37. Dương trạch loan đầu bí chỉ
陽宅巒頭秘旨
何知經曰:
何知人家貧了貧, 山走山斜水返身.
何知人家富了富, 員峰磊落皆朝護.
何知人家貴了貴, 文筆秀峰當案起.
何知人家出富豪, 一山高了一山高.
何知人家破敗時, 一山低了一山低.
何知人家出孤寡, 琵琶側扇孤峰邪.
何知人家少年亡, 前也塘兮後也塘.
何知人家吊頸死, 龍虎頸上有條路.
何知人家少子孫, 前後兩邊高過墳.
何知人家二姓居, 一邊有山一邊無.
何知人家主離鄉, 一山主竄過明堂.
何知人家出做軍, 鎗山坐在面前伸.
何知人家被賊偷, 一山走出一山鉤.
何知人家忤逆有, 龍虎山鬥或開口.
何知人家會做師, 排符山頭有香爐.
何知人家不旺財, 只少源頭活水來.
何知人家致死來, 停屍山在面前排.
何知人家受孤陋, 水走明堂似簸箕.
何知人家被火燒, 四邊山腳似芭蕉.
何知人家常發哭, 面前有個鬼神屋.
何知人家不久年, 有一邊兮年一邊.
何知人家修善果, 面前有個香爐山.
何知人家出瘸跛, 前後金星齊帶火.
何知人家有殘疾, 只因水帶黃泉入.
何知人家女淫亂, 門對坑竄水有返.
何知人家宅少人, 後頭來龍無氣脈.
仔細相山並相水, 斷山禍福靈如見,
千形萬象在其中, 不過此經而已矣.
Dương trạch loan đầu bí chỉ
Hà tri kinh viết:
Hà tri nhân gia bần liễu bần, sơn tẩu sơn tà thủy phản thân.
Hà tri nhân gia phú liễu phú, viên phong lỗi lạc giai triêu hộ.
Hà tri nhân gia quý liễu quý, văn bút tú phong đương án khởi.
Hà tri nhân gia xuất phú hào, nhất sơn cao liễu nhất sơn cao.
Hà tri nhân gia phá bại thì, nhất sơn đê liễu nhất sơn đê.
Hà tri nhân gia xuất cô quả, tỳ bà trắc phiến cô phong tà.
Hà tri nhân gia thiểu niên vong, tiền dã đường hề hậu dã đường.
Hà tri nhân gia điếu cảnh tử, long hổ cảnh thượng hữu điều lộ.
Hà tri nhân gia thiểu tử tôn, tiền hậu lưỡng biên cao quá phần.
Hà tri nhân gia nhị tính cư, nhất biên hữu sơn nhất biên vô.
Hà tri nhân gia chủ ly hương, nhất sơn chủ thoán quá minh đường.
Hà tri nhân gia xuất tố quân, sanh sơn tọa tại diện tiền thân.
Hà tri nhân gia bị tặc thâu, nhất sơn tẩu xuất nhất sơn câu.
Hà tri nhân gia ngỗ nghịch hữu, long hổ sơn đấu hoặc khai khẩu.
Hà tri nhân gia hội tố sư, bài phù sơn đầu hữu hương lô.
Hà tri nhân gia bất vượng tài, chỉ thiểu nguyên đầu hoạt thủy lai.
Hà tri nhân gia trí tử lai, đình thi sơn tại diện tiền bài.
Hà tri nhân gia thụ cô lậu, thủy tẩu minh đường tự bá cơ.
Hà tri nhân gia bị hỏa thiêu, tứ biên sơn cước tự ba tiêu.
Hà tri nhân gia thường phát khốc, diện tiền hữu cá quỷ thần ốc.
Hà tri nhân gia bất cửu niên, hữu nhất biên hề niên nhất biên.
Hà tri nhân gia tu thiện quả, diện tiền hữu cá hương lô sơn.
Hà tri nhân gia xuất qua bả, tiền hậu kim tinh tề đái hỏa.
Hà tri nhân gia hữu tàn tật, chỉ nhân thủy đái hoàng tuyền nhập.
Hà tri nhân gia nữ dâm loạn, môn đối khanh thoán thủy hữu phản.
Hà tri nhân gia trạch thiểu nhân, hậu đầu lai long vô khí mạch.
Tử tế tương sơn tịnh tương thủy, đoán sơn họa phúc linh như kiến,
Thiên hình vạn tượng tại kỳ trung, bất quá thử kinh nhi dĩ hĩ.
DỊCH
Dương trạch loan đầu bí chỉ
“Hà tri kinh” nói :
Làm sao biết người ta đã nghèo lại nghèo thêm? – Địa thế có Sơn chạy đi (không chầu về), núi nghiêng lệch, nước phản thân (quay lưng lại mà không ôm vòng).
Làm sao biết người ta đã giàu lại càng giầu? – Địa thế có các đỉnh núi sáng sủa ngay ngắn đều chầu về.
Làm sao biết người ta đã quý lại càng quý? – Có đỉnh núi đẹp như hình văn bút mọc lên ở án sa.
Làm sao biết người ta trở nên đã giầu có? – Trước mặt đã có một núi cao rồi, lại tiếp đến một núi cao hơn.
Làm sao biết người ta đến lúc phá bại? – Trước mặt đã có một núi thấp, lại tiếp đến một núi thấp hơn.
Làm sao biết người ta trở thành cô quả? – Thế đất như có ngọn núi nằm nghiêng như cây đàn tỳ bà.
Làm sao biết người ta vong mạng lúc thiếu niên? – Trước có ao hồ mà sau cũng có ao hồ.
Làm sao biết người ta viếng tang? – Trên Long Hổ có đường hẹp
Là sao biết người ta ít con cháu? – Trước sau và hai bên đều cao quá chỗ ở.
Làm sao biết người ta có hai họ cùng ở chung một nhà? – Một bên có núi một bên không.
