xương Dâm mà xiêng về Đông Bắc một tí là gặp được Thân Hôn, Hoan Lạc và Tại Quý Sơn nhằm Hoan Lạc rất tốt.
256
ĐÔNG BẮC
Nếu mà day cửa hướng Đông Bắc, nên tránh Cấn Sơn tức hướng Bại Tuyệt mà khai đúng về Sửu gặp Hoan Lạc Sơn.
CHÁNH ĐÔNG
Nhà day cửa hướng Chánh Đông, là đường ra vào ắt là Hoan Lạc, nếu Thìn Sơn là tuyệt bại.
MẸO SƠN DẬU HƯỚNG LÀ HƯỚNG CỦA CỤC:
Tỵ, Dậu, Sửu (tam hợp) phải nạp thuỷ Canh kim, Sinh ở Tỵ, lộc ở Thân, vượng ở Dậu. Các thứ nước giếng quay về bên phải, chảy ra ở Quý, Cấn hay Kiền, Nhâm thì tốt. Nếu quay sang bên trái thì trái hướng, thuỷ phá cục sẽ bất lợi. Phạm Huỳnh Tuyền ở Thân thì tổn hại nhân khẩu. Cửa chính nên trổ ở canhg phương.
ẤT SƠN TÂN HƯỚNG LÀ HƯỚNG CỦA CỤC HỢI, MẸO, MÙI (TAM HỢP):
Phải nạp Quý thuỷ, Sinh ở Mẹo, vượng ở Hợi, Suy ở Tân. Các nước vũng giếng nên quya sang bên trái ra ở Đinh, Khôn hay Canh thì tốt. Nếu quay sang bên phải sẽ phản hướng, thuỷ phá cục sẽ bất lợi. Phạm Huỳnh Tuyền ở Kiền Hợi, sẽ tổn hại nhân khẩu. Cửa chính nên trổ ở Tân phương.
THÌN SƠN TUẤT HƯỚNG LÀ HƯỚNG CỦA CỤC:
Tỵ, Dậu, Sửu (tam hạp) phải thu nạp thuỷ Canh kim, Sinh ở tỵ, vượng ở Dậu, suy ở Tuất. Các thứ nước vũng giếng nên quay sang bên phải, ra ở Quý hay Cấn, Nhâm thì tốt. Nếu quay sang bên phải là phản hướng, thuỷ phá cục sẽ bất lợi. Phạm Huỳnh Tuyền ở Thân thì tổn hại nhân khẩu. Cửa chính nên trổ ở Kiền phương.
TỐN SƠN KIỀN HƯỚNG LÀ HƯỚNG CỦA CỤC:
Mẹo, Hợi, Mùi (tam hợp) phải thu nạp Quí thuỷ, Sinh ở Mẹo. Lộc ở Tý, vượng ở Kiền. Các nước vũng giếng nên quay về bên trái ra ở Đinh, Khôn hay Canh, Tân sẽ tốt. Nếu quay sang bên phải nghịch với hướng, thuỷ phá hướng sẽ bất lợi. Phạm Huỳnh Tuyền ở Tý thì tổn hại nhân khẩu. Cửa chính nên trổ ở Kiền phương.
TỴ SƠN HỢI HƯỚNG LÀ HƯỚNG CỦA CỤC:
Mẹo, Hợi, Mùi (tam hợp) phải thu nạp Quý thuỷ, Sinh ở Mẹo, Lộc ở Tý, vượng ở Hợi. Các thứ nước vũng giếng nên quay về bên trái, tiêu ra ở Đinh, Khôn hay Canh, Tân là tốt. Nếu quay sang bên phaỉ là nghịch với hướng, vì thuỷ phá cục thì bất lợi. Phạm Huỳnh Tuyền ở Tý thì tổn hại nhân khẩu; đinh. Cửa chính nên trổ ở Kiền phương.
BÌNH SƠN NHÂM HƯỚNG BAO GỒM TỴ, HỢI LÀ HƯỚNG CỦA CỤC:
Mẹo, Hợi, Mùi (tam hợp) phải thu nạp Quý thuỷ, Sinh ở Mẹo, Lộc ở Tý, vượng ở Hợi. Các thứ nước vũng giếng nên quay về bên trái, tiêu ra ở Tân hay Canh, Khôn thì tốt. Nếu quay sang bên phải thì phản hướng, thuỷ phá cục. Phạm Sát và phá Lộc ở Tý, Sửu sẽ không con. Cửa chính nên trổ ở Kiền hay Nhâm.
BÍNH SƠN NHÂM HƯỚNG BAO GỒM NGỌ, TÝ LÀ HƯỚNG CỦA CỤC:
Thân, Tý, Thìn (tam hợp) phải thu nạp Quý thuỷ, Sinh ở Thân, Lộc ở Hợi, vượng ở Nhâm. Các nước vũng giếng nên quay đổ sang bên phải, tiêu ra ở At hay Giác, Quý, Cấn sẽ tốt. Nếu quay sang bên trái là nghịch hướng, thuỷ phá hướng cục bất lợi. Phạm Sát ở Hợi thì sẽ tổn nhân đinh. Cửa chính nên trổ ở Nhâm.
PHẦN 4
CHỌN PHƯỚNG HƯỚNG TRỔ CỬA CHO
CHỦ NHÀ MẠNG KIỀN
Kiền Trạch gồm có 3 sơn: Tuất, Kiền, Hợi.
Kiền sơn đối Tốn hướng, Hợi sơn đối Tỵ, Tuất sơn đối (chiêu phối) Thìn, tương ứng tại trạch đó. Bổn trạch ở phương Đoài, hết thảy những vị ấy là thuộc Cát tinh. Cấn phương thì có tiểu tì (vết hung nhỏ) không bằng Dậu phương là tốt thứ nhất. Nếu Khảm phương bị Lục Sát, Chấn phướng phạm Ngũ Quỉ, Tốn phương là Hoạ Hại, Ly là Tuyệt Mạng, tức phá quân đều là phương bất lợi.
Kiền Trạch là chính Tốn hướng, không nên trổ cửa chính giữa gian, lại hợp Tây tứ trạch, nên trổ cửa bên Bạch hổ là thượng hạng cát. Kiền Kim, Tỵ là cửa cái, lại trổ bên Tỵ phương, trổ cửa bên Đoài phương ở canh vị lại không phạm Tốn hướng là Sát diệu, là đệ nhất hạng! Hoặc cửa cái tại Khôn, lấy Loã âm, Lão dương phối hợp, lại hợp Diên Niên, Vũ khúc,
Kim tinh là tỷ hoả, tinh trợ bổn cung. Vậy hợp cục Thiên Địa định vị. Lại thấy sách Diễn văn có một chỗ nói: “Bất định khôn môn” nghĩa là: không trổ cửa ở phương Khôn, đó là lấy lí có tam bích tại Khôn. Nó hợp khí lại thì có tì ô nhỏ vậy. Bất sợ hợp với Tứ bạch, Kiền là Lục bạch Kim tinh hợp với Thất xích tinh đến bổn cung là toạ vượng, Bát bạch thổ tại Đoài là Sinh Khí được thượng hạn cát. Nếu trổ cửa ở Cấn phương là Thiên Y Cự môn thể tinh. Thổ sinh Kiền kim là tinh sinh cung cũng ở thượng hạng cát Trạch. Lấy 3 cái đó để so sánh thì Khôn kỷ nên trổ cửa cái, ở Đoài nên trổ cửa thứ 2, ở Cấn trổ tiểu môn(cửa nhỏ) là đủ cả tam cát môn.
CHỦ NHẢ MẠNG KHẢM
Tý sơn, Nhâm sơn, Quý sơn.
Trạch này lợi ở vào năm, tháng Thân, Tý hợp với Mộ ở Thìn, tương ứng với Thân Tý là bổn Trạch toạ cung được toàn mỹ, ở hai bên có thể trổ cửa nhỏ, cửa sau ở Nhâm. Ơ Qúy 2 phương không lìa phương cát của bổn cung. Không nên lấn vào phương Hợi, phương Sửu.
Tra xem cái Khảm Trạch phối với Tốn là Sinh Khí, Chấn là Thiên Y, Ly là Diên Niên, nên trổ cửa lộ (cửa ngõ đi ra đường). Nhưng 3 phương này hợp với Tam bạch, cũng có chỗ không được tân cát (tốt hết cả) như Kiền thì Lục Sát. Khôn thì Tuyệt Mạng, Cấn thì Ngũ Quỉ
,à Đoài là Hoạ Hại, càng thêm là bất cát, đến hợp Tử. Bạch thì Khảm là Nhật bạch Thuỷ tinh, hợp được Lục bạch kim đáo bổn cung, là Toạ Sinh Khí. Nhị hắc đáo Kiền, Bát bạch đáo, Chấn đều có sát khí. Vut Chấn là Thiên Y Cự môn có thể trổ tiểu môn (cửa nhỏ tiện đi trong nhà) để trợ lực sự cát trường cho cửa chính. Như địa hình có thể trổ cửa lớn, lại hợp với Đông tứ Trạch, thì nên trổ cửa phương Đông rất tốt. Tam bích lại Đoài là Lộc tồn, Tứ lục tại Cấn là Liêm trinh Ngũ Quỉ, đều là thoái khí. Thất xích đáo Khôn là Sinh Khí, cửu tứ đáo Tốn cũng là đáo khí (khí chết).
Tốn cũng lấy tam lang hợp với tử khí, cũng có thể trổ cửa nhỏ mà giúp cho cửa lớn, thêm tốt. Cửa ở phương Tốn thì mộc vào phương Khảm, phương trì thân quý, đã thấy Khảm Trạch trổ Tốn môn được cát tường nhiều lắm rồi. Khôn cung lấy phá quân mà hợp Sinh Khí. Cho nên Quý sơn, Đinh hướng có trổ cửa ở Khôn, Thân vì ở Khảm là thuỷ, tức là Sinh phương mà có sinh tinh chiếu, hay kiêm cả nghinh, hợp thuỷ lại ở bên phải. Đây chẳng qua là còn đó để đợi bên trái, chứ không thể trổ cửa ở Ngũ Quỉ được. Ly phương là Hoạ Hại, Chấn là Lục Sát. Tốn là Tuyệt Mạng là không tương phối, đến sự phối hợp của tứ bạch, thì Cấn là bát bạch thổ tinh, phối hợp được nhị khắc là Thổ đáo Bổn cung, cũng là tạo vượng. Cửu tứ đáo Kiền đó là Sinh Khí, nên lấy là cửu thứ nhất. Khai bạch tại Đoài, tuy là khí chưa có thuần, nhưng có thể trổ cửa, đào giếng được, Tam bích ở Ly, tứ lục ở Khảm đều là sát khí, mà Khảm càng hung hơn! Ngũ hoàng ở Khôn, tuy là Tham Lang, mà Thang Lam thuộc Mộc lại cùng với Cấn thổ là hiềm nghi, lấy Khôn để trổ cửa thứ hai, Kiền là cửa cái thứ nhất. Canh, dậu, Tân 3 phương trổ cửa cái thứ nhì được cát tường.
CHỦ NHÀ MẠNG CẤN
Cấn sơn, Khôn hướng … Sửu sơn, Mùi hướng… Dần sơn, Thân hướng. Trạch này lợi vào năm tháng Thân, Dậu, Tuất nhập Mộ ở Thìn, trung ứng vào con thứ 3,4. phối với Kiền kim là Thiên Y, Khôn là Sinh Khí, Đoài là Diên Niên, đều nên trổ cửa ở các nơi đó. Nếu trổ môn lộ ở Khảm là kim khắc Mộc. Cửa thứ 2 Canh hợp giáp nào cũng được.
CHỦ NHÀ MẠNG CẤN
Mẹo sơn, Dậu… Giáp sơn, Canh… At sơn, Tân…
Trạch này lợi ở Hợi, Dần, Mẹo năm tháng hợp vào mộ vị của Mùi, trung ứng vào con trai trưởng. Bổn trạch toạ cung là Phục Vị thì cát phối Tốn là Diên Niên, Ly là Sinh Khí, Khảm là Thiên Y đến nên trổ cửa, tác Táo hướng. Nếu ở Kiền là Ngũ Quỉ, ở Khôn thì Hoạ Hại, Cấn thì Lục Sát, Đoài thì Tuyệt Mạng đều là bất cát (không tốt). Như hợp với Tử, Bạch, thì Chấn là Tam Bích Mộc Tinh, phối hợp được Nhất bạch đáo Khảm, Thất xích đáo Ly, tuy là khí tính chưa thuần đều có thể trổ cửa được. Tứ lục đáo Kiền thực là vượng khí có thể đào giếng, làm bếp ở phương đó được. Nếu Ngũ hoàng ở Đoài thì đại bất lợi! Xét trong bát trạch đều là hung, đến cả tiểu môn cũng không nên trổ ở chỗ đó. Tuy là phục vị nhưng cung ai tán hữu trụ, có thể trổ cửa lộ đi ra ở phía sau là tiểu môn, cũng phải xét lá cát phương mới mở được! Chấn Trạch, Tốn Trạch đều không nên trổ cửa ở thẳng chính giữa khoảng nhà, đó là ngũ hoàng tại Ly thuộc ngũ khúc Diên Niên. Địa lý thiên văn cho là bất lợi, đó là trực xung! Trừ kha môn, Hỷ môn, cửa chánh, ngoài ra hết thảy mọi nhà bá tánh, không thấy nhà đinh hướng nào trổ cửa chánh ở Ngọ vị, vì sợ Lộc phá cả cửa cái và Nhị môn, khai thẳng ra phương Bính là được thuần cát. Tý sơn, Ngọ hướng cũng là Nhị môn Trực khai, cửa cái ở Bính lại càng là cát tường, đều mừng ở Vị xá văn tinh.
Nếu Nhâm sơn, Bính hướng có nhiều tả thuỷ, đảo hữu mới hợp thuỷ pháp. Cửa cái ở phương Tốn thu cát khí của phương Tốn là ngôi Lâm quan của hoả cục. Đều có Tham lang tinh đại vị, rất là cát lợi, không được câu nệ một cái Sách của Nguyên Chính mà nói là không nên Khai Tốn môn, Bính hướng. Nên biết là : Đinh, Ngọ hướng, mà cửa cái trổ ở cửa Bính là đệ nhất hạng! Nếu Bính hướng trổ cửa cái trổ ở Tốn là đệ nhất hạng! Nếu Bính chỉ có một cửa mà tiến thì lấy đổi với chính hướng là cát lợi! Nếu Ngọ hướng trổ cửa ở At. Mẹo là Đông phương Thiên Môn lộ cũng cát tường. Nếu định hướng Bính môn, ngoài lại trổ cửa ở phương Khôn để đóm nước lại cũng cát lợi! Cùng một thứ trạch mà tác dụng có phân biệt, là do người nhân Địa hình, phương tiện mà định.
