A. Nhìn Xa Xa Xem Ngắm Hình Thể Bố Cục Rộng Rãi…
Khi bắt đầu bước vào cửa hoặc vùng Khí Trường, cần chú ngay đến cảm giác nhận biết của mình. Cảm nhận lấy không khí, ánh sáng, nguồn nước dùng….tất cả sẽ tạo thành cảm giác để cho ta cảm nhận tổng thể! Điều này rất trọng yếu, đặc biệt mình phải có lòng tin vào chính cảm giác của mình và giữ cho được tâm thế quân bình khi làm việc! Không để bị chi phối bởi cảm giác của người khác, cho dù đó là của thân chủ. Có chăng chỉ để tham khảo sau mà thôi.
Ví dụ, khi chúng ta bước vào chỗ khí trường của một Trạch, tự nhiên có cảm giác tinh thần chấn động, Thân thanh khí sảng, vậy là đại thể Phong thủy chỗ đó không có sai mấy. Chỉ cần sắp đặt đúng giường, bếp ban thờ là ổn. Ngược lại, một khi vừa bước vào cửa đã cảm thấy có áp lực, không gian có sự căng thẳng, không khí khiến mũi thấy khó chịu, u ám bên người gây khó chịu…có thể thấy ngay là Phong Thủy không tốt.
Lại nói, Phong Thủy tóm lại dựa vào sự báo ứng, nguồn của báo ứng ở chỗ chính báo, chính báo là Tâm, Tâm là gốc của Vạn Pháp.
B. Căn cứ vào Khí Vận của thời điểm xây dựng hoặc sửa chữa lớn,căn cứ vào phương hướng và tầng số khác nhau, để quyết định dùng Phi Tinh Bàn để tính toán Lý Khí
(Huyền Không Phi Tinh là một thuật trọng yếu của Thuật Phong Thủy, song cũng cần tham khảo thêm Bát Trạch, Tam Nguyên, Tam Hợp để mà xem xét). Không nên chỉ dùng một phái, đó tức là đã đả phá coi nhẹ thuật Phong Thủy vậy. Vốn gốc thì Phong Thủy đều là một thuật một phái.
C. Sử dụng lục hào bát quái, Mai Hoa Dịch, Tam Dịch, Lục Nhâm, Kỳ Môn cùng các thuật toán khác để dự đoán Phong Thủy, điều chỉnh Phong Thủy.
Huyền Không Phong Thủy ứng nghiệm Phi Thường! Cùng lúc nếu sử dụng phương pháp Lục Hào để điều chỉnh Phong Thủy thì cực kỳ linh nghiệm! Song không bởi bạn dùng phương pháp này tốt mà phủ định các phương pháp khác. Cần biết mọi con đường đều dẫn đến Roma !
Dùng Bát tự tìm Tài Vị là không sai! Dùng Bát Trạch tìm tài vị cũng rất đúng! Huyền Không Phi Tinh định tài vị đương nhiên có Đạo Lý! Các loại phương pháp có thể nói đều đúng Đạo Lý.
Có người sẽ cho rằng tôi ba phải, cho rằng các môn phái đều đúng. Xin các vị khoan hãy bình phẩm. Rồi sẽ có lúc bạn sẽ hoát nhiên đại ngộ. Như tôi có một cái quần trong có một túi có thể dựng tiền, quần ngoài của tôi lại có đến bốn cái túi cũng có thể bỏ tiền vào, song tôi có cần tất yếu phải bỏ tiền vào trong 5 cái túi ấy không? Đương nhiên là không! Tôi có thể bỏ vào túi áo, cũng có thể bỏ vào một cái túi bên ngoài….thì cũng như tôi bỏ tiền vào một trong các túi áo túi quần trên thôi. Tôi cũng có thể bỏ vào trong túi xách đựng giấy tờ, để trong nhà, két sắt, gửi ở ngân hàng…tóm lại là có thể cất tiền ở rất nhiều nơi.
Lý giải một cách tương tự các điểm các bạn nghi ngờ ý kiến của tôi ! Tài Vị không chỉ có một cái (không chỉ dừng ở Bát Trạch), tìm tài vị không chỉ dừng ở một phương pháp. Cũng như tìm Đào Hoa thì cũng có rất nhiều phương pháp, mõi cái đều có Đạo Lý. Các bạn cứng nhắc chia ra môn phái, quen thoi công kích cái khác mình, kỳ thực là sai! Cái sai chính là ở tu duy mình không biết kiêm dung !
Hoàn thành cả ba bước, thì Phong Thủy tức đã hoàn chỉnh căn bản !
57. Nhàn Đàm Huyền Không Phong Thủy !
Có rất nhiều người cho rằng “Huyền Không” tức là Huyền Không Phong Thủy . Thực ra không phải như vậy ! Có thể nói chính xác hơn Lý Khí Huyền Không Phong Thủy là Huyền Không mà Huyền Không thì không hoàn toàn là Phong Thủy Lý Khí.Giải nghĩa theo mặt chữ thì “Huyền” tức là chỉ về “Thiên - Trời” cũng tức là vận trình biến đổi của thời gian. Không là chỉ “Địa - Đất” cũng tức chỉ về Không gian. Như vậy gộp hai chữ Huyền Không tức là sự biến đổi của Không Gian trong Thời Gian, và Thời Gian nhất định trong Không Gian. Chúng ta thường nghe nói : “Trời tròn Đất vuông!” nhưng tại sao nói như vậy ! Không phải vì thật sự trời có hình tròn, đất có hình vuông. Cái ý ẩn mật mà Chư Cổ Đức muốn nói ở đây là “Tượng trời biến đổi Xuân Hạ Thu Đông một vòng rồi lại một vòng nên gọi là tròn; Trên mặt đất vạn vật biến hóa thay đổi không giống nhau nên gọi là vuông”. Đây cũng chính là Lý do chúng ta thấy Tiên Thiên Bát Quái thì cân đối, mà Hậu Thiên Bát Quái lại có sự mất cân bằng.Chúng ta đều biết ! Hiện nay Triết Học, Vật Lý Học hiện đại cũng đã công nhận không gian chúng ta đang sống là một không gian 4 chiều ( Cao, Rộng, Dài và 1 chiều nữa là Thời Gian).
Tuy nhiên các Triết Gia và Khoa Học Gia hiện đại của Phương Tây đã rất lúng túng khi thể hiện điều đó trên hình vẽ. Trái lại các bậc Tiên Hiền, Thánh Giả phương Đông đã rất dễ dàng thể hiện điều đó trên hình vẽ. Nếu bạn đang cầm trong tay một lá số Tử Vi Đẩu Số, một tinh bàn Phong Thủy, hay một La Kinh thì đó chắc chắn là một không gian bốn chiều. Hơn thế nữa các mô hình đó còn thể hiện được Không Thời Gian 4 chiều của một con người, một cộng đồng, một vũ trụ.“Huyền Không” tức là các tri thức về Triết Học Đông Phương Cổ Đại ! Nó là nền tảng của vô số các bộ môn văn hóa, học thuật khác ! Nó được xây dựng tổng hợp trên các nhận thức của người xưa về Vũ Trụ Quan, Nhân Sinh Quan. Cốt lõi của nó là coi Vạn Vật trên thế gian là đồng nhất thể ! Các tri thức được tổng hợp từ : Lịch Pháp, Thiên Văn, Triết Học cùng Môi Trường Tự Nhiên. Đặt con người ở vị trí trung tâm của nhận thức, dùng nhận thức đề phục vụ con người. Lấy Âm Dương, Ngũ Hành, Tiên Thiên Bát Quái, Hậu Thiên Bát Quái, Thất Tinh Bắc Đẩu làm nhận thức cơ sở ! Từ các tiêu chí này Khoa Học Huyền Không được đem áp dụng vào tất cả các bộ môn khác. Người xưa nhóm các bộ môn này vào bốn nhóm chính :1. Sơn Thuật ( Gồm các bộ môn Tu Luyện phát huy khả năng vô hình của con người thâm nhập vào các năng lực vô hình huyền bí siêu nhiên có sức mạnh bất khả tư nghì ).2. Y Thuật (Bao gồm các bộ môn về chữa bệnh, chế thuốc, tập luyện….nhằm duy trì cho con người một cuộc sống khỏe mạnh về cả tinh thần lẫn thể xác.)3. Mệnh Thuật (Gồm các bộ môn xem xét và cải tạo vận mệnh của con người, cộng đồng …)4. Bốc Thuật (Gồm các bộ môn bói toán, dự báo trước các việc trong tương lai gần hoặc xa, từ đó đề có được đường đi thích hợp.)Chia ra làm bốn nhóm nhưng không có nghĩa là các nhóm này tách rời nhau. Trái lại nó gắn kết vô cùng chặt chẽ với nhau bổ sung, thiếu một tất sẽ không ổn. Đây là một truyền thống vô cùng quan trọng cho những người tu học các bộ môn Khoa Học Huyền Bí. Đây là “Tâm Chuyên Nhất” của Lão Tử, là “Tâm Vô Phân Biệt” của Phật Thích Ca Mâu Ni, là cái mà Khổng Tử nói “Dĩ Nhất Quán Chi – Lấy cái Một để thông suốt tất cả”.
Sơ Lược Huyền Không Phong Thủy Và Huyền Không Phong Thủy Phái Trung Châu
Trong thuật Phong Thủy thì Huyền Không Phong thủy là môn được bí truyền lâu nhất , truyền nhân (Chính thống) rất ít , công khai lại càng ít hơn . Trong Huyền Không Học bí mật nhất là phái Trung Châu , Trung Châu phái hiện ở Lạc Dương , trong toàn bộ quá trình tồn tại phái này luôn giữ môn quy một Thầy truyền một trò . Họ thường có câu : “Cha con tuy là ruột thịt cũng không thể nói !” .Có thể nói Huyền Không Phong Thủy bắt đầu từ Quách Phác đời Đông Tấn, ông đã viết bộ sách cực kỳ quan trọng đặt nền móng cho khoa Phong Thủy đó là “Táng Kinh” và “Thanh Nang Kinh” , trong đó ông đã nêu một mệnh đề vô cùng quan trọng “Táng Là Thừa Sinh Khí” để muôn đời sau những người học tập Phong Thủy đều lấy đó làm chân ngôn yếu quyết . Đến đời Đường có Khâu Diên Hàn và Dương Quân Tùng . Dương Quân Tùng tên thật là Ích, tự là Thúc Mậu . Ông làm chưởng quản Thiên Văn Đài ( Cơ quan phụ trách các học thuật huyền bí của Triều Đình ), sau khi triều đình bị nạn Hoàng Sào đánh vào Tử Cấm Thành, ông từ quan bỏ đi ngao du sơn thủy (Theo truyền thuyết thì nhân lúc hỗn loạn ông đã lấy được cuốn sách trong hộp ngọc của Hoàng Gia), đến Cám Nam thì dừng chân. Dương Quân Tùng sống rất lâu tại Cám Nam, tại Cám Nam có rất nhiều người theo ông học nghệ, cho nên thuật Phong Thủy của Dương công lưu truyền rộng rãi tại Cám Nam, rồi lan rộng ảnh hưởng tới Quảng Đông, Phúc Kiến, Quảng Tây các tỉnh xung quanh, sau lan ra toàn Trung Quốc. Phong thủy của Dương Công kế thừa Quách Phác đời Tấn “Thừa Sinh Khí” là tinh túy của Kham Dư học , nhấn mạnh Long , Thủy , Hướng là ba cái gắn bó kết hợp , tại mặt lý khí chú trọng Long Khí với Đường Khí phối hợp , lấy 72 Khí thừa Long Khí làm hạt nhân , thừa Long khí là cát , thừa Long Khí đang thịnh vượng là Đại Cát , không được Long Khí là hung , hoại Long Khí là Đại Hung . Dương Công truyền cho Tằng Công An . Đầu đời Tống Đạo Sĩ Trần Đoàn ( Cũng là Tổ Sư của bộ môn Tử Vi ) truyền cho Ngô Khắc Thành , tiếp đến là Ngô Cảnh Loan . Cuối Nguyên đầu Minh không rõ ai là truyền nhân . Nhưng lưu truyền trong dân gian thì Lưu Cơ tức Lưu Bá Ôn tiên sinh là Quân Sư của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương chính là một người năm rất vững Khoa Địa Lý Phong Thủy cùng các học thuật Huyền Bí khác, sau khi giúp cho Chu Nguyên Chương làm nên nghiệp lớn ông đã từ quan đi ở ẩn tu tập. Cuối Minh đầu Thanh có Tưởng Đại Hồng ( Tưởng Bình Giai) được Vô Cực Tử Chân Nhân, Ngô Thiên Trụ cùng Vũ Di Đạo Nhân truyền dạy. Tưởng Đại Hồng, viết sách lập thuyết , quảng bá Huyền Không . Lúc đó ông cùng các vị trong phái “Tam Hợp” tạo thành cuộc bút chiến . Cuộc bút chiến ấy kéo dài gần 100 năm, đến đời Gia Khánh, Đạo Quang ( Nhà Thanh ). Tưởng Đại Hồng truyền cho Khương Nghiêu, tiếp đến có Phạm Nghi Tân, Chu Tiểu Hạc, Doãn Nhất Chước, Trương Tâm Ngôn, Thái Dân Sơn, tiếp tục truyền đến Chương Trọng Sơn. Vào cuối đời Thanh đầu Dân Quốc có Thẩm Thiệu Huân, Khổng Chiêu Tô, Đàm Dưỡng Ngô, Ngô Sư Thanh, Thẩm Tổ Miên , Vưu Tuyết Hành. Hiện nay có Vương Đình Chi, Chung Nghĩa Minh. Huyền Không Học từ Đông Tấn đến Thanh Triều trải hơn một nghìn năm, đến Thẩm Thiệu Huân thì được đưa ra công khai . Thật ra chính truyền của Huyền Không Phong Thủy đến Chương Trọng Sơn ( Được coi là người giữ Y Bát của Tưởng Đại Hồng ) thì không thấy ghi chép về truyền nhân nữa . Tuy nhiên đại diện cho phái Trung Châu hiện nay được đông đảo mọi người công nhận chính là Vương Đình Chi Tiên Sinh .Trung Châu phái từ cổ mỗi đời chỉ truyền cho một người , đến gần đây Tiên Sinh Vương Đình Chi đả phá lệ này , công khai thu nhận 40 người học trò , người học không chính thức thì có đến hàng nghìn , nhưng đại đa số học trò của Trung Châu Phái không lấy số thuật làm nghiệp sống .Riêng trường hợp của Thẩm Thiệu Huân Tiên Sinh ( Tức Thẩm Trúc Nhưng ) , lại rất đặc biệt . Phải nói ông là người có trí tuệ hơn người , tương truyền ông đã đọc hơn 1700 các sách về bàn về Chu Dịch , ông tự mình chỉ đọc cuốn “Trạch Đoán” củ Chương Trọng Sơn rồi khám phá ra các lý thuyết cơ bản của Huyền Không Phông Thủy . Cũng từ Thẩm Công mà khoa Huyền Không phong thủy được truyền bá rộng rãi ra ngoài dân chúng . Tuy nhiên đáng tiếc cho ông không có được chân truyền chính thống nên các kỹ thuật chính tông ông đã không nắm được hoặc hiểu sai .Trung Châu phái được coi là chân truyền chính thống lấy Tưởng Đại Hồng Tiên Sinh làm Tổ Sư . Về đặc điểm phái này có ba đặc điểm chính là :