Làm sao biết người ta ly hương? – Có một ngọn núi chạy ra khỏi minh đường.
Làm sao biết người ta được giữ chức vụ trong quân đội? – Bởi vì có núi như cái vạc ba chân trải ra ở trước mặt.
Làm sao biết người ta bị giặc cướp? – Hai bên có một núi chạy đi, một núi cong vòng lại
Là sao biết người ta có con bất hiếu ngỗ nghịch? – Hai núi Long Hổ đấu đầu với nhau hoặc mở ra như há miệng.
Là sao biết người ta làm thầy? – Đầu núi như cái thẻ bài mà lại có lò hương.
Làm sao biết người ta không vượng tài? – Chỉ là ở nước chảy đến ít nguồn.
Làm sao biết người ta đến lúc nhiều chết chóc? – Có núi như thây người chết nằm trước mặt
Làm sao biết người ta ngu dốt? – Minh đường xòe ra như cái gầu hót rác để nước chảy đi mất.
Làm sao biết người ta gặp nạn hỏa thiêu? – Chân núi bốn xung quanh xòe ra như quả chuối.
Làm sao biết người ta thường hay gặp khóc than? – Trước mặt có nhà của quỷ thần
Làm sao biết người ta chẳng ở được lâu năm? – Cứ có một biên thì là một năm.
Làm sao biết người ta tu hành thiện quả ? – Trước mặt có núi như cáo lò hương
Làm sao biết người ta bị què quặt? – Núi Kim tinh trước sau đều mang Hỏa
Làm sao biết người ta bị tàn tật? – Chỉ vì nước nhập vào từ cung Hoàng Tuyền
Làm sao biết người ta nam nữ dâm loạn? – Vì cửa đối diện với hố nước bốc mùi, mà nước lại quay lưng lại vô tình.
Làm sao biết người ta nhà chẳng có người? – Lai long phía sau không có khí mạch.
Phải xem kỹ Sơn tương ứng với Thủy, nhìn núi mà đoán họa phúc linh ứng như thấy ở trên. Dù cho tượng của nó có thiên hình vạn trạng. Chẳng qua cũng chỉ như kinh này đã nói mà thôi.
Câu này tối nghĩa, chưa hiểu được, nguyên văn "有一邊兮年一邊" -hữu nhất biên hề niên nhất biên: Ngờ rằng cổ bản có lỗi in khắc.
38. Tự nhiên thủy pháp
Giới thiệu
Thủy Pháp là một phần rất quan trọng của Địa Lý. Nếu không nắm vững về thủy pháp thì kể như là chưa học Địa lý. Xưa nay, đối với thủy pháp người ta vẫn coi trọng cái sự Thu-phóng của thủy mà áp vào lý khí, lấy sinh vượng mộ làm căn bản mà vận dụng âm dương ngũ hành để thu lấy sinh vượng, bài đi tử tuyệt. Tuy nhiên, Địa lý phong thủy vốn có nhiều trường phái. Trong đó, trường phải Hình thể cũng là một lý thuyết rất rộng lớn và thâm sâu.
Bài phú "Tự nhiên thủy pháp ca" này tương truyền là của Lại công (Lại văn Tuấn), dựa trên tinh thần của Hình thế. bài phú này rất ngắn, nhưng chứa đựng nhiều kiến thức quan trọng của Thủy pháp theo phái Hình thể. Dich ra đây để mọi người tham khảo.
Tuy nhiên, như đã nói, Phong thủy có nhiều trường phái, mỗi trường phái có một lập luận riêng, vì thế nên cũng đừng thắc mắc khi gặp phải những điều khác với thông thường, ví như câu "Hà dụng cửu tinh tịnh bát quái. Sinh vượng tử tuyệt giai hư thuyết" (Tại sao phải dụng cửu tinh với bát quái? Sinh –vượng-tử-tuyệt đều là hư thuyết)... tất cả, đúng hay sai còn tùy thuộc vào sự đánh giá của người đọc.
TỰ NHIÊN THỦY PHÁP CA
(Lại Công)
Dịch : TUETVNB
Thủy pháp tối đa nan tận thuật.
Lược cử đại cương thích mê hoặc.
Thế truyện quái lệ thiên sổ gia.
Bỉ cát thử hung hành bất đắc.
(Nói về Thủy pháp thì rất nhiều, không thể nói hết. Chỉ nêu đại cương để giải thích cho người đời khỏi mê hoặc, truyền đời phép này có nghìn nhà, nhưng lúc cát lúc hung không thể làm được)
--
Tự nhiên thủy pháp quân tu ký.
Vô phi khuất khúc hữu tình ý.
Lai bất dục trùng khứ bất trực.
Hoành bất dục phản tà bất cấp.
(Thủy pháp tự nhiên mọi người nên biết, Không cái gì đi không khuất khúc mà lại hữu tình cả. Đến thì không được xung, mà đi không được trực, Hoành thì không được phản lại mà dốc thì không được quá gấp)
---
Hoành tu nhiễu bão cập loan hoàn.
Lai tắc chi nguyên khứ khuất khúc.
Rừng thanh đình súc thậm vi giai.
Khuynh tả cấp lưu hà hữu ích.
(Hoành thì nên ôm vòng quanh, đến thì nên to lớn, đi thì cần khuất khúc. Nếu nơi minh đường nước đọng lại mà trong thanh thì rất tốt, nghiêng mà lại đổ xuống thì chẳng có ích gì)
---
Bát tự phân khai nam nữ dâm.
Xuyên lưu tam phái nghiệp tương khuynh.
Cấp tả cấp lưu tài bất tụ.
Trực lai trực khứ tổn nhân đinh.
