Hai chữ “Địa Lý” là danh từ áp dụng chung cho cả hai môn:
Về Địa mạch: là môn Địa Lý Phong Thủy, thuộc về địa linh, dùng về việc đặt mồ mả và nhà cửa, tức là về vấn đề tinh thần. Xưa nay, danh từ vẫn cố định không thay đổi.
Về Địa dư: là môn Địa Lý điền thổ, thuộc về địa lợi, tức là vấn đề vật chất. Xưa gọi là Địa dư, nay gọi là Địa Lý.
“Địa linh nhân kiệt”, “Địa lợi dân trù”. (Nghĩa là: đất thiêng liêng thì sinh ra người tài giỏi; đất thuận lợi, làm cho dân giàu có. Chữ Kiệt tức là “anh kiệt” chữ Trù tức là “tù phú”.
Phong là gió, Thuỷ là nước. Về việc tìm đất táng cần nhất là phải nhớ đến Phong và Thủy trước hết; vì chỗ huyệt nếu bị gió lùa vào thì khí tán, không kết, nếu có nước hãm lại, thì khí tụ mới kết huyệt. Ở sơn cốc cần phải tàng phong (kín gió), ở bình dương cần phải tụ thủy (nước tụ). Tóm lại, là phải tránh tìm chỗ lộ gió, tìm chỗ gần nước thì mới có khí mạch, mới đặt được; không có khí mạch, nếu đặt vào thì sai hỏng, tức là “tuyệt tự chi địa” bị diệt vong!
Hai chữ “Phong Thủy” làm danh tự vắn tắt, để phân biệt về âm phần, Dương trạch, là môn Địa Lý Phong Thủy.
Về môn Địa Lý Phong Thủy này, còn lấy tên những loài vật như: cầm, thú, công trùng, thảo mộc và vật liệu quý báo, để đặt tên cho những địa hình, địa vật, kiểu cách và phương vị các hung… Ngụ ý đặt tên như thế là để cho có văn chương hoa mỹ, làm cho kỳ dị bí hiểm và cao quý thêm lên thôi, chú không phải là thực có.
Ví dụ: Địa mạch, thì gọi là Long mạch; mạch dẫn đi, thì gọi là hành long…
Có lẽ là thấy mạch dẫn đi ở trong đất, xuất hiện đột ngột lên những dãy núi cao, dãy đồi, hoặc dãy đất chạy dài, gồ lên lún xuống, cong ra, uốn vào, quay đi, vòng lại, ngoằn ngoèo, tựa như hình dạng con rồng hoạt động, nên mới là Long mạch.
Ở phía trước nguyệt gọi là Châu tước (chim sẽ đỏ). Ở phía sau nguyệt gọi là Huyền vũ (chim vũ đen).
Ở phía bên trái nguyệt gọi là Thanh long (con rồng xanh). Ở phía bên phải huyệt gọi là Bạch hỗ (con cọp trắng).
Ý là lấy phương Nam làm chính diện, thuộc hỏa: lửa, đo.
Ý là lấy phương Bắc làm hậu bối, thuộc thuỷ: nước, màu đen. Ý là lấy phương Đông làm tay trái, thuộc mộc: màu xanh.
Ý là lấy phương Tây làm tay phải, thuộc kim: màu trắng.
ÂM TRẠCH – DƯƠNG TRẠCH
Trong Phong Thủy học chia làm hai loại: Âm Trạch và Dương Trạch. Âm Trạch là tìm hiểu ở người chết, tức là một phần được xây dựng như thế nào, phương vị ra sao, ảnh hưởng đến luồng sinh khí như thế nào?
Dương Trạch là tìm hiểu sống ở phương diện nhà cửa, phòng ốc…
Xét về nguyên lý cơ bản thì Âm Trạch Phong Thủy và Dương Trạch Phong Thủy có nhiều điểm tương đồng. Nhưng ở khía cạnh một phần người chết và nhà ở người sống thì âm dương khách biệt, không giống nhau. Cho nên kỹ thuật ứng dụng của Âm Trạch và Dương Trạch khách nhau ở một số điêm.
Trung Quốc vốn là một dân tộc ổn định và xã hội Trung Quốc từ xưa vốn là sự tập hợp gia tộc, gia trang mà thành. Do đó, họ đặt biệt chú trọng đến nơi an chốn ở và cả nơi chôn cất người chết. Cho nên Âm Trạch và Dương Trạch Phong Thủy điều được coi trọng và bảo tồn tho truyền thống. Sự hưng vượng hay lụn bại của một gia tộc liên quan rất đến việc xây nhà và chôn cất.