1. Lấy Bài Long Quyết và An Tinh Pháp là chủ Pháp .
2. Lấy lý luận Tiên Hậu Thiên Bát Quái , Hà Đồ , Lạc Thư Dịch Học để vận dụng .
3. Lấy khí trường , hoàn cảnh tự nhiên khách quan làm căn cứ .
Sở truyền của Trung Châu có ba cổ quyết
Gồm : An Tinh Quyết ; Bài Long Quyết ; Thu Sơn Xuất Sát Quyết . Tinh Hoa của Huyền Không Phong Thủy , tức là nằm ở ba bí quyết này . Ngoài ra phái này còn kết hợp Tử Vi và Huyền Không để luận đoán rất đặc sắc, phái Vô Thường ( Tức là phái nhỏ của Trung Châu lấy Chương Trọng Sơn làm Tổ Sư ) còn phát huy nên thành một kỹ thuật đặc biệt của môn phái .Riêng Huyền Không Phong Thủy của họ Thẩm chỉ đắc được An Tinh Quyết ( bao gồm cả Ai Tinh ). Riêng Bài Long Quyết thì không có, Thu Sơn Xuất Sát Quyết thì nhầm .Ở nước ta do chỉ có các bản dịch của Thẩm Thị Huyền Không Học là chính nên hầu như mọi người lấy đó làm tài liệu chính để nghiên cứu học tập. Cuốn “Thẩm Thị Huyền Huyền Không Học” của dịch giả Nguyễn Anh Vũ được rất nhiều người yêu thích Phong Thủy Huyền Không nghiên cứu . Ngoài ra còn các cuốn “Cổ Dịch Huyền Không Học Tân Án” của tác giả Trung Quốc lục địa Hồ Kinh Quốc được hai dịch giả Nguyễn Văn Mậu và Nguyễn An dịch ra dưới nhan đề “Tìm Hiểu Cổ Dịch Huyền Không Học” thực chất là diễn giải lại bộ “Thẩm Thị Huyền Không Học” sau này trong các tác phẩm khác ông cũng công nhận như vậy. Cuốn “Trạch Vận Tân Án” tập hợp khá đầy đủ các kinh điển của Phong Thủy Huyền Không nhưng thật ra nếu không có căn bản về Huyền Không Học thì rất khó đọc sách này . Thật ra trong giới Phong Thủy Huyền Không ở Hương Cảng và Đài Loan đều không đánh giá cao Huyền Không Phong Thủy của Thẩm Thị , họ cho rằng ông chỉ ngồi nhà đọc sách và dạy học trò nên thiếu kinh nghiệm thực tiễn . Nhưng chủ chốt nhất họ luôn coi ông không phải là Đích Truyền , chỉ là người mày mò tự khám phá ra. Tuy là ông thông minh quán thế nhưng việc Chân Truyền Thực Học lại hoàn toàn khác. Cái này phải là người học tập chính thức các môn Khoa Học Huyền Bí thì sẽ hiểu được. Đây thực là điều đáng tiếc cho Huyền Không Phong Thủy nói riêng và Các Môn Khoa Học Huyền Bí nói chung. Nếu như Thẩm Công được chính truyền, ắt hẳn ông sẽ phát huy quang đại Huyền Không Học .
58. Đại Huyền Không Thiên Cơ Bí
Đại Huyền Không Thiên Cơ Bí là gốc của Đại Đạo, là tuyệt học chân truyền của Đạo Gia về Phong Thủy. Tam Nguyên 36 cửa , đều là duy nhất. Đại Huyền Không lấy Thái Cực, Hà Đồ, Tiên Hậu thiên bát quái làm lý luận căn bản. Dương trạch lập cực bài bàn dùng bản sơn tinh, âm trạch lập cực bài bàn dùng phụ mẫu tinh, đều theo thượng hạ nguyên vận không giống nhau mà thành điên diên đảo, thuận nghịch mà đi. Một Bàn là thành, thao tác rất giản đơn; Vận dụng vào Phong Thủy Phú Quý rất chuẩn. Chỉ tĩnh tọa ở nhà, biết sơn hướng, biết thủy khẩu, theo đó trong phút giây đoán ngay được cát hung họa phúc. Bí thuật của Dương Công, đầu tiên công khai. Duy nhất là chân, chỉ có nó thôi. Bí thuật nguyên từ Đạo Gia, học được đều do duyên phận. Đời Thanh có Thẩm Trúc Nhưng lần theo “Âm Dương Nhị Trạch Đoán” của Chương Trọng Sơn, dùng trí tuệ phá giải được Phi tinh Pháp ( Tức là Thẩm Thị Huyền Không Học), thông thường hay gọi là Tiểu Huyền Không. Chân Chính Đại Huyền Không chỉ mới được công khai gần đây, trên thị trường các sách nói về Đại Huyền Không, đều là do Tưởng Thị chân truyền, “Đại Huyền Không Thiên Cơ Bí” là như vậy, khi đã đọc Đại Huyền Không rồi sẽ thấy so với tiểu Huyền Không ( Tức Thẩm Thị ) sẽ nhận thấy sự khác biệt rất lớn cả về lý thuyết lẫn thao tác thực hành. Ví Dụ : Trong thao tác Tiểu Huyền Không cần khởi ba bàn ( Vận Bàn, Hướng Bàn, Sơn Bàn ) lại có Hạ Quái và Khởi Quái khác nhau, rất phức tạp, không dễ nắm rõ. Riêng Đại Huyền Không luận thuận ai hay nghịch phi chỉ một bàn là thành, cực kỳ giản dị dễ học dễ sử dụng. Cho nên mới có câu “Đại Đạo Chí Giản Chí Dị”.
Ngoài ra, tiểu Huyền Không trong lúc đo lường tất cần xác định rõ độ số kiêm hay không kiêm, nếu không kiêm thì dùng Hạ Quái. Nếu kiêm thì phải dùng Khởi Quái, vì vậy khi đo lường các ngôi mộ cũ sẽ xuất hiện vấn đề, nguyên nhân vì mộ cũ không có cách gì phân biệt kiêm hay không kiêm bao nhiêu độ, cho nên không quyết được có dùng khởi tinh hay không. Còn nếu đem áp dung Đại Huyền Không đề khám xát Âm Dương Trạch , mộ cũ mới đều thông suốt, các vấn đề không còn tồn tại nữa. Trong vấn đề Điên Đảo Thuận Nghịch Huyền Không Thẩm Thị lấy vận tinh làm lập cực, điên đảo thuận nghịch hoàn toàn lấy địa bàn sơn hướng quái vị trên Thiên Địa Nhân đen đỏ âm dương làm căn cứ, để quyết định sơn bàn và hướng bàn phi nghicghj hay thuận. Đại Huyền Không nhờ vào thượng hạ nguyên vận không giống nhau, lấy chín sao phân làm âm dương, dương thuận âm nghịch tức Dương một đường, Âm một đường . Nên Dương trạch nhập trung lập cực dùng bản sơn tinh, Âm trạch nhập trung lập cực dùng phụ mẫu tinh, tất cả theo nguyên vận mà thành Điên Diên Đảo. Do đó có thể nói , Tiểu Huyền Không với Đại Huyền Không trong vấn đề xuôi ngược điên đảo về bản chất là không giống nhau, do đó cũng có thể thấy căn cứ thuận nghịch điên đảo của Tiểu Huyền Không là một loại Ngai Pháp ( phép ấu trĩ ). Nạn Quái Chung Nghĩa Minh Đại Sư đã nhận xét rằng “ Thực tế ứng dụng có nghiệm hay không , dùng nó không phát, thậm chí lại phát hung họa, đó chẳng phải ít”.
Nói cho cùng cũng bởi nguyên lý của Tiểu Huyền Không Phi Tinh có sự khuyết thiếu, như tại một mặt nhấn mạnh “ Chính Thần Chính Vị Trang, Bát Thủy Nhập Minh Đường” là một phép lập cục, lại nói tối kỵ “Thướng Sơn há Thủy” ( Sơn Long xuống nước, thủy long lên núi ) , nhưng trong Đại Huyền Không thì hai vấn đề này là thống nhất. Cho nên trong quá áp dung Tiểu Huyền Không cần nhất phải có tinh thần cầu thị nắm vững thực chất của Huyền Không Lý Khí, như thế là rất quý.
Trên đây phân tích một số điểm khác biệt giữa Thẩm Thị Tiểu Huyền Không với Đại Huyền Không để dành cho các bạn yêu thích và bắt đầu tìm hiểu về Phong Thủy Huyền Không Học tự mình có nhận xét và áp dụng cho thực tế để kiểm nghiệm. Đại Huyền Không Thiên Cơ Mật vốn được truyền từ Đạo Gia Chân Nhân Dương Thủ Vạn ( Người huyện Trấn Bình – Hà Nam, sinh năm 1916, mất năm 1996 ) . Dương Lão Tiên Sinh tám tuổi xuất gia , bái sư nhập đạo, được Hồ Bắc Diêu Đạo Nhân ( Tên Bất Tường ) cùng Chu Nhị Hỷ ở huyện Trấn Bình – Hà Nam chân truyền, sau này tên tuổi truyền bốn biển. Theo lời Thầy Bí Bản có thể biết , nhưng nếu không có Cao Sư điểm xuyết, thì dẫu có đọc nát vạn quyển “Thanh Nang”, thì cuối cùng cũng không có cửa để vào. Do biết rõ giới cấm của Thiên Luật, Tưởng Công ẩn mật rất kỹ, làm thế nào mà rõ được! Gần mười năm lại đây, tự thấy vô số Dong Sư ( Thầy lừa bịp ) là nơi xuất ra trăm mối họa, hại mình hại người. Lại có nhiều người yêu thích Phong Thủy lại không có Thầy tâm truyền, tuy biếng ngủ quên ăn, xem khắp các sách, cuối cùng cũng chẳng thu được gì, phí phạm thời gian, mà không rõ chân ngụy. Cũng cảm thông điều đó mà nay vào năm Nhâm Ngọ hạ nguyên, ngồi vào bàn chỉnh lý các bản chép tay bí mật, phối hợp lại thành một quyển. Một vì hoằng dương Địa Học chính kinh, một vì kẻ học sau mà chỉ chỗ bến mê mờ. Địa Học chỉ có Dương, Tằng, tưởng là chính tông, bởi thế nên rất mạch lạc, lại bác đại tinh thâm, đã ứng nghiệm rất nhiều. Cuối cùng mong cho sự nghiên cứu Tam nguyên Địa Lý không đứt, phát dương quang đại
59. Bát Bạch Tinh, Đôi Dòng Bàn Luận !
Người học Huyền Không Phong Thủy, chắc chắn ai cũng biết Bát Bạch là một cát tinh lớn. Hiện thời lại đang là Vận 8 cho nên Bát Bạch chính là Sao Đương Vận, bởi vậy nó được tôn sùng là đệ nhất Cát Tinh. Bát Bạch Tinh còn có tên khác là Tả Phụ Tinh, là một trong hai Hư Tinh trong chòm sao Bắc Đẩu gồm: Tham Lang, Cự môn, Lộc Tồn, Văn Khúc, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân ... Tả Phụ và Hữu Bật nằm hai bên Phá Quân Tinh.
Bát Bạch có xu hướng thiên về giàu có, được gọi là Đệ Nhất Tài Bạch Tinh, chủ về tiền tài tịnh vượng, buôn bán làm ăn phát tài.
Tuy nhiên trên thực tế có một số điều cần lưu ý về Bát Bạch Tinh, ngay cả khi nó còn đang là đắc địa. Trước hết, Bát Bạch Tinh vốn gốc ở cung Cấn - Đông Bắc, Cấn là Quỷ Môn, khi đương vượng thì phát khá nhanh, nhưng khi phá cũng lại rất nhanh. Xin được nêu hai trường hợp:
Trường hợp thứ nhất, trên một trạch đất tại cung Đông Bắc bị vạt thành mũi nhọn, khi trước vốn là để đất trống, trong nhà cũng đã xảy ra một số chuyện. Chủ nhà mất sớm, một con trai bị tai nạn lúc còn rất trẻ. Năm 2006 tiến hành xây dựng lại, tận dụng toàn bộ góc nhọn đó xây thành Bếp. Lập tức tai họa liên miên, đặc biệt đều liên quan đến con trẻ - Cung Cấn tức Thiểu Nam là con nhỏ - Một đứa cháu nhỏ của chủ nhà đang khỏe mạnh được 4 tuổi đột nhiên có khối u trong não, chạy chữa được hơn một năm thì mất. Sau đó người mẹ của cháu bé sinh thêm hai lần, được 2 cô con gái và một cậu con trai. Cậu con trai khi được 2 tuổi cũng mắc chứng suy thận. Toàn bộ người trong nhà, khí sắc ai cũng hôn ám, làm ăn vất vả mà không mấy dư dả.
Trường hợp thứ hai có một nhà xây vào vận 8, tọa Khôn hướng Cấn, ở vào thế Thượng Sơn Hạ Thủy từ năm 2011 do có được Nhất Bạch Tinh, năm 2012 là Cửu Tử Tinh thịnh phát, danh lợi song thu, mọi việc đều xứng tâm toại ý. Nhưng bước vào năm 2013 khi Bát Bạch Lưu Niên Tinh bay tới, Thổ Sát quá mạnh, Ngũ Hoàng Đại Sát có thêm Thổ Khí của Bát Bạch Lưu Niên bổ sung làm cho Sát Khí trở lên quá mạnh tạo thành tai họa. Thêm Sơn Tinh Bát Bạch gặp Lưu Niên Bát Bạch phạm vào Phục Ngâm, đầu hướng cửa lại động Khí liên tục thành ra ảnh hưởng con người càng mạnh mẽ.
Như vậy thông qua hai vi dụ trên, chúng ta có thể thấy Bát Bạch tuy là Cát Tinh song cũng cần xét riêng từng trường hợp, phối hợp địa thế, lưu niên ... Tùy nghi sử dụng. Không thể máy móc rập khuôn để phạm sai lầm. Bởi thế Huyền Không mới được gọi là Hoạt Dịch (Áp dụng Kinh Dịch một cách sống động !)
60. Nhất Quý Đương Quyền - Quần Hung Nhiếp Phục
Trong thực tiễn thao tác Huyền Không Phi Tinh, có rất nhiều Bạn cảm thấy lòng túng không biết phải xử lý các tổ hợp Tinh Bàn ra làm sao. Hiện đem các kinh nghiệm chia sẻ cùng các Bạn, mong giúp các Bạn có thêm được một phương pháp thực hành ! Đồng thời xin được tham khảo cảu các bậc Tiền Bối để đúc rút thêm kinh nghiệm.
Trên một Tinh Bàn chắc chắn không tránh khỏi các Tổ Hợp Tinh Diệu xấu, như các tổ hợp 3 - 4, 4- 3, 5 - 2, 2 - 5, 7 - 9, 9 - 7 ... Tuy nhiên các Tổ Hợp này chỉ thực sự nguy hiểm khi nó ở vào các vùng có Động Khí, đặc biệt là các cửa ... Xấu nhất là ở khu vực cửa ra vào. Khi thao tác tại thực địa, chúng ta không cần quá lo lắng với các Tổ Hợp Tinh Diệu xấu này, căn cứ theo địa hình để hóa giải có thể dịch chuyển thay đổi được địa hình là tốt nhất, nếu không có thể sắp đặt các đồ hóa giải căn cứ theo nguyên tắc Chế Hóa của Ngũ Hành.
Có một bí quyết rất quan trọng đó là dùng "Nhất Quý Đương Quyền, Quần Hung Nhiếp Phục" tức thúc đẩy những vị trí có tổ Hợp Tinh Diệu Tốt và thuộc về sao đương Vận (Sinh Khí, Vượng Khí) Thủy Tinh thì dùng Nước, Động Khí thức đẩy; Sơn tinh dùng các Vật Cao Lớn, dùng làm chỗ cho người ngồi, nằm ... Các sao Đương Vận hiện tại (2004 - 2023) là Bát Bạch, Cửu Tử, Nhất Bạch ... Các tổ Hợp 1 - 6, 6 - 1, 8 - 6, 6 - 8, 9 - 8, 8 - 9 ... đều là Quý Tinh vậy.
Khi các tổ hợp Tinh Diệu Đương Quý được thúc đẩy, Khí Trượng của Trạch cũng được tăng cường Cát Khí do vậy mà tác dụng xấu của các Tổ Hợp Tinh Diệu xấu sẽ giảm xuống thấp nhất. Kết hợp chế hóa hợp lý thì không còn lo gì !
61. Địa Lý Tỉnh Tâm Lục !
Long thế trú , khán tả hữu , nhất thủ bất hồi chung hữu cữu , tả Long hữu Hổ lưỡng biên tề , nhi tôn hưng vượng đa điền thổ .