(Nước chảy phân khai hình như chữ BÁT thì nam nữ đều dâm, sông đi chảy chia làm ba nhánh thì gia nghiệp gãy đổ, đổ xuống nhanh mà chảy đi nhanh thì tiền tài không tụ, Chảy thẳng đến, chảy thẳng đi thì tổn nhân đinh)
---
Tả xạ trường nam tất tao ương.
Hữu xạ ấu tử thụ tai thương.
Nhược hoàn thủy tòng trung tâm xạ.
Trung phòng chi tử mệnh nan trường.
(Phóng thẳng vào bên trái thì trưởng nam tất gặp tai ương, thẳng vào bên phải thì con trẻ phải thụ thương, quay vòng lại mà phóng thẳng vào trung tâm thì con giữa mệnh khó toàn)
---
Tảo khước la thành tử tức thiểu.
Trùng tâm xạ hiếp cô kiêm quả.
Phản khiêu nhân ly cập thối tài.
Quyển liêm điền phòng dữ nhập chuế.
(Quét mất thành ngoài thì tử tức ít, Xung tâm, phá sườn thì cô quả, vật ngược lại thì ly tán thoái tài, cuộn lại như cuốn rèm thì vợ kế phiền nhiễu)
---
Rừng thanh xuất nhân đa tuấn tú.
Ô trọc sinh tử đa ngu độn.
Đại giang uông dương triêu vạn khoảnh.
Ám phù tước lộc thực ngũ đỉnh.
(Trong xanh thì sinh người tuấn tú, đen đục thì sinh con ngu độn, Sông lớn mênh mông triều vạn khoảnh thì ngầm phò trợ tước lộc bậc đế vương)
---
Trì hồ ngưng tụ khanh tương chức.
Uông dương thủy triêu quý vô địch.
Phiêu phiêu tà xuất thị đào hoa.
Nam nữ hoang dâm tổng phá gia.
(ao hồ ngưng tụ thì làm chức khanh tướng, nước triều về mênh mông thì quý vô địch, chày nhẹ nhàng mà thế xuất ra xiên xiên thì đấy là Đào hoa thủy, chủ về Nam nữ hoang dâm mà phá gia)
---
Sinh nhân xuất nhập hảo du đãng.
Chung triêu xuy xướng sính xa hoa.
Khuất khúc lưu lai tú thủy hồ.
Định nhiên kim bảng hữu danh tiêu.
(Sinh ra người chỉ thích du đãng vào ra. Triều hết về sau thì chỉ thích đàn ca hát xướng. Khuất khúc chảy đến thì là nước đẹp, nhất định sẽ thành đạt có danh)
---
Thủy như lưu khứ vô phương ngại.
Tài phong diệc chủ quan cao mại.
Thủy pháp bất câu khứ dữ lai.
Tổng tu khuất khúc khứ nhưng hồi.
(Tưởng như Thủy chảy đến không có phương hại gì, nhưng tiền tài cũng như quan tước ở đó hết, Thủy pháp thì không câu nệ chuyện chảy đến chảy đi, tóm lại là nên khuất khúc đi mà vẫn về)
---
Tam hồi ngũ chuyển lai cố huyệt.
Du du quyến luyến bất nhẫn biệt.
Hà dụng cửu tinh tịnh bát quái.
Sinh vượng tử tuyệt giai hư thuyết.
(Năm lần chuyển đi ba lần quay về trông lại huyệt, xa vời quyến luyến như không muốn dời đi. Tại sao phải dụng cửu tinh với bát quái? Sinh –vượng-tử-tuyệt đều là hư thuyết)
---
Thuật bỉ nhất thiên kỳ khẩu quyết.
Độc giả hung trung tu thấu triệt.
Mạc hoặc thì nhân quái lệ ngôn.
Họa phúc hữu vô đương tự biệt.
(Thuật này là một thiên khẩu quyết, độc giả nên thấu triệt trong lòng, đừng vì những lời của người ta mà mê hoặc, họa phúc có hay không thì tự phải biết)
Chung (hết) !
39. CỬU TINH CÁT HUNG ĐOÁN
(Quốc học tạp chí - Lưu Dung Cơ)
Nhân gian vạn sự, hữu cát hữu hung, quân khả dĩ dụng cửu tinh thôi tri.
(Vạn sự trong nhân gian, có cát có hung, đều có thể dùng cửu tinh mà biết được!)
Nhất bạch: ngũ hành chúc thủy
Nhất bạch thủy tiên thiên tại Đoài ( tây phương ), hậu thiên cư Khảm (bắc) thượng, ứng tham lang chi tú, hiệu vi ( văn xương ), kỳ sắc bạch;
Sĩ nhân ngộ chi tất đắc kỳ lộc, thứ nhân ngộ chi định tiến tài hỉ, vi đệ nhất cát thần.
Nhất bạch thủy, vi trung nam, vi khôi tinh, chủ văn học nghệ thuật, thông minh linh tú, thiểu niên khoa giáp, chủ thanh danh hiển đạt, danh bá tứ hải, tử bạch quyết vân: "Nhất bạch vi quan tinh chi ứng, chủ tể văn chương."
Nhất bạch thủy, vu thân vi huyết, vi tinh, vi thận, vi nhĩ, sở dĩ đương khảm cung hữu khuyết hãm thì, tiện hội sản sinh tương ứng đích bệnh biến; huyền không bí chỉ vân: "Khảm cung cao tắc nhi nhĩ lung lậu đạo tại khảm cung, di tinh tiết huyết."
Huyền cơ phú vân: "Khảm cung khuyết hãm nhi trụy thai."
Phi tinh đoán vân: "Dĩ tượng thôi tinh, thủy y tà hề thất chí."
DỊCH
Nhất Bạch: ngũ hành thuộc Thủy
Nhất Bạch – Thủy, tiên thiên bát quái tại Đoài (Phương Tây), hậu thiên ở Khảm (Phương Bắc), Tương ứng với sao Tham Lang, hiệu là Văn Xương, màu trắng.