NGUỒN GỐC THUẬT PHONG THỦY
PHẦN II: KINH NGHIỆM NGÀN NĂM TRỞ THÀNH HỌC VẤN
Phong Thủy học đã trải qua con số hàng ngàn năm diễn biến liên tục mà thành nguyên sơ của Phong Thủy là những kinh nghiệm về sinh hoạt như khoét đá, đào hang, làm nhà…lđể tránh thú dữ, thiên tai và cả sự tấn công của đồng loại.
Thời thượng cổ, con người sống theo lối du canh du cư, trải qua một quá trình tiến hóa đến định canh định cư và mới bắt đầu chú ý đến nơi ăn ở sao cho thích hợp, chọn địa điểm cư trú sao cho tiện lợi rồi tiến tới kiến tạo phòng ốc để ở cho thật ổn định, an lành, giàu có…
Những kinh nghiệm về cư trú được tích lũy từ đời này sang đời khách chính là khởi điểm của Phong Thủy học.
Thời kỳ thô sơ, tổ tiên chúngta chọn đất để làm nhà chủ yếu là muốn an toàn, ổn cố. Thường là chọn nơi đất cao ráo vì sợ hồng thủy, thiên tai hoặc mãnh thú tấn công.
Một số nơi thì lo tránh mưa to gió lớn, môi trường làm nhà ở những đất hướng về mặt trời, khuất gió.
Những kinh nghiệm này tích lũy dần cho đến lúc kết hợp với thuật số âm dương, ngũ hành, bát quái, cửu tinh trở thành một môn huyền học tinh thâm mà kẻ không được nghiên cứu tới nơi tới chốn dễ bị sa vào ma thuật.
Mặt khác, chúng ta biết là người đời Tam Hoàng ngũ đế đã biết dùng mai rùa, cỏ thi hay xương thú mà bói toán, quyết định trong việc tìm nơi cư trú. Giáp cốt văn còn truyền lại từ đời Thượng là chứng cứ của vấn đề này.
Đến đời Châu thì đặc biệt chú trọng đến nơi cư trú. Chẳng hạnh trong “Thượng thứ” có nói: “Quan Thái Bảo đến sông Lạc, bốc quẻ làm nhà, đã bốc được quẻ tốt là làm ngay”
Hay trong “Sử ký” phần “Châu Bản Kỷ” có viết: “Thành Vương Bảo Châu Công bốc quẻ để ở”…
“Bốc Trạch” (bói quẻ làm nhà) với Phong Thủy học hiện đại có nhiều điểm bất đồng.
Những lúc nào thì kinh nghiệm xây dựng nhà cửa với âm dương ngũ hành, bát quái cửu tinh để cùng nhau sản sinh ra môn Phong Thủy hiện đại?
Xuân Thu Chiến Quốc là thời kỳ thịnh hành của phái Âm Dương gia và phát triển nhất vào đời Hán.
Vương Sung là một học giả nổi tiếng thời Đông Hán đã viết cuốn “Luận Hành” có “Tứ Huý Thiên” (4 điều kiêng kỵ) và Cật thuật thiên (chuơng hỏi về thuật số) là lấy ngũ hành, bát quái để bàn luận về nhà, nơi ở. Đến đời Tống, việc nghiên cứu Phong Thủy mới trở than2h hệ thống hẳn hoi. Liệt kê như: “Địa Lý chánh tông” và đặc biệt là các cuốn “Táng kinh”, “Cẩm nang kinh” của Quách Phát, “Tróc Mạch Phú” của Đào Khản, Đời Đường, Tống thì đặt biệt nổi danh 4 người sau:
1- Dương Quân Tùng (với Khước Dương Câu Bần).
2- Hội Văn Thuyên.
3- Liêu Vũ (với Khước Liêu Kim Tinh).
4- Lữ Tuấn (với Khươc Lỹ Bố Y).
Đây là 4 đại gia Phong Thủy gia, trong đó Dương Quân Tùng là danh tiếng nhất. Trong ba đời Nguyên, Minh, Thanh thì các nghiên cứu về Phong Thủy xuất hiện rất nhiều cho đến gần đây.
TRƯỜNG PHÁI VÀ MÔN HỌC
TRƯỜNG PHÁI VÀ MÔN HỌC CỦA THUẬT PHONG THỦY A- TRƯỜNG PHÁI
Nguyên thủy tổ khoa Địa Lý là Hoàng Thạch Công, đời Đường Nghiên (2.359-2.259 trước Công Nguyên) vị địa tiên ở núi Chung Nam.