CHỦ NHÀ MẠNG TỐN
Tốn sơn, Kiền hướng, Tỵ sơn, Hợi hướng, Thìn sơn, Tuất hướng. Trạch này lợi ở năm, tháng Hợi, Tý, Sửu, Dần, Mẹo, nhập mộ ở Mùi, trung ứng vào trưởng nữ. Đối với Chấn là Diên Niên, Khảm là Sinh Khí, Ly là Thiên Y đều là cát lợi. Trổ cửa ở Đông phương là Giáp, Mẹo, At. Trổ cửa ở phương Bắc là Nhâm, Tý, Quý đều được cát lợi. Không nên trổ cửa chính thẳng Tốn môn. Nếu ở Kiền là Hoạ Hại, ở Khôn là Ngũ Quỉ, ở Cấn là Tuyệt Mạng, ở Đoài là Lục Sát đều là bất cát! Đến sự phối hợp Tử, Bạch thì Tốn là Tứ lục Mộc tinh, hợp được Tam bích Mộc đáo bổn cung là toạ vượng. Nhị hắc Thổ tạo Chấn, tuy khí chưa được thuần cũng hợp Tài, Quan cho nên là Diên Niên phương, có thể trổ cửa ở đó được. Ngũ huỳnh ở Kiền, Nhất bạch là bất lợi. Lục bạch đáo hoài cũng là sát khí. Thất xích ở Cấn với Đoài phương hợp đồng. Bát bạch tại y, tuy là phương tử khí mà không sát, cửu tử tại Khảm có thể đào giếng được.
CHỦ NHÀ MẠNG LY
Ngọ sơn, Tý tướng, Đinh sơn, Quý hướng, Bính sơn, Nhâm hướng. Trạch này lợi về năm, tháng Dần, Tỵ, Ngọ, nhập mộ là Tuất phương trung ứng vào trung nữ (con gái thứ 2) Bổn cung là Phục Vị cát. Phối Tốn là Thiên Y, Chấn là Sinh Khí, Khảm là Diên Niên đều là chính phối, nhưng trong đó Khảm có bệnh xung khắc. Nếu Kiền là Tuyệt Mạng, Khôn là Lục Sát, Đoài là Ngũ Quỉ, Cấn là Hoạ Hại, không phải phối cát. Dần sự hợp với Tuất, Bạch thì Ly là Cửu tử Hoả tinh, hợp được Tứ lục Mộc tinh đáo Bổn cung là Toạ sinh phương, Ta, bích tại Cấn cũng là Sinh Khí, Thất xích tại Chấn tuy khí chưa có thuần nhưng thực là sinh phương, Lục bạch tại Khôn, nhị hắc tại Đoài, mọi sự đều là cát. Bát bạch tại Tốn, giếng nước bếp lửa đều dùng được tiểu môn, cửa cái đều có thể trổ được. Chỉ có Giáp At là mộc phương được cát lợi. Nếu dùng nhị môn cũng không ên mở ra chính diện, thẳng đối với nhau, nên lệch về phía bên trái làm Nhâm vị, chuyển đến Chấn mà ra thì tốt lành! Nếu Tý hướng không nên trổ cửa ở đó, trổ ở Quí thì cung cát lợi. Tóm lại là: ở thẳng vị đó không nên 2 cửa làm đối diện, đưa 2 vị là Nhâm hoặc Quý trổ cũng tốt lành.
CHỦ NHÀ MẠNG KHÔN
Khôn sơn, Cấn hướng, Thân sơn, Dần hướng, Mùi sơn, Sửu hướng. Trạch nàu lợi về năm, tháng Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tý nhập mộ Thìn, trung ứng vào Trạch môn. Phối Kiền là Diên Niên, Cấn là Sinh Khí, Đoài là Thiên Y, nếu Khảm thì Tuyệt Mạng, Ly thì Lục Sát, Chấn thì Hoạ Hại, Tốn thì Ngũ Quỉ, đến sự hợp với Tử, Bạch thì Khôn là nhị hắc thổ tinh, hợp
với Bát bạch là đích thổ đáo bổn cung là giúp vượng cung khác đều chưa thuần tuý. Theo như Nguyên Chính nhất thư, nhì Sửu, Cấn, Dần đều có thể trổ cửa chánh lộ, Kiền, Đoài thì trổ tiểu môn để giúp thêm cát lợi. Luận về hợp với tử, Bạch về việc cửa cái ở tam cát phương mà được thuần cát thì ít. Vậy bất tất câu nệ, chỉ cần biết là Tây tứ Trạch : Kiền, Khôn, Cấn, Đoài nên trổ cửa ngõ đi ra đường ở phía Bạch hổ (phía tay phải) Đông tứ Trạch: Chấn, Tốn, Khảm, Ly nên trổ cửa ngõ đi ra phía Thanh Long (bên tay trái) thí tốt. Ơ 3 phương cát được Lai thuỷ, án, hướng đẹp, tốt, hướng cửa Chính Trạch có thể lập hướng được, thì chẳng cần hướng Bạch ở phương cát khác, để hương ở cát phương đó, đều tự lập hướng, được là Đích lợi không nên theo thuỷ khí xuất khẩu lập hướng nữa.
CHỦ NHÀ MẠNG ĐOÀI
Dậu sơn, Mẹo hướng, Canh sơn, Giáp hướng, Tân sơn, At hướng. Trạch này lợi ở năm tháng Tỵ, Mùi, thân, Dậu, mhập miệng ở Sinh Khí trung ứng vào thiếu nữ (con gái út) Phối với Kiền là Sinh Khí, Khôn là Thiên Y đều là phối cát, mà Kiền liên trùng trùng Sinh Khí còn tốt hơn nữa! Nếu khãm thì Hoạ Hại, Chấn thì Tuyệt Mạng, Tốn tuy là Lục Sát, Ly tuy là Ngũ Quỉ
PHẦN 5
CHỌN HƯỚNG
ĐẶT CỐNG RÃNH ĐỂ THOÁT NƯỚC
(Của 24 Sơn Hướng)
Nhà ở rất cần tìm ra hướng nước chảy mới có thể biết được phương tốt. Còn việc mở cửa, đắp nền đều có tiêu chuẩn để theo. Dưới đây sẽ nói về 24 hướng nước chảy tốt xấu:
NHÂM SƠN BÍNH HƯỚNG
Gồm 2 phần của Tý, Ngọ (khi phần kim chỉ có thể kiếm 2 phần, không thể kiếm 3 phần) là hướng của cục Dần, Ngọ, Tuất (tam hợp) phải thu nạp được thuỷ ở Bính hoả, sinh ở dần, Lộc ở Tý, vượng ở Bính Ngọ. Nước ở các giếng (do thiên tạo) ở trong khu nhà, đều nên quay về phía bên phải, chiếu ra ở phương Khôn, Đinh, Hợi,Canh, tân thì tốt. Nếu quay về hướng bên trái là phản lại tốt của thuỷ thì không lợi. Nếu phóng thuỷ ra ở hướng Tốn sẽ phạm Huỳnh tuyền, sẽ hại nhân khẩu, cửa chính nên mở ở phương Bính, các thứ hướng khác ở các cục đại khái cũng như thế mà suy ra.
TÝ SƠN, NGỌ HƯỚNG LÀ HƯỚNG CỦA CỤC:
Dần, Ngọ, Tuất (tam hợp), phải thu nạp thuỷ ở Bính hoả; sinh ở Dần, Lộc ở Tý, Vượng ở Ngọ. Nước ở các vũng giếng thuộc trong khu nhà đều quay về bên phải, chảy ra ở phương Đinh, Khôn, Canh, Tân sẽ tốt. Nếu quay về bên trái sẽ tương phản với hướng và thuỷ lợi thì bất lợi. Phương Bính Tỵ phạm Huỳnh Tuyền bị sát thuỷ, sẽ hại nhân khẩu. Cửa chính nên đổ ở phương Bính.
QUÝ SƠN ĐINH HƯỚNG LÀ HƯỚNG CỦA CỤC:
Thân, Tý, Thìn (tam hạp), phải nạp thuỷ ở Tân kim, sinh ở Tý, Vượng ở Thân, suy ở Đinh. Nước cống rãnh trong nhà nên quay về bên trái, chảy ra ở Tốn, Tỵ, Giáp, Bính thì tốt. Nếu chảy ra bên phải là phản với hướng thuỷ, hướng tương phản sẽ bất lợi. Phương Khôn, Thân sẽ phạm Huỳnh Tuyền, hại nhân khẩu. Cửa chính nên hướng về Đinh.
SỬU SƠN MÙI HƯỚNG LÀ HƯỚNG CỦA CỤC:
Dần, Ngọ, Tuất (tam hạp) phải nạp thuỷ ở Bính hoả; Sinh ở Dần, Vượn gở Ngọ, suy ở Mùi. Nước vũng giếng trong nhà nên quay về bên phải, chảy ra ở Canh, Tân hoặc Khôn Kiền thì tốt. Nếu quay bên trái thì nghịch với hướng thuỷ là phá cực, bất lợi phương Tốn, Tỵ sẽ phạm Huỳnh Tuyền, hại nhân khẩu. Cửa chính nên ở Đinh.
CẤN SƠN KHÔN HƯỚNG LÀ HƯỚNG CỦA CỤC:
Là hướng của cục: Tý, Thân, thìn (tam hạp) phải thu nạp thuỷ ở Tân kim: sinh ở Tý, Lộc ở Dậu, vương ở Khôn. Các nước ở giếng rãnh nên quay về bên trái, chảy ra ở At, Tốn hay Bính, Đinh thì tốt. Nếu về bên phải là phản hướng, thuỷ phá cục, bất lợi. Phạm Huỳnh Tuyền ở Dậu thì tổn hại Nhân khẩu. Cửa chính nên trổ ở Khôn.
DẦN SƠN THÂN HƯỚNG LÀ HƯỚNG CỦA CỤC:
Tý, Thân, Thìn (tam hạp) phải thu nạp thuỷ ở Tân kim, Sinh ở Tý, Lộc ở Dậu, vượng ở Thân. Các nước giếng rãnh nên quay về bên trái, tiêu ra phương Tốn hay Bính, Đinh thì tốt, còn quay về bên phải thì phản hướng, thuỷ phá cục, bất lợi. Phạm Huỳnh Tuyền ở Dậu thì tổn hại Nhân khẩu. Cửa chính nên trổ ở Khôn.
GIÁP SƠN CANH HƯỚNG LÀ HƯỚNG CỦA CỤC:
Tý, Thân, Thìn (tam hạp) phải thu nạp thuỷ ở Tân kim, Sinh ở Tý, Lộc ở Dậu, vượng ở Thân. Các nước giếng rãnh nên quay về bên trái, mà chảy ra ở Đinh, Bính, Tốn thì tốt. Nếu quay về bên phải thì phản hướng, thuỷ phá cục, bất lợi. Phạm Lâm Quan ở Dậu, phá quan đới ở Tuất sẽ bị chết con. Cửa chính nên trổ ở Canh hay Khôn.
GIÁP SƠN CANH HƯỚNG BAO GỒM KIM MẸO, DẬU LÀ HƯỚNG CỦA CỤC:
Tý, Dậu, Sửu (tam hợp) phải thu nạp thuỷ ở Canh kim; sinh ở Tỵ, Lộc ở Thân, vượng ở Canh. Các nước vũng giếng nên quay về bên phải, rồi chảy ra ở Quí, Nhâm hay Tân, Kiền thì tốt. Nếu quay bên trái thì nghịch hướng, thuỷ phá cục, sẽ bất lợi. Phạm Huỳnh Tuyền ở Thân, tổn hại nhân khẩu. Cửa chính nên trổ ở Canh.
ĐÔNG NAM
Nhà day cửa hướng Đông Nam, phải đặt ra vào Tốn sơn thì được Vượng Tài, hoặc là Tỵ sơn thì gặp Phước Đức, bằng phạm vào Thìn sơn là tuyệt bại, Bính sơn thì phạm On Hoàng.
CHÁNH NAM
Nhà day của hướng Chánh Nam, thì đường ra vào phải đặt cho đúng hướng Ngọ Sơn được Thân hôn hay đặt tại Đinh Sơn được Hoan Lạc, tránh Bính Sơn phạm Xương dâm xấu.
TÂY NAM
Nhà day cửa Tây Nam, lối ra vào phải đắc hướng Khôn sơn thì tốt được Lạc Phú, không nên đặt lối ra vào nơi Mùi Sơn thì gặp Cô Quả, Thân Sơn và Đinh Sơn đều xấu.
CHÁNH TÂY
Nhà day cửa về Chánh Tây, phải đặt đường ra vào nơi cung phương Vinh Phú, Thân Hôn, Hoan Lạc, tránh Cô Qủa, Thiếu Vong, Xương Dâm và Tuyệt Bại.
C- ĐẤT CẮM NỀN (ĐỊNH CƠ)
Muốn kiến tạo nhà cửa, trước hết phải định chỗ đặt nền nhà. Thuật phong thuỷ gọi là định cơ, điều quan trọng nhất là hình dáng căn nhà, do kiến trúc sư am hiểu về hình thức tốt xấu, thứ hai là lựa chiều hướng con đường đi ở gần và phòng hoả hoạn. Đầu tiên là đặt La Bàn (la kinh) ở chỗ mạch nhỏ dẫn vào nền nhà (tức long nhập thủ) để lấy khí thanh thuật, rồi lấy sợi dây kéo thẳng từ chỗ đó đến chỗ đặt La Bàn là chỗ giữa nền, đặt làm phòng chính của toà nhà. Sau đó lấy thước để đo, cắm hướng vào phần kim, rồi mỗi canh kéo 1 sợi dây để qui định ranh giới của ngôi nhà. Dùng chân bước hoặc đo thước đúng ô khoảng trung tâm sóng một cây cọc, rồi kéo sợi dây dài, chia ra 24 phương vị, dùng những cọc nhỏ ghi rõ từng phương vị 1 cho cẩn thận, để cho tiện việc phân định các căn phòng cùng mọi chỗ, định đặt làm gì, như là đào
giếng, đặt ống cống tiêu nước đi, nơi đặt nhà xí (cầu tiêu), trổ cửa ngõ lớn. Sau khi đã chuẩn định, rồi mới chọn ngày lành tháng tốt để khởi công.
Nếu chỉ sửa sang lại căn nhà cũ thì chỉ cần đặt La Bàn để biết trung cung và các phương vị, xem hướng và các phương trong phạm vi của ngôi nhà, chỗ nào tốt, chỗ nào xấu, để lựa chọn, nếu muốn thay đổi. Trường hợp này không cần phải dùng cọc, mà chỉ biên vào giấy dán vào những chỗ ấy mà trông cũng được.
NGỌ SƠN TÝ HƯỚNG LÀ HƯỚNG CỦA CỤC:
Thân, Tý, Thìn (tam hợp) phải thu nạp Nhâm thuỷ, sinh ở Thân, Lộc ở Hợi, vượng ở Tý. Các nước rãnh giếng nên quay sang bên phải, chảy ra ở At, Tốn hay Cấn, Giáp. Nếu đổ sang bên trái là phàn hướng, tức thuỷ phá cục sẽ bất lợi. Phạm sát ở Hợi thì sẽ tổn đinh. Cửa chính nê trổ ở Nhâm, Quý.
ĐINH SƠN QUÝ HƯỚNG LÀ HƯỚNG CỦA CỤC:
Ngọ, Dần, Tuất (tam hợp) phải thu nạp thuỷ ở At mộc, sinh ở Ngọ, vượng ở dần, suy ở Quý. Nước mưa và nước rãnh giếng nên quay về hướng bên trái, ra ở Kiền, Tân hay Nhâm thì tốt. Nếu sang bên phải thì nghịch hướng, thuỷ phản phá cục sẽ bất lợi. Phạm Huỳnh Tuyền ở Cấn thì sẽ tổn đinh. Cửa chính nên trổ ở Quý phương.