Kẻ sĩ gặp được sao này ắt sẽ được lộc, người thường gặp được sao này nhất định sẽ có hỷ sự, tiến tài. Là đệ nhất Cát thần.
Nhất Bạch-Thủy, là Trung Nam, là Khôi tinh, chủ về văn học nghệ thuật, thông minh linh tú, thiếu niên sớm có khoa giáp, chủ về thanh danh hiển đạt, danh vang bốn biển.
Trong Tử Bạch quyết nói rằng : “Nhất Bạch ứng là Quan tinh, chủ tể văn chương”
Nhất Bạch – Thủy, tại thân thể là máu huyết, tinh, thận, tai. Cho nên nếu cung Khảm mà khuyết hãm thì dễ sinh tai biến bệnh tật khi sinh nở.
Huyền Không bí chỉ nói rằng : “Khảm cung mà cao hiểm thì Tai điếc, nếu có cống thoát, nước chảy đi thì dễ di tinh, chảy máu”.
Huyền Cơ phú nói rằng : “Cung Khảm mà khuyết hãm thì dễ trụy thai”.
Phi tinh đoán nói : “ Lấy tượng mà đoán sao, Thủy mà nghiêng lệch thì công danh không đạt”
Nhị hắc: ngũ hành chúc thổ.
Nhị hắc thổ tiên thiên tại khảm (bắc phương), hậu thiên cư khôn (tây nam), ứng cự môn chi tú, hiệu vi (bệnh phù), kỳ sắc hắc;
Huyền cơ phú vân: "Cự nhập cấn khôn, điền liên thiên mạch." Đương vượng thì phát điền tài, vượng nhân đinh; nhị vận nhâm sơn, giáp sơn, ngọ sơn, đinh sơn, dậu sơn, tân sơn, hướng thượng hữu thủy, chủ phú.
Thiên ngọc kinh vân: "Khôn sơn khôn hướng thủy lưu khôn, phú quý vĩnh vô hưu." Tu phối hợp loan đầu đoán ứng. Đãn vi hối khí bệnh phù tinh, phi tinh phú vân: "Nhược phu thân tiêm hưng tụng." ( nguyên chú: tiêm giả, tiêm phong dã, tại nhất cửu vi văn bút, tại tứ vi họa bút, tại thân vi từ tụng bút.
Nhị tinh khôn vị chúc tây nam, mùi khôn thân tam sơn. ) chủ ưu sầu ức uất hữu sở bất miễn; vi khắc sát thì, chủ dựng phụ hữu tọa thảo chi lự, hoặc thiệp phụ nhân nhi hưng tụng, hoặc nhân nữ tử dĩ chiêu phi, đại để thử phương bất nghi tu động, phạm giả âm nhân bất hành, hoạn bệnh tất cửu.
DỊCH
Nhị Hắc: Ngũ hành thuộc thổ
Nhị Hắc – Thổ, tiên thiên tại Khảm (phương Bắc), hậu thiên tại Khôn (Tây Nam), tương ứng với sao Cự Môn, hiệu là Bệnh Phù, màu đen.
Huyền Cơ phú nói : “Cự Môn mà nhập vào cung Cấn, cung Khôn, ruộng liền bờ không hết”.
Ở lúc đương vượng thì phát điền tài, vượng nhân đinh. Vận 2 – Các sơn Nhâm, Giáp, Ngọ, Đinh, Dậu, Tân mà có Thủy thì chủ về Phú (giầu có).
Thiên Ngọc Kinh nói :” Khôn sơn, Khôn hướng, Thủy lưu Khôn, Phú quý mãi không dứt”. Nên phối hợp với loan đầu mà đoán.
Nhưng Nhị Hắc là vốn là ám khí của sao Bệnh Phù, Phi tinh phú nói :”Nếu cung Thân mà nhọn sắc thì nhiều kiện tụng” (Tiêm – là đỉnh nhọn, tại Nhất, Cửu thì sẽ có tượng là bút viết văn, tại Tứ thì có tượng là bút vẽ, tại Thân là bút viết đơn kiện – Sao Nhị tinh ở Khôn, thuộc Tây nam, quản 3 sơn Mùi Khôn Thân). Chủ về ưu sầu uất ức khó tránh. Lúc bị khắc sát thì chủ đàn bà chửa ngồi trong cỏ mà lo, hoặc bị phụ nhận kiện cáo, hoặc vì con gái gặp thị phi…đại để phương này không nên sửa chữa động chạm, nếu phạm vào, phái nữ không tốt, bệnh tật lâu khỏi.
:Nguyên văn: chủ dựng phụ hữu tọa thảo chi lự (Chủ về phụ nữ mang thai gặp mối lo ngồi trong cỏ - Không hiểu nghĩa nên tạm dịch vậy, chắc là một thành ngữ
Tam bích: ngũ hành chúc mộc
Tam bích mộc tiên thiên tại cấn (đông bắc), hậu thiên cư chấn (đông phương), ứng lộc tồn chi tú, hiệu vi (xi vưu), kỳ sắc bích lục; thiên ngọc kinh vân: "Mão sơn mão hướng mão nguyên thủy, đại phú thạch sùng bỉ."
Đương vận chủ hưng gia lập nghiệp, nhi phú quý công danh; chấn vi chính đông, quản giáp mão ất tam sơn, dĩ mão vi chính đông.
Thất vận thì, tam bích thị tặc tinh, chủ quan phi đạo kiếp.
Tử bạch quyết vân: "Xi vưu bích sắc, hảo dũng đấu ngoan chi thần."
Phi tinh phú vân: "Bích bản tặc tinh, phạ kiến tham đầu sơn vị." Giá cú phú văn kết hợp liễu loan đầu, tặc phối tham sơn đầu định tao tặc kiếp.
