49. Khám Phá Quái Lý Của Phái Bát Trạch Phong Thủy
Trong thuật Kham Dư Địa Lý của Trung Quốc, đối với sự kết hợp tốt xấu của nhà ở, lý luận của phái Bát Trạch có chỗ đứng rất quan trọng, các tác phẩm kinh điển của môn phái này như “Dương Trạch Tam Yếu” , “Bát Trạch Chu Thư” , “Bát Trạch Minh Kính” ( “Bát Trạch Minh Kính” được dịch giả Thái Kim Oanh dịch ở Việt Nam với cái tên là “Bát Trạch Minh Cảnh” ) do các tác giả thời xưa viết vẫn được lưu hành rộng rãi và đều được các nhà nghiên cứu hiện nay lấy nó làm căn cứ. Phái Bát Trạch tương truyền do một vị cao tăng đời nhà Đường có Pháp Hiệu là Đường Nhất Hạnh tổng hợp sáng tạo ra. Ngài là một thiền sư thông hiểu Phật Pháp lại rất giỏi về Kinh Dịch, thuật số. Lý luận căn bản của nó là lấy Dịch Lý Tiên Thiên Hà Đồ làm lý luận căn bản, lấy phương vị Hậu Thiên Bát Quái làm ứng dụng. Ngoài ra nó còn phảng phất một số tri thức của phái Phong Thủy Mũ Đen trong Phật Giáo Tây Tạng Mật tông.Bát Trạch phái được các thuật sĩ hành nghề trong dân gian ứng dụng rất nhiều, nó phân ra làm hai loại trạch ( Nhà hoặc Mồ mả) : Đông tứ trạch và Tây tứ trạch rồi phối theo người mà phán định tốt xấu. Càn Khôn Cấn Đoài là Tây tứ trạch, Khảm Ly Chấn Tốn là Đông tứ trạch. Tọa sơn lập hướng là Tây tứ trạch thì dùng bốn phương vị Tây làm cát để kê đặt bếp, mở cửa, dùng cho người ở, còn bốn phương vị Đông thì là hung, không thể mở cửa, làm bếp, người ở càng không nên. Đông tứ trạch cũng suy như thế. Cần nhắc lại một lần nữa nguyên tắc chủ yếu là lấy phương vị hậu thiên bát quái để đoán định, tuy nhiên thực tế là Lý Luận Bát Trạch lại xuất phát từ Tiên Thiên Bát Quái. Nó dựa trên quy luật của sự âm dương phối hợp, giao cấu, sinh thành.
1. Sự phối hợp của Đông, Tây tứ trạch phù hợp với quy luật tương sinh của Ngũ Hành:
Theo Bát Quái Tiên Thiên phối hợp với lạc thư ta sẽ thấy :
Tây tứ trạch Càn Khôn Cấn Đoài trong Lạc thư có số là : 9, 1, 6, 4
Đông tứ trạch Khảm Ly Chấn Tốn trong Lạc Thư có số là : 7, 3, 8, 2
Ngũ Hành tiên thiên vốn là :
1 – 6 là thủy ở phương Bắc; 4 – 9 là Kim ở phương Tây.
2 – 7 là hỏa ở phương Nam; 3 – 8 là Mộc ở phương Đông.
1 – 6 – 4 – 9 tổ hợp thành Kim Thủy tương sinh .
2 – 7 – 3 – 8 tổ hợp thành Mộc Hỏa tương sinh.
Bởi thế Tây tứ trạch là các cục Kim Thủy tương sinh; Đông tứ trạch là các Cục Mộc hỏa tương sinh.
2. Sự phối hợp bốn trạch Đông hoặc tây phù hợp quy luật hợp ngũ , hợp thập, sinh thành của Hà Lạc:
Tây Tứ Trạch ( Càn Khôn Cấn Đoài ) :
Càn 9 với Đoài 4 , Khôn 1 với Cấn 6 tức là 1 – 6 , 4 – 9 sinh thành Cục của Hà Đồ.