MÙI SƠN SỬU HƯỚNG LÀ HƯỚNG CỦA CỤC:
Thân, Tý, Thìn (tam hợp) phải thu nạp Nhâm thuỷ, sinh ở Thân, vượng ở Tý, suy ở Sửu. Nước mưa và nước rãnh giếng nên đổ về bên phải, ra ở At, Tốn hay Giáp thì tốt. Nếu quay về bên trái là phản hướng, thuỷ phản sẽ bất lợi. Phạm Huỳnh Tuyền ở Tý sẽ tổn Nhân đinh. Cửa chính nên trổ ở Cấn phương.
KHÔN SƠN CẤN HƯỚNG HAY THÂN SƠN DẦN HƯỚNG ĐỀU LÀ HƯỚNG CỦA CỤC:
Ngọ, Dần, Tuất (tam hợp) phải thu nạp thuỷ At mộc, sinh ở Tý, Lộc ở Mẹo, chỉ có Khôn sơn là vượng ở Cấn. Thân sơn thì vượng ở Dần. Các nước rãnh giếng nên quay về bên trái, ra ở Tân, Kiền hay Nhâm, Quý thì tốt. Nếu quay về bên phải là phản hướng, thuỷ phản bất lợi đều phạm Huỳnh Tuyền ở Mẹo sẽ hao tổn nhân đinh. Cửa chính nên trổ ở Cấn phương.
CANH SƠN GIÁP HƯỚNG BAO GỒM THÂN, DẦN 2 PHẦN LÀ HƯỚNG CỦA CỤC:
Ngọ, Dần, Tuất (tam hợp) phải thu nạp thuỷ ở At mộc, sinh ở Ngọ, Lộc ở Mẹo, vượng ở Dần. Nước cống rãnh giếng nên đổ sang bên trái, ra ở Kiền hay Tân, Nhâm, Quý thì tốt. Nếu đổ sang bên phải thì nghịch hướng là thuỷ phản cục thì bất lợi. Phạm Huỳnh Tuyền ở Mẹo sẽ tổn nhân đinh. Cửa chính nên trổ ở Giáp phương.
CANH SƠN GIÁP HƯỚNG BAO GỒM DẬU, MẸO 2 PHẦN LÀ HƯỚNG CỦA CỤC:
Hợi, Mẹo, Mùi (tam hợp) phải thu nạp thuỷ của Giáp mộc, sinh ở Hợi. Lộc ở dần, vượng ở Giáp. Nước cống rãnh giếng nên quay sang bên phải, chảy ra ở Đinh, Bính hay At, Tốn thì tốt. Nếu đổ sang bên trái thì nghịch hướng, thuỷ phản thì bất lợi. Phạm Huỳnh Tuyền ở Dần tổn nhân đinh. Cửa chính nên trổ ở Giáp phương.
DẬU SƠN MẸO HƯỚNG LÀ HƯỚNG CỦA CỤC:
Hợi, Mẹo, Mùi (tam hợp) phải thu nạp thuỷ của Giáp mộc, sinh ở Hợi, Lộc ở Dần, vượng ở Mẹo. Nước cống rãnh giếng nên đổ sang bên phải, chảy ra ở Đinh Khôn hay Tốn Bính thì tốt. Nếu đổ sang bên trái thì nghịch hướng, thuỷ phản sẽ bất lợi. Phạm Huỳnh Tuyền ở Dần sẽ tổn Nhân đinh. Cửa chính nên trổ ở Giáp phương.
TÂN SƠN ẤT HƯỚNG LÀ HƯỚNG CỦA CỤC :
Dậu, Tý, Sửu (tam hợp) phải thu nạp thuỷ của Đinh hoả, sinh ở dậu, vượng ở Tý, suy ở At. Nước rãnh giếng nên quay sang bên trái, chảy ra ở Tý, Cấn hay Giáp thì tốt. Nếu sang bên phải là nghịch hướng vỉ thuỷ phản cục thì bất lợi. Phạm Huỳnh Tuyền ở Tỵ sẽ tổn nhân đinh. Cửa chính nên trổ ở At phương.
TUẤT SƠN THÌN HƯỚNG LÀ HƯỚNG CỦA CỤC:
Hợi, Mẹo. Mùi (tam hợp) phải thu nạp thuỷ của Giáp mộc; sinh ở Hợi, vượng ở Mẹo. Suy ở Thìn. Nước rãnh giếng phải quay sang bên phải, rồi chảy ra Đinh, Khôn, hay Bính, Tốn. Nếu đổ sang bên trái là nghịch hướng vì thuỷ phản cục thì bất lợi. Phạm Huỳnh Tuyền ở Đinh sẽ tổn nhân đinh. Chính môn nên trổ ở Tốn phương.
KIỀN SƠN TỐN HƯỚNG LÀ HƯỚNG CỦA CỤC:
Tý, Dậu, Sửu (tam hợp) phải thu nạp thuỷ của Đinh hoả; sinh ở Dậu, lộc ở Ngọ, vượng ở Tốn. Nước cống rãnh giếng phải quay sang bên trái, rồi tiêu ra Quí, Cấn hay Giáp, At thì tốt. Nếu đổ sang bên phải là phản hướng, thuỷ phá sẽ bất lợi. Phạm Huỳnh Tuyền ở Đinh sẽ tổn nhân đinh. Cửa chính nên trổ ở Tốn phương.
HỢI SƠN TỴ HƯỚNG LÀ HƯỚNG CỦA CỤC:
Dậu, Tý, Sửu (tam hợp) phải thu nạp thuỷ của Đinh hoả, sinh ở Dậu, lộc ở Ngọ, vượng ở Tý. Nước cống rãnh giếng phải quay sang bên trái rồi chảy ra ở Cấn, Quí hay Giáp, At thì tốt. Nếu đổ sang bên phải thì nghịch hướng, thuỷ phá cục, bất lợi. Phạm Huỳnh Tuyền ở Ngọ sẽ tổn hại nhân đinh. Cửa trái nên trổ ở Tốn phương.
NHÂM SƠN BÍNH HƯỚNG BAO GỒM HỢI, TỴ 2 PHẦN LÀ HƯỚNG CỦA CỤC:
Tý, Dậu, Sửu (tam hợp) phải thu nạp thuỷ của Đinh hoả, sinh ở Dậu, lộc ở Ngọ, vượng ở Tý. Nước cống rãnh giếng phải quay sang bên trái rồi chảy ra ở At, Giáp, Quý, Cấn sẽ tốt. Nếu đổ sang bên phải thì nghịch hướng, thuỷ phá cục thì bất lợi. Phạm Huỳnh Tuyền ở Ngọ sẽ tổn hại nhân đinh. Cửa trái nên trổ ở Bính phương.
Thật ra theo Bát Quái Đồ chỉ có 24 sơn hướng nhưng chỉ còn có 3 hướng Kiên thêm nên thành ra 27 sơn hướng.
Phương pháp coi thì dùng la bàn để định hướng sơn rồi xem 9 cung ở trên địa bàn, để chia ra các cung Sinh, Vượng, Tử, Suy. Dùng địa bàn để thực nghiệm trên mặt đất, sự tốt xấu của căn nhà sẽ thấy rõ. Đó là luật định công cộng đã tác dụng cho ngôi Dương Trạch tức là thể lệ chung cho mọi ngôi nhà, ngôi nhà nào làm được hợp:
Để kết luận chúng ta cần lưu ý một vài điểm quan trọng:
Nhâm hướng: Kiền thuỷ lai cát,
Kiền thuỷ khứ là hung.
Tân hướng: Kiền thuỷ khứ thì cát, Kiền thuỷ lai hung.
Nước phương Mùi chảy ra, phương Kiền chảy đến thì cát, còn thuỷ phương Tây chảy đi, hướng Kiền chảy lại là hung.
PHẦN 6
KHAI MÔN PHÓNG THUỶ
Những thể lệ về khai môn, Phóng thuỷ, lớn nhỏ khác nhau, tức là không nhất đinh! Có người lấy Ngủ âm để luận, có người lấy Bát quái để bàn, có người lấy sinh khí các tinh Tham Lang mà đoán, có người lấy sơn hướng Phong thuỷ Bát long suy ra, có người lấy Lai lộ tương
hoà biến mạng cát tinh thuộc Thổ, Bát bạch cửu tinh mà định xét. Phép cung bất đồng hợp lại thành những thông cung Tục đồ đem mở bày ở sau:
Ví dụ: Toạ Tây Bắc, hướng Đông Nam: Tuất Kiền : Hợi 3 sơn hướng: Khai môn, Phóng thuỷ, Lục súc, cối xay, cối giã, nhà xí, thùng, hố, phân tro đủ hình thức, luật lệ để cùng xem.
TUẤT KIỀN HỢI SƠN HƯỚNG ĐỒ
Tuất sơn, Thìn hướng, Nhâm, Tý và Khôn, Thân gọi là Tham Lang toàn Vũ khúc, 2 cung đặt huyệt tự nhiên hưng vượng. Đông Nam thuỷ khứ thì hợp đồ cục đoán: Ngọc vàng chứa trữ đầy rương, sinh ra giàu sang, tài giỏi, trường thọ. Kiền sơn cung, Tốn tỵ thuỷ lai trường, canh Dậu là vương phương chảy đi cũng đến bất lợi, có sóng lớn, triều vào, là không phải thuỷ tầm thường hợp vào vương Đinh, phương Giáp thì phát xuất đại quý Nhân đinh. Nếu phá hại phương Đoài tân thì Cô quả ở phòng không! Thuỷ ở Thìn Tốn chảy đi ngay trứơc mặt con trưởng nên Quan phòng, không chắc được vui tươi sáng sủa! Hợi sơn là đầu não, Tốn tỵ là Tham lang tốt đẹp, phương Thân, Canh, Tân, Tuất thuỷ từ phương Nam chảy lại thì phát Hoạnh tài, có vàng chôn, ngọc chứa, chảy ra phương Đinh phóng đi, sẽ mặc áo gấm về làng. Nhưng thuỷ phá Canh Tân gồm cả Thìn, Tốn thì 3 năm 2 lần gào khóc đau thương. Thuỷ, Ngọ, Mùi chảy lại thì con cái hoang thai, gia nghiệp hoá ra tron tàn.
NHÂM QÚI SƠN HƯỚNG ĐỒ
Cách kỳ quý của Nhâm sơn là: Tham lang tinh ở Dần, Thân là: tỵ, Hợi sơn triều về rất tốt, thuỷ chảy về Thìn, Tốn là chính hợp rất quý, Gia trung phú túc, sinh ra con hiền cháu quý ! phương Tỵ, Bính nước chảy đi, con trưởng bị cô độc, nhưng đi qua mà triều lại thì phát thượng dương, nếu lưu phá Dần, Giáp thì chịu khổ cực, vợ con phân Ly 2 ngã.
Đất ở Tý sơn, mà phương Canh, Thân, Khôn đến Mùi: 4 vị thuỷ triều lại thì nhiều người giàu sang, ở Dậu, tân, Tuất, Kiền thì đàn bà dâm ô! Long tẩu khứ thì định: bị trọng hình! Nên lưu phá Sinh. Vượng thì chớ nên dùng. Văn khúc thuỷ triều lại thì ôn hoả đông, như thuỷ phương Bính, Tốn chảy lại thì sẽ xuất phát Công khanh: thuỷ lai, thuỷ khứ phải rõ ràng.
Quý sơn Đinh hướng, huyệt ở giữa Cấn được sơn thuỷ ở cung Thân triều vào, nên quan phòng thuỷ ở Thìn, Tốn chảy phản lại. Thuỷ ở cung Bính tai hoạ, thuỷ ở Dậu. Tân trực xa thì độc. Nghe thấy tiếng nước chảy xuống, hoặc tiếng gió thổi vi Vũ An, thì 3 năm 2 lần ai than khóc! Giặc cướp tổn tài.
SỬU CẤN DẦN THÂN HƯỚNG ĐỒ
sửu sơn cao, Mùi, Khôn thuỷ thao thao vạn phái triều lại, toạ Đinh, thuỷ sơn Hợi, Nhâm thiều cũng nhập huyệt bền vững, vong hồn yên ổn, tơ tía đỏ quân bọc xương hài. Bính, Tốn chảy đi thì xuất phát anh đào, Thìn, Ngọ cuốn văn đi thì gai nghiệp thoái bại.
Sinh ra người bịnh hoạn: phong, lao, ngỗ nghịch, trộm cướp v.v… Cấn sơn là cao phong, Long ở Dần, Mẹo, Thìn phương lại mạch. Xem ở ngôi Kiền từ phương Tuất chuyển đến phương Hợi là tả nhập, vậy nên Tiên thấy Tiên tông (vết chân của Tiên) của Mẹo. Dậu thuỷ xuất khứ Canh, Đinh thì phát Tam công (quan tước cổ triều). Bính, Tân thuỷ khứ cũng không hung, chỉ sợ phương Ngọ và Mùi thuỷ lai, cũng như tương xung, tức là bị bần cùng! Dần sơn
trường,
Giáp, Canh thuỷ quá đường, Hợi, Nhâm, Tý, Quý thuỷ hoành lai tất cát, chảy về
phương Tân, Tuất là hợp cách chính, nên dùng Tỵ, Ngọ, Dậu phương tôi bất lương! Mấy phương này nên chảy đi không nên chảy ngang hoặc như tên bắn triều lai thì bại gia! Vợ và con dâu giữ phòng không, tức quả phụ.
GIÁP MẸO ẤT SƠN HƯỚNG ĐỒ
Giáp sơn canh hướng thì phương Nhâm, Tý và Canh, Thân: 2 thuỷ đó gọi là Tham. Vũ vị chảy lại, triều vào thì tiên phước vinh sương, thịnh vượng lâu dài, gia tộc an ninh. Phương Tân, Dậu thuỷ phóng đi sẽ được Nhân đinh vượng, nếu minh đướng ở gần mà nước phóng qua thì bị chết non, âm phần hay dương trạch cũng đầu thọ cô bần, tai hoạ.
Mẹo sơn mà phương Dậu cao cường thì tôi bất lương! Phương Tuất, Kiền, Hợi đều là cát tường, thuỷ ở Canh, Dậu ở triều lại sẽ rất độc! Thuỷ ở Mùi Khôn cũng xấu, nhưng phương nếu kỵ sát mà ở trước huyệt thấy nước chảy lại, hoặc triều hoặc phản lại đều hung ác, như sinh bệnh tật, chết yểu, cô quả, bại tuyệt!
At sơn, Tân hướng bên trái là Tỵ, Ngọ triều nghinh, bên phải là Sửu, Dần cũng tiên ấp (châu phục) cả 2 bên hợp hôi thì thêm vinh quang, thuỷ lưu ở Kiền, Nhâm thì hợp cục này, gia tự phú hậu hơn Mạnh thường Quân! Chớ nên phạm vào phương Thân, phương Tý, phải quan phòng thuỷ lai, thuỷ khứ ở phương Tuất, nếu phạm thì trọng tội, tù ngục, nhà cửa bị xâm lấn v.v…
THÌN HƯỚNG TỴ SƠN HƯỚNG ĐỒ
Thìn sơn kỷ: Dậu và Tuất không nên gặp thấy nhau, chỉ mừng là cát phương: Giáp, Canh, Nhâm, Tý, Quý triều vào huyệt mộ là tối quý, tối huang dậu Tân phương thì chảy đi, là phát xuất người mặc áo đỏ (tức làm quan cao, đại chức) Canh thìn thuỷ lưu phá thì hung, vợ đâm đầu xuống sông chết. Chỉ cần được chân chính huyệt thì Thiên môn, Vạn hộ đều vinh quang (con cháu giàu sang, sáng sủa) Tốn sơn Kiền hướng thì phương Thân Khảm đền nên triều vào mộ phần, thuỷ này chảy vào minh đường là tốt đệ nhất hạng, phương Dậu, Tân, Nhâm, Giáp không nên triều nhập, thuỷ lại đường sẽ bị tật bịnh, phương Tân và Tý thuỷ chảy thì tính mạng khó còn sống!