Nhược ngộ khắc sát tắc quan tai tụng phi lập kiến, tàn bệnh hình thê tao kỳ hung, phạm chi giả nùng huyết chi tai, xúc chi giả túc tật đại họa.
Chấn vi mộc, mộc chủ nhân, nhược nhiên thất vận loan đầu soa, tiện biến thành bất nhân, phi tinh phú vân: "Mộc phản trắc hề vô nhân."
DỊCH
Tam Bích: ngũ hành thuộc Mộc
Tam Bích – Mộc, tiên thiên bát quái tại Cấn (Đông Bắc), hậu thiên tại Chấn (Đông), Tương ứng với sao Lộc Tồn, hiệu là Xi Vưu, màu xanh biếc.
Thiên Ngọc Kinh nói : “Mão sơn, Mão hương, lại có nguồn nước ở Mão thì giầu giống như Thạch Sùng vậy”.
Nếu lúc đương vận, chủ về hưng gia lập nghiệp, được phú quý công danh. Chấn là chính Đông, quản 3 sơn Giáp Mão Ất, nên lấy Mão là chính Đông.
Nếu khi thất vận, Tam Bích là Tặc tinh, chủ về quan phi (dính đến pháp luật) đạo kiếp (trộm cướp)
Tử Bạch quyết nói : “Xi vưu màu xanh biếc, là thần chỉ ham đánh nhau”
Phi tinh phú nói : “Bích vốn là Tặc tinh, rất sợ nếu thấy đầu núi nhô ra”, Câu này phú viết kết hợp với loan đầu, Tặc tinh phối với “tham sơn đầu” (núi nhô đầu lên) nhất định gặp giặc cướp.
Nếu gặp khắc sát, lập tức có quan phi kiện tụng, vợ gặp hung hạn, phạm vào sẽ gặp tai ách nùng huyết (nhọt máu), gặp nhiều tai họa lớn.
Chấn thuộc Mộc, Mộc chủ về nhân ái, nếu gặp lúc thất vận hoặc có loan đầu xấu, dễ biến thành bất nhân.
Phi tinh phú nói : “ Mộc mà phản trắc là sẽ là vô nhân vậy”
Tứ lục: ngũ hành chúc mộc
Tứ lục mộc tiên thiên tại khôn (tây nam), hậu thiên cư tốn (đông nam), ứng văn khúc chi túc, hào vi (văn xương), kỳ sắc thanh lục;
Đương kỳ vượng chủ đăng khoa giáp đệ, quân tử gia quan, tiểu nhân tiến sản; tử bạch quyết vân: "Cái tứ lục vi văn xương chi thần, chức ti lộc vị."
Vi khắc sát thì, chủ hữu phong hao tự ải chi ách, dâm dật lưu đãng, tất thế sở hữu. Phi tinh phú vân: "Phong uất nhi khí ki bất lợi" ( nguyên chú: tại thiên vi phong, tại nhân vi khí, tốn cung trất tắc, cố hữu thử ứng ).
Phi tinh phú vân: "Tốn như phản tí, tổng liên lưu lạc vô quy." ( nguyên chú: tứ lục đáo xử, sa hình như tí hướng ngoại phản bão giả, chủ lưu lạc tha hương, nhân phong tính phiêu đãng cố dã ).
DỊCH
Tứ lục: Ngũ hành thuộc Mộc
Tử lục – mộc, tiên thiên ở tại Khôn (Tây nam), Hậu thiên tại Tốn (Đong Nam), ứng với sao Văn Khúc, hiệu gọi là Văn Xương, màu xanh lục.
Khi vượng thì chủ về đỗ đạt, kẻ quân tử thì thăng quan, kẻ tiểu nhân cũng được tiến tài.
Tử bách quyết nói : “Tứ lục là thần Văn xương, chủ về lộc vị”.
Nếu khắc sát thì chủ về ách phong lao, tự tử, dâm dật phóng đãng, ắt bị bệnh ở bộ phận sinh dục.
Phi tinh phú nói : “Phong uất mà bất lợi cho khí” (Nguyên chú : Tại Thiên là Phong, tại Nhân là khí, cung Tốn bị bế tắc, nên ứng như vậy)
Phi tinh phú nói : “ Tốn như cánh tay trái, thọ thương thì lưu lạc không về” (Nguyên chú : Tứ lục đến chỗ nào mà có Sa như cành tay phía ngoài ôm lại, chủ về lưu lạc tha hương, nguyên nhân vì PHONG có tính phiêu đãng nên mới như vậy)
Ngũ hoàng: ngũ hành chúc thổ
Ngũ hoàng thổ vị trấn trung ương, uy dương bát diện, ứng liêm trinh chi túc, hào vi ( chính quan sát ), kỳ sắc hoàng;
Nghi tĩnh bất nghi động, động tắc chung hung; nghi hóa bất nghi khắc, khắc chi tắc họa điệp;
Mậu kỷ đại sát, tai hại tịnh chí, hội thái tuế, tuế phá, họa hoạn tần sinh.
Thử tinh trị phương tại bình thản chi địa, môn lộ đoản tán, do hữu tật bệnh, lâm cao tuấn chi xử môn lộ trường tụ, định chủ thương nhân.
Tử bạch quyết vân: "Ngũ chủ dựng phụ thụ tai." Hựu vân: "Vận như dĩ thối, liêm trinh phi xử sảnh bất nhất, tổng dĩ tị chi vi cát" - "Chính sát vi ngũ hoàng, bất câu lâm phương đáo gian, nhân khẩu thường tổn" ngũ hoàng trị kỳ hung tao hồi lộc chi tai, ngộ uấn hoàng chi ách, kỳ tính tối liệt, kỳ họa tối khốc.