Tại nơi Long đến , xem trái phải , không có bên nào quay lại thì xấu , hai bên Long Hổ tương bằng thì con cháu hưng vượng ruộng đất nhiều .
Tả hữu Long , Hữu hữu Hổ , thử địa tu giáo hậu Phúc cửu , tả hữu Long Hổ hữu ao phong , quả mẫu chủ gia nam đoản thọ .
Trái có Long , phải có hổ , nên nhiều Phúc lâu dài , Long Hổ mà bị khuyết hãm thì quả phụ làm chủ gia đình , nam nhân đoản thọ .
Long yếu long xiển , hổ yếu phục , Hổ tuần Long bàn phương thị Phúc , nhược hoàn Long Hổ bất tương nhiêu , huynh đệ tương tranh nan cộng ốc .
Long cần nhất phải đầy đặn , Hổ cần quy phục , Hổ thuần Long cuộn đó là đất Phúc , Long Hổ mà không đầy đủ khoan thứ thì huynh đệ tranh giành không thể chung 1 nhà .
Hổ yếu loan , Long yếu quan , Long Hổ cục tàng tự ngọc hoàn , thử thị phúc Long lai kết huyệt , gia trung kim ngọc tích như sơn .
Hổ phải lõm , Long phải thắt , Long Hổ hợp cục như hình chiếc vòng ngọc , đó chính là nơi Long kết huyệt , trong nhà vàng ngọc chất như núi .
Long yếu ngang , Hổ yếu giáng , huyệt như khuê nữ thủ Lan Phòng , thử thị chân Long lai tác huyệt , hạ chi tất định xuất Triều Lang .
Long phải nghển đầu , Hổ phải phục xuống , thế huyệt như khuê nữ trong Lan Phòng , đó là chân Long thành huyệt , táng vào tất có con cháu làm quan lớn .
Long thủ đê , Hổ hùng khi , Hổ cao Long oải bất tương nghi , trưởng tử bần cùng tiểu tử phú , cái duyên sơn thủy bất tương tề .
Long hạ thấp , Hổ hùng mạnh coi thường , đó là cái tượng Hổ cao mà Long thấp kém , con cả nghèo khó , con thứ lại giàu đều do sự sơn thủy không cân bằng .
Hổ như cung , Long như phong , Long Hổ loan loan tự hữu dung , cánh đắc tài lộc sơn thế khang, kỳ gia phú quý phúc hưng long .
Hổ hình vòng cung , Long cao như non , Long Hổ cong cong thế chứa vào , lại thêm tài lộc sơn thế mạnh , gia đình vì thế mà phú quý hưng thịnh .
Long vi hồ , Hổ vi thi , tả hữu hoàn bão nhất lưỡng chi , thử thị hoạch tài sơn tác thế , kỳ gia hậu tích vượng tàm ty .
Long như hình trái hồ lô , Hổ như hình cái thìa , tả hữu ôm vòng một hai nhánh , đó là long thế của núi hoạch tài , nên trong nhà chứa nhiều lụa là gấm vóc .
Thanh Long quý , khởi phong tiêm , điệp điệp bài lai thế tháp thiên , sản xuất tử tôn đa phú quý , vi quan thực lộc vị tam công .
Thanh Long quý , khởi lên ngọn nhọn , liên tiếp như những ngọn tháp hướng trời xanh , đó là nơi sinh ra tử tôn phú quý , làm quan hưởng lộc , tới Tam Công .
Thanh Long cao , khởi lâu đài , nhi tôn quan chức thử trung lai , định xuất trưởng phòng nhân cập đệ , mã tiền hát đạo trạng nguyên hồi .
Thanh Long cao , nhô lên hùng tráng như tòa lâu đài , con cháu dần dần tiến lên trên quan lộ , định ra trưởng phòng con thi đậu , trước đầu ngựa mở đường trạng nguyên về .
Thanh Long loan , tự lâu thuyền , uyển chuyển như cung dục thượng huyền , điịnh chủ nhân thương đắc tài bảo , gia trung vạn khoảnh trí trang điền.
Thanh Long chạy từ từ , thế cao nhấp nhô như lâu thuyền , uyển chuyển như cung giống trăng thượng huyền , tất chủ nhân buôn bán phát tài , có điền trang rộng lớn .
Thanh Long tiêm , như án kiếm , hoành tại diện tiền nhân ác kiến , nhi tôn định chủ pháp trường hạ , xích xuất cát hầu nhân bất thiện .
Thanh Long nhọn sắc , như thanh kiếm nhọn , chạy ngang trước mặt người thấy ác, con cháu lần lượt đi ra pháp trường , nếu sát vào hơn thước như cắt cổ thì người trong nhà toàn một lũ độc ác .
Long sơn hung , thế thô ác , đái thạch sàm nham tự ngưu giác , trường phòng tất định xuất hung nhân , niên kỷ chu niên ôn hỏa tác .
Núi phía Long hung ác , thế thô đá núi nhọn lô nhô như sừng trâu , trưởng phòng tất sản sinh ra kẻ hung ác , năm qua năm lại luôn bị bệnh dịch hỏa tai .
Thanh Long thoán , bài chuyển đầu , hướng ngoại tùy lưu thủy bất thu , định sinh nhi tôn ly hương tổ , tam niên ngũ tái tẩu tha châu .
Thanh Long tán lọan hồi đầu ngổn ngang , thủy theo hướng ngoại chảy đi không tụ lại , con cháu nhất định ly hương cầu thực , táng sau 3 – 5 năm phải bỏ quê mà đi .
Long Thượng Lộ , tung chuyển hành , định chủ niên niên tai họa sinh , nhi tôn định chủ huyền lương tử , chỉ nhân long thượng hữu nhân hành .
Trên tay Long có đường đi dọc ngang , thì năm nào cũng sinh tai họa , con cháu treo cổ mà chết cũng chỉ bởi trên Long có người đi lại .
Long tiêm tà , tức mao diệp , thử thị Thần Long đái quỷ kiếp , gia chiêu đạo tặc thử trung sinh , canh xuất hung , bại gia nghiệp .
Trên Long nhô mũi nhọn mà nghiêng ngửa , đó là Thần Long mang Quỷ Kiếp , nhà như mời trộm cắp đến , rất xấu , bại gia nghiệp .
Thanh Long thối , tam lưỡng phiến , băng toái thiết kỵ huyệt tiền kiến , nhi tôn bần chi thụ cô hàn , định chủ đề la mịch thực biến .
Thanh Long chia ra làm 2 , 3 lớp kỵ nhất là lở bể trước mặt huyệt , con cháu nghèo khó cô quả , ngày nào cũng vác rá đi vay .
Bạch Hổ quý , ngưu giác thế , hựu tự ngân thi đáp phạn sơn , thử thị quan sa nhân hãn kiến , tá phụ tá xã tắc nhập triều .
Bạch Hổ quý , thế như sừng trâu , như cái thìa xúc vào núi cơm , thế đất quan sa rất hiếm gặp , làm quan đến thừa tướng trong triều đình .
Ban Hổ sơn Phụng như bán nguyệt , hựu tự ngân sơ lai hướng huyệt , thử thị bảo sa nhân hãn thức , tam phòng cập đệ triều kim khuyết .
Bên tay Hổ và núi Phụng tạo thành hình bán nguyệt , giống như cái lược bạc hướng vào huyệt , đó là thế sa ít người biết , con của tam phòng ( Con trai thứ 3 ) làm quan triều đình .
Bạch Hổ cát , hữu tú phong , lỗi lỗi bài lai tự phúc chung , định chủ tiểu phòng phát tích , môn lan hỷ khí náo thông thông .
Bạch Hổ tốt , có đỉnh núi đẹp , đá đẹp xếp lại như cái cốc uống rượu , con thứ vợ lẽ phát , nhà cửa khí lành tràn đầy .
Hổ sơn hùng , tam miêu nhi , hồi đầu vọng huyệt dục hàm phàm , định chủ nhi tôn tao Hổ giảo , thời sư ngộ thử yếu tiên tri .
Núi bên Hổ hùng mạnh , như ba con mèo quay đầu lại muốn nuốt lấy huyệt , chủ việc con cháu bị hổ cắn , người làm thầy khi gặp cần phải đoán trước .
Bạch Hổ tủy , như nhân chỉ , tai sinh quan phi lai điểm chỉ , nhi tôn đổ phó mại điền viên , hựu sinh phụ nhân hoa tửu uyển .
Bạch Hổ như cái mỏ chim , như ngón tay người ,tai họa sinh ra từ quan sự điểm chỉ , con cháu vì cờ bạc mà phải bán ruộng vườn , còn con gái thì đàng điếm .
62. Dương Trạch Loan Đầu Tứ Đại Cục
Dương Trạch tứ đại cục thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng , tứ tượng sinh bát quái . Tứ tượng bao gồm : Thái Âm , Thái Dương , Thiếu Âm , Thiếu Dương .
“Chu Dịch” theo đó mà nói rằng : Đạo là bắt đầu sáng tạo ra trời đất vạn vật , theo đó mà giúp cho vật lợi cho dân . Đó là vì người xưa đã qua một quá trình quan sát lâu dài , dùng hình thức vẽ các quái , để diễn tả mô hình của trời đất , quá trình hình thành của vũ trụ , gồm các quy luật vận động của vũ trũ . “ Hệ Từ Thượng” nói : “ Dịch có thái cực , sinh ra hai nghi ( Âm Dương ) , hai nghi sinh bốn tượng , bốn tượng sinh tám quái .” Đó là toàn bộ quy luật của Vũ Trụ .
I. Cục Thứ Nhất – Đãng Khí Cục
Đãng khí cục : Nhà ở mà xung quanh không có hộ cục , tám mặt bị gió thổi tất cả tán đãng , nhân vì Âm Phong rất nhiều không hàm chứa được sinh khí bao nhiêu nên còn gọi là Thái Âm Cục .
“Dương Trạch Chỉ Nam” quyết viết : Nhất không tam bế thị hào gia , tam không nhất bế loạn như ma ; nhược thông bế lý cầu không pháp , lập địa trân châu mãn lộc xa .
Tam không nhất bế , tức là chỉ một nhà ở mà ba mặt thụ phong , gọi là Nhà ở thuộc Cục thứ nhất Nhất Đãng Khí Cục .
Thái Âm Hình Cục :
1. Sinh ra người lười biếng , được sao biết vậy .
2. Không có trách nhiệm , sợ việc , sợ làm phiền .
3 . Không can đảm .
Thái Âm ( Đãng Khí Cục ) sinh nhiều tật bệnh về phổi thận . Bách Khí Cục ( Khí dồn nén ) sinh các bệnh gan , tim . Thận phổi thuộc dương ( Kim thủy là âm ) tính chất là thu tụ . Mà Đãng Khí Cục , khí không thu mà lại đãng , nên bất lợi cho thận phổi . Gan tim thuộc dương ( Mộc Hỏa là dương ) tính chất là tán phát . Gặp Bách Khí Cục không tán , phát mà lại áp bức , cho nên bất lợi gan tim . Đãng Khí Cục chủ trong nhà xuất kẻ du đãng , không muốn về nhà.
II. Đệ Nhị Cục – Bách Khí Cục
Bách Khí Cục : Nhà ở bốn bên bị áp bức , như thú nhốt trong truồng , bốn mặt không có sinh khí hoặc rất ít sinh khí đi vào trong nhà , do đó mà dưỡng khí không đủ . Bách Khí Cục mức độ áp bức quá mạnh gọi là Thái Dương Cục .
Bách Khí Cục sinh ra người tính thô bạo , Bách Khí Cục như tình trạng bị nhốt trong lồng , khí không lưu thông , sinh ra uất bí , nên sinh ra tính người thô bạo . Như thế trong nhà ngày tranh đêm cãi . Dễ phát các bệnh sốt nóng : Nguyên nhân vì Bách Khí Cục không khí không lưu thông , ẩm thấp nóng bức phát tán , đến không khí trầm uất nóng bức , tất nhiên sẽ phát sốt . Bách Khí Cục việc lưu thông không khí không đều , nên khó có được dưỡng khí nên dễ sinh bệnh gan , tim , chảy máu não.
III. Đệ Tam Cục – Thừa Khí Cục
Thừa Khí Cục : Nhà ở có tường bao bọc xung quanh , mở ra một cửa nạp khí . Thừa khí cục thao thiên thời gọi là Thiếu Dương Cục . “Dương Trạch Chỉ Nam .” : Nhất không tam bế , tức là ba mặt che gió , một mặt mở thu khí . Đó là cục chứa khí ( Tốt ).
IV. Đệ Tứ Cục – Tụ Khí Cục
Tụ Khí Cục : Nhà ở mà bốn mặt được bảo vệ , lại không phạm vào áp bức ( Bị đè nén ) , có khoảng không để khí trời và khí đất dung hợp tụ vào trước nhà , từ đó đi vào nhà và người trong nhà hấp thu được . Tụ khí cục còn gọi là thiếu âm cục .
“Dương Trạch Chỉ Nam .” nói : Cái lý của sự đóng là phép tìm ở chỗ không , cái đó Phong Thủy Học gọi là phương pháp Tàng Phong Tụ Khí . Tức là nhà ở bốn mặt che gió mà lấy trung gian tụ khí .
63. Âm Trạch Phong Thủy Thần Khảo !
I. Tổng Luận Tám Sơn.
Cái Đạo của khoa Địa Lý đầu tiên là trọng Long , Long chính là xem địa thế vậy .
Càn Sơn : Càn Sơn là Thiên Trụ , nên cao lớn , mập mạp , tại sau huyệt chủ người sống thọ , nếu hình như Thiên Mã , thôi qan rất nhanh , nên chủ quý nhân thọ lâu .
Khảm Sơn : Khảm Sơn là vùng đất âm dương bắt đầu phân chia , Khảm Sơn cao lớn mập mạp , cả nhà rất thành thực , trung thọ hiền lương , nếu khảm sơn đê hãm , gió bắc khí lạnh thổi mạnh , rất nghèo tiền bạc , chủ chết non . Tại tay Long chủ trưởng phòng , tứ phòng , thất phòng không tiền bạc , tại tay hổ chủ tam phòng , lục , cửu phòng vất vả bất lợi .
Ly Sơn : Ly Sơn cũng là vùng đất âm dương bắt đầu chia , Ly là mắt , Ly Sơn cao lớn mập mạp , chủ nhiều bệnh về mát . Ly sơn là trung nữ , phụ nữ luôn bất lợi . Tọa chính đông hướng chính tây , bảm thủy khí đại lợi .
Cấn Sơn : Cấn Sơn là thiếu Nam , Cấn cao lớn mập mạp , chủ giàu ít lắm người , thiếu nam không sinh bện tật , cha dễ phát tài , nếu cấn sơn thấp hãm , chủ sinh nhiều bệnh tật .
Chấn Sơn : Chấn Sơn cao lớn mập mạp , sinh nhiều nam ít nữ , trong nhà xuất võ sĩ . Chủ người tính chân thật , nếu nơi đó mà thấp hãm , nhân đinh không vượng , nhiều nữ ít nam , tại tay Long thì 1, 4, 7 yểu . Nhân đinh ít .
Tốn Sơn : Phương Tốn cao to đẹp đẽ , xung quanh thanh tú , chủ xuất con rể tốt , phát cháu ngoại . Nếu Tốn Sơn cao lớn đẹp xinh tất phát nữ quý , phát học hành , vì lục tú thôi quan sơn . Nếu nơi đó thấp hãm , chủ phụ nữ yểu .
Khôn Sơn : Khôn Sơn là mẹ , nếu Khôn Sơn cao lớn mập mạp , chủ phụ nữ thọ , nhân đinh đại vượng , rất giàu có .
Đoài Sơn : Đoài Sơn là thiếu nữ , là phương tam cát rất đẹp , nếu Đoài Sơn cao lớn, chủ xuất văn võ song toàn , học hành rất lợi ! Lại chủ nhà đó có nhiều con gái đẹp, tài mạo vẹn hai , đã phú lại quý . Nếu xứ đó thấp hãm , phụ nữ yểu , nhiều nữ ít nam , nếu tọa chính bắc hướng chính nam , bẩm thủy khí . Đoài sơn cao lớn đè huyệt , lại có thủy triều đến , xuất người què cụt , có tật về đùi chân , tứ duy bát can , sơn nào cũng no tròn cao đầy thì xuất trạng nguyên khoa giáp .