Càn 9 với Khôn 1 , Đoài 4 với Cấn 6 tức là hợp lại thành 10. ( 10 tức là một mang ý nghĩa quay về với Đạo )
Càn 9 với Cấn 6 , Khôn 1 với Đoài 4 là hợp thành 15, hợp thành 5 tức là Lạc Thư âm dương giao cấu Cục.
Đông Tứ Trạch ( Ly Khảm Chấn Tốn ) :
Khảm 7 với Tốn 2 , Ly 3 với Chấn 8 tức là 2 – 7 , 3 – 8 Hà Đồ sinh thành Cục.
Khảm 7 với Ly 3 , Chấn 8 với Tốn 2 , hợp lại thành 10 đối đãi, Thủy Hỏa tương xạ, Lôi Phong tương bạc Cục.
Khảm 7 với Chấn 8 , Ly 3 với Tốn 2 , hợp lại thành 15 , 5 tức là Lạc Thư âm dương giao cấu Cục.
3. Đông Tây Trạch phù hợp quy luật Âm Dương tương phối:
Theo Tiên Thiên Bát Quái có thể thấy :
Càn Đoài là lão Dương; Khôn Cấn là lão Âm.
Tốn Khảm là thiếu Dương; Chấn Ly là thiếu Âm.
Tây tứ trạch Càn Khôn Cấn Đoài là lão Dương phối lão Âm.
Đông tứ trạch Ly Khảm Chấn tốn là thiếu Dương phối thiếu Âm.
Phù hợp quy luật “Lão phối lão , thiếu phối thiếu, âm dương tương phối là ý tốt”
Tổng hợp lại các diều phân tích ở trên chúng ta có thể thấy Bát Trạch phái lý luận xuất phát từ Tiên Thiên Hà Đồ Bát Quái, nhưng ứng dụng vào phương vị Hậu thiên bát quái. Nó rất có Dịch lý! Có thể nói trong Phong Thủy Học thì ứng dụng ở tầng 1 là dùng Bát Trạch Pháp. Tầng thứ hai là dùng Tam Nguyên long Tam Nguyên Quái để tiến hành. Tầng thứ 3 là dùng thuyết Nguyên Vận, Linh Chính, Giao cấu cùng Long Sơn Hướng Thủy phối hợp để làm. Mỗi bước tiến qua một tầng lại ẩn chứa nhiều điều bí mật. Ở tầng thứ 2 và 3 thường là mật truyền , thế nhân biết được rất ít. Bát Trạch phái là một học phái phong thủy rất cổ lưu truyền rất rộng rãi, là tầng thứ nhất khi tác pháp. Thông thường khi truyền pháp trong Bát Trạch thường truyền kỹ thuật mà không truyền nguyên lý khiến cho người học sinh ra nghi ngờ, vu cho là ngụy pháp. Hiện nay xã hội thật giả lẫn lộn, cỏ lúa cùng mọc , cho nên tôi mạnh dạn chia sẻ bí mật nguyên lý của Bát Trạch Phái cho mọi người được rõ . Trước hết trợ duyên cho các học giả có thêm niềm tin và kiến thức tiếp tục nghiên cứu sâu thêm về Bát Trạch Phái ( Còn rất nhiều bí mật xung quanh các pháp ứng dụng của Bát Trạch ). Thứ nữa chiêu tuyết án oan nghìn năm “Ngụy Pháp” cho Tổ Sư Đường Nhất Hạnh của phái Bát Trạch.
Chú Thích : Ngụy Pháp là từ được “Thẩm Thị Huyền Không Học” dùng để chỉ lý luận Bát Trạch của Đường Nhất Hạnh thiền sư.
50. Tam Sát , Ngũ Hoàng Hội Lực Sĩ
Ngũ Hoàng hội Lực Sĩ , năm Đinh Hợi tại phương Cấn , năm nay âm dương trạch thuộc phương này kỵ động .
Mậu Kỷ Đô Thiên đại sát từ đó mà suy ra, dùng ngũ hổ độn lấy lưu niên mà suy ra .
Như năm Bính Tuất, Bính Tân khởi Canh Dần, Tân Mão, Mậu tại Tuất, Kỷ tại Hợi , Tuất Hợi kẹp Càn Đô Thiên , như thế Tuất Càn Hợi phương là Mậu Kỷ Đô Thiên Đại Sát .