Cái dĩ thổ vi ngũ hành chi chủ, trung vi kiến cực chi cơ, hữu thiên tử chi tôn ti vạn vật chi mệnh, bất khả khinh phạm giả, thảng hữu đại thạch tiêm phong, xúc kỳ nộ, cổ thụ thần miếu, tráng kỳ uy, như hỏa viêm viêm bất khả để đáng.
DỊCH
Ngũ Hoàng: Ngũ hành thuộc Thổ
Ngũ hoàng – thổ trấn ở trung ương, uy dương tám hướng, ứng với sao Liêm Trinh, hiệu gọi là Chính quan sát, màu vàng.
Thích TĨNH hơn thích Động, động thì hung, thích HÓA mà khong thích KHẮC, nếu bị khắc thì ắt là họa chồng chất.
Mậu Kỷ đại sát, tai - hại cùng đến, hội Thái tuế, Tuế phá, phát sinh họa hoạn.
Sao này gặp vào phương yên ổn, môn lộ ngắn – tán, cũng phát sinh bệnh tật. Nếu vào chỗ cao lớn, nơi Môn lộ Trường – tụ, nhất định chủ về thương tích.
Tử Bạch quyết nói : “Ngũ chủ về đàn bà chửa gặp tai họa”, lại nói :”Vận nư đã lui, chỗ Liêm trinh bay đến không cái vạ nào giống cái vạ nào, tom lại nên tránh đi là hơn cả”
“Ngũ Hoàng là Chính sát, bất kể là bay đến hoặc chiếu đến, nhân khẩu thường bị tổn”, Ngũ hoàng gặp lúc Hung gặp tai ách về tiền tài, gặp tai ách kinh hoàng, tính rất ác, àm họa thì rất khốc liệt”.
Thuộc thổ vốn là chủ trong Ngũ hành, ở giữa là nền tảng vững nhất, là thiên tử chí tôn trông coi mệnh vạn vật. Không thể khing phạm, ví như đá lớn đỉnh nhọn, đâm lên mạnh mẽ, như Cổ thụ thần miếu, uy lực mạnh mẽ, như lửa hừng hực, không thể ngăn cản.
Lục bạch: ngũ hành chúc kim
Lục bạch kim tiên thiên tại ly ( nam phương ), hậu thiên cư kiền ( tây bắc ), ứng vũ khúc chi tú, hiệu vi ( quan quý ), kỳ sắc bạch, tính thượng cương;
Đương kỳ vượng, chủ đăng khoa giáp đệ, uy quyền chấn thế, cự phú đa đinh, quân tử gia quan, tiểu nhân tiến sản; thiên ngọc kinh vân: "Kiền sơn kiền hướng thủy lưu kiền, kiền phong xuất trạng nguyên."
Ngộ kỳ khắc sát, chủ linh đình cô khổ, hình thê thương tử. Ai tinh lục bạch phương chi sơn kỵ khai lộ đoạn đầu; phi tinh phú vân: "Kiền nhược huyền đầu, canh thống tao hình mạc tị." (nguyên chú: huyền đầu đoạn đầu, sa dã, tao hình sát trạc dã.)
DỊCH
Lục bạch: Ngũ hành thuộc Kim
Lục bạch – Kim, tiên thiên ở tại Ly (Phương Nam), hậu thiên ở tại Càn (Tây Bắc), ứng với sao Vũ Khúc, hiệu gọi là Quan quý, màu trắng, tính rất cứng rắn.
Vào lúc vượng, chủ đỗ đạt, uy quyền chấn thế, cực giầu, nhiều con, quân tử thì thăng quan, tiểu nhân thì tiến tài.
Thiên ngọc kinh nói : “Càn sơn, Càn hướng, thủy chảy phương Càn, núi ở phương Càn, sẽ sinh ra trạng nguyên”
Nếu bị khắc sát, chủ về lênh đênh khổ sở, khắc vợ, hại con, Trên tinh bàn, phương Lục Bạch kỵ mở đường cụt.
Phi tinh phú nói : “Càn nếu có Huyền đầu, khó tránh được hình ngục đau đớn” (nguyên chú : Huyền đầu-đoạn đầu, tức là Sa, chọc vào thì gây hình sát)
Thất xích: ngũ hành chúc kim
Thất xích kim tiên thiên tại tốn (đông nam), hậu thiên cư đoài (chính tây), ứng phá quân chi túc, hào vi (túc sát), kỳ sắc xích hồng,
Hữu tiểu nhân chi trạng, vi đạo tặc chi tinh; tử bạch quyết vân: "Phá quân xích danh, túc sát kiếm phong chi tượng."
Trị kỳ sinh vượng tài đinh diệc tăng;
Nhược vi khắc sát, định chủ quan phi khẩu thiệt, tất tu dữ loan đầu cập tinh sổ hợp tham cát hung.
Phi tinh phú vân: "Xích vi hình diệu, na kham xạ hiếp thủy phương."
Huyền không bí chỉ vân: "Đoái khuyết hãm nhi thần vong xỉ hàn." ( nguyên chú: hạ nguyên đoài phương khuyết hãm, hoặc thủy trùng bại, giai chủ khuyết thần âm ách, khẩu hầu chư bệnh).
Phi tinh phú vân: "Thất hữu hồ lô chi dị, y bặc hưng gia." ( nguyên chú: thất vi hình, hữu trừ chi tượng, cố vi y, hồng phạm thất kê nghi cố vi bặc, hồ lô sa, hình như hồ lô dã ).
Phi tinh phú vân: "Thất phùng đao kiềm chi tượng, đồ cô cư tứ." ( nguyên chú: đao kiềm, sa hình dã, thất nãi tây phương kim, cố vi đồ, hựu vi khẩu thiệt, cố vi cô dã. )
Hựu vân: "Thiết tượng duyên kiềm chùy thất địa." ( nguyên chú: thử bằng sa chi hình tượng dĩ đoạn, thiên biến vạn hóa, tổng tại hình dữ tinh dã. ) thu kim chủ sát, cửu tử khả chế, hạ nguyệt kỵ lâm, bát bạch hòa chi.