II. Long Mạch Cát Hung Biện :
Hình dáng nơi đất chôn , như trâu nằm ngựa phóng , như loan múa phượng bay , như rắn uốn khúc , đều do dùng thủy đến mà phân biệt . Dưới đây là các loại địa hình thuộc ngưu phú , phượng quý xà hung nguy .
1.Long đến khí thế như vạn ngựa phóng lên trời , là đất táng vương hầu .
2.Long đến khí thế như sóng lớn , núi lớp lớp che chắn , hộ vệ trùng trùng , đó là đất đại quan .
3.Long đến khí thế như nhà lớn , cây cỏ tươi tốt , đó là đất của khai quốc công thần .
4.Long đến khí thế như rắn bò uốn lượn , đất táng đó là nước mất nhà tan .
5.Long đến khí thế như rồng giáng xuống , thủy bọc bao quanh , đó là đất của đại quan .
6.Long đến khí thế như giáo mác , đó là có lao ngục tai họa , binh hỏa khó tránh .
7.Long đến khí thế như nước chảy , người thân chôn là đất tượng tử quỷ .
8.Long đến khí thế như bình phong , hai bên núi đối giữ , táng tại chỗ giữa , đó gọi là đất táng phong vương phong hầu .
9.Long đến khí thế như dùng dằng kết oa , tại oa đỉnh hạ táng sau này con cháu phát tài .
10.Long đến khí thế như cái mũ , táng đất ấy cả nhà vui vẻ .
11.Long đến khí thế như ném , đó là đất con cháu trăm sự nghèo .
12.Long đến khí thế như loạn y , đó là đất táng con cháu gái sau này hay đố kị , vợ con tư thông với người khác .
13.Long đến khí thế như cái túi đựng tro , đó là đất chôn con cháu hay bị cháy nhà.
14.Long đến khí thế kết lại như cái thuyền , con cháu nữ sẽ sinh tật , nam thì mang họa lao ngục .
15.Long đến khí thế như nghế bàn bày ngang , đó là đất đoạn tử tuyệt tôn .
16.Long đến khí thế như thanh kiếm , con cháu phản nghịch nên bị tru sát .
17.Long đến khí thế như lưỡi đao giơ lên , con cháu gặp hung họa trốn tránh khắp nơi
64. Minh Đường Trong Phong Thủy
Minh đường là khoảng không gian trước mặt của âm hoặc dương trạch , nó là nơi thể hiện âm dương trạch tàng phong tụ khí !
Sẽ có người hỏi : Minh Đường là cái gì và nó có tác động gì trong Phong Thủy .
Thật ra để nói cho rõ ràng thì rất dài . Còn ngắn gọn một câu : Minh Đường là nơi tụ Thủy , mà có câu : “Sơn Quản Nhân Đinh Thủy Quản Tài – Núi Quản Con Người , Nước Quản Tài Lộc .” . Con đường dẫn đến tài lộc chính là Minh Đường , nên Minh Đường chính là để xem Tiền Đồ của mỗi trạch .
Thế nào gọi là Phong Thủy “Táng Thư – Quách Phác đời Tấn” viết : “Phép của Phong Thủy , đắc được Thủy là cao nhất , tàng được Phong là thứ hai” . “Kinh” viết : “ Khí bên ngoài để tụ khí bên trong , thủy hai bên chẳng qua dừng Long ( Khí mạch ) đến” . Thái Nguyên Định trong “Phát Vi Luận” : “ Ở giữ hai dòng nước tất có núi , chỗ nước quay đầu hội lại tức là cuối cùng của Long ( Khí mạch ), nước giao nhau tất Long dừng , nước chảy xiết tất Sinh Khí cạn , nước dung hòa lại có lam khí bốc lên tất là có khí tụ bên trong .” .Từ Thiện Kế “Nhân Tử Tu Tri – Thủy Pháp” viết : “Chỗ có Nước sâu rộng dân nhiều người giàu , chỗ nước nông hẹp dân đa số nghèo , nơi nước tụ thì dân cũng đông đúc , nơi nước tàn đi thì dân cũng bỏ đi .” . Trong lý luận Âm Trạch , Minh Đường đại biểu cho nơi kết huyệt , chúng ta tìm Long Huyệt tức là tìm vùng Đất có sinh khí . Quách Tiên Sư trong “Táng Kinh” nói : “Khí theo gió mà tán ra , gặp nước thì dừng . Người xưa làm cho tụ lại không tán , làm cho dừng mà không đi . Nên nói là Phong Thủy .” nơi dừng thủy chính là Minh Đường , cũng là nơi kết huyệt , khẳng định ý nghĩa Tàng Phong Tụ Khí của Phong Thủy Học !
Dương Công nói : Minh Đường tiếc nước như tiếc máu , trong Đường ( bên trong ) sợ gió như sợ giặc .
Sách Kham Dư nói : Minh Đường chứa vạn mã , thủy khẩu như thông thuyền .
Trên đây là một số câu ngắn nhưng rất quan trọng khi luận về tính chất cũng như yêu cầu Minh Đường . Trong nhà ở , thông thường lấy tựa núi hướng biển , lấy biển làm minh đường . Trong thành phố lấy ngã ba , ngã tư làm Minh Đường ; Ở nông thôn , trước thôn có ao hồ là Minh Đường , nên có một chút nước ! nếu như các trạch mà không có minh đường , nhất định nơi đó khẳng định sự phát triển gặp chướng ngại , bởi minh đưởng chính là cái đề xem tương lai tiền đồ ! Vị trí , hình trạng Minh đường bên ngoài đại biểu cho con đường tiền tài , thậm chí gồm cả sức khỏe . Như có người đi xa đi gần đều phát tài , có người chỉ đi xa mới phát tài , lại có chỗ phát cho nữ , chỗ lại phát cho nam , có lúc phát gần có lúc phát xa , có lúc đột phát hoạch tài , có phát cho số đông có lúc lại chỉ phát cho 1 , 2 người ! Tất cả phụ thuộc rất nhiều nơi Minh Đường !
Có lúc xem Minh Đường cũng có thể biết được trạch đinh nhân khẩu ? Như tôi lúc trước xem một nhà tại Ân Bình , nhà đó mới xây , chỉ làm phòng thờ Tổ Tiên , bên trong chỉ có bài vị thờ Tổ Tiên không có người ở , do đặc thù của Minh Đường tôi đoán nhà này vượng tài không vượng đinh , quả nhiên như vậy !
Như Trấn Nguyệt Sơn , một thôn họ Mạch , Minh Đường có Ky Khẩu Thủy Đường ( Ao mà có nhiều chỗ lưu thông nước ), do đắc vận hợp nghi , nên thôn đó xuất ra không biết bao nhiêu Phú Ông !
Sách xưa có miêu tả ít nhiều về hình trạng Minh Đường , có rất nhiều biểu tượng , đương nhiên không phải lúc nào cũng đúng ! Như Minh Đường mà có hai cửa giống như chữ Khấp “哭 - Khóc” , thật là sai , không biết từ đâu ra ; Người xưa nói rằng nhà ở không đối diện với cơ quan pháp luật , bởi vì có sát khí ( Hoàng Khí ) quá lớn , tạo thành ấp lực tâm lý , sống như thế rõ ràng không thoải mái về tâm lý . Người xưa cũng khuyên rằng trước cửa không nên đào ao mới , chủ tuyệt tự , gọi là Huyết Bàn Chiếu Kính , chính là khi đào ao mới đã phá mất minh đường , lại thêm quá gần mép nước , đối với sự an toàn của người già và trẻ nhỏ rất nguy hiểm. Tuy nhiên điều này cúng không phải là tuyệt đối , chỉ cần có tài tinh đến trước minh đường thì ở cự ly thích hợp đào ao thì không trở ngại gì .
Người xưa cho rằng phía Tây có ao đầm là Bạch Hổ khai khẩu , tổn thương đến người , tôi thấy cũng không hẳn như vậy , thật ra chỉ cần xem có đắc vị hay không thôi . Tôi đã từng giúp anh của mình chọn một căn phòng mà ở phía Tây có một hồ nước rộng , vậy mà tiền bạc cứ tăng vùn vụt , trở thành người giàu nhất trong gia đình . Nhà ở mà Minh Đường có sát thật là rất xấu , ví như tôi trước ở Thanh Đảo xem một nhà cao tầng , sinh thực vị là Thiên Trảm Sát , vào ở chưa bao lâu sinh một người con nửa nam nửa nữ . Tại Sơn Đông Thanh Châu , một nhà tọa Mùi hướng Sửu , ở lầu hai , minh đường có Liêm Trinh Sát , năm 2003 đầu năm bị co rút hai tay , nên mặc quần áo đều phải nhờ người khác . Tại Thủy Khẩu Trấn có một quán ăn , minh đường bị phá bởi tuyến điện cao thế , quán ăn đó đã qua tay nhiều người song rất khó làm ăn , đó là do khí sát nhân vậy .
65. Cảnh Giới Tối Cao Của Phong Thủy !
“Sơn Hoàn Thủy Bão , Tàng Phong Tụ Khí , Khí Tụ Hữu Tình” là cảnh giới tối cao mà Phong Thủy Học truy cầu , cũng là cái mà phong thủy luôn đề cao và nghiên cứu . Khí , không có gì là Thần Bí hay trừu tượng . Phong Thủy học bắt đầu từ Đại Khí , Không Khí . Không Khí lưu động thì thành ra gió , Trong Phong Thủy, nghiên cứu gió chính là để xem vì sao sản sinh tốt xấu . Vì sao trong lúc lưu động lại nảy sinh tốt xấu ? là vì có sơn xuyên hà nhạc ( Núi đồi sông suối ) . Không khí đí qua núi cao tất bị ngăn trở , thay đổi phương hướng và tốc độ . Gió bắc thì lạnh lẽo , gió năm nóng ẩm , lốc bão thì là quá mạnh mà sinh tai họa , đó là các kiến thức thông thường .
Toàn Cảnh Thập Tam Lăng ( 13 Lăng Mộ Của Các Hoàng Đế Minh Triều ).
Chúng ta sống trong các ngôi nhà cao tầng ( Chung cư ) cũng giống như núi cao , nó làm biến đổi phương hướng và tốc độ của gió , gió mang không khí đi vào theo cửa và cửa sổ ( Phong Thủy Học gọi là khí khẩu ) mà vào trong nhà , tạo ra ảnh hưởng đối với người và động vật trong nhà . Tốt xấu từ đó mà sinh ra .
Trong Phong Thủy có hai khái niệm đối lập là “Vượng Khí” và “Suy Khí” , hai cái này cũng không có gì Thần Bí . Vượng Khí là khí tốt , Suy Khí là khí xấu tất cả đều do môi trường , thời gian tạo nên . Xem xong Phong Thủy cần cái biến vị trí cửa , cửa sổ cũng phương hướng , là để đón vượng khí vào mà thôi . Cho nên nghiên cứu phương vị mở cửa , cửa sổ chính là một vấn đề lớn của Phong Thủy Học .
“Khí Thừa Phong Tán , Giới Thủy Tắc Chỉ” là một thuật ngữ quan trọng trong Phong Thủy . Ý nghĩa của nó là khi không khí chuyển động mà gặp sông biển thì dừng lại . Sông Biển chính là một nơi không khí ít khi tán rộng . Khí ở chỗ này ngưng tụ lại từ nhiều hướng khác nhau ( Đây cũng chính là nguyên nhân hình thành các vùng khí tập trung sản sinh ra bão , lốc ) . Chọn lựa tựa núi quay ra biển chính là một kinh nghiệm đúc kết trải qua nhiều đời . Nó phù hợp với nguyên tắc : “Sơn Hoàn Thủy Bão , Khí Tụ Hữu Tình” .
Đề Có Được Phong Thủy Tốt Nên Theo Bốn Nguyên Tắc Lớn Như Sau :
1.Sảnh ( Phòng Khách ) Nên Lớn, Phòng Ngủ Nên Nhỏ.
Phòng khách là nơi cả nhà hoạt động sinh hoạt suốt ban ngày , nên cần rộng rãi , thoáng mát . Còn phòng ngủ lại không nên quá lớn , bày vật không nên quá thưa thớt rời rạc . Không khí đương nhiên cần lưu thông , tuy nhiên nếu như 3 mặt đều có cửa sổ , nên đóng bớt lại . Vì như thế khí sẽ tán .
2.Không Nên Chọn Tầng Quá Cao.
Không nên sống ở nơi cô lập trên cao , như ngày trước khi còn ít người xây nhà cao , có một số người xây nhà cao vưới xung quanh bốn bên , như thế Phong Thủy Học gọi là Cô Cao ( Cô đơn cao một mình ) . Cô tức là vị trí cô lập , không có chỗ tựa sau , không có chỗ dựa bên cạnh , không có bạn bè , không có sự giúp đỡ . Cao là quá ư nổi trội , chót vót , tất nhiên bị cô lập . Nhà bị Cô Cao sẽ không được che chắn , mưa gió trút vào , lại bị gió dữ . “Khí Thừa Phong Tác Tán – Khí gặp gió thì loãng ra” , mà khí tán sẽ phá tài , tổn thân , người và tài sản đều tổn thất , chỉ còn lại cô đơn , yếu ớt , dần dần biến thành tiêu điều , điêu linh.
3. Mô Thức Đẹp Chuẩn Của Phong Thủy.
Khi lựa chọn nên chọn vị trí trung tâm , nơi đó sau lưng phải có núi , gọi là “Kháo Sơn – Tựa núi .” . Ở bên trái gọi là “Thanh Long” ; Bên phải gọi là “Bạch Hổ” . Trước mặt mở ra một khoảng lớn . Tốt nhất là một vùng đất rồi tiếp đến là một vùng nước trong xanh đẹp đẽ hữu tình , như thế gọi là “Minh Đương” . phía sau Minh Đường nến có núi . Gần gọi là “Án Sơn” xa gọi là “Triều Sơn” . Như thế là bốn núi vây quanh , ở giữa là đất bằng hoặc sông hồ , gọi là “Sơn Hoàn Thủy Bão”. Núi bốn bên che chắn , chặn luồng gió quá mạnh , bảo hộ cho những người sống trong nhà . Khí do núi cao đi xuống được vùng đất bằng phẳng hoặc vùng nước trước mặt ngưng tụ lại , trong mát , quyến luyến hữu tình . Chọn lựa một vùng đất như thế để ở tất nhiên sẽ có đủ Phúc Lộc Thọ Khang Ninh , phát Phú Phát Quý.
4 . Kháo Sơn Nên Là Vật Thể To Lớn Vững Chắc.
Kháo Sơn ( Núi tựa phía sau nhà hoặc mộ huyệt ), còn có tên là “Tứ Nghĩa – Ban Ơn Nghĩa ” , tức là có vai trò rất lớn . Trong quan hệ giao tiếp với người khác thường là "Tựa trên quản dưới " cho nên đây chính là người đề bạt cho bạn , là người đứng phía sau bạn . Tả Thanh Long , Hữu Bạch Hổ , tức là trợ lực . Tức là thuộc cấp của bạn , hoặc trợ thủ , bạn bè . Minh Đường , đại biểu trước mắt . Án Sơn biểu tượng cho danh tiếng . Triều Sơn biểu tượng cho sự kính phục , cung phụng của người khác đối với bạn . Cũng đại biểu cho quý nhân đến với bạn . Cao một phân là Núi , thấp một phân là thủy . Trong Phong Thủy Học hiện đại lấy nhà cao làm núi, đường đi là thủy từ đó mà xem xét phán đoán
66. Chân Núi Xem Thủy Khẩu , Lên Huyệt Ngắm Minh Đường Thủy Khẩu
Tức là cửa nước lưu thông mà mắt nhìn có thể quan sát được . Thủy trong Phong Thủy Học coi là mạch máu của Long , Long không có thủy đưa đi , thì không thể biết chỗ nào Long đến , Huyệt không có thủy dừng lại , tất chẳng biết Long dừng ở đâu . Thủy Khẩu chính là nơi Long Thủy giao hội .
