Dương trạch là ngôi nhà ở của người còn sống. Về vấn đề nhà ở, còn quan trọng khẩn thiết hơn là ngôi âm phần hay là âm trạch (tức là lăng mộ hay mồ mả của những người đã qua đời), lý do là: địa khí thì đi chìm dưới đất còn xung đúc vào thi hài của người chết, rồi các tinh khí của thi hài đó mới phát xuất từ âm khí, nó sẽ tìm đến dương khí của người cùng khí huyết, tức cùng chung một giòng máu mới hợp nhập (liền hút vào nhau) câu “Đồng khí tương cầu” chính là nghĩa đó. Hai cái khí âm và dương cùng giòng máu ấy, hòa với nhau, dần dần tiêm nhir64n truyền vào thai sanh của hài nhi (tức con cháu dòng giống của tiền nhân) nên cái họa phước còn chậm trể, chứ về dương trạch thì thiên khí đi nổi ở trên, khe mở cửa ra là khí theo đường cửa vào nhà ngay, những người ở trong ngôi nhà đó, cùng hấp thụ không khí ấy, hàng ngày trực tiếp dưỡng dục ngay ở bản thân.
Vậy, sự hung, cát có ảnh hưởng linh ứng đến mình rất mau chóng, có thể là nay thịnh, mai suy, sớm cười, tối khóc, không chừng. Đó là lý khí của ngũ hành vận chuyể, hoặc tương sinh, hay tương khắc đối với mỗi người, mỗi ngôi nhà đều khác biệt, nên sự hung, cát, tốt xấu có khau nhau, ta thường nói: “Đất có tuần, nhận có vận” là lẽ thật! Các vị Thánh-Hiền xưa nay từng kinh nghiệm, nên đã phát minh, để lại kinh sách truyền cho hậu thế, tức là giúp ích, tạo phúc cho nhân loại. Tuy huyền bí, nhưng thấy linh ứng hiển nhiên! Những bậc thức giả không còn hồ nghi, nên mới tận tâm tín mộ học hỏi để am hiểu phương pháp mà tự lực dựng nhà đất, mở cửa ngõ…để đón lấy khí lành, tránh khí sát, khiến cho gia đình được an cư trước rồi mới tính đến sự lạc nghiệp sau, điều đó là quan niệm thông thường của người đông phương.
Về phương pháp chọn chỗ đặt nền nhà, ngôi dương trạch cũng đồng một nguyên tắc về địa lý như đặt ngôi âm phần vậy, chỉ khác một vài điểm nhỏ thôi.
DẪN GIẢI MỘT SỐ DANH TỪ CHUYÊN MÔN CẦN BIẾT TRONG THUẬT PHONG THỦY
Chúng ta có thể nói rằng Kinh Dịch là nguồn gốc của tất cả các khoa học Đông phương, từ thuật số, bói toán, y học, nông nghiệp, sinh vật học, sinh lý học, vật lý, hóa học, cho đến văn học…
Dịch có thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái. Thuật Địa Lý, Phong Thủy cũng từ gốc Kinh Dịch mà ra, do đó chúng ta còn thâm hiểu Kinh Dịch thì nghề Địa Lý Phong Thủy cũng cao sâu nhiều. Trong phạm vi bài này ta chỉ cần tìm hiệu những tiêu điểm chủ yếu từ Kinh Dịch riêng biệt cho thuật Phong Thủy.
Ý NGHĨA TÊN GỌI CÁC CUNG TRÊN BÁT ĐỒ.
Nhìn vào bảng bát quái (8 quẻ ta thấy có sự sắp xếp cấu trúc các cung, từ đó cũng có những tên gọi ý nghĩa khác nhau. Bát Quái đồ là một hình vẽ có 8 cạnh bằng nhau mỗi cạnh 4500, gọi là cung, như vậy Bát Quái có 8 cung chuyển dịch theo vòng tròn gồm có: Kiền, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.