DỊCH
Thất xích: Ngũ hành thuộc Kim
Thất xích – kim tiên thiên tại Tốn (Đông Nam), hậu thiên tại Đoài (Phương Tây), ứng với sao Phá Quân, hiệu gọi là Túc sát, màu đỏ.
Hình dáng như tiểu nhân, là sao đạo tặc.
Tử bạch quyết nói : “Tên là Phá Quân xích, là tượng sát của mũi kiếm”
Ở nơi sinh vượng thì đinh-tài cũng được tăng tiến. Nếu là bị khắc sát, chủ về quan phi khẩu thiệt, ắt sẽ hợp với loan đầu cũng tinh số xen vào sự cát hung.
Phi tinh phú nói :”Xích là Hình diệu, không chịu được thủy từ phương hai bên công lại”
Huyền không bí chí nói :” Đoài khuyết hãm là Môi hở răng lạnh” (nguyên chú : Hạ nguyên, Đoài phương khuyết hãm, hoặc bị thủy trùng phá, đều chủ về tai ách sứt môi, tiếng nói… bệnh về mồm họng)
Phi tinh phú nói : “Thất mà có Hồ lô khác lạ, chủ về Y-Bốc hưng gia” (nguyên chú : Thất là hình, tượng là thềm, Hồng phạm thất kê cho rằng đó là tượng của Bói. Hồ lô sa là sa có hình như cái hồ lô ).
Phi tinh phú nói : « Thất gặp hình đao - kìm, làm đồ tể bán thịt » (Nguyên chú : Đao kìm là hình của Sa, Thât –Kim ở Tây phương, nên là giết mổ, lại là khẩu thiệt, nên nói là bán thịt vậy)
Lại nói : « Thất địa là nơi thợ rèn cầm kìm búa », (Nguyên chú : đây là dựa vào hình thế của Sa mà đoán, , thiên biến vạn hóa, đều tại Hình với sao mà ra). Mùa thu kim chủ về Sát, Cửu tử có thể chế, Kỵ chiếu vào hạ nguyệt, Bát bạch thì hòa
Bát bạch: ngũ hành chúc thổ
Bát bạch thổ tiên thiên tại kiền ( tây bắc ), hậu thiên cư cấn ( đông bắc ), ứng tả phụ chi túc, hào vi ( tài tinh ), kỳ sắc hạnh bạch;
Trị sinh vượng tắc phú quý công danh, vượng điền trạch phát đinh tài, xuất trung thần hiếu tử phú quý thọ khảo.
Ngộ khắc sát tắc tiểu khẩu tổn thương,
Tính bản từ tường, năng hóa hung thần phản quy cát diệu, cố dữ nhất lục giai quy cát luận, tịnh xưng tam bạch.
Huyền không bí chỉ vân: "Gia hữu thiểu vong, chích vi trùng tàn tử tức quái."
Hựu vân: "Cấn thương tàn nhi cân khô tí chiết."
Hựu vân;"Ly hương sa kiến cấn vị, định tao dịch lộ chi vong." ( nguyên chú: cấn vi sơn, vi nham bích, thảng thử phương hữu phản bối ly hương sa, canh ngộ thất nguyên, chủ lưu vong vu ngoại, hoặc sơn cước dịch lộ chi bàng ).
DỊCH
Bát Bạch: Ngũ hành thuộc Thổ
Bát bạch – thổ, tiên thiên tại Càn (Tây Bắc), hậu thiên tại Cấn (Đông Bắc), ứng với sao Tả Phụ, hiệu gọi là Tài tinh, màu trắng.
Ở vào nơi sinh vượng thì Phú quý công danh, vượng điền trạch, phát đinh tài, sinh ra tôi trung con hiếu, phú quý thọ khảo.
Gặp khắc sát, thì tổn thương mồm miệng. Bản tình hiền lành, có thể chế háo Hung thần thành cát diệu, cùng với Nhất-Lục đều luận là Cát, gọi là Tam Bạch.
Huyền không bí chỉ nói : “Trong nhà có mất mát nhỏ, đều tại tử tức quái bị phá”
Lại nói :”Cấn mà bị thương tàn thì gân khô, tay gãy”
Lại nói : “Cấn mà thấy ly hương sa, nhất định chết trên đường” (Nguyên chú : Cấn vi Sơn, là vách đá, nếu phương này lại có Phản bối ly hương sa, gặp thêm thất vận, chủ lưu vong bên ngoài, hoặc bôn ba chân núi đường xa).
CỬU TỬ: ngũ hành chúc hỏa
Cửu tử hỏa tiên thiên tại chấn ( chính đông ), hậu thiên cư ly ( chính nam ), ứng hữu bật chi túc, hào vi ( cát khánh ), kỳ sắc tử hồng, tính tối táo,
Cát giả ngộ chi lập khắc phát phúc,
Hung giả trị chi bột nhiên đại họa, cố thuật sổ gia xưng vi cản sát thôi quý chi thần, đãn hỏa tính cương bất năng dung tà, nghi cát bất nghi hung.
Huyền không bí chỉ vân: "Hỏa diệu liên châu tương trị, thanh vân lộ thượng tự tiêu diêu." ( nguyên chú: sơn đắc dương tinh, thủy diệc đắc dương tinh, tuy quý nhi bất phú. Bảo chú: hỏa diệu tiêm tú chi phong, tức văn bút dã ).
Thiên ngọc kinh vân: "Ngọ sơn ngọ hướng ngọ lai đường, đại tương trị biên cương."
Huyền ki phú vân: "Ly vị sàm nham nhi tổn mục" ly chủ mục, ly vị loan đầu hữu tổn tắc thương mục.
Phi tinh phú vân: "Hỏa ám nhi thần chí nan thanh." (nguyên chú: hỏa vi thần, nhược ly cung u ám, chủ thần hôn.)