Âm Dương là bản thể của vạn vật trên thế giới . Phong Thủy nhận rằng Long thuộc Dương, Thủy thuộc Âm, Âm Dương giao cấu tất có sinh khí lưu hành. Âm dương mạch lộ , tất cô dương bất trưởng , độc âm bất sinh . Cát Hung Họa Phúc của Phong Thủy quy cho cùng thì cũng chỉ ở chỗ Âm Dương Long Thủy có hay không xung hòa. Cũng giống như động vật giao phối sinh nở, Âm Dương giao cấu cũng hoài thai kết huyệt, Âm Dương không tương kiến hỏi lấy gì mà kết huyệt.
Khí hợp nơi hình, Âm Dương hai khí con người không dễ dùng ngũ quan để cảm nhận , chỉ có thể theo tình huống, hình thể cụ thể để quán sát nhận biết . Cẩn thận quan sát hình trạng Thủy Khẩu, trạng huống của Tỏa Quan cùng tìm dấu vết Long theo phương nào , tìm đến chính xác hào tuyến Long Thủy Âm Dương giao cấu . Theo đó xem xét kết luận Long có phải Chân Long , Long có dừng laijmaf kết không, có huyệt hay không có huyệt , là Chân Huyệt hay giả Huyệt , là đại địa hay tiểu địa . Như vậy có thể nói Thủy Khẩu quan hệ vô cùng đến sự nhận Long Chân giả , đẳng cấp của huyệt cao thấp thế nào .
Kinh nói : “Thủy Thị Sơn Gia Huyết Mạch Tinh”. Thủy là sự hóa sinh của Long Khí , Long từ Tổ Sơn mà đi cũng là nơi đầu nguồn của dòng thủy . Trong quá trình Long đi, thủy trước sau đều bên cạnh làm bạn , hoặc gần hoặc xa , hoặc gặp hoặc chia. Đến lúc Long kết tạo thành huyệt, thì thủy uốn lượn ôm vòng hoặc tụ dừng trước huyệt, đường chảy vương vấn như có tình. Thủy Khẩu đóng kín không đẹp hoặc vị trí không đăng đối , thế nước tất vô tình mà đi, đất đó làm gì có huyệt mà điểm, có đi chăng nữa cũng chỉ là hoa giả lừa mắt thời sư . Cho nên người đến núi xem đất , đầu tiên tất trọng Thủy Khẩu .
“Minh Đường” nguyên để chỉ ngày xửa khi các Hoàng Đế ngồi tựa Bắc hướng Nam nghe việc triều chính , trăm quan triều bái cửa cung điện . Thuật Phong Thủy lấy không gian mặt bằng trước Huyệt làm Minh Đường . Phần ngay trước mộ tụ nước là Nội Minh Đường , cũng gọi là “Nội Dương” ; trong khoảng Long Hổ Án sơn là Trung Minh Đường cũng gọi là “Trung Dương” ; Ngoài Án Sơn đến triều sơn là Đại Minh Đường , cũng gọi là “Ngoại Dương” . Long từ ngàn dặm đến kết huyệt, định thế dừng hình, trước mặt chúng sơn triều lễ, chúng thủy hội tụ, giống như quần thần nghe lệnh, trăm quan kính lễ, vạn quốc triều cống, đó chính là biểu trưng của Chân Long kết huyệt . Nguyên vì Minh Đường có hay không , lớn hay nhỏ , hơn hay kém sẽ đoán được Huyệt Chân hay Giả , hơn kém chính là tiêu chí trọng yếu . Bởi thế cho nên leo lên cao xem Huyệt trước cần xem minh đường , để biết được có Huyệt hay không .
Chúng sơn vây bọc Chân Long đến ; Chúng thủy tụ xứ là Minh Đường . Phong Thủy Dương Công nhấn mạnh trong thừa sinh khí , ngoài nối Minh Đường , nội khí là sự thừa tiếp tích tụ của ngoại khí , bởi thế một vòng Minh Đường tốt xấu , hơn kém với Phong Thủy của huyệt trường liên quan chặt chẽ . Tóm lại Minh Đường tốt nhất nên Bằng Phẳng , Thong Thả , Khai Mở , Sáng Đẹp , Vuông Tròn Nhuần Nhị ; Kỵ nhất là nghiêng đổ , bế tắc hoặc quá ư rộng rãi .
Thủy Khẩu , Minh Đường là yếu tố đầu tiên và cơ bản của điểm huyệt , hai điều nếu hợp pháp độ thì là Huyệt Chân , nếu sai pháp độ thì là Phi Địa .
67. Long Môn Bát Cục Luận Thủy !
Trong lý luận của Phong Thủy thì núi chủ con người , nước chủ tài . Trong Long Môn Bát Cục luận thủy , nước chia làm Tiên Thiên Thủy và Hậu Thiên Thủy , Tiên Thiên Thủy chỉ sự hưng vượng con người , Hậu Thiên Thủy để chỉ tiền tài quảng tiến .
Long Môn Bát Cục luận thủy thì lấy phương vị phối Tiên Hậu Thiên bát quái mà đến . Ví dụ : Lập nhà tọa chính bắc , tất Đoài là Tiên Thiên Thủy , Khôn là Hậu Thiên thủy .
Làm thế nào để xác định chính bắc Tiên Thiên thủy ? Phải lấy Hậu Thiên Bát Quái làm điểm xuất phát , tại Hậu Thiên Bát Quái chính bắc là Khảm , mà tại Tiên Thiên Bát Quái Khảm tại chính Tây . Nên lấy thủy đến chính Tây làm Tiên Thiên Thủy . Tức là theo Hậu Thiên tìm Tiên Thiên .
Làm thế nào để xác định chính Bắc Hậu Thiên Thủy ? Đầu tiên lấy Tiên Thiên Bát Quái làm xuất phát điểm , tại Tiên Thiên Bát Quái chính Bắc là Khôn , mà tại hậu thiên bát quái Khôn tại Tây Nam . Cho nên nói Tây Nam có thủy đến là Hậu Thiên thủy . Tức là theo Tiên Thiên tìm hậu thiên .
Tất cả theo đó mà suy:
- Tọa Nam triều bắc , tiên thiên thủy tại chính đông , hậu thiên thủy tại tây bắc .
- Tọa Đông triều tây , tiên thiên thủy tại đông bắc , hậu thiên thủy tại chính nam .
- Tọa Tây triều đông , tiên thiên thủy tại đông nam , hậu thiên thủy tại chính bắc .
- Tọa Đông Nam hướng tây bắc , tiên thiên thủy tại tây nam , hậu thiên thủy tại chính tây .
- Tọa Tây Bắc hướng đông nam , tiên thiên thủy tại chính nam , hậu thiên thủy tại đông bắc .
- Tọa Đông Bắc hướng tây nam , tiên thiên thủy tại tây bắc , hậu thiên thủy tại chính đông .
- Tọa Tây Nam hướng đông bắc , tiên thiên thủy tại chính bắc , hậu thiên thủy tại đông nam .
Long Môn Bát Cục Thủy Pháp , tuy chỉ nói về thủy nhưng cũng cần có sơn liên hệ. Ví như lấy Tiên Thiên Thủy Hậu Thiên Sơn , hoặc Tiên Thiên Sơn Hậu Thiên Thủy . Sơn với thủy tương giao .
68. THIÊN Y - LỤC SÁT . . . . . .
Cửu Tinh Chế Phục.
Sanh khí giáng Ngũ quỷ
Thiên y chế Tuyệt mạng
Diên niên yểm Lục sát
Chế phục an bài đinh.
Rất nhiều sách viết về vấn đề này nhưng chưa ai có thể giải thích được cái nguyên lý tại sao Sanh Khí, Thiên Y, và Diên Niên có thế chế phục được Ngũ quỷ, Tuyệt Mạng và Lục Sát, và cả vấn đề Phục Vị, tuy không có trong bài thơ, nhưng nó có thể chế được Họa Hại hay không?
Sanh khí,Thiên y,Diên niên,Phục vị.SANH KHÍ là hướng thăng hoa phát tiết tinh thần minh mẩn ( tuổi học trò có lợi ), THIÊN Y linh khí trừ tà, khử bệnh, DIÊN NIÊN quanh năm vui vẽ, PHỤC VỊ sống lâu phúc thọ. Bốn hướng hại mệnh có tên :Ngũ qũi,Họa hại,Lục sát,Tuyệt mạng.NGŨ QỦI tinh thần ma mị, HỌA HẠI tai vạ thất thường, LỤC SÁT liên tục thọ thương, TUYỆT MẠNG chết chóc !
69. Lập bi kỳ luận
Phụ: thụ bi khẩu quyết
Hương tục thông táng
Ngũ âm tính thị
Điều âm bí quyết
Liễu thị gia tàng trạch nguyên quyển hạ
Trạch nguyên luận
Trạch địa hình thế
Địa đồng chi thức ( trạch oánh nhất lý )
Tương trạch sát khẩu quyết toàn thập tự
Di tương tương trạch khẩu quyết
Liễu hồng thải tương trạch khẩu quyết
Liễu hồng tuyền tương trạch khẩu quyết kỳ nhị
Hựu khẩu quyết
Tương trạch khẩu quyết
Thái du niên khởi thiên
Cửu tinh luận
Bát quái ca
Xảo phiên bát quái
Huyền không trang quái quyết
Cửu tinh cảm
Mệnh nguyên kiến trạch ( thiên di diệc dụng )
Ngũ hổ vô độn
Tử khởi thì pháp
Mệnh tiền ngũ triển khẩu quyết
Phụ: mệnh tiền ngũ thần định hướng khẩu quyết
Hành niên kiến trạch ( nam dần thuận hành trung, nghịch hành thiên di súy )
Du niên biến trạch
Khởi cửu cung bát quái sở sinh
Tu cái thần sát
Kiếp tai tuế tam sát
Thiên cân sát
Đại thâu tu mục
Môn quang tinh
An môn chú
An trù táo phương
An oa khẩu quyết
An oa cát hung nhật
Tạ thổ nhật
Xuyên tỉnh lợi phương
Thượng quan bất tường nhật
Thiên thiên đồ
Thượng lương si tử phương vị
Liễn lang thần chú
Thụ tạo trạch xá ( kỵ thiên hỏa nhật, ngọ nhật )
Bát trạch quy hỏa
Khai củ xuyên tỉnh
Tập tước thượng nhâm
70. Nguyên tắc công tác phong thủy không ngoài 16 chữ:
Thiên quang hạ lâm
Địa đức thượng tái
Tàng thần hợp sóc
Đón thần tránh quỉ
Đọc qua thấy đơn giản, nhưng thực hiện được không dễ chút nào. Nay tôi tóm lược đại ý như sau:
Làm phong thủy là làm thế nào để hội tụ được: Khí Thiên gáng xuống, khí Địa thăng lên, Thiên Địa giao hòa, mới sinh khí Thiêng. Còn một khi, khí Thiên vãn ở trên cao, Khí Địa chưa thăng lên để Thiên Địa hợp nhau thì làm gì có Khí Thiêng
Tàng thần: Chúng ta cần biết thu Linh khí tiềm tàng trong đất.
Hợp sóc là Dùng Thái Dương, Thái Âm hợp chiếu ở ngày mồng 1 và ngày rằm, lấy ví dụ thế,tức ý nói là dùng phép Độn Giáp để biết thời gian và phương hướng Tam kỳ, Lộc, Mã đến sơn, đến hướng mà tạo táng thì tự nhiên cát khánh.
Chỗ tương hợp với Thái Tuế là cát, tương xung tương khắc với Thái Tuế là hung.bởi Thái Tuế như Vua, ta là Thần dân, Vua khắc dân là kém, nhưng còn tạm chấp nhận được, còn dân khắc Vua là phạm thượng, chắc chắn là xấu.
Đón thần tránh quỉ tức là đón những khí tốt, tránh những khí xấu.
Đạo của tuyển chọn Phong thủy có Thể có Dụng.
Long, sơn, phương hướng là cố định, đó là "Thể".
Năm tháng ngày giờ , chủ nhân là bất định (có thể thay đổi) Đó là "Dụng"
71. Cách Long Thuật
A. Cách Lượng Đại Long Mạch:
1. Thái Tổ Sơn thế đi hùng dũng tụ lại tạo Tổ Tông Sơn. Tổ Tông Sơn bất đầu khởi hình thế Liêm Trinh. Đi từ giữa ra, trái ra hoặc phải ra tất hình tượng mạch là gối hạc lưng ong. Như một cái cổ tay người. Tương tự như cái móng chân huyền đề chó. Ở chỗ cổ đột đột ở trung tâm cách lượng tất Tam Cát Lục Tú thì là Cát Long vậy. Hợi Mão Đoài Cấn Tốn Bính Đinh Tân tám Long tám Mạch không còn gì nghi ngờ. Chỗ thắt trước như lưng bàn tay như lưng huyền đề triệt lạc eo Long không còn thấy mạch. Lập tức sẽ khởi lên Thiếu Tổ Long Hình. Lưng Thiếu Tổ Long và Tổ Tông eo cách ước hơn kém 500m là Long Hùng có lực. Long eo đa số có Long Tuyền vấn vương dưỡng hộ eo long. Gọi là Thủy quấn Huyền Vũ. Long Tuyền có phân chia trái phải mà chảy đi.
2. Hình Thiếu Tổ Long trên thân Long thường sinh Tinh Phong Loan Đầu tất là Hình Ngũ Tượng Tinh Thể.
Chủ Tinh Phong Đầu Sơn Mạch chô nhô cao Cách Lượng gọi là Xuyên Sơn Long. Lấy Xuyên Sơn 72 Long để Biện Mạch Cát Hung. Song Can Ngũ Tử Long minh sát: Không Vong, Đại Hung, Đại Cát, Bán Cát mà phân ra.
3. Huyệt Trường sau khi Thai Tức hoặc trái phải tai mạch hoặc eo mạch.
Nói rằng : Tú Địa 60 giáp tý nhập thủ chi Long. Biện rõ châu báu. Sai Thác hoặc Không Vong hoặc Hỏa Khanh để định cách Cát Hung.
B. La Kinh Cách Lượng Trung Tiểu Long Mạch Tất Tiếp Tiết 3 Thứ Hai:
Luận Cách Long. Đều lấy vào Giáp Tý nào định cát hung họa phúc. Xem thêm trong “Thôi Quan Thiên” của Lại Bố Ý Tiên Sư, trong chương bình luận về Huyệt tất rất rõ ràng không quá.
Nói Xuyên Sơn tức là Xuyên Định Long Thần chủ tinh xuất mạch xem nó thuộc vào Giáp Tý nào, thì lấy Giáp Tý Long đó mà luận . Xuyên Sơn Long có chia ra Đại Cát, Bán Cát, Đại Hung, Không Vong, còn như Thấu Địa tức là Xuyên Sơn Chủ Tinh xuất mạch quán nhập Huyệt Tinh là Thấu Địa, tục gọi là Nhập Thủ. Chỗ Huyệt Tinh xuất mạch quán nhập Huyệt Trường nhập mạch cách định đó, thấu nhập Huyệt Vị thuộc Giáp Tý nào. Lấy Giáp Tý đó luận tốt xấu. Thấu Địa Long nên biện : Châu Bảo, Hỏa Khanh, Sai Thác và Không Vong. Nên lấy tuyến Châu Bảo nhập Huyệt làm thuần thanh. Cũng có thể gia giảm ít nhiều. Nên xem kỹ Long Thế nhanh chậm mà gia giảm mà định. Cũng nên đọc thêm về Táng Pháp Đảo Trượng. Thôi Quan Thiên ….Tú Địa : tức là cái thuật nối Long của các bậc Hiền xưa. Xuyên Sơn và Thấu Địa cũng là cảnh giới cao của thuật Phong Thủy. Nên có một ví dụ thực tế để diễn thị thì mới có thể rõ ràng, mà nó cũng có một số điều không giống Phương Đạo, diễn thị Ngũ Tinh, Ngũ Thể. Xuyên Sơn Long với Thiên Địa để định rĩ cát hung. Không có pháp cải biến. Thấu Địa có thể do con người lấy Long Khí thuần thanh, tránh xa các sát Hầm Lửa, Sai Lạc và Không Vong, có thể kề phải kề trái hoặc đỉnh Long thoát Long táng, lấy cho được Châu bảo là đất tiên vậy. Vòng Ngọc nên rất cẩn thận, ngộ ẩn giảng dễ rõ ràng .