Năm Đinh Hợi, năm Đinh Nhâm khởi Nhâm Dần, Quý Mão, Mậu tại Thân, Kỷ tại Dậu, Thân Dậu kẹp Canh Đô Thiên, như thế Tuất Canh Dậu Tân phương là Mậu Kỷ Đô Thiên Đại Sát .
Còn lại cứ thế mà suy.
Cách Tính Lực Sĩ:
Hợi Tý Sửu tại Cấn ( Cách nhớ là Sửu tiến một bước )
Dần Mão Thìn tại Tốn (Cách nhớ là Thìn tiến một bước )
Tỵ Ngọ Mùi tại Khôn (Cách nhớ là Mùi tiến một bước )
Thân Dậu Tuất tại Càn (Cách nhớ là Tuất tiến một bước ).
Nói Thái Tuế , tức là Tuế Tinh , năm Tý Thái Tuế ở Tý , năm Sửu ở Sửu …Cứ thế mà suy . Trên đây là lấy 12 địa chi luận thời gian .
“Thái Tuế” tức là cực Tôn Quý , chỗ phương vị đi vào là tuyệt đối tôn nghiêm , các phương vị khác chỉ là phương vị bên dưới . Như thế cúng ta nên biết trước phương Thái Tuế mà động thổ , chủ hung họa . Vì phương đối diện Thái Tuế gọi là phương Tuế Phá , tức là bề tôi phạm vào vua . Năm Tý , phương Tý là Thái Tuế thì phương Ngọ là Tuế Phá . Các năm khác cúng tính tương tự .
Thái Tuế có thể ở Tọa không thể ở Hướng , đó là phép tắc chọn ngày , có Ất Thái Tuế vào Sơn là Cát , trực xung Thái Tuế phương , tất phạm tuế phá , tuế xung . Thường khi dựng nhà , chôn cất , không nên khinh thường ở nơi đầu Thái Tuế mà động thổ , động tất hung , nếu Ất Thái Tuế chuyển vào tọa sơn cùng chọn ngày , chọn đúng ngày Thái Tuế tọa phương là Cát , cần tránh chọn ngày phương Tuế Phá là hung . Ví dụ như năm tý dựng nhà , tạo táng tại tọa sơn Tý , tất Cát tinh cao chiếu ; còn nếu dựng nhà , tạo táng tại Ngọ , tất phạm vào Thái Tuế , chủ hung .
Hoặc một số người có hỏi : Thái tuế là chỉ xung Chi Sơn , càn các sơn bên cạnh không xung có đúng không ?
Kỳ thực Thái Tuế ngoài xung Chi Sơn còn xung luôn các Sơn bên cạnh . Như năm Tý xung Ngọ sơn , kiêm xung luôn Bính Sơn cùng Đinh Sơn . tuy kiêm xung nhẹ hơn so với chính xung , những nhất định ba chỗ đó không thể dùng . 60 Giáp Tý do 12 địa chi và 10 thiên can hợp thành mà 24 sơn cúng có các Sơn Can Chi , ứng với chỗ Thái Tuế đi vào cho nên các Sơn Chi bị xung thì các Can , Duy cũng bị xung . Nhưng thiên Can thì lực nhẹ mà địa Chi thì nặng , cho nên tất đều lấy Địa Chi để bổ vào Tọa Sơn , dùng Thiên Can bổ vào Mệnh Vận . Trong lúc lựa chọn , như năm Giáp Tý chính xung Ngọ Sơn , kiêm xung Bính Sơn , Đinh Sơn , mà giáp xung Canh sơn , thế là không kỵ , nguyên nhân bởi Canh Sơn cách Tuế Phá khá xa , cho nên không tai hại .
Tam Sát lấy Thủy Hỏa Mộc Kim bốn Cục phân làm bốn tổ hợp , 12 Địa Chi tức là mỗi tổ hợp có 3 Địa Chi . Như Thân Tý Thìn là Thủy Cục ; Dần Ngọ Tuất là Hỏa Cục ; Hợi Mão Mùi là Mộc Cục ; Tỵ Dậu Sửu là Kim Cục .