Cung mạng trạch là cung bổn mạng của chủ nhà
Cung này không nằm trong hệ thống 8 cung nói trên, mà đặt ở trung tâm của Bát Quái Đồ, tất cả mỗi người trên thế gian này đều chịu ảnh hưởng của 1 trong 8 cung bổn mạng. Người mạn Kiền gọi là Kiền mạng trạch, người mạng Khảm gọi là Khảm mạng trạch, và cứ như vậy tính cho tới cung Đoài. Tổng cộng là 8 mạng trạch nghĩa là có 8 kiểu hình Bát Quái.
Muốn biết chủ nhà thuộc mạng trạch gì, cần phải tra tìm tong bảng Bát trạch Tam Nguyên (có in trong bộ sách này), sẽ có phương pháp hướng dẫn tìm cung phi (tức cung mạng trạch của nam và nữ)
Cung phương hướng
1. Càn: có 3 gạch liền thuộc Dương Kim, hướng Tây Bắc. Ứng về người là cha, ông, ông già.
2. Khảm: có gạch giữa liền thuộc Dương Thuỷ, hướng chánh Bắc. Ứng về người là con trai giữa, đàn ông, lứa tuổi vừa vừa.
3. Cấn: có gạch trên liền thuộc Dương Thổ, hướng Đông Bắc. Ứng về người là thiếu nam, con trai nhỏ
4. Chấn có gạch dước liền thuộc Dương Mộc, hướng Chánh Đông. Ứng về người là trưởng nam, con cháu trai lớn.
5. Tốn: có gạch dưới đứt thuộc Âm Mộc, hướng Đông Nam. Ứng về người là trưởng nữ, con cháu gái lớn
6. Ly: có gạch giữa đứt thuộc Âm Hỏa, hướng Chánh Nam. Ứng người là trung nữ, con cháu gái giữa
7. Khôn: có 3 gạch đứt thuộc Âm Thổ, hướng Tây Nam Ứng người là mụ, bà, bà già.
8. Đoài có gạch trên đứt thuộc Âm Kim, hướng Chánh Tây. Ứng về người là thiếu nữ, con cháu gái nhỏ.
Đó là 8 ô trong hình Bát Quái cũng gọi tên bằng quẻ của Bát Quái, mỗi quẻ chỉ có một phương hướng cố định, nghĩa là dù ta có 8 bảng cung, mạng trạch của chủ nhà thì phương hướng cũng như nhau, chẳng hạng như:
Bát cung là 8 cung: Càn, Khảm, Cấn, Chấn , Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Mỗi cung nào cũng có 3 gạch song song với nhau: gạch trên, gạch giữa và gạch dưới, có gạch đứt có gạch liền. Trong 8 cung chỉ có cung Kiền là 3 gạch đều liền và cung Khôn có 3 gạch đều đứt. Còn các cung kia có gạch đứt có gạch nối liền, nhưng chỉ có một gạch cũng đủ biết 2 gạch kia. Thí dụ nói cung Khảm gạch giữa liền tất nhiên 2 gạch kia đứt. Hai gạch kia là 2 gạch trên và gạch dưới vậy. Muốn xáx định 8 hướng trên đây cho một ngôi nhà. Ta phải sử dụng la bàn và một Bát Quái có cung mạng đúng với chủ nhà (xem bài phân cung điểm hướng).
Lưu ý: Ta không thể theo 4 phương hướng chu vi của ngôi nhà để tự định hướng được, không bao giờ có sự chấp nhận là ngôi nhà nào đó, phía mặt tiền, mặt hậu, bên hông phải, bên hông trái là hướng nào cả. (Nên theo hướng kim la bàn).
Cung Dương Trạch Còn gọi là cung Du Niên:
Du: chuyên chở, đem đến
Niên: năm, mùa gặt, kết quả.
Trong mỗi Bát Quái Đồ cũng có 8 cung Du Niên đóng trên vị trí của các cung phương hướng nhưng cung Du Niên lúc nào cũng dịch chuyển vòng theo hình Bát Quái ta sẽ căn cứ vào đó để lý giải, khi có sự phối hợp giữa cung phương hướng và cung Du Niên. 8 cung Du Niên với sự cát, hung sau đây:
Lưu ý: Ngũ quỷ và giao chiến, Diên niên và phước đức, Lục sát với du hồn, Họa hại và tuyệt mạng, Phục vị và qui hồn.