72. Luận Hình Thế!
Nhìn Long lấy Thế, xem Huyệt lấy Hình. Thế là Thần hiện ra, Hình là Tình lộ ra. Bỏ Thế thì lấy gì nhìn Thần của Long; Bỏ Hình lấy gì xem Tình của Huyệt. Bởi thế Tổ Tông cần có Thế cao vút, Lạc Mạch cần có thế giáng xuống, Xuất Thân cần có thê che chắn, Quá Hạp cần có thế dừng lại, Hành Độ cần có thế nhấp nhô, quanh co, Chuyển Thân có chỗ dựa sau lưng, thế đi về trước. Hoặc hăm hở phi lên, tựa như tuấn mã, hoặc phô bày tầng lớp, như sóng lấn sóng...Có thế như vậy tất là Chân Long. Không được như vậy tất là Giả Long. Tuy có mạch núi đi đến, chẳng qua cũng là cứng rắn hoang dối. Thảng có hình Huyệt tất cũng là giả hoa, đó là điều chắc chắn. Pháp xem xét Thế trước cần lên cao mà quan sát, tiếp theo Thân Long mà bước, lại từ hai bên phải trái mà xem xem, đối diện nhìn kỹ, tất có Chân Thần. Chỗ linh hiển với chỗ chạy lại, chỗ dừng tụ đều có thể tự mình biết rõ.
Đến như Pháp xét Hình, có sáu thể là Viễn Biển Khúc Trực Phương Ao. Tỷ mỉ là bốn Cách Oa Kiềm Nhũ Đột, tiếp lấy thừa Kim tương Thủy, Huyệt thổ Ấn mộc làm pháp chứng minh, tất là Huyệt Tình khó trốn. Thừa Kim cũng tức trong Ngũ Hành, lấy Tròn làm Kim, lấy uốn lượn làm Thủy, lấy thẳng cao làm Mộc, phàm là Chân Huyệt, tất chỗ viên động, Oa Kiềm viên tại đỉnh, Nhũ Viên tại hạ, Đột viên tại giữa, nếu trong Oa Kiềm có Nhũ Đột, trên Nhũ Đột lại có Oa Kiềm. Tức gọi là Nhật La Văn Thổ Súc, tức là Thiếu Âm và Thiếu Dương của Huyệt vậy. Thừa lại dựa Thừa ở chỗ vầng tròn, động Khí ở giữa. Nếu là giữa thủy có Viên Động có thể thừa, trái phải tất có Vi Mang, thủy quanh co bao bọc, giao nhau trước Huyệt, Tiểu Minh Đường là cái gần nhất ngay trước mắt. Giả tưởng chỗ hai thủy giao mà hướng đến. Ấn Mộc tức là chỗ bên ngoài Thủy, tức là hai bên Chân Sa chầu tụ, khép Hạp trước Huyệt, cách bức một khoảng, hợp với Thủy Nội Minh Đường. Tức cánh ve sừng trâu, tức nếu có Thủy tất ấn chứng nơi Sa đó, cũng là nơi Khí dừng thủy giao, nếu không có Sa đó tất là thoát Khí tiết tán. Không phải Chân Huyệt. Cái gọi Huyệt tất có các điều trên, lại có Ngũ Thổ Tứ Bị, là đất quý báu, đúng là Chân Huyệt. Còn như ngoại hình và nội Khí không phù hợp, thì chỉ là Giả Hình mà thôi.
Huyệt chính như Huyệt của người trong châm cứu, nhất định biết nó không dễ. Nếu Tứ Vi đã đủ, ở giữa tất có khí ấm, tức hỏa Khí. Đó là cái cần khi quan sát Huyệt. Bởi vậy cái cần trong Địa Lý không hề ngoài Hình Thế. Nay đã hiểu thuật này, chẳng hư đàm Tinh Quái Phương Vị. Đó là Tinh Nghĩa, nếu ở chỗ hình thế địa lý thực tiễn trái mắt nói sằng, cải biến địa lý hỗ hào, chân nhân không biện, để nhầm người vào tà lộ.
73. Hình Thế Phong Thủy Phú Quý Bần Tiện!
1. Phú - Giàu
Mười Huyệt Giàu Có Chín Huyệt Oa, Y Như Cái Ổ Trong Nhà Lớn, Tám Phương Chẳng Thấy Cái Ao Phong, Thành Vàng Thủy Tụ Cung Mắt Án, Bốn Góc Tam Can Đều Đầy Đặn, Thủy Tụ Thiên Tâm Lại Có Tình, Nhập Thủy Hình Khí Tựa Ba Ba, Trái Kho Phải Vựa Đẩu Tinh Kim.
2. Quý - Sang
Mười Cái Quý Huyệt Chín Cái Cao, Khí Độ Tầng Tầng Áp Chúng Non, Trống Cờ Cổ Vũ Bày La Liệt, Sư Tượng Lân Ly Lại Bảng Vàng, Văn Bút Án Cao Vạn Hốt Chầu, Long Lầu Phượng Các Quý Cực Phẩm, Thủy Đến Chín Khúc Núi Xuyên Mây, Khanh Tướng Công Hầu Phúc Miên Miên.
3. Bần - Nghèo
Mười Cái Huyệt Nghèo Chín Cái Thiếp, Sa Phi Thủy Chạy Chẳng Thành Vòng, Bốn Phương Ao Phong Long Hổ Phản, Mang Chứa Hoài Thai Gặp Gió Lạnh, Đã Dành Chia Dòng Lại Nhảy Tót, Nước Chảy Loang Toàng Khí Thất Tán, Dắt Trâu Cắt Gót Mộc Thành Thủy, Cháu Con Nghèo Kiết Tựa Ăn Xin.
4. Tiện - Hèn
Mười Cái Huyệt Hèn Chín Cái Phản, Đào Hoa Xạ Kiếp Thảy Xung Xạ, Tứ Chính Thủy Đã Một Đường Đi, Vung Tay Vén Áo Hình Chặt Đầu, Bắn Chéo Đâm Nghiêng Đề La Sơn, Hoa Rã Kéo Lôi Người Hạ Tiện, Cần Phòng Ly Tốn Đoài Ba Vị, Sa Thủy Phản Phá Ô Danh Gia.
74. Khái Luận Cửu Tinh Điểm Huyệt Vũ Khúc !
Vũ Khúc kết Huyệt như Xoa Kiềm (Cây Ba Chia), dưới đây là Mộ táng Vũ Khúc Xoa, có câu nói "Kim Tinh không mở miệng, Thần Tiên cũng khó xuống tay" Kim Tinh tức là Vũ Khúc Tinh, nhưng đây không phải chính Thể Vũ Khúc mà là Biến Thể Vũ Khúc , cần phân biệt cho rõ :
Cận Cảnh Mộ:
Đặc Trưng Của Kim Tinh Kết Huyệt Sách Nói Như Sau:
Thể thuộc Kim Tinh, có Ngưỡng ( ngẩng), Phú ( che), Trắc (bên cạnh) ba thế, hình trạng phân ra làm Thái Dương Kim Tinh và Thái Âm Kim Tinh. Kim Tinh lấy thể tròn cao lớn như chuông úp mà gọi là Thái Dương Kim Tinh, sơn thể như mày trăng tròn thân hình thấp nhỏ làm Thái Âm Kim Tinh. Thái Dương Kim Tinh thể đoan chính tròn đầy tú lệ, hùng tráng không ai bì. Đất huyệt trường, thường là khai Oa, có thể chia làm Thượng Trung Hạ Tam Đình mà kết Huyệt. Thái Âm Kim Tinh đại đa số là Tinh Thần thấp lùn, khí thế bình phục. tực gọi “Phục Kim”. Đất Bình Dương đại đa số thấy loại Tinh Thể này. Tuyết Tâm Phú nói: “Kim Cư Đoài Vị, Điểu Phủ Danh Cao”. Hàm ý của câu này là để chỉ Kim Lý dung kết tại Đoài Quái, đắc Kim là Chính Nghĩa, tất ấm xuất hiện đời các chức vị giám sát ủy viên, cao quan.
75. LUẬN THÁI TUẾ- TUẾ PHÁ
Tuyển trạch Tông Kính viết: " Thái tuế là quân, ngồi thì cát, hướng vào thì hung. Vốn xung thời phá tọa sơn. tứ trụ, tám chữ hợp thời cát, xung hay khắc thời hung. Vốn lấy thần phạm quân. Các loại cát tinh tử bạch , Tam kỳ, Lộc mã, Quý nhân chồng lên thời cực cát, được vua thi hành đạo, ân trạch thấm tới dần. Các loại âm tinh như Mậu kỷ, Niên khắc, Âm phủ, Đại sát chồng lên thì lại cực hung. Chúng hung có chỗ dựa , ỷ thế gây tội ác.Vì vậy thái tuế tại sơn hay tại phương phải xét cho kỹ là nó chồng cát mà không chồng hung, thời lấy tứ trụ vào, hoặc nhất khí, hoặc tam hợp cục, tạo táng di chuyển, phúc nó lớn mà còn bền lâu, chư cát tinh không thể so sánh được. Tất cần bát tiết tam kỳ, thái dương tử bạch, chư cát cùng đến, bản mệnh quý lộc coi sóc, đặc biệt tốt đẹp.
Tăng Văn Mông lại nói:"Cát chẳng cát tại tu thái tuế, hung chẳng hung tại phạm thái tuế. Thái tuế ở tại chỗ nào nên tạo táng, nên dời nhà đến, nên lợp nhà nói chung là tu sửa vậy. Không nên dỡ bỏ hủy hoại, đào hầm hố, đào ao, đều là phạm vậy".
Xét thái tuế là tuế quân, cát tinh hội tụ tại tọa sơn, thừa vượng vốn dĩ cát, như thế bất đắc dĩ mà phải tu tác với có việc táng mai thời có thể được vậy, nếu khởi công xây mới, vốn là có thể thư thả, mà cầu may mạo hiểm làm, vị tất đã được phúc, chẳng bằng không phạm vào nó. Thuyết dùng ngày tháng nạp âm khắc thái tuế nạp âm là vô lý.
Đến chỗ có thể ngồi, không thể hướng vào, thời luận không thay đổi. Đại để hướng vào thái tuế, thời ngồi tại thái tuế là phá rồi, tuy có csát tinh cũng không thể giải được. Lại xét ngồi cùng một vị trí thái tuế, mà cũng là có chỗ khong giống nhau. Như năm Tý Ngọ Mão Dậu thái tuế và đại sát cùng một vị trí, tam sát và thái tuế cùng một phương ngồi vào cũng không cát. Bởi vì phi cung đại sát gọi tên là đả đầu hỏa,nên thái tuế chồng đả đầu hỏa là hung.
(Dẫn từ Hiệp Kỷ), phần sau sẽ là "tam sát".
76. LUẬN TAM SÁT(tiếp theo)
“Thông thư” nói rằng: “Tam sát chỉ kỵ tu phương, trước hết theo phương cát bắt tay làm,liên tiếp đó tu sửa thời không sao. Như năm Tý tam sát tại Tỵ Ngọ Mùi, nếu phương Tốn, Khôn có cát tinh thời theo phương Tốn khởi công, liên tiếp đến phương Tỵ Ngọ Mùi, đến phương Khôn dừng công việc cũng được. Chỉ kiêng việc tu sửa phương Tỵ Ngọ Mùi vậy.
“Tuyển trạch Tông kính” viết: “Tam sát vẫn là sát cực mạnh, Phục binh, Đại Họa là thứ. Muốn chế phục chỗ đến đó, nếu chiếm sơn thời tạo táng thời phải kỵ, duy chiếm phương có thể chế mà tu sửa vậy. Phếp chế là
- Cần tam hợp cục để thắng được.
- Tam hợp được thời lệnh của tháng, tam sát là tháng hưu tù.
- Cần bản mệnh có Lộc mã quý nhân, bát tiết tam kỳ, nhật nguyệt chiếu lâm vào. Tiểu tu thời hoặc nguyệt hay nhật nạp âm khắc nạp âm tam sát, được một vài cát tinh đến phương, là có thể được.
Tam sát tại phương nam Tỵ Ngọ Mùi thời thuộc hỏa dùng năm tháng ngày giờ Thân Tý Thìn. Tại phương đông Dần Mão Thìn thuộc mộc dùng ngày tháng Tỵ Dậu Sửu. Tại Phương tây Thân Dậu Tuất thuộc kim dùng tháng ngày giờ Dần Ngọ Tuất. Hợi Tý Sửu tam hợp không có thổ cục không thể chế được nên kỵ ko dùng. Còn Thìn Tuất Sửu Mùi xung nhau.
Tăng Văn Mông cho trạch chủ Nhâm thân tu sửa ở phương tam sát Ngọ mùi, ông dùng năm Giáp thìn, tháng Mậu thìn, Ngày Nhâm tý, giờ Canh tý dựng cột lên cùng với mệnh sinh năm Nhâm thân thành thủy cục Thân Tý Thìn, để khắc hỏa sát, đó là một cái tốt. thiên can Giáp Mậu Canh là tam kỳ, hai chi Thìn Tý không tạp, Ngọ là tam hợp, mà Giáp Mậu canh Quý nhân tại Mùi. Năm Giáp phương Ngọ Mùi Canh ngọ, Tân mùi nạp âm thuộc thổ mà tháng Mậu thìn, Nhâm tý nạp âm đều là mộc khắc thổ. Mã ở Nhâm pDần, tuế lộc, tuế mà ở Bính dần đều đến ly là cát. Người xưa dùng khéo như thế đó.
Xét tam sát là chỗ xung thía tuế tam hợp, có thể hướng vào mà không có thể ngồi vào, vì vậy chiếm sơn thời tạo táng đều phải kị, chiếm phương có thể chể đi dùng tạm mà tu sửa.
Như vậy không thể luận các năm như nhau được. Năm Dần tỵ thân hợi sát tại phương sinh ra ta, là vị trí Thu khai bế lại dương ở khí hưu. Năm Thìn tuất sửu mùi sát tại phương ta sinh ra, là vị trí Trừ mãn bình, dương là khí tướng. Phép chế hóa tuy có khinh trọng nhưng cũng không giống nhau, mà cần có thể chế được hóa được biến hung thành cát.
Lại hóa sát biến khắc thành sinh, có khác với nghĩa của chế sát. Sát khắc ta thì dùng con của sát. Như kim sát khắc mộc tuế, dùng ngày giờ thủy cục, thời tiết kim để sinh mộc rồi. Tuế khắc sát dùng tài của sát. Như thủy tuế khắc hỏa sát, dùng ngày tháng giờ kim cục, thời tiết hỏa để sinh thủy rồi. dùng tử sát hưu, tài sát tù đều có diệu nghĩa. Duy mộc sát không có thổ cục, thời không dùng hỏa mà phải chế mới được. tháng tam sát cũng phỏng theo như thế.
77. Xung Phạm Địa Sư – Cảnh Giác Với Âm Khí, Tà Khí !
Xung Phạm Địa Sư – Cảnh Giác Với Âm Khí, Tà Khí !
Thầy Địa Lý ( Phong Thủy Sư – Địa Sư ) mỗi khi đi tới một nơi nào đó để xem xét Phong Thủy, tất nên đề cao cảnh giác, đặc biệt những vùng đất thuộc vào hạng “Phong Thủy Bảo Địa” rất dễ dẫn đến Xung Sư Phạm Sư . Ngoài ra các vùng đất thuộc bại tuyệt đặc biệt, do âm khí, tà khí quá nặng hoặc có tà tinh dị linh nằm bên dưới cũng dễ xung sư phạm sư. Ba là các mộ mà chôn dưới đó là những người bị chết hung, chết dữ cũng dễ xung sư phạm sư. Bốn là khi bản thân Địa Sư thân thể bất ổn, tâm tình không yên lại gặp nơi tuyệt địa dễ xung phạm Địa Sư. Năm là dùng ngày xung sư phạm sư mệnh của Địa Sư, nếu là xung Nhật Trụ càng nên tránh thì hơn. Sáu là điểm huyệt phạm vào độ số xung sư phạm sư. Bảy là người chết có mệnh chủ không hợp với Thầy thành ra xung sư phạm sư. Tám là khi sắp ra khỏi cửa hoặc lúc ra mới ra khỏi cửa, gặp phải điềm hung hoặc vật không cát tường, cũng dễ xung phạm Địa Sư.