Nhân đinh, đại tuyết tuyệt đại gia môn! Ong Nhan hồi đời xưa nhân vì gặp đất cách này! Đời đời vang truyền tên đến ngày nay! Thuật lại cẩn thận mà suy tầm. Tỵ sơn, Hợi hướng, Kiền, Nhâm, Tuất thuỷ lại, Dần, Mẹo Dẫn long, Đông lâm nhập, Thế gia phú quí vĩnh vô tai! Canh Qúy thuỷ khứ vượng điền tài. Phương Tý Ngọ không nên chảy ngược về phương Khôn, Thân, Mùi đều là cung bất lợi. Nếu phạm các cung đó thì bùn nước, mối, kiến nuôi dưỡng thi hài.
BÍNH NGỌ ĐINH SƠN HƯỚNG ĐỒ
Bính sơn Nhâm hướng, thuỷ sa từ phương Dần, Sửu qua phương Bắc, theo Nhâm đi tới Tây Bắc thuỷ khứ, thì các phòng vị đều vượng điền trang, thọ trường như Bành tổ, Tỵ, Bính cũng bảo, được vĩnh cát sương. 350 năm không quá bại. Nếu chảy về phương Thất, thì bại tai ương! Hình phạt biệt ly hương.
Ngọ sơn, Tý hướng, sa thuỷ chẳng nên tương khuynh (nghiên rốc đi) phương Sửu, Cấn, Dần, Giáp thuỷ lừ đừ chảy theo đường về phương Kiền, Nhâm thì đời đời giàu mạnh, hào hùng! Thuỷ phương Mùi hồi đầu về phương Tý tràn qua Dần, con cháu đầu quân làm giặc bại tổ tông.
Khuyên người Mộ nên dời hướng về cung Tốn thì con cháu làm Tể tướng, thượng công, cự phú gia.
Đinh sơn hướng thì phương Canh, Dậu nên chảy ngang qua đi: Cấn phải Long chấn và huyệt chính, thuỷ phương Giáp, At nên tìm đủ được cự phú có vạn khoảnh điền viên. Phương Thìn, Tỵ, Thân sơn thuỷ triều nhập thì vượng điền ngưu, cả hai đều cùng phát phù quý hơn tiểu Dương Châu.
MÙI KHÔN THÂN SƠN HƯỚNG ĐỒ
Mùi sơn long rất sợ phương Mẹo, At cùng gặp nhau. Thuỷ phương Tý triều lại thì nên làm ở sau Khôn. Thân là về kim cùng bạn, thì phước bền lâu vô cùng. Thuỷ ở hai phương Thìn, Tốn thì tối hung. Lại tối kị là thuỷ hồi đầu xâm nhập Khảm nên chảy Lưu phương Giáp At tài lợi thịnh vượng, thắng Thạch Sùng ông. Khôn sơn thuỷ ở phương Hợi, Nhâm, Tý, Quý nên chầu lai, chảy qua phương At, Bính đi ra thì vô phương tai hoạ. An phần, lập Trạch túc tiền tài, Long biến vượt đi, bên hồ hồi đầu thì gia sản hoá ra tro! Hung hoạ thấy liền ngay trước mắt! Không thấy tin vui mừng, chỉ nghe tiếng khóc than thương tiếc, con gái lại hoang thai, dâm loạn!
Thân sơn: Thuỷ phương Hợi, Tý, Sửu 3 phương châu vào thì phát con cháu xuất được phong hầu, phú qúy tài tha châu, thuỷ đi phương Bính phóng khứ thì lâu bền không ngại gì cả.
Có thêm sơn sa Quý cách chứng ứng ở chung quanh, thì con cháu trong dòng họ đều có nhà lầu, vinh hiển ở hương châu.
CANH DẬU TÂN SƠN HƯỚNG ĐỒ
Canh sơn: sa thuỷ triều lại Hợi, Nhâm đều là đại vượng. Nếu được chỗ thuỷ ngũ khúc loan đằng và một cái sơn loan bảo thì được vinh sương, Long an tĩnh, hổ phục tòng, thì khuê trung xuất thục nữ, hiền lang; rất sợ phương Dần, Mẹo là tứ thuỷ nghịch chuyển sẽ thoái bại điền trang, 5 năm bệnh tật, động ôn hoàng! Dậu sơn là kim được đại hội hợp, tổng quát triều nghinh, tứ quý lưu lại thêm tiên bảo, Cấn phương thuỷ nghịch triều phát công khanh, đời đời sinh người được chuyên nhiệm đại thành danh. Canh, tân phương lập Trạch, hoặc an phần, tứ cá lộc tồn lưu tân xuất. Nhi tôn xá mã nhập triều trung, cá cá tận siêu quần. Nghĩa là con cháu người nào cũng tài giỏi, siêu quần, xuất chúng. Tân sơn Tốn hướng, thuỷ ở Khôn, Thân nên lưu lại, hai bên trái phải có đai thuỷ chảy ngang huyệt, nên chảy ra phương Bính, kỵ ra phương Thìn. Nên cẩn thận nhận xét đoán lấy thuỷ lại là vượng phương. Thuỷ nghịch Lưu, Khôn, Cấn thì bị binh ôn hoàng, yểu tử tuyệt tự.
PHỤ LỤC 1 GIẾNG NƯỚC
Giếng dùng để lấy nước, đào giếng phải chọn hướng đẹp, hướng lành đào giếng sẽ sinh con thông minh. Trên vị trí thiên can là lành, trên vị trí địa chi là dữ.
Giếng ở cung Kiền: bị đầu nhọt lở, chân tê liệt, quan quả, thắt cổ, điềm ứng gãy nát
đùi.
Giếng ở phương Hợi: con cháu thông minh, thịnh vượng.
Giếng ở phương Nhâm: phát tài vượng đinh, thường có quái tật, nếu có suối sâu ở gần
giếng, bếp, tất cả Nam nữ dâm loạn.
Giếng ở phương Khảm: bị trộm cườp, nhiều bệnh tật.
Giếng ở phương Quý: giàu có, tủ chứa đầy vàng bạc, tiền của. Giếng ở phương Tý: sẽ sinh ra người điên cuồng.
Giếng ở phương Sửu: trong gia đình, anh em không hoà thuận, có người bị câm điếc, đui mù.
Giếng ở phương Chấn: chủ nhà vượng tài nhưng không con. Giếng ở phương Dần: sẽ bị tai hoạ, bệnh hoạn.
Giếng ở phương Mẹo: giống như ở phương Dần, đều là bất cát.
Giếng ở phương Giáp: sẽ được nhiều của, nhưng nhiều bệnh tật, nếu ở gần giếng có suối sâu, tất cả Nam nữ trong nhà đều dâm loạn.
Giếng ở phương Thìn: đều xảy ra bất cát, phòng trưởng bị hại trước, nhảy xuống sông tự trốn.
Giếng ở phương Tốn: tài lộc đại phát. Giếng ở phương Tỵ: công danh nho nhỏ.
Giếng ở phương Bính: làm quan cao, nếu ở gần giếng có suối sâu, tất cả Nam nữ trong nhà đều dâm loạn.
Giếng ở phương Ly: chủ nhà mắt không sáng. Giếng ở phương Đinh: vượng về lộc và con trai.
Giếng ở phương Mùi: chủ nhà có công danh, giàu sang. Giếng ở phương Khôn: chủ nhà sẽ giàu có thịnh vượng.
Giếng ở phương Đoài: vì là đầm nước, là thiếu nữ, phương đại loạn dâm, không con. Giếng ở phương Thân: bị trộm cướp, khó sinh đẻ.
Giếng ở phương Dậu: thì trước hung sau cát.
Giếng ở phương Canh: sẽ giàu có, nếu ở gần giếng có suối sâu, tất cả Nam nữ trong nhà đều dâm loạn.
Giếng ở phương Tân: trai gái trong sạch, có đạo đức. Giếng ở phương Ngọ: mọi việc trong nhà đều bất lợi.
Giếng ở phương Tuất: chủ nhà có con nhỏ chết, con lớn bệnh, mọi việc đều bất lợi.
PHỤ LỤC 2
CÂY CỐI CHUNG QUANH NHÀ
Cây cối rất ảnh hưởng đến đời sống con người.
Thuật Phong thuỷ có hẳn 1 hệ thống quan điểm hoàn chỉnh cho rằng các nhà ở cửa hàng buôn bán trong thành phố, không câu nệ lắm. Nhà ở nông thôn thì cây cối như cái áo khoác choàng ngoài che thân. Vùng sơn cốc cây cối tác dụng che khí lạnh. Vùng dân dã nếu cây cối tốt tươi, nhà sẽ thịnh cây cối lụn bại nhà tất bại theo. Cây cỏ xanh tươi, sinh khí thịnh vượng, sẽ che chở địa mạch.
Cây nên trồng theo các hướng sau đây sẽ được giàu có, phước lộc lâu dài: cây Dâu ở phương Nhâm Tý, Quý Sửu, cây tòng bách ở phương Dần Giáp, Mẹo ất, cây dương liễu ở phương Bính Ngọ, Đinh Mùi, cây Thạch Lựu ở phương Thân Canh, Dậu Tân. Rừng lớn nên ở phương Thìn, Tốn, Tỵ, rừng trung bình ở phương Tuất, Kiền, Hợi, cây liễu ở phương Đông, cây táo ở phương Nam, cây hao đào ở phương Bắc, cây dâu ở phương Tây Nam. Đại khái cây cối trồng theo trên đã kể thì được vinh hoa.
PHỤ LỤC 3
CHỌN HƯỚNG XÂY BẾP LÒ
Táo đóng cung Kiền triệu diệt môn Kỵ Trạch Ly
Nhâm, Hợi hai chi tổn chi Tôn kỵ Trạch Khôn
Giáp, Dần tài vượng Thìn, Mẹo phú (Khảm Ly Trạch cát)
Cấn. At lửa hồng túc Táo ôn nhà khốn khổ tý, Quý Khôn phương Kỵ Khôn Trạch
Sửu thượng lục súc nhà hoạ ương Bính hao tài canh đại phú
Kỵ Cấn Trạch Tị, Chấn Trạch hỷ
cát Ngọ phương vượng vị phú quý tôn Tân, Dậu, Đinh
phương nhiều bệnh tật
Thân, Tốn, Mùi, Tuất Trạch hanh thông.
Kỵ Khảm Trạch
Tác táo thiết kỵ, dụng phân phổ, Tán nghiên cận thuỷ thiết an ninh (tránh) việc đắp Táo hay xây lò bếp đất dơ bẩn, nên dùng đất mới, gần nước thì nên. Táo đóng cung Kiền là hiệu diệt môn, kỵ Ly Trạch; nhà nào xây cửa hướng Bính thuộc Ly, Táo ở tại cung Kiền thì tổn Trạch chủ, hoặc ở hướng Đinh thì cũng thuộc Ly Trạch, để táo tại cung Kiền con trai lớn bị trọng bệnh. Nếu Trạch Đoài táo tại Kiền cũng là hại trưởng nữ.
Phòng hậu táo tiền gia hậu phá, táo hậu phòng tiền tử tôn bất hiền. Phòng tiền hữ táo tại cung Mùi, Khôn, Sửu, Cấn thượng, thì sinh tà quái và có hoạ. Phòng tiền hữu táo thì tâm thống khuyết tật,. Đóng hạ hữu táo chủ Am sao kiếp.
Khai môn đốt táo thì tiền tài, súc vật đại hao. Táo hậu phòng tiền thì gặp tai hoạ liên miên
Tào hậu phòng khanh (hang sâu) thì phải tuyệt tự, cô quả Táo gần giếng, mẹ chồng nàng dâu xung đột
Táo tại phương Mẹo mạng phụ yểu vong Táo tại hậu đầu thì an môn xung đột Táo tái Cấn liên gia đạo bất yên.
MIỆNG LÒ
HOẢ MÔN là cửa miệng lò đút cửa than, để đốt lửa cửa cái nồi đáy lò, được hướng vào phương cát, sẽ phát phước rất nhanh! khoảng độ 1 tháng là ứng nghiệm! Về đường tử tức, hoặc giàu nghèo, hoặc tai hoạ, thọ yểu là lấy ý sự ăn uống, cần dùng hàng ngày đó là căn bản!
Như người Đông mạng, nếu cửa bếp triều vào Đông quái, sẽ được cát, nếu hướng vào tay quái sẽ hung! Người là Tây mạng, cửa bếp hướng vào Tây quái sẽ tốt lành, nếu hướng vào Đông quái sẽ hung hoạ! Người Tây mạng, Hoả môn trái với Tây hướng, đốt lửa về phương Đông thì phải.
Nói rằng: đem về nhà để đo lường trượng thước rất là hữu lý! Như Nhân sơn, Bính hướng; giữa là Nhâm, bên phải là Hợi, lại là Kiền, bên phải lại còn là Tuất, giữa nơi bên trái là Tý, lại bên tả là Quý, thì bên trái lại Sửu, mà Cấn ở bên ngoài tường la chỗ không xứ, và là phía Bắc cả Đông, Tây.
Như Quý sơn, Đinh hướng. Giữa là Quý, bên phải là Sửu, lại bên trái là Cấn, thì bên trái là Dần, giữa bên phải là Tý, lại bên phải là Nhâm, thì bên phải là Hợi mà Kiền ở bên ngoài Kiền nơi không xứ, và là phía Bắc của Tây Nam. Suy xét như đây thì phương vị của hướng Đông, Tây chỉ có Quý, Đinh, Nhâm, Bính là “bất tận phong trung” tức: làm giữa phòng không hết chỗ, vậy mà thiên trái, thiên phải Đương lấy chỗ thiên đó làm cung giữa.
CHƯƠNG IV
ĐỒ NGHỀ CHUYÊN DÙNG CỦA NHÀ PHONG THUỶ VÀ CẢM XẠ HỌC
NỘI DUNG GỒM CÓ:
Kim Chỉ Nam
La Bàn (La Kinh) 3- Nhâm Bàn
Thổ Khuê
Con Lắc Thần Bí 6- Đũa Thần
Thước Dò Tìm
Thước Thiên Xích 9- Thước Lỗ Ban
KIM CHỈ NAM
Ngay từ thời Chiến quốc, các triết gia cổ đã phát minh ra kim nam chỉ nam, đương thời gọi là từ nam. Từ nam làm gồm một cái môi bằng từ thiết (sắt từ) và một cái thi. Môi giống cái môi múc canh, đáy tròn, có thể tự do xoay tròn trên mặt bàn trơn. Khi môi dùng, cán môi chỉ hướng nam. Là cái bàn hình vuông, làm bằng đồng hoặc bằng gỗ, xung quanh khắc Thiên can,
Địa chi, Bát quái, Bát can là Giáp At Bính Đinh Canh Tân Nhâm Quý : Thập nhị chi là Tý Sửu Dần Mẹo Thìn Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi, thêm tứ dung Kiền Khôn Tốn Cấn, cộng là hai mươi bốn hướng là địa hướng của từ nam. Ơ giữa là thiên bàn hình tròn, mặt bàn trơn bóng, ging như thiên trì của la bàn sau này, môi có thể chuyển động đến đó. Mô hình này vào những năm 40 của thế kỷ này, học giả Vương Chấn Đạt của nước ta đã phục của hế được.