Ngũ quỷ và giao chiến vẫn là một nghĩa, 4 cung kia cũng vậy. Nhưng muốn phân biệt hơn nếu xem vào phương hướng tạo tác thì gọi: Ngũ quỷ, Diên niên, Lục sát, Họa hại và phục vị – Còn xem về hơn nhân thì gọi: Giao chiến, Phước đức, Du hồn, Tuyệt mạng và Qui hồn. 3 Du niên còn lại vẫn dùng chung không thay đổi là : Sanh khí, Thiên y và Tuyệt mạng.
8 Du niên trên đây đều dịch chuyển tùy theo cung mạng trạch của chủ nhà, do đó không có sự ấn định phương hướng nào là Du niên đang đóng.
Ví dụ: Du niên sinh khí
Nếu chủ nhà mạng Kiền thì sinh khí đóng tại hướng Đoài (chánh Tây) Nếu chủ nhà mạng Khảm thì sinh khí đóng tại hướng Tốn (Đông Nam)
Cứ như vậy 8 cung mạng của chủ nhà thì cung sinh khí đều đổi vị trí ở 8 hướng khác nhau. Trong bốn hướng tốt trở cửa cái về hướng nào cũng được, nhưng thuận hơn hết là được hướng Phục vị. Còn bốn hướng xấu hoặc làm cầu tiêu, nhà tắm, hay chuồng nuôi súc vật
Nếu ngôi nhà đã làm rồi mà không biết phương hướng thì bây giờ ta sẽ lấy tuổi của chủ ngôi nhà, rồi đem la bàn ra đặt thử nếu đã làm cầu tiêu hoặc chuồng sức vật nằm phương hướng tốt và vẫn cứ giữ đường đi vô nhà bên tay mặt của chủ nhà (nghĩa là chủ nhà đứng trước cửa cái ngó ra về phía tay mặt của chủ nhà mà làm đường đi.
ĐÔNG TÂY - TRẠCH - TRÙ – MẠNG
Năm chữ tựa đề trên là nói gồm:Đông tứ trạch, Tây tứ trạch, Đông trù, Tây trù, Đông mạng và Tây mạng. Trạch là nhà. Trù là táo, bếp. Mạng là mạng cung của chủ nhà tính theo tam nguyên.
Đông Tây: Môn bát trạch dùng 8 cung nhưng chia làm 2 phe phía: Đông và Tây, Đông
thuộc Mộc, Tây thuộc Kim, Đông cũng gọi là Đông tứ cung vì nó gồm 4 cung Khảm, Ly, Chấn, Tốn. Chấn Tốn thuộc Mộc về Đông đã đành, nhưng thêm Khảm Ly nữa vì Khảm Thuỷ với Mộc tương sanh và Ly hỏa với Mộc cũng tương sanh. Bốn cung này đồng một phe phía với nhau cho nên gặp nhau tắt hổ biến thành những Du niên tốt. Tây cũng gọi là Tây tứ cung vì nó ồgm 4 cung Kiền, Khôn, Cấn, Đoài. Kiền Đoài thuộc Kim đã đành, nhưng có thêm vì Khôn
Cấn Thổ với Kim là tương sanh. Bốn cung này đồn gmột phe phía với nhau cho nên gặp nhau tất hỗ biến được các Du niên tốt. Nếu Đông tứ cung gặp Tây tứ cung hỗ biến với nhau tất gặp những hung Du nien, vì hai phe khác nhau, phe Đông Mộc với phe Tây Kim tương khắc. Chú ý:Tây tứ cung là Kiền Khôn Cấn Đoài so đối với nhau đều đặgn tương sanh hay tỵ hòa chớ không có tương khắc. Nhưng Đông tứ cung là Khảm Ly Chấn Tốn so đối với nhau đa số cũng tương sanh và tỵ hòa, song có Khảm với Ly là tương khắc. Mặc dầu hỗ biến cũng được Du niên tốt vậy. Đó là chỗ sai biệt. Cát Du niên là Du niên tốt gồm có: Sinh khí, Diên niên, Thiên y và Phục vị. Hung Du niên gọi là Du niên xấu gồm có: Tuyệt mạng, Ngũ quỉ, Lục sát và Họa hại.