Xung phạm Địa Sư có một vài biểu hiện. Nhẹ nhất và trực tiếp là tại hiện trường La Kinh bị đảo lộn hướng chỉ của kim nam châm, hoặc bổng lên, chìm xuống ( Đây gọi là Kỳ Châm Bát Pháp ). Các biểu hiện lâu dài gồm : Một là bỗng nhiên họa đến, đại nạn giáng xuống đầu, bênh tai bất ngờ. Hai là mắt mù tai điếc, đầu óc không minh mẫn, bệnh nhanh khó lường. Ba là bệnh đến từ từ , chữa lâu không khỏi , lại không tìm ra nguyên nhân. Bốn là ảnh hưởng đến sức khỏe người trong nhà, nhà cửa ngày càng suy, bệnh tật không ngừng, hay phạm quan tư khẩu thiệt. Năm là tự mình và người nhà đột nhiên ăn nói hay suy nghĩ hay bất đồng, mặt mũi biểu hiện tình cảm kỳ quái. Đó là một số hiện tượng phát sinh sau khi xem xét âm trạch, đó chính từ căn nguyên xung sư phạm sư mà ra. Đã biết nguyên nhân như vậy ! Rất cần có các vật hộ thân, chống lại tà tinh dị linh, tà khí, sát khí. Các bảo vật hộ thân này thường do những người trải qua Tu Luyện Huyền Thuật, Mật Tông luyện thành bằng các Bí Pháp mật truyền. Nếu Địa Sư chưa từng trải qua Tu Luyện thì nên nhờ người có công phu tu luyện lâu dài giúp cho. Tuy nhiên bản thân cũng tu tập rèn luyện hoặc Khí Công, hoặc Thiền Quán để phòng hộ thân mình thì tốt hơn !
78. Phong Thủy Văn Xương Tốt Tất Đỗ Đạt
Phong Thủy Văn Xương Tốt Tất Đỗ Đạt
Phong Thủy Văn Xương Tốt Tất Đỗ Đạt
Người đọc sách ở Trung Hoa, phảm muốn đỗ đạt, không thể không tính mệnh cầu văn xương, đeo khôi tinh trên người, không được ăn thịt bò. Bái Văn Xương Quân, cầu Văn Xương Vị, chiếm văn xương phòng, sửa Văn Xương phương thật nhiều cách.
- Dưới đây tác giả xin giới thiệu qua về Văn Xương Thần, cùng làm thế nào để Cầu Văn Xương Vị, sửa Văn Xương Vị, gia tăng thêm Văn Xương Khí, cùng các biện pháp Phong Thủy để bố trí phòng đọc sách, nghiên cứu sáng tạo theo tiêu chuẩn Văn Xương.
1. Thần Văn Xương
Thần Văn Xương, đương nhiên phải là Đại Thành Chí Thánh Tiên Sư Khổng Phu Tử, từ triều nhà Đường về trước, phàm là người đọc sách đều bái Khổng Phu Tử là Văn Xương Thần. Mà Hàn Dũ là đại học giả mà cũng thân đến lễ bái tại Khổng Miếu gọi là Phúc Đức Chính Thần, cho nên Hàn Dũ được người đọc sách đời sau cung kính lập “Xương Lê Từ” để thờ phụng.
Đến Tống Triều, lại có Chu Hy là người tập thành Phái Lý Học ( Tống Nho), nguyên vì sự khoa cử thi thố mà đem Tứ Thư Ngũ Kinh ( Luận Ngữ, Đại Học, Trung Dung, Mạnh Tử; Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu) giảng giải thuyết trình. Bởi lẽ các kiến giải của Chu Hy là chính xác cho nên người đọc sách thời đó không thể không tôn ông là Văn Xương Thần tức “Chu Văn Công”. Nguyên là Hoàng Đế sợ các nhà bái “Chí Thánh Tiên Sư Khổng Phu tử” rồi học thức nâng cao từ đó sẽ phê bình triều đình, liền ban quy định người thường không được tự mình xây “Khổng Miếu”, cho nên dân gian chỉ được tự mình tế bái 5 vị Văn Xương Thần sau :
- Khôi Tinh.
- Trương Á Tử.
- Tiên ông Lã Động Tân.
- Quan Công.
- Chu Y Nhân.
2. Tế Bái Văn Xương Thần Thế Nào.
Dân gian tùy thời mà đến tế bái năm vị Văn Xương hoặc Tiên Sư Khổng Tử. Người Nhật Bản vào thời nhà Đường do đọc và học tập theo “Văn Võ Điển Chương Chế Độ” của Trung Hoa cũng tế bái Khổng Tử làm Thần Văn Xương, đến tận ngày nay mỗi khi thi cử người Nhật cũng đến thắp hương tại Khổng Miếu. Đặc biệt tại các kỳ thi Đại Học, những người tham dự thường lấy các miếng gỗ hình dáng đẹp viết nguyện vọng của mình, rồi treo ở một hoặc hai bên Đại Thành Điện, sau khi thi xong thì đến để quyên góp tiền cho Miếu. Tác giả thường mỗi năm mới ( Khoảng từ mùng 1 – 5 tết ), đều đến tế bái tại Khổng Miếu. Đương nhiên đến ngày 28 tháng 9 là ngày Tết Thầy Cô (Ở Trung Quốc) có thể đem con nhỏ đến bái lạy, lại mua cho cháu một tờ giấy đỏ “Hộ Thân Hương Hỏa”, Đài Bắc cũng như Nhật Bản vào các ngày lễ Khổng Miếu đều có bán Giấy này. Mua một tờ rồi đem vào Đại thành Điện làm lễ, lại thỉnh Khổng phu Tử bảo hộ phù trì cho tương lai con cái “ Học Vấn Có Thành Tựu”, cầm tờ giấy xông trên khói hương ( Qua Lửa). Tờ giấy này có thể bỏ vào túi mang theo người hoặc kẹp vào sách học. Đối với trẻ nhỏ tờ “Khổng Tử Hương Hỏa” lúc bình thường treo tại bàn học hoặc giá sách, trên tường, đến khi thi cử, nên mang trong người vào phòng thi. Ngoài ra khi đến Khổng Miếu nhớ mua một cây bút chì mang vào tế bái ( Bút máy, bút nguyên tử, bút lông cũng được) sau này đi thi nhớ mang cây bút này theo tất trúng.
3. Tìm Văn Xương Phòng.
Văn Xương có Văn Xương của mỗi người, Văn Xương của Nhà, Lưu Niên Văn Xương, trong Phong Thủy thường nói về Văn Xương nhà ở và Văn Xương lưu niên. Văn Xương nhà ở tức dùng phép “Tử Bạch Cửu Tinh” đề bài bố, tìm cho được phương vị có 1 – 4. Nhất Bạch là một cát tinh nửa là Văn Xương, nửa là Thăng Quan; Mà Tứ Lục thì hoàn toàn là Văn Xương. Trong sách “Dương Trạch Tập Đại Thành” của Địa Lý Đại Sư đời nhà Thanh là Xan Hà Đạo Nhân rất đề cao cặp 1 – 4 là Văn Xương Tinh, xin đưa một đoạn như sau : “Phàm làm phòng đọc sách, nên tại phương nhất bạch tứ lục của bản trạch mà đặt. Trong khoảng không gian 1 – 4 lại nên mở cửa, lối đi tại phương 1 – 4 . Lưu niên thấy 1 – 4 bay đến phương ấy, cửa ấy, đường ấy là 1 – 4 đồng cung, hoặc là hoàn cung phục vị, tất chủ phát đẹp đẽ.” Phàm nhà ở khu vực nơi có sao Nhất Bạch hoặc Tứ Lục tốt nhất là đặt phòng đọc sách, mà Tứ Lục hoàn toàn là Văn Xương tuyệt đối không được đặt nhà vệ sinh, nếu không sẽ làm ô nhiễm Văn Xương. Như nhà là Tọa Bắc triều nam, tất Tứ Lục Văn Xương phương tại Đông Bắc , nếu như đã chót đặt nhà vệ sinh, thì nên ở bên ngoài cửa nhà vệ sinh treo một xâu hoặc một đóa hoa lụa để an phủ Văn Xương Thần, cũng là để Thần Văn xương không thấy mùi xú uế mà chạy mất. Hy vọng Thần Văn Xương lưu lại trên đóa hoa đó, từ đó có thể tùy thời mà giúp cho lớn nhỏ trong nhà học tập thi cử đỗ đạt. Nếu như căn cứ bản trạch mà phương vị Nhất Bạch đã làm nhà vệ sinh hoặc bếp thì không thể đặt bàn đọc sách học tập được, lúc đó chỉ còn căn cứ theo lưu niên Nhất Bạch Tứ Lục để tìm chỗ đọc sách mà thôi.
4. Bố Cục Cho Phòng Đọc Sách:
Cần tránh không quay mặt vào tường đọc sách.Phòng học nên sáng sủa lợi lộc.Trên bàn học đặt vật cát tường.Bàn học nghế ngồi nên là gỗ thiên nhiên.Dưới gầm bàn nên đặt một tấm gỗ , thảm hoặc đệm.
5. Các Vật Cát Tường Dùng Khi Đi Thi:
Cuống RốnTrẻ nhỏ sau khi sinh mấy ngày, sẽ rụng cuống rốn, nếu như giữ gìn được, đến lúc đi thi cử, mang trong mình vào phòng thi, tất tâm thần an định. Bởi vốn dĩ bà mẹ và đứa trẻ liên thông với nhau qua cuống rốn, cho nên làm thế có tác dụng tâm lý rất lớn, cũng có thể coi như đây là một tập tục dân gian, song có một điều kỳ lạ là mỗi khi con nhỏ gặp nguy cấp thường hay khóc gọi mẹ ! Có sự liên quan gì ở đây không !?
Lá Quế HoaMỗi khi đi thi đem theo một cành hoa quế tất như gặp được quý nhân giúp đỡ, sở dĩ có tục này vì người xưa thường nói người đi thi đỗ là bẻ được cành quế trên cung trăng ( rất khó khăn). Nếu như sau nhà có trồng Hoa Quế tất như có được quý nhân thường đến - có Quý Khí.
Lá BưởiLúc đi thi mang trên người mấy nhành lá bưởi, giống như được tổ tiên phù trì mà thi đỗ. Trong nhà hoặc trước mộ có trồng bưởi, đều là có ý “Giúp Đỡ Cháu Con” vậy.
79. Minh Đường Nhập Thức Ca Quyết
Tìm đúng Chân Long và đúng huyệt , đều nhờ nắm vững minh đường . Minh đường quý ở chỗ tụ khí , tán khí tức là không đáng lấy . Phàm là trước huyệt là chỗ thấp bằng , đó là chỗ minh đường đó . Minh Đường nhất định có 3 thứ , thu dúng nên xem xét cho chọn vẹn . Tiểu Minh Đường tại dưới vòng sáng mặt trời , lập huyệt theo nó là rõ đúng sai . Trung Minh Đường không quan trọng hình thế , sa có thư hùng là vui . Đại Minh Đường cần có thủy khẩu lan , chân khí tụ chỗ đó . Tích Lan như lỗ khóa , móc vòng vào trong . Hoặc là chân núi hay ruộng cày , khóa nhốt thì rất tốt . Nếu có hoành Long đến tác huyệt sau lưng cần bịt lại . Nên xem kỹ cả ba đường , họa phúc theo đó mà luận . Minh Đường rực rỡ chiếu vạn phương , khoan hòa rộng rãi thì thật tốt . Sa tốt Sa Tốt thường tụ lại , các loại tất cả đều xem . Nếu như chật hẹp hỏi sao chứa . Minh đường mà rộng rãi , sinh con cháu tất thông minh , rồi sẽ hiển đạt . Nếu hẹp sẽ sinh con xuẩn ngốc , lo sợ lại càng tham lam bần tiện .
Người xưa nói Minh Đường rộng thoáng chứa vạn vật , kỵ nhất là rộng mà không có gì . Ngoài hàng chắn nếu là mờ mịt , tuy lan mà không lan . Vạn sơn lấy rộng rãi làm phép chính , bình dương tất lấy hẹp . Vạn sơn nếu hẹp mà bình dương lại rộng , cách đó chẳng nên xem . Tiên Hiền ở chỗ đó phân công vị , trưởng phòng ở bên trái , nhị phòng ở giữa , tam phòng ở phải , phép này tối ưu tiên trưởng . Thủy ở trái trưởng phòng hưng , tụ giữa các con giàu . Nếu ở phải tiểu phòng phát , kinh chỉ rất rõ ràng . Minh Đường Long Huyệt mà là hung , các đời không khá nổi . Long chân Huyệt chính Đường khí tụ , phú quý tất không nhỏ . Long huyệt mà hung nhưng minh đường tốt , nhị kỷ ( 24 năm ) thường vẫn đủ ăn . Long huyệt mà tốt minh đường xấu , mới táng đã bần cùng . Một kỷ gặp khí minh đường dư , phát phúc tất phải lớn . Tôi nay viết bài ca nhập thức , câu câu đều không sai . Nếu chăm nghiền ngẫm tất là thành danh sư .
80. Hóa Giải Hướng Nhà Bị Tam Sát...
Trong phong thủy lấy hướng phạm tam sát là đại kỵ. Câu quyết đả nói : - Dần, Ngọ, Tuất: Sát Bắc. - Thân, Tý, Thìn : Sát Nam. - Hợi, Mẹo, Mùi : Sát Tây. - Tỵ, Dậu, Sửu : Sát Đông.
- Dần, Ngọ, Tuất hợp Hỏa cục, hòa vượng ở phương Nam, phương Bắc (Hợi, Tý, Sửu) và sự xung của nó là tam sát. (Hợi là kiếp sát, Tý là tai sát, Sửu là tuế sát, Tuế sát cũng gọi là mộ khố sát).
- Thân, Tý, Thìn hợp Thủy cục, thủy vượng ở phương Bắc, phương Nam (Tỵ, Ngọ, Mùi) và sự xung của nó là tam sát. (Tỵ là kiếp sát, Ngọ là tai sát, Mùi là tuế sát).
- Hợi, Mẹo, Mùi hợp Mộc cục, mộc vượng ở phương Đông, phương Tây (Thân, Dậu, Tuất) và sự xung của nó là tam sát. (Thân là kiếp sát, Dậu là tai sát, Tuất là tuế sát).
- Tỵ, Dậu, Sửu hợp Kim cục, kim vượng ở phương Tây, phương Đông (Dần, Mẹo, Thìn) và sự xung của nó là tam sát. (Dần là kiếp sát, Mảo là tai sát, Thìn là tuế sát).
Lấy năm mà nói, như năm Hợi, Mẹo, Mùi, Tây phương đều nói là năm tam sát. Năm tam sát ở hướng, không thể tọa . Tọa tam sát tức tọa sát, đại kỵ: Năm, tháng, ngày, giờ Hợi, Mẹo, Mùi, đều kỵ tu tạo ở Tây phương. Các phương khác cứ thế mà suy ra.
Như vậy tam sát là tên gọi chung của kiếp sát, tai sát và tuế sát, mổi năm chiếm ba hướng tuyệt, thai và dưởng là tam hạp của ngủ hành.
Ví dụ: Năm nay là năm Mẹo, ta theo câu quyết : Hợi, Mẹo, Mùi : Sát Tây.
Có nghĩa là đến năm: Hợi, Mẹo, Mùi, thì nhà ở hướng Tây là phạm phải Tam sát. Như vậy năm nay là năm Mẹo, nếu ai có nhà ở hướng Tây là phạm phải Tam sát.