Lần giở thư tịch cổ, thế kỷ thứ ba trước công nguyên đả ghi chép vào từ nam. “Hàn Phi Tử-Hữu Độ” viết: “Đặt từ nam để đoán sáng tối” “Quỉ Cốc tử mưu” viết: “Người Trịnh đi lấy ngọc, đem theo xe từ nam, không nhầm lẫn”. Đến đời Đông Hán, Vương Sung trong “Luận Hành Lý Ứng Thiên” viết: “Cái môi của từ nam, đặt xuống đất, cáo môi chỉ hướng nam” Trương Hoành viết: “Đông kinh phú”, đổi tên từ nam thành chỉ nam.
Người xưa đã biết lợi dụng nguyên lý kim nam để làm ra xe chỉ nam. “Thái Bình ngự lâm” quyển 15, dẫn Chí Lâm viết: “Hoàng đế đánh nhau với Suy Vưu ở cánh đồng thỉ Lộc, suy Vưu hoá phép sương mù mờ mịt liền ba ngày, ai cũng không tìm ra lối đi. Hoàng đế sai Phong hậu đấu pháp, chế ra xe chỉ nam để nhận rõ bốn phương, sau đó bắt được Suy Vưu”. Lại đồn rằng cách đây ba ngàn năm, thời Chu Thành Vương, Việt Thường Thị ở phương Nam đến kin h đô triều bái. Chu Thành Vương ban cho xe chỉ nam làm công cụ phân biệt phương hướng.
Sử chép Trương Hoành chế ra xe chỉ nam và xe tự báo độ dài từng dặm của đường đã đi, tiếc rằng nay đã thất truyền. Trương Hoành là nhà khoa học trắc việt, thông minh tài trí, ông từng phát minh ra máy đo địa Chấn và hồn nghi, phức tạp hơn nhiều xe chỉ nam, những loại xe này đều liên quan đến phương vị. Có thể suy ra, chế tạo xe chỉ nam không phải là chuyện khó đối với Trương Hoành.
Đời Tào Nguỵ (Tam quốc), Tán Kỵ, Thường Thị Cao đường Long và Phiêu Kỵ Tướng Quân Tần Lương cho rằng thời cổ không có xe chỉ nam, sách nói không đủ tin. Cấp sự Trung Mã Quân tranh luận với hai người đã chế thử được một xe chỉ nam, tiếc rằng lại thất truyền.
Đời Tống, Yên Túc và Ngô Đức Nhân lại chế thử được xe chỉ nam, “Tống sử – Dữ phục chi” ghi lại phương pháp chế tác và kết cấu nội dung của xe chỉ nam; do đó kỹ thuật chế tác này mới được lưu lại. Nhưng xe chỉ nam vẫn không thông dụng, rất hạn chế.
Đời Tống, dùng nhiều nhất vẫn là xe chỉ nam và có ghi chép nhiều. Chu Húc năm 1119 được trông thấy Châu sư trên một hải thuyền Trung Quốc. Châu sư này “biết địa lý, đêm nhìn sao, ngày trông mặt trời, nếu trời đất u ám thì nhìn kim chỉ nam”. Ong chép những điều này trong “Bình Châu khá đàm”. Đây là ghi chép sớm nhất thế giới về kim chì nam. Ngô Tự Mục, Nam Tống trong “Mộng lương lục” cũng ghi chép về việc dùng kim nam để đi biển”, khi gió mưa mù mịt, chỉ nhờ vào trâm bàn (la bàn có kim chỉ nam) mà đi, vì can hệ đến tính mạng mọi người trên thuyền.
Các học giả đời Tống lần lượt giới thiệu mấy loại kim chỉ nam thời bấy giờ. Tác phẩm quân sự “Vũ kinh tổng yếu” do Tăng Công Lượng chủ biên, đã giới thiệu chỉ nam ngư (cá chỉ nam). Chỉ nam ngư là dùng thép lá làm thành con cá, sau đó dùng phương pháp từ hoá cho nhiễm từ. Khi thả nổi trên mặt nước, nó tự động chỉ hướng nam. Thẫm quát trong “Mộng khê bút đàm” giới thiệu kim chỉ nam viết: “Phương gia (chuyên gia) mài từ thạch thành kim là có thể chỉ hướng nam”. Nam Tống Trần Nguyên Thanh trong “Sự lâm quảng kí” giới thiệu cá chỉ nam và rùa chỉ nam bằng gỗ trong bụng chức từ thạch, dùng để chỉ nam.
Cách thức bố trí kim chỉ nam đời Tống đại để có 4 hình thức: Một là, đặt kim chỉ nam trên móng tay; hai là đặt kim chỉ nam lên sườn bát; ba là đặt kim nằm ngang trên sợi bấc đèn đặt nổi trên mặt nước; bốn là dùng sợi tơ tằm buộc (dán) giữa thân kim rồi treo ở chỗ kim gió. Sau này, kết cấu kim chỉ nam có nhiều cái mới quy nạp lại, có hai loại: la bàn nước và la bàn khô. La bàn khô có giá đỡ kim cố định, đầu nhọn của đinh trên giá đỡ ở điểm trọng tâm giữ kim, kim sẽ chuyển động tự do, tính ổn định rất cao. La bàn nước nổi trên mặt nước, hay lắc lư dần bị đào thải.
Kim chỉ nam từng có tác dụng to lớn trong nghề hàng hải. “Hải đạo kinh” và “Nguyên đại hải vận kí” triều Nguyên đều ghi chép đương hàng hải do kim chỉ nam chỉ dẫn. Trịnh Hoà đời Minh “bảy lần đi Tây dương” đều dựa vào kim chỉ nam mới đi biển được thuận lợi.
So với ta, phương Tây lạc hậu hơn. Thế kỷ 13, Anh, Hà Lan, Y mới lần lượt dùng la bàn để đi biển. Năm 1492 Colombo khi vượt ngang Đại Tây Dương mới phát hiện góc từ thiên. Người phương Tây dùng la bàn đã mở ra con đường thông với thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho tích luỹ nguyên thuỷ của chủ nghĩa tư bản.
Kim chỉ nam là một trong bốn phát minh lớn của Trung Quốc đối với nhân loại.
LA BÀN
La bàn còn gọi là La kinh, có nghiã là bao la vạn vật, dọc ngang trời đất. Nói chung la bàn có thiên bàn và địa bàn hợp thành. Trên bàn có chia ra chính trâm, phùng trâm, trung trâm; chia ra kim bàn, ngân bàn; chia ra nội bàn và ngoại bàn; chia ra tam bàn: thiên, địa, nhâm. Có thầy phong thuỷ dùng chính trâm để cách long; có người dùng phùng trâm đo đất, co người dùng phùng trâm lấy hướng.
Địa bàn có hình vuông còn gọi là thác bàn, trên mặt khắc 2 đường hình chữ thập, ở giữa đục lõm thành một hình tròn. Thiên bàn hình tròn, mặt dưới hơi lồi, đặt lên hình tròn lõm của địa bàn để có thể xoay tròn. Giữa thiên bàn đặt một chỉ nam châm (kim chỉ nam) hoặc gọi là từ trâm (kim từ), kim trâm (kim vàng) để chỉ phương hướng.
Thiên bàn và Địa bàn tượng trưng trời đất vuông tròn.
Kim chỉ nam thiên bàn nhà phong thuỷ gọi là chính trâm. Hướng mà chính trâm chỉ, trên thức tế không phải là chính Nam, phải đặt thêm phùng trâm, khoảng giữa chính trâm và phùng trâm hình thành póc từ thiên.
Vấn đề mấu chốt trong vấn đề sử dụng la bàn là kim chỉ nam. Nếu muốn biết hướng mộ hay hướng nhà, thì đặt la bàn lên bia đá trên mộ, nếu là hướng nhà thì đặt ở giữa ngưỡng cửa hoặc đặt giữa thiên đỉnh. Khi đặt la bàn, trước hết rải gạo dày ba tấc, đặt la bàn lên rồi ấn xuống để có một mặt phẳng nằm ngang, thu dọn xung quanh, không để kim loại gần la bàn, sau đó dùng nước sạch lau thiên bàn, gạt kim hai ba lần để xem đều chỉ đúng một hướng đường Tý Ngọ, giống như thầy thuộc bắt mạch, nhà phong thuỷ gọi sự dao động của kim chỉ nam là “bát kỳ”. Một là đường, nghĩa là sơ, kim dềng lên mà không ổn định, không quay về trung tuyến, chứng tỏ dưới đất có cổ bàn cổ khí: hai là Đoài, kim xoay ngang, không về Tý Ngọ, chứng tỏ dưới đất có kim loại: ba là Khí nghĩa là không thật, kim quay mà không chịu đứng yên; năm là một, chứng tỏ dưới đất có dụng cụ bằng đồng : sáu là Toại, không thuận, kim dểnh lên và lắc liên tục: bảy là trắc, nghĩa là không đúng vị trí cần có, lệch về Đông hoặc Tây : tám là chính, nằm đúng trung tuyến. Bảy hiện tượng đầu đều không tốt, chỉ hiện tượng 8 là tốt. Nhà phong thuỷ muốn lấy hướng thuỷ thì xoay vạch đỏ (có khi là vạch trắng) ở chính giữa la bàn (thác bàn) chiếu thẳng vào nơi giao nhau thuỷ khẩu, rồi xoay bàn tròn sao cho kim trùng với đường (vạch) thiên trì, rồi xem kim chỉ vào chữ gì trên bàn tròn, rồi căn cứ vào lý lụân phong thuỷ mà đoán lành dữ.
Nếu phương hướng không thích hợp, thì điều chỉnh la bàn cho đến vị trí cát lợi. Lấy (cách ) Long sa , huyệt vị , dựng nhà cửa đều áp dụng phương thức trên.
Các vòng tròn trên bàn tròn có khi đơn giản, có khi phức tạp. Đơn giản nhất là ba tầng , phức tạp là hơn bốn mươi tầng. Mỗi tầng đều có chữ hoặc kí hiệu, đều mang một nghĩa riêng.
Vậy thuật Phong thuỷ cho rằng , nắm vững la bàn thì trên có thể đo dọc trời, dưới có thể do ngang đất, bao la vạn tượng, cực kì tinh vi, có thể thông hiểu âm dương, đoán giải lành dữ, tất biết phước biết hoạ, không có thứ quỉ thần nào mà không bỏ chạy.
NHÂM BÀN
Nhâm bàn, còn có tên lục nhâm thức bàn, trong di chỉ Hán đã đào được hiện vật. Như ở mộ Vũ uy ma chuỷ tử , có trấn mộ thú (thú đá gác mộ) đặt kề cửa mộ, nhâm bàn thì để trong quan tài.
Lục nhâm là phương pháp cổ đại dùng âm dương ngũ hành bói lành dữ. Vì trong một lúc thập Giáp Tô có sáu Nhâm(, Nhâm Thân,Nhâm Ngọ, Nhâm Thìn, Nhâm Dần, Nhâm tý , Nhâm Tuất), nên có tên lục nhâm. Cách xem là chia thành 64 khoá, dùng thiên bàn , địa bàn có khắc can chi ( thiên bàn cồng lên địa bàn, xoay quanh một trục đồng tâm), xoay thiên bàn, được bộ vị khớp với can chi và thời khắc, để đoán được cát hung. Lục Nhâm hợp với Tuất Giáp , Thái At, gọi là tam thức , là thuật số mà cổ đại hay dùng. Trong “Tứ khổ toàn thư” có “Lục nhâm tâm kinh yếu”, viết : “ Lục nhâm có từ cổ truyền lại, hoặc có từ Hoàng Đế, huyền nữ đặt ra, cụ thể là ai thì không xác minh được vể kỹ thuật chế tạo, phải là nhà thông thái đời sau mới làm được. Lại để tính toán căn cứ vào ngũ hành mà ngũ hành bắt đầu từ thủy, khởi dương để cử âm, do đó gọi là Nhâm. Lấy sinh Hợi để cử thành, do đó dùng lục. Có thiên điạ bàn lại thêm thần tướng , tuy gần với thức kì tuân, lục cung , do can chi ma tứ khoá, tất lưỡng nghi tứ tượng. Do phát dụng mà có tăm truyền, tất một sinh ba ,ba sinh vạn vật. Sáu mươi tư khoá, không có khoá nào xa với nghĩa gốc của hào, chi lưu của dịch tượng do đó mà suy ra.”
Bàn kiểu lục nhâm do hai bàn đồng tâm chồng lên nhau, bàn tròn gọi thiên bàn, bàn vuông gọi địa bàn, tượng trưng trời tròn đất vuông. Giữa thiên bàn vẽ chùm sao Bắc đẩu hai vòng chử lệ xung quanh, thì vòng ngoài là 28 sao, vòng trong là 12 chữ số. Các chữ số này biểu thị nguyệt tướng hoặc nguyệt thần. Địa bàn có ba tầng, tầng trong là bát can tứ duy, tầng giữa là thập nhị chi, tầng ngoài là 28 sao.
Cách sử dụng nhâm bàn như sau: Xoay thiên bàn, lấy can chi thời khắc đối với vị thiên bàn và địa bàn để phán đoán cát hung. So với từ nam thời Hán thì nhâm bàn thiếu kim từ, không thể xac định phương hướng.
Dù vậy, nó vẫn là công cụ để tướng địa, ‘Đường lục điển”, quyển 14, chép thuật lục nhâm có 9 cách dùng, cách thứ tư là cho nhà cửa, thứ 9 là cho chôn cất người chết. Lưu Khởi
Mông đời tống trong “Lục nhâm quân tướng phú” chép “Đêm tối lạc đường, phải dùng thiên bàn”. Chúc Mật trong “Lục nhâm đại chiên” chép “Hợi hợp với chỗ ở của đại tướng”, đều nói về nhâm bàn định phương vị.
5: Thức đời Hán Thục nhậm thức bàn
THỔ KHUÊ
Quách Phác trong “Táng Kinh” viết: “Thổ Khuê xác định phương vị, ngọc xích đo xa gần”. Qua đó có thể thấy các nhà phong thuỷ dùng xen kẽ các công cụ trên.
Công cụ lấy hướng sớm nhất phải kể tới “biểu”.
Đời An Thương, dùng “biểu” căn cứ vào bóng nắng mặt trời có thể xác định phương hướng. Văn Giáp cốt chưa thấy có chữ “biểu”, nhưng dùng cách thức khác để biểu thị. Theo On Thiếu phong giới thiệu trong Am Hư Bốc Tử Nghiên Cứu có những chữ “niết”, “giáp”, “sĩ”. “Niết” là cây sậy cắm xuống đất để làm mốc bắt tên, dùng để đo bóng nắng, “giáp” tức cọc gỗ trên đầu buộc tấm ván, tương tự như hoa biểu sau này, dùng để đo bóng nắng. Biểu thị đứng như cây rừng, “sĩ” giống cọc chữ thập cắm trên mặt đất để quan sát bóng nắng.