Dịch:
CỬU TỬ: Ngũ hành thuộc Hỏa
Cửu tử - Hỏa, tiên thiên tại Chấn (chính Đông), hậu thiên tại Ly (chính Nam), ứng với sao Hữu Bật, hiệu gọi là Cát Khánh, màu đỏ, tính rất khô.
Cát mà gặp thì lập tức phát phúc. Hung mà gặp thì đột nhiên đại họa, nên thuật số gia gọi là thần Cản sát – Thôi quý , nhưng hỏa tính cứng rắn, không thể chứa tà, nên tốt hơn là hung.
Huyền không bí chỉ nói : “Hỏa diệu Liên châu cùng ở một chỗ, thì đường mây đắc lộ tiêu diêu” ( Nguyên chú : Sơn được Dương tinh, Thủy cũng được Dương tinh, tuy quý mà không phú, chú thêm : Hỏa diệu mà gặp đỉnh nhọn, tức là văn bút vậy)
Thiên ngọc kinh nói :”Ngọ sơn, ngọ hướng, ngọ đến mình đường, là đại tướng giữ biên cương”
Huyền cơ phú nói :”Ở Ly mà có đầu núi lởm chởm thì mắt bị tổn thương”, Ly chủ về mắt, Tại Ly mà loan đầu làm tổn hại ắt sẽ bị thương ở mắt.
Phi tinh phú nói : “Hỏa mà bị ám thì Thần không thể trong được” (Nguyên chú : Hỏa là Thần trí, nếu Ly cung mà u ám, thì chủ về Thần trí mê muội”.
Chín Sao Tử Bạch Tinh Tốt Xấu
1. (Nhất) Bạch Tham Lang: (Đào Hoa Tinh) Ngũ hành thuộc Thủy là sao cát. Tài vận là ổn định. Quản về quan quý, nam đinh, nhân duyên. Phương có nó hợp với cửa, phòng, bếp cùng chỗ đặt nước, nói chung là không kỵ.
2.(Nhị) Hắc Cự Môn Tinh (Bệnh Phù Tinh) Ngũ hành thuộc Thổ là một ngôi sao hung, cũng là bệnh Thần. Chủ phá tài bênh tật. Nhị Hắc vì cũng gọi là Bệnh Phù, như thế nếu chỗ ấy là cửa, phòng, bếp, nước thì đễ bị tai họa, bệnh tật, có thể đặt Tỳ Hưu hai sừng bằng đồng để hóa giải.(Tỳ Hưu giải tà là loại có hai sừng, tốt nhất là có cánh đang giương cánh lên.)
3.(Tam) Bích Lộc Tồn (Si Vưu Tinh) Ngũ hành thuộc Mộc. Chủ về tranh cãi tranh đấu, quan hình, là hung tinh. Hung Tinh này đưa đến phá tài, bị lừa đảo, bị giặc cướp. Nếu nó đến cửa, phòng, bếp, chỗ nước, có thể di chuyển nước đi chỗ khác, nếu cửa, phòng không thể di chuyển nên đặt thảm đỏ hóa giải.
4.(Tứ) Lục Văn Khúc (Văn Xương Tinh) Ngũ hành thuộc Mộc. Là một sao nửa vời, tốt xấu không rõ ràng, cũng là khoa giáp, quý nhân tinh, là cát hay hung cần theo hoàn cảnh mà xác đinh, tài vận thuộc bình ổn. Tại chỗ nó có thể đặt bồn cảnh xanh, như hoa lan, thần tài.
5.(Ngũ) Hoàng Liêm Trinh (Quan Sát Phương) Ngũ hành thuộc Thổ đới Hỏa Khí. Nó là một sao Đại Sát, nó mang đến sự chết chóc đau đớn, bệnh nặng, phá hoại, phá tài tai nạn huyết quang. Chỗ đó không được bày ban thờ thần linh, nếu là cửa, phòng, bếp, có thể bày một đôi Tỳ Hưu đồng để hóa giải
6.(Lục) Bạch Vũ Khúc (Vũ Khúc) ngũ hành thuộc Kim. Sao tốt chưởng quản Vũ Quý, vượng đinh, tiến tài, là cát tinh. Tích tụ tiền tài. Thúc đẩy hoạch tài (tiền bạc không chính đáng) tất dùng Ngọc Tỳ Hưu bày một con (Chỉ dùng loại 1 sừng). Thúc đẩy chính tài có thể dùng 1 Kim Thiềm Thừ(Cóc ba chân) để bày. (Hoạch tài có thể tổn thân).
7.(Thất) Xích Phá Quân (Phá Quân Tinh) Ngũ hành thuộc Kim. Hung tinh chủ quan tư, phá hao, là sao cướp giật, phá tài, phạm huyết quang. Nếu là cửa, phòng, bếp, giường nên bày phong thủy luân hoặc bày một cái chậu đồng đựng nước để hóa giải.
8.(Bát) Bạch Tả Phụ (Tài Bạch Tinh) Ngũ hành thuộc Thổ. Cát tinh cùng phát quý thêm đinh, tiến tài, chủ vượng tài, quan quý. Thôi tài cũng giống như Lục Bạch. Tử Thủy Tinh Động cũng có năng lực thôi tài, có thể bày ở phương đó.
9.(Cửu) Tử Hỏa Tinh (Hữu Bật Tinh) Ngũ hành thuộc Hỏa đới Kim Khí. Là Cát Tinh nhưng dễ bị hỏa tai, thiên về vui mừng, tài chính, có thể đánh giá là bán hung bán cát. Tài vận thì tốt vừa. Có thể bố trí chỗ gồi làm việc vào đó. Có thể bày vào đó một cóc ba chân Kim Thiềm Thừ, hoặc Tỳ Hưu một sừng để vượng tài.