Nếu gặp phải Tam sát, người nhà mắc nhiều bệnh, gặp hạn… Phương pháp hóa giải là đặt 3 con Kỳ lân hoặc 3 con Sư tử, hoặc 3 con Tỳ hưu. Đầu Kỳ lân hoặc Sư tử, hoặc Tỳ Hưu hướng ra ngoài cửa, muốn ngăn ngừa Tam sát, ta phải xếp liền 3 con Kỳ lân hoặc 3 con Sư tử, hoặc 3 con Tỳ Hưu cùng một chổ.
Về chất liệu của Kỳ lân hoặc Sư tử, hoặc Tỳ Hưu, thì bằng đá, ngọc, gốm, sứ hay kim loại đều sử dụng được.(st)
***Hướng hóa giải còn nhiều cách, các bạn lựa chọn cách ít tốn kém nhất
81. KHẨU QUYẾT HUYỀN KHÔNG !
Đại huyền không khẩu quyết
Nay tặng các Bạn hữu khẩu quyết đại huyền không
Phiên thiên đảo địa đối bất đồng, bí mật tại huyền không, duy hữu ai tinh tối vi quý, tiết lộ thiên ky bí. âm dương chi khí quán sơn hà, kim long nhất động tế tróc mạc, sa thủy quý tinh hướng hợp nghi, nguyên vận hưng suy ai tinh thuyết.
Sư huấn
Thiên ky mật quyết bất khinh ngôn, sư sư tương thụ khẩu khẩu truyền, phần hương cáo bẩm thiên mệnh địa, kim lô bàn thệ quỷ môn quan, tổ công tông đức kì tuyến liên, tài dữ kim đan nhất lạp hoàn, đắc tâm ứng thủ du thiên hạ, đương niên kiền khôn điên đảo điên, hiên thiên yết địa kì long tùy, quái dương phối âm thị chân nghiệm, tế quan hà đồ lạc thư ngôn, cảm bả nhân gian họa phúc giám, nhược yếu khinh truyện phi quân tử, thiên lôi phách thân thọ bất duyên.
Đại huyền không khẩu quyết
Sổ thập niên lai hỗn độn thiên, bất phân thanh trọc hứa đa niên, hữu duyến sư thụ nghĩa đồ quyết, triêu thị phàm phu mộ thị tiên.
Ngã sư giới ngã mạc hồ ngôn, cận thủ sư quy canh úy thiên, nhân kiến trù hành doanh tứ hải, trứ thành khẩu quyết tác gia truyền.
Nhất nhị tam tứ thuận thủy lưu, ngũ lục thất bát nghịch hành chu, tức thị thiên địa đại quái chủ, phiên thiên đảo địa thử trung cầu.
Nhất sanh nhị hề nhị sanh tam, hà tất cầu đa thủ yếm phiền, đại đạo đầu đa quy hà lạc, kham vu chánh thư thử kỉ thiên.
Chân âm chân dương thần tiên bí, hồ thuyết loạn ngữ tao lôi kích, dương trung âm lai âm trung dương, vạn hóa giai tòng lạc thư xuất.
Lưỡng khí tức thị đại âm dương, nhất sanh nhất tử tại nội tường, dương đa âm thì dương tất tử, âm đa dương thì dương tất thương.
Nhất tam ngũ thất bổn thị kì, nhị tứ lục bát ngẫu tương nghi, kì phối kì lai ngẫu phối ngẫu, chân âm chân dương lưỡng lộ thôi.
Kì ngẫu lư tích sổ trung lai, dương kì âm ngẫu mạc hồ sai, tiên thành nhất sổ chung vu bát, tam thập lục hề tam quái bài.
Trung ngũ lập cực vượng tứ phương, ai tinh bí quyết thâm ngộ tường, dương bất kì hề âm bất ngẫu, âm bất âm lai dương bất dương.
Ngã tri chân âm dữ chân dương, lạc thư vị trí hợp trung ương, nhất phương áo diệu thiên tâm kiến, dương tả âm hữu thị cương thường.
Thùy tri âm dương lưỡng lộ hành, ngẫu hữu hoàn hữu nhất gia nhân, nhược thị dương kiền tu đan dụng, đương tri tứ mạnh mạc đồng liên.
Nhị thập tứ sơn song song khởi, bất tri thử ý hồ bàn tầm, song sơn song hướng đan thần hảo, đan hướng đan sơn tá song thần.
Thập lục song thần đan bát cá, bách huyệt sa thủy nhất đồng luận, nhị thập tứ vị thiên ky quyết, thuận nghịch sanh tử tại nội phân.
Ngũ hành tức thị âm hòa dương, thuận nghịch sanh tử tại nội tường, kham dữ dong sư hồ sai nghi, sanh nhập khắc nhập diễn thiên tinh.
Lưỡng phiến chi trung hữu lưỡng nghi, nghi văn hà lạc minh minh hiện, bát thể hoành bố lí tối yếm, tử mẫu công tôn nguyên nguyên hướng, bát thể hoành bố tử mẫu phân, tiên thiên hậu thiên lưỡng sanh thành, bất tri thử trung ngôn diệu lí, tam quái căn nguyên lí ngỗ nghịch.
Nhất tam thất phân cửu tam lục, bát lục nhị phân nhất thất tứ, kì môn nhất quyết chưởng trung luận, lưỡng nghi tứ tượng bát chân phối.
Thiên địa nhân chi lí tối minh, giang tây nhất quái khởi vu đông, giang đông nhất quái khởi vu tây, thử thị mĩ văn kì môn lí.
Thành môn nhất quái bất năng loát, nam bắc nhất quái hựu bất đồng, bất tất phiên thiên đảo địa mật, chích yếu long thủy thị đoan đích.
Chu mật bát quốc tẫn thần công, kim long nhất động quái tức phân, nam bắc đông tây tử tế tầm, hạ quái khởi tinh quy nhất lí.
Nguyên ky nội ngoại tuy long phân, nhất kinh nhất vĩ tức âm dương, tam quái bát quái tử tế tường, dong sư bất thức huyền ky diệu.
Phi tinh thất chánh phi phân trương, dong sư bất thức thành môn quyết, nhất kiến tự thủy tức phạ kiếp, hảo sơn xuất sát hữu thần công.
Minh sư thử lí mĩ luận thiển, linh chánh nguyên phân thượng hạ nguyên, diệc bài sơn thủy vượng suy hướng, y nhiên thức đắc linh dữ chánh.
Bất yếu âm dương bất hồn khí, chánh thần họa thần bất đồng hương, các đái linh thần cộng chủ trương, thủy thị song song linh phối dụng.
Đan linh đan dụng họa phi thường, hướng thần chi vị tối nan minh, hoặc ngẫu hoặc chánh các nghi phân, đỉnh giáp thần linh thế gian xuất.
Công hầu tương tương thử trung sanh, tam dương quái quái hữu tam mạch, nhất thần lưỡng vị các phân trương, lục thủy lục long tùy quái dụng.
Bất tri thuận nghịch tự tham thương, thiên địa tức thị đại thư hùng, sơn tức nan phân thủy hữu vị, hùng cường thư nhược nhân đinh thiểu.
Thư cường hùng nhược chủ bần cùng, hùng thư lưỡng đắc hảo thôi tầm, dương sơn âm thủy tế tế trần, âm dương tương kiến tức vi chuẩn.
Sơn dữ thủy đối cấu thắng xuân, ai tinh xuất quái giai mạc thủ, long huyệt sa thủy hợp bàn tham, nhất cá bài lệ thiên bách cá.
Thiên ky nội ngoại đại ky gian, dong sư chích phân nhất quái chân, bất tri nội ngoại hữu ngũ hành, thủy lưu xuất quái tài lộc tổn.
Long chánh xuất quái tổn nhân đinh, khôn nhâm ất thượng thị cự môn, cửu tinh ai tinh thuận nghịch trần, hoặc sơn hoặc thủy hợp khí tham.
Kham dư vạn quyển thư hoang đường, hà tất phùng nhân quá đoản trường, đắc đạo quy lai cực đạo nhạc, cổ vãng kim lai dục thành thượng.
82. NGŨ HÀNH SINH VƯỢNG
Ngũ hành, mỗi cái đều có thời kỳ thịnh suy của nó. Duy Thổ có 3 dạng: Âm thổ, Dương thổ và Bán âm dương.
Cụ thể: Cấn thổ thuộc dương, Khôn thổ thuộc âm, Thìn Tuất Sửu Mùi ghi vào cung trung, Thìn Tuất thuộc bán dương, Sửu Mùi thuộc bán âm.
Trước lập Xuân Cấn vượng, sau Lập Thu Khôn vượng. Tứ mộ vượng ở 18 ngày cuối Tứ Quí. Mộ của Thổ như thế đấy.
Mộc
Nói chung vượng về mùa Xuân, cụ thể chi tiết chỉ vượng 72 ngày, còn 18 ngày cuối Quí là Thìn thổ vượng.
Lại lấy từ Đông chí là nhất dương sinh mà bàn thì
Từ Đông chí đến Lập xuân là Khí tiến lên, gọi là Hướng lệnh.
Từ Lập xuân đến Xuân phân là Chính khí, gọi là Đắc lệnh.
Từ Xuân phân đến Thanh minh, là khí vượng gọi là Hóa lệnh.
Hỏa
Hỏa sơn vượng vào mùa Hạ.
Từ Lập xuân đến kinh trập là khí tiến, Hướng lệnh.
Từ Kinh trập đến Lập Hạ là chính khí, Đắc lệnh.
Từ Tiểu mãn đến Hạ chí là khí vượng, Hóa khí.
Sau Hạ chí Hỏa Táo, Kim tử. Vật cực tắc phản, nên không thể dùng, vậy Hỏa sơn không nên dùng sau Đại thử
Kim sơn mùa Thu vượng,
Từ Mang chủng đến Hạ chí là khí tiến, Hướng lệnh.
Từ Hạ chí đến Lập Thu là chính khí, Đắc lệnh.
Từ Xử thử đến Thu phân là khí vượng, Hóa lệnh.
Phàm hóa lệnh là thời kỳ các sơn khác tiến khí. Cốt là khí tiến, cốt là lấy Tài Lộc bồi đắp cho gốc rễ, nhằm đạt được trung hòa là quí nhất. Do đó, khi Long đã vượng, nếu lấy thêm vượng vào là là xấu, là nguy.
Phép dùng này: Hướng lệnh dùng Sinh khí của nó, Đắc lệnh dùng Thai khí của nó, hóa khí dùng Tài nguyên, làm như thế mới đúng Dịch lý.
Như mùa Xuân, Từ Xuân phân đến Thanh minh, là khí vượng gọi là Hóa lệnh, nên có thể chọn Dần sơn là hóa lệnh, chọn ngày Giáp để dùng, vì Giáp Lộc tại Dần. Nên thời điểm: Xuân phân -Thanh minh Dần Sơn thuộc mộc hóa Lộc cho chủ nhân tuổi Giáp.
Tài của Tuổi Giáp là Thổ. Nên nếu muốn dùng Tài, cần chọn trong khoảng thời gian trước Lập Hạ 18 ngày đến lập Hạ, thời gian này Cấn Thổ mới thực sự vượng.
Lại còn hướng lệnh và đắc lệnh dùng cũng không giống nhau, tiến khí và hóa lệnh cũng có khác. Như mùa Xuân - Chấn sơn, dùng Giáp ất phụ vào, Giáp hướng Đông chí mà sinh vượng, Chấn (Mão) đến Xuân phân mới chính vượng, Ất hướng Thanh minh mới hóa vượng. Phép chọn khắc chế dùng hóa của nó bổ cho Tài Lộc, chính vượng bồi cho căn nguyên, hướng vượng ích cho Thai tức. Phù trợ cho sự tổn thất được Trung hòa, đó là Trinh, là Cát vậy.
BÀN VỀ BỔ LONG KHI TẠO TÁNG
Gốc của họa phúc tóm lại ở Long, chọn ngày theo phong thủy mà không bổ long, hà tất phải chọn. Do đó cần biết được phép bổ Long.
Phàm Long ở xa, không luận riêng rẽ, lấy tiểu mạch khi đến huyệt làm chủ ( Long tích ) Lấy Ngũ hành bàn Chính châm để luận sinh khắc. Ngày giờ Tứ trụ sinh phù thời cát, khắc tiết thời hung.
(Thật trớ trêu thay cho một số người cứ giở sách ra thấy ngày Hoàng Đạo là tốt, thấy hắc đạo là xấu, chẳng cần đếm xỉa đến Long Tích ra sao, Chủ Mệnh thế naò v v)
1.Dương trạch cũng như Âm phần, đến chỗ huyệt kết tất có một tuyến tiểu mạch, cặn kẽ xét định, dùng La kinh để tuyển chọn, xác định cẩn thận.
Phàm: Long thuộc Mộc thì dùng Hợi Mão Mùi.
Long thuộc Hỏa thì dùng Dần Ngọ Tuất.
Long thuộc Thủy thì dùng Thân Tý Thìn.
Long thuộc Kim thì dùng Tị Dậu Sửu.
Long hòa hoãn nên dùng Ấn cục, long đái sát nên dùng Tài, Quan cục !
83. GƯƠNG BÁT QUÁI:
Gương Bát Quái có rất nhiều loại : Gương Bát Quái phẳng, gương Bát Quái lồi, gương bát Quái lõm, những loại này thường bằng gỗ và kiếng. Gương Bát Quái Hổ phù, gương Bát Quái Trấn Trạch, gương Bát Quái Chuẩn Đề, gương Bát Quái Đại Đế, những loại này bằng đồng.
_ Gương Bát Quái phẳng và lồi thường dùng để Hóa Giải các trường hợp Thương Sát, Hỏa Hình Sát, Đỉnh Tâm Sát, Tam Xoa Sát. Nhưng tùy trường hợp mà sử dụng loại nào (vì Hình Sát nhỏ không nên dùng gương Bát Quái lồi) và thêm những công cụ khác trên gương.
_ Gương Bát Quái lõm thường dùng để Hóa Giải các trường hợp cầu thang đổ ra đường, nhà nhìn từ cửa trước thông thẳng ra cửa sau. Và gương Bát Quái lõm là loại có thể treo trong nhà.
_ Gương Bát Quái Hổ phù thường dùng để Hóa Giải Ngũ Hoàng Sát, Tam Xoa Sát, Thương sát, Đỉnh Tâm Sát, Thích Diện Sát.
_ Gương Bát Quái Trấn Trạch là loại gương Bát Quái đồng, 1 mặt có in hình Bát Quái, mặt kia là 1 Phù Trấn Trạch với 2 thanh thư hùng Thất Tinh Kiếm. Ngoài các công năng Hóa Giải như gương Bát Quái thường ra, nó thường dùng cho trường hợp nhà đối diện các nhà tang lễ, trại giam, bệnh viện, nghĩa trang...nói chung là những nơi có sự chết chóc.
_ Gương Bát Quái Chuẩn Đề là loại gương Bát Quái đồng, 1 mặt in hình Phật Chuẩn Đề với 18 tay cầm 18 món Pháp khí, mặt kia là vòng tròn Bát Quái cộng với bài chú Chuẩn Đề. Đây đúng ra là Pháp Khí Hóa Giải của Phong Thủy Mật Tông Tây Tạng, công năng của nó rất mạnh. Ngoài những tính năng đặc biệt như gương Bát Quái Trấn Trạch ở trên, nó còn dùng cho trường hợp nhà ở mà trước đây chủ trước xài Lỗ Ban nuôi "binh", hoặc nhà có Âm binh khuấy phá. Đây là loại gương Bát Quái đồng có thể treo trong nhà.
_ Gương Bát Quái Đại Đế là loại gương Bát Quái đồng, 1 mặt có in hình Vô Cực Đại Thiên Tôn (chính là Ngọc Hoàng Đại Đế) với Phù Trấn Trạch, mặt kia in hình Bát Quái. Gương này ngoài những công năng đặc biệt bên trên của các gương kia còn có sức Hóa Giải các hình tượng Thập Tự Giá khổng lồ đối diện nhà, các nhà đối diện treo gương có hình Tử Vi Đại Đế cưỡi trên Kỳ Lân cầm gương Bát Quái chiếu sang nhà mình.
Guơng Bát Quái thường có 2 loại Tiên Thiên và Hậu Thiên. Hóa Sát dùng Tiên Thiên, Xoay chuyển hướng dùng Hậu Thiên !