Đời Chu dùng Thổ Khuê
Thổ quỉ là dụng cụ mà các triết gia cổ dùng để đo bóng nắng xác định bốn mùa, đo đạc đất đai. Sách “Chu Lễ” nhiều lần đề cập đến Thổ Khuê, cho rằng đời Chu đã đặt ra nhiều chức quan nắm Thổ Khuê. Quán Lý Thổ Khuê là họ Điển Thuỵ, “Điển Thụy quân lý cất giữ ngọc thuỵ ngọc Khuê, đặt tên từng loại và cách sử dụng…Thổ quỉ dĩ chí xác địng bốn mùa, mặt trời, mặt trăng, phong quốc thì dùng Thổ Khuê để cấp đất. “Việc sử dụng Thổ Khuê, phân biệt hai loại: Thổ phương thị và vượng nhân. “Thồ phương thụy nắm phép đo đạc, đo bóng nắng, đo đất khí tướng trạch mà xây dựng bang quốc” . “Tượng nhân (kỹ thuật viên) san bằng một chỗ đất, cắm cọc gồ, quan sát bóng cũa cây cọc rồi vẽ một viên quy đo bóng nắng mặt trời khi lặn và khi mọc. Ban ngày dựa vào trăng sao để định phương vị”.
Công dụng Thổ Khuê, “Chu Lễ” có chép: “Dùng cách đo đạc của Thổ Khuê mà đo độ sâu của đất, xáx địng giờ giấc qua bóng nắng, để xử lý lòng đất”. Thổ Khuê dài một thước năm tấc, đo bóng nắng, đo đất đai”.
Cách sử dụng Thổ Khuê như thế nào?
Người đời Đường, Tống chú thích: “Chu Lễ”, cũng đã thuyết minh cách sử dụng Thổ Khuê. Ngày Hạ Chí đặt nằm Thổ Khuê đúng hướng Nam Bắc , dựng một biểu dài năm thước. Nếu bóng của biểu ở đầu Bắc là một thước năm tấc đúng với độ dài của Thổ Khuê, thì đã tìm trúng đất, có thể xây dựng đô thành. Cũng có thể dùng Thổ Khuê đo nhật chí, thí dụ ngày hạ chí, bóng của biểu là một thước năm tấc, ngày Đông Cíi bóng của biểu là một trượng ba thứơc.
Như trên ta thấy, phép thổ khuê là dựng một cọc gỗ trên mặt đất có mặt phẳng nằm ngang, dùng dây dọi để cọc thẳng góc với mặt đất, đánh dấu bóng của cây cọc thẳng góc với mặt đất, rồi đánh dấu bóng của cây cọc lúc mặt trời mọc và lúc mặt trời lặn, kẻ một đường nối qua tâm (tức điểm cắm cọc), ta được hứơng chính đông và chính Tây. Mùa khác nhau thì phép Thổ Khuê cũng khác nhau, và phải tham chiếu với vị trí các sao trên trời, để xác định phương vị.
Phép Thổ Khuê có ít nhất cũng vào thời Chu. Trong Giáp cốt bốc từ có những chữ “lập trung:. “Trung” giống như một cây gậy cắm xuống đất ở điểm giữa. Tôn Trị Nhượng trong “Mặc Từ Nhân Cổ”, viết “dựng ở một điểm giữa, kẻ bốn bên dài bằng nhau thì đó là hình tròn”. Học giả Nhật Bản Bối Trùng Mậu Thụ cho rằng, “lập trung” là một cách đo đạc, dựng một vật có thể điều chỉnh độ dài ngắn (thước pan-me) trên mặt đất phẳng, vật có hình dạng, mặt đất dựng vật là mặt phẳng nằm ngang, điểm cắm vào đất của vật là điểm giữa (trung tâm), công dụng của nó giống như “biểu” của Thổ Khuê. Đây là loại dụng cụ (nghi khí) đơn giản nhất, nguyên thủy nhất, dùng nó để đo thời gian, tính phương vị, xác định đường Tý Ngọ.
Thổ Khuê rất thông dụng ở đời Chu: “Thi – Địng chi phương trung”: “Đo đạc bóng nắng, xây cất cung sở”, nghĩa là dùng cọc gỗ xác địng phương hướng.
Hiện nay ở huyện Đăng Phong tỉnh Hà Nam có một đài quan tượng (thiên văn), truyền rằng Chu Công từng đo bóng mặt trời, xác địng điểm giữa của đất tại đây. Trên đài có một bia đá, gọi là thạch biểu của đất. Người xưa cho rằng đây là tâm điểm của đất, nên gọi nơi này là nơi hội hợp của trời và đất, nơi giao lưu của bốn phương, nơi gặp gỡ cuả gió và mưa, nơi hoà hợp của âm và dương.
CON LẮC (THẦN BÍ)
CỦA NHÀ PHONG THỦY VÀ CẢM XẠ HỌC
Người ta có thể tin hoặc không tin khoa học cảm xạ (radiesthésie). Đây không phải là một môn khoa học chính xác như toán hay vật lý, nhưng nó có nhiều ứng dụng kỳ lạ đến khó tin. Một trong những minh chứng rõ nét nhất là con lắc.
Con lắc có khả năng phát hiện những mạch nước ngầm, những kho báu nằm sâu trong lòng đất hay một số mỏ. Con lắc cũng có thể giúp con người giải quyết những phút bực mình do sơ ý hay đãng trí, chẳng hạn khi đánh rơi chiếc chìa khóa ở đâu đó, trong nhà hay ngoài vườn. Ông Joseph Mollard – một trong những chuyên gia hàng đầu thế giới về con lắc – đã có lần tìm ra chiếc máy bay đồ chơi (điểu khiển bằng vô tuyến) bay lạc trên một đỉnh đồi cách xa…20km. Như thế, những ai cho rằng con lắc chỉ có thể tìm ra vật ở vùng đất thấp buộc phải suy nghĩ lại. Cảnh sát và các thám tử, tất nhiên không bỏ qua khả năng kỳ lạ này của con lắc trong việc truy tìm thủ phạm hay xác nạn nhân, đặc biệt trong những vụ mất tích.
Càng ngày khả năng kỳ diệu của con lắc càng được phổ biến, nên hàng năm tại California (Mỹ), người ta lại tổ chức một hội nghị đặc biệt, với sự có mặt của các nhà khoa học cảm xạ khắp năm châu. Tại đây, bên cạnh những buổi hội thảo là những buổi thực nghiệm để so sánh khả năng của nhiều loại con lắc. Điều thú vị là bên cạnh các nhà cảm xạ da trắng, còn có cả các pháp sư da đỏ hay da đen.Không ai phủ nhận những con lắc cổ truyền của họ. Mỗi người có một loại con lắc riêng, cách sử dụng riêng, nhưng công dụng thì gần giống nhau. Tuy nhiên, về khả năng phát hiện mạch nước ngầm thì chỉ có một siêu sao : giáo sư Harold MacCoy của Mỹ. Đặc biệt có nhiều bác sĩ của Pháp đang nghiên cứu việc dùng con lắc để chẩn đoán thay vì siêu âm!
Trong tương lai, có lẽ con lắc còn trình bày nhiều “chiêu” ngoạn mục hơn nữa. Đối với nhà “Cảm xạ học” cón lắc là một công cụ thiết yếu không thể thiếu được.
Chúng ta nên tìm hiểu con lắc qua các chủ đề sau đây:
1. NGUỒN GỐC CON LẮC
Con lắc đã được linh mục Schott sử dụng để tìm vàng lần đầu tiên vào năm 1662. D(ến năm 1749, người ta bắt đầu dùng nó để tìm những kho tàng nói chung. Cũng vào thời gian này giáo sĩ Guinebault từ Trung Quốc và giáo sĩ Gerboin từ An Độ đã mang về châu Au những con lắc dùng để tìm mạch nước. Đến thế kỷ 20, phương pháp cảm xạ được phổ biến ở Pháp.
Thuật ngữ radiesthésie (radius: tia; aisthésis: cảm xạ) đã được giáo sĩ Bou Ly dùng lần đầu tiên vào năm 1922 đựơc chính thức hóa qua tên của “Hội quốc tế về cảm xạ”.
Những chuyên viên cảm xạ nổi tiếng là giáo sĩ Bouly ở Hardelot (1865-1958), linh mục Bourdoux, giáo sĩ Mermet (1866-1937), hoàng thân Henry de France (1872-1937) người say mê tìm mạch nươc ngầm; Joseph Trayve (1877-1946), giáo sĩ Jean Jurion chuyên chữa bệnh. Họ thàng lập “Công đoàn quốc gia chuyên viên cảm xạ”. Có những nhà khoa học nghiên cứu cảm xạ như Turenne, De Belizal, jean de la Foye, Pagot, Yves Rocard. Có những nhà văn lưúy tới cảm xạ như Luzy, Michel Moine, Christopher Bird.
Theo Dominique và Michèle Frémy, chủ biên bộ từ điển Bách Khoa Quid (1986), chưa có một gải thích khoa học chính xác nào cho hiện tượng này. Chỉ có thể nói đây là một dạng nhạy cảm mà người nào cũng có thể có nhưng ở những mức độ khác nhau. Con lắc là một loại máy khuếc đại cho người làm thí nghiệm có được một câu trả lời về một câu hỏi, tuỳ theo chiều quay của con lắc.
Con lắc có thể dẫn đường cho thầy thuốc trong công việc chẩn đoán bệnh, cho biết nguyên nhân và bộ phận phải chữa. Môi trường hoạt động khác của con lắc là thuỷ học, đại chất, nông nghiệp .v…
Con lắc quay dưới tác dụng của nhiệt trường, của thân nhiệt đối tượng.
Hình dạng của con lắc tuỳ thuộc vào óc thẩm mỹ và sở thích của người sử dụng. Do vậy, con lắc có thể có dạng hình cầu, hình chóp nhọn, hình xoắn ốc lò xo. Chất liệu cũng vậy, có người thích dùng gỗ, có người chuộng sắt thép, thuỷ tinh, đá quý, thạch anh, mã não … Sợi dây treo cũng không có chất liệu cố định – có thể bằng chỉ, vải lụa, vàng, bạc, thậm chó sợi tóc. (tuyệt đối không dùng sợi len).
Chỉ có điều rõ rệt là dây càng dài con lắc chuyển động càng chậm. Theo các chuyên gia, độ dài lý tưởng của dây treo nên ở khoảng 10-20 cm.
Cách điều khiển con lắc- Nắm sợi dây thòng nơi đầu ngón tay cái và ngón tay trỏ mặt, để tay thẳng ra, cườm tay và cùi chỏ thong thả không dựa nơi nào.
Để con lắc ngay trên bàn tay trái lật ngửa ra, trong một thời gian rất ngắn, chừng 3 phút thì lắc cử động.
Để trên một ly nước hay một đồng bạc thì con lắc cũng cử động xây vòng tròn.
Nếu bên tay trái nắm một cắc bạc và bên tay mặt thong con lắc trên một đồng bạc thì con lắc sẽ lắc qua lắc lại.
Bây giờ ta thử xem qua “ngôn ngữ” của con lắc. Đa phần các nhà Cảm xạ đều đồn gý rằng có thể trả lời theo kiểu: “có”, “không” và “có lẽ”. Nếu nó xoay theo chiều kim đồng hồ, nghiã là “có”, theo chiều ngược lại là “không” và đu đưa là “có thể”.
NGUYÊN DO CHUYỂN ĐỘNG CON LẮC
Đến giờ, người ta vẫn còn tranh luận về nguyên do chuyển động của con lắc. Một số cho rằng não bộ của người sử dụng sẽ phát ra một lực làm chuyển động con lắc. Giáo sư Bernard Condé (Pháp) lưu ý: “Đừng quên rằng đôi khi vô thức tỏ ra mạnh hơn cả ý thức. Khi sử dụng con lắc người ta chỉ chú tâm đến việc khi nào nó xoay tròn, chứ không hề nghĩ đến việc điều khiển nó. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng từ trướng của Trái đất đã bị thay đổi khi có vật lạ. Con lắc “cảm” được điều đó nhờ nhợ giao động từ trường. Một số nhà vật lý cho rằng mọi vật đều có khả năng phát sóng, nên con lắc chuyển động chẳng qua là do chịu tác động của sóng từ những vậ lạ ấy. Một số người kết luận rằng chính giác quan thứ sáu của con người đã làm con lắc chuyển động.
điều này, họ dẫn ra xáx suất thành công khi dùng con lắc. Cụ thể, có người không tìm được gì, nhưng người khác- cũng với con lắc ấy- lại thành công. Tại sao? Bởi vì không phải ai cũng có giác quan thứ sáu như nhau! Tất nhiên, cách giải thích này khó được chấp nhận. Đáng chú ý hơn cả loà giả thuyết sau đây: cơ thể con người có một số điểm có thể tạo ra từ trường khá mạnh, lại thay đổi tuỳ theo từ trường của đất. Tất cả gồm 7 điểm: Phần cơ gần lông mày- cho phép con mắt chuyển động mà con người không cần quay cổ; phần cơ sau gáy- có nhiệm vụ giữ cho cổ thẳng đứng; phần nếp gấp giữa bắp tay và cánh tay; vùng gần thắt lưng; đầu gối; đầu các ngón chân (tính từ mặt đất lên khoảng 1 cm) và cuối cùng là phần giữa của hai ngón chân cái. Chính 7 điểm này sẽ tạo ra từ trường thay đổi, làm con lắc xoay tròn. Một số nhà nghiên cứu cho rằng khi ta nhìn về phía trước mà vẫn cảm thấy có ai đó đứng phía sau, là đ phần cơ gáy “phát hiện”. Theo họ, sự chuyển động của con lắc tuỳ thuộc khá nhiều vào vùng này. Bên cạnh giả thuyết “7 diểm” này, còn có thuyết về các tinh thể. Năm 1983 giáo sư Robin Baker _ thuộc đại học Manchester (Anh)- khi giải phẫu một số tử thi rồi soi kính hiển vi điện tử, đã phát hiện nhiều tinh thể có từ tính. Củng tứ 30 năm nay, giới khoa hoạ Mỹ đã biết rằng trong cơ thể nhiều loài động vật như cá voi, cá heo, một số loài cá lớn và chim di trú có một số tinh thể đặc biệt. Họ cũng đồng ý rằng phần bàn chân là một trong những nơi có từ trường mạnh. Giáo sư Patrick Bellon đã thử ốp hai miếng kim loại nhỏ vào dưới hai gót chân thì thấy con lắc xoay ngay!
CÁCH THAO TÁC CON LẮC
Một phương pháp cầm con lắc để học Cảm xạ học giản dị và hữu hiệu theo chiều hướng mũi tên trên mỗi hình.
1- Con lắc : Càng giản dị càng tốt. Bất cứ vật gì nặng từ 5 đến 40 grammes treo vào một sợi dây không xoắn. Đừng quá nhẹ vì nó sẽ nhảy lồng trên tay những người nóng tính, mà cũng đứng quá nặng vì nó sẽ chậm phản ứng.
Cầm đầy dây dài bao nhiêu? Bạn hãy tự thí nghiệm một lần để tim chiều dài dây cho vừa tay. Khoảng tử 3 đến 7 phân là cùng. Nên nhớ rằng dây càng dài thì con lắc quay càng chậm.
Có thể gắn thêm một vòng sắt hay một cây chắn ngang để cầm cho dễ và khỏi bóp chặt những ngón tay.
Cầm đầu dây, vòng sắt hay cây chặn vào giữa ngón tay trái và ngón tay trỏ, không bóp chặt qúa.