Đến Triều Đại nhà Thanh, chỉ còn hai chi tông chân truyền là Quách gia ở Bảo Định ,Hồ Bắc và Hoàng gia ở Sa Hà, Quảng Đông. Tuy cùng một giáo chủ, nhưng hai chi tông tuyển chọn môn để khách nhau.
Hoàng gia tuyển môn đệ rất kỹ, thường chọn những người có đạo tâm đồng tính hoặc chịu đổi thành họ Hoàng, giữ phong tục tập quán, giỗ tết họ này. Vì vậy ít học trò hơn bên Quách gia, song đa số lỗi lạc, nổi tiếng cho bí quyết truyền nghề công phu khổ luyện. Trong số đó, có nhiều đồ đệ nổi tiếng cự phách như Cao Biền đời Đường, Triện Quán Phùng đời Nguyên, Hoàng Phúc Minh đời nhà Thanh và nước ta có Tả Ao đời Hậu Lê.
Đặc biệt, môn bí truyền của Hoàng phái có thêm phép luyện thần khí và thần nhẫn. Phép luyện thần nhãn cốt trong thấy thế giới thanh khí (mode éthéré) hấp thụ tinh quang mặt trời ban ngày và tuệ quan tinh đầu ban đêm.
Phép hấp thụ dương quang mở đầu bằng cách tập nhìn, không nheo mắt, ánh nắng gay gắt phản chiếu trên gương mặt, cho đến khi quen sự chói lòa thì mới tập nhìn trực diện với mặt trời, cho đến khi nhìn mặt trời không thấy chói chang là coi như đạt.
Về phép hấp thụ tuệ quang tinh tú ban đêm, đệ tử nằm ngửa, nhìn không chớp mắt các vì sao sáng qua nhiều đêm, đến khi nào đếm thật chính xác các vì sao trên trời mà không lẫn lộn là được.
Đặt một vốc cát trên bàn tay, đệ tử thấy hạt cát gấp đôi, nhìn rõ được hạt bóng, hạt mờ mà không hoa mắt lại còn thấy cả hơi nóng bàn tay toát ra qua khe hạt cát.
Tiếp đến tập phép điểm huyệt. Đặt 100 đồng tiền trên mặt đất, thoạt đầu, phủ cát dày một tấc, vận dụng thần nhãn nhìn khi đất bốc qua các lỗ đồng tiền, cằm cây kim dày điểm cắm trúng vào lỗ ấy không sai trật.Đoạn phủ đất thay cát lên các đồng tiền ấy và dùng kim điểm trúng huyệt (lỗ). Chót hết, chôn tiền sâu với lòng đất, dùng chỉa sắt nhọn dày điểm trúng cả 100 lỗ tiền là thành công. Sau đó mới tập phép tìm “long mach” vận hành dưới lòng đất.
Lại còn học phép “hô thần” như hỏi sơn thần, thổ quan về lai lịch cuộc đất quý(?). Trời dành cho ai.v.v…
Buổi sinh tiền, Tả Ao thường nói:”Tiên tích đức, hậu tầm long” người có nhiều nhân đức mới mong gặp được bậc sư tìm cho một nơi đắc địa. Lắm thầy tìm ra nơi đất quý mà không dám “để” vì thấy thân chủ đức còn kém quá!
B- MÔN HỌC
Nhà Địa Lý Phong Thủy đại để chia làm ba môn :
Một là nhật gia học. Môn này tinh về việc xem thái dương chiền độ. Tính toán từng phân từng ly cái hoành độ của nhật, nguyệt, ngũ tinh và nhị thập bát tú xem ngày giờ nào chiếu về địa phận nào rồi mới làm đất. Có khi biết trước được ngôi đất đến năm tháng ngày giờ nào sẽ phát những thế nào.
Hai là hình gia học. Môn này chỉ xem xét hình đất mà làm. Ví như hình đất như con chó thì táng tại bụng, hình đất như con voi thì táng tại vòi.v.v…Lối ấy phải xem cho tường hình đất, sai lầm một chút cũng không được.
Ba là pháp gia học. Môn này chỉ chuyên về lý khí, cốt phải tinh về lý âm dương ngũ hành. Phải biện luận cho rõ chỗ nào là âm chỗ nào là dương, chỗ nào là kim mộc, thủy, hỏa, thổ. Cốt làm sao cho sinh khắc chế hóa hợp độ mới được.
Địa Lý Phong Thủy giỏi thường kim cả ba môn, ai chuyên về môn nào cũng được.