Theo Thời Không Luận mà nói , Thủy Cục vượng ở phương Bắc , mà Bắc xung với phương Nam , Nam phương tất sẽ là Sát của Bắc Phương Thủy Cục . Tất cả theo đó mà suy .
Không Gian không thể xung phạm Thời Gian , nếu không tất là Sát . Như Chi năm , Chi tháng , Chi ngày , Chi giờ là Thân Tý Thìn Thủy Cục , vượng ở Bắc Phương Thủy Cục , tất khi dựng nhà , tạo táng tối kỵ Tọa Sơn là Hỏa Cục Dần Ngọ Tuất 3 sơn Chi , kiêm xung Bính Sơn cùng Đinh Sơn , tất cả đều là Sát Phương .
nếu lấy năm sinh của chủ nhà để luận , sinh năm Giáp Tý tất là mệnh Giáp Tý , nên Giáp Tý mệnh không dùng ngày Ngọ , giờ Ngọ , cũng kỵ Canh Ngọ , cùng Giáp Ngọ bởi đều là chính xung thường gọi là Thiên Xung Địa Khắc , lực xung rất mạnh . Giáp Tý với Giáp Ngọ là Thiên Can tương đồng , Địa Chi tương xung , gọi là Thiên Tỷ Địa Xung cũng là Đại Hung .
Tên của Tam Sát , gồm thứ tự trước là Tuế Sát , sau là Kiếp Sát , chính xung là Tai Sát . Mệnh Sát lấy Tuế Sát làm chủ , mệnh Thân Tý Thìn , sát tại ngày Mùi , giờ Mùi . Cứ thế mà suy ra. Tam Hợp dụng thần có hai câu có thể gọi là “Thiên Kinh Địa Nghĩa” là “Thái Tuế khả tọa bất khả hướng” ; “Tam Sát khả hướng bất khả Tọa” nếu như động thổ ngay chỗ Thái Tuế đóng tất là tai họa đến ngay.
Có lúc Thái Tuế đến âm dương trạch mà lại có Phong Thủy tốt thì sẽ nghiệm tốt, nếu Thái Tuế đến trạch hung tất phạm hung, tức là gặp cát sẽ cát, gặp hung thêm hung.
“Thái Tuế”, “Tam Sát” mà xung khắc là không phải không có cách gỡ, bởi sát tuy nghiêm trọng, nhưng bằng cách chọn ngày, chọn dụng Thần thì có thể khắc thắng, nguyên nhân là vì Địa Lý và Thiên Thời đều nên coi trọng, bởi vì sự hưng suy của Địa Lý rất là lâu dài, cho nên ứng nghiệm chậm, thiên thời mới đó mà họa phúc đã vào cửa, nghiệm rất nhanh. Cho nên Tuyết Tâm Phú có nói : “ Sông núi có chút sai sót, không làm giảm bớt phúc dày của Chân Long, năm tháng có chút thất ý, ngược lại cát địa hóa tai ương.” Trong việc chọn Dụng Thần chọn ngày giờ, có thể dùng Thiên Nguyên Ô Thố tìm ra Chân Thái Dương, Thái Âm đến hướng đến phương hóa giải, Nếu dùng được Thiên Nguyên Ô Thố tất không sợ Thái Tuế, Tam Sát, Âm Phù, Không Vong, Thoái Khí, Kim Thần, Niên Khắc, Áp Mệnh, nếu gặp Ngũ Hoàng chính quan sát hoặc Ngũ Hoàng hội lực sĩ, tất thì không theo đó mà dùng được. Nhớ kỹ !
Bởi vì Ngũ Hoàng là chính Quan Sát, nơi nó đến trong tám phương chẳng lưu tình, nên nó là sao tối hung, tàn hại tất cả sinh linh. Lực Sĩ cũng là Thần tối hung ác, nắm trong tay quyền chém giết ghê gớm, nếu hội cùng Ngũ Hoàng, phạm nó thì sầu bi, chủ nhà có thể chết, nhớ không thể phạm