Tập dợt : trước khi bắt đầu công việc tìm kiếm của nhà Cảm xạ học thì phải tập dợt mỗi ngày vài phút trong ba tuần liên tục, để tạo cho được những phản ứng quy mô, rất cần thiết trong công tác Cảm xạ học:
Trên ba cái hình dưới đây bạn cầm con lắc đưa lên mỗi hình trong vài giây đồng hồ, và ước vọng như sau qua lời nói thầm : “Con lắc sẽ quay”
Bạn sẽ thấy con lắc “quay thuận” theo chiều kim đồng hồ trong hình A, “quay nghịch” theo chiều kim đồng hồ trong hình Của và “lắc” dọc từ trên xuống dưới B.
Sau khoảng ba tuần tập dợt hằng ngày bạn sẽ thấy con lắc bạn “quay” hay “lắc” một cách máy móc và rất nhanh chóng, dễ dàng trên mỗi hình của bài tập này. Như vậy là bạn đã tạo những phảnứng qui mô của Cảm xạ học.
Quy ước tâm linh : Bạn hay 4 chọn một lần để dùng mãi mãi, và quyết định rằng “vòng quay theo chiềm kim đồng hồ” là một câu trả lời “có” hay là “phải” hay là “dương” “vòng quay nghịch kim đồng hồ” có nghĩa câu trả lời “không” hay là “âm” Chuyển động “lắc” có nghĩa là trả lời dứt khoát.
Sử dụng con lắc có vẻ đơn giản, nhưng không phải không có điều kiện nhất định vì theo các chuyên gia, không nên dùng con lắc khi ta đang bị stress, chán chường, buồn giận: nói chung là tâm trạng bất ổn. Riêng môi trường đang là vấn đề được bàn luận nhiều nhất, vì xác suất thành công của con lắc tại những nơi kín gió luôn cao hơn những nơi có gió. Sự chuyển động của không khí có ảnh hưởng đến hoạt động của con lắc?
TẦN SỐ DAO ĐỘNG CỦA CON LẮC
Khi một vật thể dao động được (ở đây là con lắc) bị kích thích thường xuyên bởi một nguyên nhân nào đó, với tần số bằng tần số riêng của nó thì dù sự kích thích rất nhỏ, vật cũng dao động dần dần mạnh lên, biên độ ngày càng lớn. Hiện tượng đó gọi là sự cộng hưởng. Con lắc đơn, với dây chỉ mềm có khối lượng rất nhỏ so với khối lượng của con lắc. Trong quá trình dao động lực ma sát trong cũng như các lực cản khác tạo ra sự khuếch tán năng lượng đều rất nhỏ, nến nó lắc lâu mới tắt. Dù ta cố gắng giữ cho cơ thể bất động, ở các cơ bắp, kể cả hai đầu ngón tay cầm dây chỉ của con lắc, vẫn có những rung động rất nhỏ.
Khi sử dụng con lắc, nếu ta đễ hẫng toàn bộ cánh tay (không tì vào chỗ nào) thì do cánh tay dài, rung động ở các đầu ngĩn tay sẽ có biên độ lớn (theo nghĩa tương đối)- lúc này người ta nói cánh tay, tức là “hệ treo con lắc” có “độ mềm” cao. Nếu ta tựa khuỷu tay lên bàn thì hệ treo con lắc “cứng” hơn, biên độ ở các đầu ngón tay nếu có cũng nhỏ hơn. Nếu lại tì cổ tay hay tựa hai đầu ngón tay lên mép bàn thì hệ treo con lắc quá cứng, bằng cách này, điểm cầm đầu dây rất khó rung động được. Vì vậy, khi sử dụng để dễ quan sát hiện tượng (có biên độ lớn), ta nên để hẫng cả cánh tay hoặc cùng lắm chỉ nên tì khuỷu tay.
Khi thực hiện, vì ta chăm chú theo dõi con lắc nên chỉ sau một thời gian ngắn, mắt đã có thể truyền lên não những tín hiệu lặp lại theo một tần số bằng tần số riêng của con lắc. Dần dần, trong não hình thành một tần số ổn định hơn các tần số khác mà não vẫn truyền cho các cơ bắp. Tần số này sẽ tham gia vào hệ thống các tần số dao động điều hoà của bắp và là tần số ổn định nhất ở hai đầu ngón tay cầm con lắc. Khi đó sẽ phát
sinh hiện tượng cộng hưởng và con lắc sẽ dao động mạnh hơn. Hiện tượng cứ thế lặp lại: tần số dao động riêng của con lắc (chiếc nhẫn) do mắt cảm nhận được đưa lên não, não truyền đến đầu ngón tay, đầu ngón tay kích thích con lắc dao động mạnh hơn theo tần số đó, mắt lại cảm nhận được … và hiện tượng cộng hưởng mỗi lúc một rõ (xem hình vẽ).
THƯỚC LỖ BAN MÔ TẢ THƯỚC LỖ BAN
Thước này dài khoảng 41 phân (không biết tại sao quan niệm của các thợ ngày xưa cho rằng thước làm bằng giấy là tốt nhất. Được chia làm 8 phần bằng nhau, mỗi phần mang những tên như sau, từ trái sang phải:
Tài Lộc
Trường Bệnh
Sinh Tang
Mỹ Thuận
Quan Lộc
Kiếp Đạo
Lục Hại
Tài Đức
Mỗi cung lớn (có 8 cung) lại chia thành 4 cung nhỏ có tên như hình vẽ.
Dưới đây chúng tôi xin vẽ thước Lỗ Ban đúng y như kích thước thật (vì khuôn khổ bộ sách xin phân thước ra làm 4 phần. Muốn có thước thật chỉ việc cắt 4 phần ra và dán nối vào nhau là có một thước Lỗ Ban (kích thước đúng với kích thước thật).
Các bạn dùng thước này để đo các khung cửa nhà, cửa bếp hoặc bàn bếp là sẽ có những cung tốt nhất theo ý muốn. Cứ đo hết một thước lại đo tiếp theo thước nữa. Nếu khung cửa (xin chú ý khung cửa) nhà rời vào một cung tết tức là ta đã yên tâm, còn nếu rời vào cung xấu thì ta nên sửa lại khung cửa đó. Và quan niệm sửa khung cửa là chỉ nên nới rộng ra cho đến khi nào đúng vào cung tết chứ không nên thu hẹp lại, hoặc đóng nẹp.v…
Dưới đây là hình vẽ để thí dụ, khung cửa này do hai lần thước và rơi vào cung “Tài Đức” là cung tốt.
Lần thứ nhất, bạn cất con lắc 2’ lên mặt bàn rồi lắc nhẹ con lắc 1’. Sau đó chăm chú nhìm theo sự chuyển động của viên bi 1’. Sau khoảng 30 lần dao động của con lắc 1’ sẽ thấy con lắc 1 ở tay bạn dao động khá mạnh tức là đã cộng hưởng với con lắc 1’ thông qua sự tiếp nhận bằng mắt tần số của con lắc 1’, trong đó, con lắc 2 vẫn đứng yên.
Lần thứ 2, bạn cất con lắc 1’ để sử dụng con lắc 2’ và lặp lại việc thử như trên thì trên tay bạn con lắc 2 được cộng hưởng, còn con lắc 1 lại đứng yên.
Để yên tâm theo dõi dao động của 2 viên bi 1’ và 2’, có thể nhờ người khác theo dõi phản ứng của những con lắc mà bạn đang cầm trên tay.
Vậy với con lắc, khi chăm chú theo dõi chuyển động của viên bi, mắt đã đưa tần số riêng của con lắc lên não để não truyền cho tay một thành phần dao động kích thích cùng tần số với con lắc là như vậy, tạo ra hiện tượng cộng hưởng.
Bàn tay để sát dưới chiếc nhẫn chỉ là vật chuẩn để ta dễ ghi nhận dao động của nó, đắc biệt là khi dao động còn rất nhỏ. Có thể thay bàn tay bằng tờ giấy màu kẻ ô để chiếc nhẫn nổi bật trên nền giấy và mắt dễ thấy dao động. Còn con lắc dao động các dạng khác nhau là do sự phối hợp ngẫu nhiên của các điều kiện đầu của dao động.
Chiều quay của dao động tròn phụ thuộc vào bàn tay ngửa hay úp, nam hay nữ…
Nó được các nhà Cảm xạ dùng để tiên đoán tương lai hoặc tìm đồ vật bị mất. Nhưng đó cũng là một dụng cụ khoa học có thể đo lực hút địa cầu tại chỗ cựa kỳ chính xác.
Khi cầm đầu dây và để cho phần dưới dao động tự do, luôn luôn nó sẽ lắc theo một mặt phẳng cố định. Điều này có thể giải thích được. Hãy cột con lắc vào một giá đỡ có thể di động tròn. Để conlắc dao động và từ từ cho giá đỡ quay. Mặt phẳng dao động của nó vẫn không thay đổi như chẳng hề có điều gì xảy ra. Ngược lại nếu tạo cho con lắc vận tốc đầu thẳng gốc với mặt phẳng dao động, nó sẽ tạo ra một hình bầu dục.
Năm 1950, nhà vật lý Foucault đã dùng nó để chứng minh trái đất quay tròn trên trục của chính mình. Ong chế tạo một con lắc nặng và dây dài đến 67 mét treo ở mái vòm của điền Panthéon. Mặt phẳng dao động cố đinh của nó từ từ di chuyển ngược chiều với chiều quay của địa cầu. Thí nghiệm này được lặp lại nhiều lần ở Viện bảo tàng bảo tồn kỹ thuật quốc gia cho khách tham quan.
Thực ra việc giải thích mặt phẳng cố định này không được rõ ràng, ít nhất là ở Paris. Ngược lại, sẽ hoàn toàn chính xác nếu con lắc được treo ở Bắc cực hay Nam cực. Mặt phẳng dẽ hoàn toàn cố định và trái đất quay bên dưới nó trong 24 giờ.
Nếu con lắc được cầm ở các nơi khác trên trái đất, mắt phẳng dao động sẽ quay theo.
Điều này làm cho sự việc trở nên rắc rối.
Thay vì lắc theo một mặt phẳng, nó sẽ tạo ra một hình bầu dục rất đẹp, tuỳ thuộc vào chu kỳ của con lắc so với 24 giờ quay của trái đất. Thế mà người ta lại có cảm tưởng như nó dao động trên một mặt phẳng cố định và điểm khác biệt với Bắc cực là mặt phẳng này không quay trong 24 giờ (xem hình). Đặc biệt ở xích đạo, con lắc dao động rất chậm và mặt phẳng không thay đổi. Tại Paris phải mất 32 giờ cho mặt phẳng quay trọn một vòng. Tuỳ theo vĩ độ của địa phương và vận tốc quay này thay đổi. Nói rõ hơn, tủ lệ nghịch với sin của góc vĩ độ: tối đa ở hai cưc và tối thiểu ở xích đạo.
7/. NGÔN NGỮ BIỂU TƯỢNG CỦA CON LẮC
Nhà Cảm xạ học cầm đầu sợi chỉ bằng ngón tay trỏ và ngón tay cái nâng nhẹ con lắc lên, ba ngón tay còn lại xoè ra, giữ cho tay không động đậy và theo dõi con lắc thấy:
Con lắc có thể đu đưa sang hai phía, trên một mặt phẳng.
Conlắc có thể xoay tròn theo chiều kim đồng hồ hoặc ngược lại.
Những chuyển động của con lắc đều theo một quy luật nhất định tuỳ theo tia sóng điện từ thâu được, nhờ đó nhà Cảm xạ học có thể giải thích được các chi tiết đang cần thiết.
Nếu chúng ta luyện tập trở thanh 2 một nhà Cảm xạ học sự làm thí nghiệm với con lắc chúng ta sẽ thấy như sau:
xa độ vài phân, con lắc từ từ chuyển động, xoay tròn quanh ngọn đèn.
2/. Để con lắc trên lòng bàn tay trái mình, cách xa vài phân con lắc sẽ đu đưa như con lắc đồng hồ.
3/. Vẽ một hình tròn, một nửa để trắng, một nửa bôi đỏ. Để con lắc trên hình cách xa vài phân: trên nửa hình trắng con lắc xoay tròn, trên nửa hình đỏ con lắc đu đưa qua lại.
4/. Đặt con lắc trên một la bàn, trên đầu kim chỉ về phía Nam con lắc đu đưa qua lại, trên đầu kia con lắc xoay tròn ngược chiều kim đồng hồ.
5/. Đối với đàn ông :
+ Trên bàn tay mặt úp sấp và trên bàn tay trái úp ngửa con lắc xoay tròn.
+ Trên bàn tay trái úp sấp và trên bàn tay mặt ngửa con lắc đu đua qua lại. 6/. Đối với đàn bà thì ngược lại:
+ Trên bàn tay mặt úp sấp và trên bàn tay trái ngửa con lắc đu đua qua lại.
+ Trên bàn tay tráit úp sấp và trên bàn tay mặt ngửa con lắc xoay tròn.
Những biểu tượng ngôn ngữ của con lắc còn rất nhiều điều thú vị, tuỳ theo yêu cầu đối tựơng, đề nghị tham khảo qua các đề tài trong bộ sách này đã được sắp xếp rất phân minh như một bộ từ điển.
ĐŨA THẦN
- Từ xưa, hơn 4 ngàn năm về trước ở miền Cận-Đông người Chaldéens, Do Thái, Ai Cập đều có dùng đến thuật Cảm xạ học bằng đôi đũa để tìm mạch nước, (Ong Moise dùng gậy đập vào núi Horeb tìm mạch nước cho dân Do Thái uống ở ngoài đồng cát trong thời kỳ phản Ai Cập).
Ơ Trung Quốc, vào đời nhà Hạ, hơn 2000 năm trước Chúa Cứu thế vau Vũ Đế cũng dùng đũa để tìm mạch nước.
Xét về phương diện cấu trúc của Đũa thần có hai thứ:
Thứ làm bằng xương cá Ong
Thứ kàm bằng cành cây liễu tươi
ĐŨA THẦN LÀM BẰNG XƯƠNG CÁ ONG
Lấy hai khúc xương cá ong dẹp hoặc tròn lối 4, 5 li trực kính và dài khoảng 3 tấc, nhập hai chiếc đũa lại và quấn chỉ vải xung quanh một đầu, từ đầu chạy dài xuống 3 phân.
Cách dùng đũa – Nắm mỗi chiếc đũa trong bàn tay, ngón cái kẹp đũa vào ngón trỏ, để cho đầu đũa cột nhập đứng lên trên. Đến chừng nào có mạch nước hay có lằng sóng vô hình thì đầu đũa lai động.
Muốn thử xem đầu đũa có nhạy hay không thì cầm đũa, đầu đũa chỉ gần ngọn đàn cầy, rức thì đầu đũa hơi lai động và nếu hai tay đẩy đoi đũa ngang qua trên ngọn đèn, đầu đũa sẽ trỗi dựng lên.
Nếu một lần tập không kết quả, phải tập đi tập lại nhiều lần, hoặc trên món đồ kim khí như đồng bạc, hay trên một ly nước.
ĐŨA YHẦN BẰNG CÀNH CÂY LIỄU TƯƠI
Chỉ l2 một cành liễu nhỏ, có hai “chiếc sừng” tách ra hai bên, sao cho chỗ tay cầm cách sa nhau chừng 40 đến 70 phân. Cành cây phải mảnh (độ vài phân đường kính), và quan trọng là phải còn tươi- chỉ hữu hiệu trong ba, bốn ngày đầu, còn sau thì chẳng khác gì … cây củi khô.