Đông tứ trạch: là nhà có cửa cái và chủ nhà hay sơn chủ đều ở trong vòng 4 cung Khảm
Ly Chấn Tốn thì nhà ở tất tốt vì cùng một phe với nhau. Nếu có lộn Tây tứ cung thì gọi là Đông Tây tương hỗn (hỗn loạn) nhà ở đất xấu.
Tây tứ trạch: là nhà có cửa cái và chủ nhà hay sơn chủ đều ở trong vòng 4 cung Kiền
Khôn Cấn Đoài thì nhà ở đất tốt vì cùng một phe với nhau. Nếu có lộn Đông tứ cung vào thì gọi là Đông Tây tương hỗn, nhà ở đất xấu.
Đông trù: là bếp Đông, phàm bếp đặt tại 1 trong 4 cung Khảm Ly Chấn Tốn thì gọi là
Đông trù đem thịnh vượng cho Đông tứ trạch nhưng làm suy bại Tây tứ trạch.
Tây trù: là bếp Tây, phàm bếp đặt tại 1 trong 4 cung Kiền Khôn Cấn Đoài thì gọi là Tây trù, Tây trù làm thịnh vượng cho Tây tứ trạch, nhưng gây suy bại cho Đông tứ trạch.
Đông mạng: mạng củachủ nhà là 1 trong 4 cung Khảm Ly Chấn Tốn thì gọi là Đông mạng. Đông mạng nên ở nhà Đông tứ trạch mới tốt, bằng ở nhà Tây tứ trạch không hợp, bớt tốt.
Tây mạng: mạng của chủ nhà là 1 trong 4 cung Kiền Khôn Cấn Đoài thì gọi là Tây mạng. Tây mạng nên ở nhà Tây tứ trạch mới tốt, ở nhà Đông tứ trạch không hợp, bớt tốt.
TÓM LẠI:
Ở Đông tứ trạch phải dùng Đông trù mới tốt. Nếu chủ nhà thuộc Đông mạng nữa là nhà trọn tốt, bằng chủ nhà thuộc Tây mạng thì bớt tốt.
Ở Tây tứ trạch phải dùng Tây trù mới tốt. Nếu chủ nhà thuộc Tây mạng nữa là nhà trọn tốt, bằng chủ nhà Đông mạng thì bớt tốt.
Ở Đông tứ trạch mà dùng Tây trù là cái nhà bất lợi, không thể thịnh vượng. Nếu chủ nhà Đông mạng còn khá một ít, bằng chủ nhà Tây mạng thì càng suy.
Ở Tây tứ trạch mà dùng Đông trù là cái nhà bất lợi không thịnh vượng được. Nếu chủ nhà thuộc Tây mạng còn có thể đỡ một chút bằng Đông mạng thì càng suy vi.
Cửa cái thuộc Đông tứ cung mà chủ nhà hay sơn chủ thuộc Tây tứ cung là ngôi nhà Đông Tây hổn loạn, bất phát. Nếu dùng Đông trù có thể đủ ăn, bằng dùng Tây trù là suy sụp. Nếu dùng Tây trù mà chủ nhà Tây mạng nữa thì cùng khổ cực điểm.
Cửa cái thuộc Tây tứ cung mà chủ nhà hay sơn chủ thuộc Đông tứ cung là ngôi nhà Đông Tây hỗn loạn, chẳng phát lên được. Nếu dùng Tây trù còn có thể đủ ăn, bằng dùng Đông trù ắt suy sụp. Đã dùng Đông trù mà chủ nhà Đông mạng nữa thì cùng khổ cực điểm.