Cũng có thứ “đồ nghề” vĩnh cửu làm bằng sợi kim loại, thường là bằng đồng, đường kính chừng vài li và uốn cong hình chữ U và làm sao cho tay cầm cách nhau khoảng 70 phân.
Khi thao tác, hai tay cầm cây chạc ba ngang vùng thắt lưng, song song với mặt đất bàn tay phải để ngửa. Khi dò tìm nên đi chậm rãi. Nếu gặp “mục tiê” thì tự dưng cây Đũa Thần khẽ chuyển động, có thể quay ngang có thể dâng lên hạ xuống tuỳ theo từng trường hợp cụ thể. Có khi, cây Đũa thần quay tới vài vòng.
Về sau, một số nhà Cảm xạ học được hiện đại hoá “cây Đũa thần” của mình bằng cách gán thêm lên một bên tay cầm…một bạc đạn, để nhành cây dễ chuyển dịch. Tốt nhất nên cầm “đũa thần” bằng tay trần, đôi khi cũng có thể mang găng tay, nhưng găng tay da là thức tối kỵ!
Kinh nghiệm còn cho thấy các vỉ quặng tác động lên cây “Đũa thần” ở mỗi người một khác. Nhưng thông thường bị “hút” vào : ở nam giới, với nhóm này thì “Đũa thần” bị hút ở vùng bụng và thắt lưng, nhưng bị “đẩy” ở vùng vai: nhóm kia thì ngược lại.
Ngày nay các chuyên gia Định vị sinh học tức là thầy Địa lý Phong Thuỷ tiến bộ cũng sử dụn g “Đũa thần” để phối hợp với máy vi tính để định hướng cát hung cho ngôi nhà như sau:
Trước khu đất xây nhà. Một người ngồi sau máy vi tính ở trong xe, những người còn lại mang các túi xách nhỏ và cầm trên tay.
Đôi “Đũa thần” đi quanh khu đất dưới sự kiểm tra của máy vi tính. Đũa Thần trong tay họ rung động. Người ngồi sau máy vi tính theo dõi cuộc khảo sát cẩn thận để ghi nhận các dữ kiện chính xác. Khảo sát trong khu đất, các dụng cụ được tập trung lại. Lát sau, người chủ xây dựng sẽ nhận được một phần mềm rồi đưa nó vào một chiếc máy vi tính khác. Và trong màn ảnh hiện ra những lời chú thích về địa điểm vị trí của ngôi nhà tương lai trên khu đất. Vị trí này so với các dự án thiết kế khác bảo đảm được cho người ở trong đó ít bị bệnh ung thư, viêm khớp, bạch cầu và các căn bệnh nguy hiểm khác.
THƯỚC DÒ TÌM
Thuật Phong Thuỷ thường xuyên dùng trước khi tướng địa. “Hồ Haỉ Tân Văn” chép: Đời Nguyên có nhà sư ở An Phúc, khi chưa xuất gia đi tu, thấy ở bụng con rùa đá thường có dây ti thảo, bèn nói: “Nhà ngươi đừng có làm chuyện quái gở, để ta kiếm lửa đến đốt rụi nhà ngươi”.
Đêm ấy nằm mơ thấy rùa đá đến bảo : “Đầm sâu trước viện có Long Vương, trên bàn Long Vương có hàm long kinh và hàm long xích, ngày mai tôi lấy trộm cho ông mượn, ông chép cho nhanh rồi trả ngay lịa cho tôi. Cũng coi như tôi đền ơn ông”. Hôm sau quả nhiên lấy được kinh và xích (thước) dưới bụng của rùa đá. Vậy là học được phép Phong Thuỷ, xem cho người ta, lần nào cũng trùng.
Lại theo La Tu viết trong sách “Trú Trạch Phong Thuỷ Khán Cát Hung” thì các nhà Phong Thuỷ ở Đài Loan đều có công cụ để tướng địa, hơn nữa rất thần bí. La Tu kể câu chuyện như sau: “Có lần tác giả cùng các vị hơn tuổi và cụ Hàn lên núi Quan Am xem phong thuỷ. Cụ Hàn đem theo một cái thước đo huyệt mà xưa nay chưa ai nghĩ ra, tất nhiên tác giả chú ý xem kỹ kéo, khi sử dụng, hai tay sẽ di chuyển mở ra một góc 90 độ. Cụ Hàn bảo tôi dùng thước này thử tìm xem huyệt ở đâu. Dưới sự chỉ dẫn của cụ, tôi dùng tay phải cầm nhẹ tai thước, tay trái nắm lại để đỡ tai kia của thước để nó không chỉ sang hướng khác đếu không kết quả gì. Cuối cùng trở lại chỗ tường rào 5 nấm mộ nhỏ tôi trèo lên tường đi được 2 thước thì tai kéo như bị một lực đẩy nào đó mở ra một góc 90 độ, chỉ đúng vào giữa 5 huyệt lại, huyệt mà được thì có một sức mạnh, rất dễ để người ta nghĩ rằng trong 5 mộ có chứa rất nhiều nam châm, nhưng thực ra không có chuyện này, vì rằng nếu có thì la bàn không sử dụng được. Vậy mà người cầm la bàn vẫn thấy kim chỉ hướng Nam Bắc. thước dò huyệt chỉ to bằng ngòn tay út, chỉ là một công cụ thô sơ, trừ phi có một sức mạnh vô hình nào đó rất mạnh nếu không thước sẽ không nhúc nhích hơn nữa trăm lần trúng cả trăm. Tôi hỏi cụ Hàn thước làm bằng kim loại gì, tiếc rằng cụ không nói. Y nghĩa của câu chuyện này là cụ Hàn từ lĩnh vựa Kham Dư, từ lĩnh vực khoa học chủ quan, mà đưa vào thí nghiệm một khí cụ khoa học, đồng thời chúng mình gọi là huyệt kết do núi sông cấu tạo nên mà người xưa từng nói, quả có một sức mạnh chỉ ít ảnh hưởng đến vật chất”. Thước là một thanh sắt từ, hoạt động theo nguyên lý kim chỉ nam, kết cấu không phức tạp.
THƯỚC THIÊN XÍCH
Về phép dùng của thước Thiên Xích có 4 thứ :
Tử Phong Xích
Khúc Xích
Lỗ Ban Xích
Huyền Nữ Xích
Thước đều là 9 tấc, lại thầy bói nói là thước Lỗ Ban là thước thợ mộc thường dùng mỗi tấc quản một chữ Tài, Ly, Bịnh, Nghĩa, Quan, Kiếp, Bại, Bản, trong những chữ có 4 chữ : Tài, Nghĩa, Quan, Bản là được Cát từng so với thước ở đây lại bất tương đồng, tức là khác nhau, không ở trong lậu thức này.
Thước Tử Phòng thì lấy 9 tấc làm 9 bộ (khoảng) Kim Tinh (Cát) Hoả Tinh (Hung). La Tinh (Hung), Mộc Tinh (Cát), Tử Khí (Cát), Thổ Tinh (Hung), Kế Đô (Hung), Nguyệt Bột (Hung), Thuỷ Tinh (Cát).
Khúc xích thí lấy 9 tấc, phân làm 9 bộ, tấc thứ nhất là nhất Bạch (Cát, tấc thứ sáu là Lục Bạch (Cátấc thứ 8 là Bát Bach (Cát), tấc thứ 9 là Cửu Tử (Cát), còn tấc thứ 2,3,4,5,7 đều là Hung.
Lỗ Ban Xích thì lấy 9 tấc phân làm 13 bộ : Tài – Toại – Điên - Tăng, Sinh – Tai – Khấu - Thiệt, Phận – Đinh – Tổn - Thê, Ly – Hương – Tuyệt - Nghĩa, Chiêu – Tài – Tiên - Nghiệp, Vương – Tài – Cát - Lợi, Sinh – Quí – Tử - Cát, Tiền – Tài – Sinh - Tử, Hoành – Hoạ
– Hung -Thần, Trường – Bĩnh – Sư - Cô, Quan – Tư – Phiên – Liên, On – Hoà – Thoái – Tài, Tiên – Bảb – Cát – Lợi.
- Huyền Nữ Xích thì lấy 9 tấc phân làm 8 bộ : Quý Nhân (Cát), Thiên Tai (Hung), Thiên Hoa (Hung), Thiên Tài (Cát), Quan Lộc (Cát), Cô Độc (Hung), Thiên Bại (Hung), Phu Bắc (Cát).
Những thước tấc làm nhà cửa đều lấy bốn dạng thức so sánh mặt thước, lấy 4 thứ đều là Cát thì tốt lày một mảnh gỗ rỗng 4 tấc, dài 9 tấc, vạch 4 dạng thước đó vào một mặt thì Cát Hung thấy rõ. Tóm lại, số của 4 loại thước đều không lìa được số 9, gặp 9 thì tốt lành, lấy 9 tấc làm một thước, lấy 9 thứơc làm một trượng, lại thêm nửa tấc thì mọi thước đều được Cát tường.
THIÊN XÍCH ĐỒ THỨC
(Cách thức tác dụng Thiên Xích)
Những bộ số của Thước, Tấc để dùng làm nhà cửa đều nên lấy số lẻ, không nên lấy số chẵn. Như đo làm cửa thì nên lấy số 3x9 làm 2 thước 7 tấc 5 phân chiều rộng. Lấy số 7x9 là 6 thước 3 tác 5 phân chiều cao. Cửa lớn đóng hai cánh thì nên lấy số 4x9 là 3 thứơc 6 tấc 5 phân chiều rộng hoặc 5x9 là 4 thước 5 tấc rưỡi (tức thêm 5 phân lẻ)
Nên lấy 4 phép của 4 thứ thước, tức là 4 thể dạng, của 4 cây thước có khác nhau, vậy nên so sanh, lấy số lượng của cả 4 loại thước, đều được ở khoảng độ là Cát. Thì chuẩn đích, thước đó là Cát tường.
Tóm lại, cả 4 loại thước đều không lìa khỏi số 9, thêm nửa tấc thì được 4 rhứ thước đều là Cát.
Để chứng minh lập luận này, mời các bạn hãy cùng chúng tôi thực hiện hai thí nghiệm mà vật liệu gồm 4 viên bi ve bọc vải mỏng hoặc giấy mà, treo dưới 4 sợi dây chỉ mềm dài chừng 40 cm làm thành 4 con lắc, 7 cái cặp nhựa, 4 vòng thun, vài vật nặng để chặn,
THÍ NGHIỆM 1
Nếu trong khi làm mắt bạn lơ đãng nhìn đi nơi khác, hoặc che để không khi nào nhìn thấy viên bi, thì sau 5, 10 phút con lắc cũng không thể lắc mạnh được. Sau đ1o bạn làm lại nhưng chăn chú nhìn theo viên bi. Chỉ sau ít giây, con lắc đã bắt đầu lắc rõ ràng và sau đó tiếp tục lắc mạnh.
THÍ NGHIỆM 2
Chế tạo hai cặp con lắc đơn có cùng tần số riêng. Dùng cặp nhựa cặp vào đầu dây của các con lắc : hai dây dài khoảng 30 cm, hai dây dài khoảng 15 cm. về lý thuyết nếu chiều dài hai dây bằng nhau thì tần số riêng của hai con lắc bằng nahu, nhưng thực tế thì không được như vậy.
Điều chỉnh cho từng cặp 2 con lắc có cùng tần số riêng thực hiện như nhau : dùng cặp nhựa cặp vào đuôi của 2 con lắc cùng loại, đặt chúng lên mép bàn, rồi đè vật nặng cho vữn gchắc (hình 2). Kéo 2 viên bi ra khỏi vị trí thẳng đứng rồi đồng thời thả ra. Nếu sau 50 lần lắc, 2 con lắc vẫn cùng pha (có cùng vị trí khi ở cùng thời điểm) thì chúng coi như có cùng tần số riêng.
Nếu không cần điều chỉnh: hoặc kéo dây chỉ của con lắc nào lắc chậm, hoặc thả dài dây chỉ của con lắc nào lắc nhanh. Sau khi đã đảm bảo 2 con lắc có cùng tần số riêng, dùng
dây thun quấn chặt để cố định chiều dài dây chỉ. Vậy là ta đã có 2 cặp con lắc, mỗi cặp có một tần số riêng. Ta tạm gọi con lắc có dây dài là 1 và 1’, con lắc có dây ngắn là 2 và 2’.
Thí nghiệm : Ở mép bàn đặt và đè chặn hai con lắc 1’ và 2’ tương tự như ở hình 1 (phía sau các viên bi nên có một phong nền để dễ ghi nhận chuyển động); cầm bằng hai ngón tay con lắc 1 và 2 đã được cặp chặt với nhau như ở hình 3 (toàn cánh tay để hẫng, lúc bắt đầu thí nghiệm cố gắng giữ cho hai con lắc này đứng yên).
Khi làm thí nghiệm, bàn tay còn lại cầm một miếng bìa để che cho mắt không nhìn thấy hai con lắc đang cầm ở tay kia mà vẫn thấy con lắc 1’ và 2’.
Rõ ràng, với 2 con lắc chiều dài khác nhau và cầm chung bằn ghai ngón tay, mắt lại bị che không nhìn thấy, dù có muốn, cũng không thể nào làm cho 1 trong 2 con lắc dao động mạnh, còn con kia đứng yên. Nhưng bằng cách dưới đây bạn lại có thể làm được điều đó.
Y nghĩa của cung như sau :
Tài lộc (có lộc của cải)
Sinh Vượng : của nhà thịnh vượng
Tiến Bảo : hay gặp nhữn gviệc quý
Đăng Nhân : gặp việc nhân
Tài trí : có tiền của đến
Trường bệnh : đề phòng bệnh tật
Khẩu thiệt : hay gặp chuyện cãi cọ đôi co
Bệnh Lâm : thường gặp bệnh tật
Tử tuyệt : đề phòng tai nạn đe doạ tính mạng
Tài chí : đề phòng tai nạn
Sanh tang : Luỵ vì lời ăn tiếng nói
Thất Tài : mất mát của cải
Ly Hương : Phải xa quẹ hương
Thoai Khẩu : luỵ vì lời ăn tiếng nói
Tự Biệt : tang tóc
Mỹ thuận : công việc đều thuận lợi tốt đẹp
Phú quí giàu có quí hiếm
Tiền ích : gặp nhiều dịp may có ích
Tích lợi : giữ được của cải
Thuận lợi : mọi dự định đều như ý
Quan lộc:
Đại Cát : gặp tốt lớn
Quí nhân : có người trợ giúp
Lợi ích : gặp việc có lợi
Thêm Đinh : gia đình có thêm con trai
Kiếp Đạo ( Cung chủ về trộm cắp)
Thất thoát : mất mát của cải
Ngũ quỉ : gặp nhiều việc tai hại
Kiếp Tài : coi chừng trộm cắp
Trường bệnh : bệnh kéo dai dẳng
Lục Hại : (6 điều tai hại)
Cô Quả : lẻ loi, đơn độc
Quả Canh : kém về lợi tức
Mặt Nghệ : làm ăn sa sút
Thoát Tài : không có tài lộc
Tài Đức :
Nghi Phúc : đón việc phước tới
Lục Hạp : việc làm ăn cũng thích hợp
Thiên Sanh : có sự phù trợ tốt đẹp
Am Đức : có sự phù trợ huyền bí
Trên đây là thước Lỗ Ban còn truyền đến ngày nay.