《 Hỉ Kỵ thiên 》nói:
"Dương thủy trùng điệp gặp Thìn vị,
Là đất Nhâm Kỵ long Bối hương."
Cách này lấy ngày Nhâm tọa Thìn, Nhâm lấy Đinh là Tài, lấy Kỷ là Quan, Nhâm dụng Thìn ám xung Tuất trong có Đinh, Mậu, ngày Nhâm được Tài Quan là quý, trong trụ cần có nhiều chữ Thìn thì mới có thể xung khởi, lại tiếp tục được một chữ Dần hợp trụ Tài Quan là tốt, không nên có Tài Quan hiển lộ, hỉ hành thân vượng cùng Thương Quan, Thực thần vận, kỵ Nam phương đất Tài Quan. Trụ có Đinh Tị Ngọ Tuất, chỉ lấy Tài Quan luận. Nếu ngày Nhâm tọa Dần, trong trụ có nhiều chữ Thìn, cũng lấy cách này, lấy Nhâm thì Giáp là Thực, Giáp hợp Kỷ là Quan của Nhâm, Giáp sinh Đinh là tài của Nhâm, Thìn có thể xung Tuất, Dần lấy hợp là quý. Nếu ngày Nhâm Thìn, năm tháng giờ đều có Dần Ngọ là hỏa cục, Tài sinh vượng đắc địa, Tài nhiều thì không thanh, chỉ là phú mệnh.
Lại nói: Ngày Nhâm Thìn lấy nhiều chữ Thìn, ám xung khởi Tuất trong có hỏa thổ kim là Tài Quan Ấn là Tam Kỳ, nếu có ba Thìn mà một Dần là xung hợp quý khí, có lực, nếu ngày Nhâm Thìn mà năm tháng giờ đều có chữ Dần, thì lực nhẹ, mà lại dụng Dần trong có Giáp mộc là Thực sinh Tài, cho nên chủ là giàu có. Trong trụ cần thấy Sửu Mùi là quý hiển, rất sợ gặp Kỷ là Quan, Mậu là Sát, Ất là Thương, gặp Đinh hợp thì không nhập cách, mà như Thìn nhiều cũng giảm bớt điểm số, kỵ Bắc phương Hợi Tý vận.
Lại nói: Nhâm Thìn là ngày Khôi Cương, cần thân vượng, sợ thấy Tài Quan, không tốt để vận tham gia, nếu trong trụ hoàn toàn thấy đủ Thân Tý, đương nhiên lấy Nhuận Hạ cách luận, vận Mậu Kỷ, Thìn Tuất lại xung, tuế vận cùng đến, trong cát lại có họa, chỗ này thì lại kỵ Thìn đến xung, không thành cách vậy.
Một mệnh: Kỷ Sửu, Mậu Thìn, Nhâm Thìn, Canh Tý, Giáp Tý là cử nhân, năm Mậu Thìn tháng Ất Mão chết, chính là do Kỷ Quan Sát thái vượng, khắc Nhâm là hung.
Thơ nói:
Ngày Nhâm Thìn tên là Kỵ Long,
Không lộ Quan tinh nơi đối xung,
Tứ trụ Thìn nhiều Quan tước hiển,
Dần nhiều lại lấy nhà phú ông.
Lại nói:
Dương thủy gặp nhiều nơi chữ Thìn,
Nhâm kỵ Long bối quý phi thường,
Trong trụ đều có chữ Thìn Dần,
Phú quý song toàn nơi miếu đường.
Lại nói:
Nhâm kỵ Long bối hỉ phi thường,
Thìn nhiều chữ Dần chuyển phát dương,
Kỵ nhất Quan tinh đến phá cách,
Tai hình lại thấy tổn Thọ nguyên.
Tý diêu Tị lộc
《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Ngày Giáp Tý lại gặp giờ Tý, sợ Canh Tân Thân Dậu Sửu Ngọ, cách ngày lấy ngày Giáp Tý giờ Giáp Tý, Giáp lấy Tân làm Quan, Quý thủy ở trong 2 Tý có thể hợp xa Mậu thổ ở trong Tị, Mậu đến hợp Quý, sợ Tý ở trên có Giáp mộc khắc chế, không dám đến hợp, Mậu và Bính đồng cư ở cung Tị, Bính Mậu là cha con, Mậu động Bính cũng động, Bính lại cùng Tân ở trong Dậu tương hợp đến khắc Giáp mộc, ngày Giáp được Quan tinh, được phương Mậu hợp Quý, là nói Tị Dậu Sửu tam hợp hội khởi cục Quan tinh, năm tháng rất sợ có Ngọ xung Tý, Sửu trói hợp Tý, không thể diêu hợp vậy.
Lại viết: Cách này lấy Quý thuỷ ở trong 2 Tý hợp xa Mậu thổ ở trong Tị là Tài của Giáp, Bính Mậu lộc đồng cung ở Tị, Bính là Tước tinh của Giáp, Mậu là Tước tinh của Bính, Mậu động thì Bính cũng động, Bính thấy con Mậu tham hợp Quý là vợ của Ấn thụ, Bính lại hợp khởi Tân kim là Quan của Giáp, như người có con kế sau đó, truyền gia để thành đạo cha tôn quý. Hỉ sinh tháng Nhâm Quý Hợi Tý Ấn vượng, tháng Mão Dần thân vượng, hành đất Quan vượng, tất chủ đăng khoa có ăn lộc, quyền quý giàu sang. Kỵ thấy chữ Canh Tân Bính lộ ra, chữ Thân Dậu Tị phá cách, như có chế hóa, cũng không có hại. Trụ có Sửu Ngọ xung trói, thì giảm phân nửa. Tuế vận cũng vậy. Nếu sinh tháng Dậu Sửu, chỉ lấy Chính Quan cách, thủ hư lộ chữ Canh, cũng chủ phú quý, hoàn toàn xem nguyệt lệnh như thế nào, hoặc có Sát sinh Ấn trợ, nếu thành cách này, phải kỵ càng sợ vận ở phương nam. Như Phiền Kế Tổ Thượng thư: Canh Tý, Kỷ Mão, Giáp Tý, Giáp Tý, là đúng cách này vậy.
Kinh nói: Giáp Tý phùng hợp lộc, cả đời là giàu có.
Thơ viết:
Ngày Giáp Tý gặp giờ Giáp Tý,
Diêu hợp Quan lộc quý không sai,
Sửu trói Tý xung Quan Sát lộ,
Phúc không là cát cũng có lộc.
Lại nói:
Tý đến diêu Tị cân nhắc kĩ,
Giáp Tý vẫn phải tìm Giáp Tý,
Quý hướng trong Tị mời Mậu thổ,
Bính đến trên Dậu hợp Tân kim;
Ám vui Thân Dậu tam lục hợp,
Sợ lộ Canh Tân 2 Quý xâm,
Không gặp Sửu Ngọ luận cao cách,
Đăng khoa cập đệ yến Quỳnh Lâm.
Sửu diêu Tị lộc
《 Hỷ Kị thiên 》 nói: Ngày Tân, Quý gặp nhiều đất Sửu, không hỷ Quan tinh, năm giờ gặp 2 cung Tý Tị, là hư danh hư lợi. Cách này chỉ có 2 ngày Tân Sửu, Quý Sửu, Tân lấy Bính là Quan, Quý lấy Mậu là Quan, Bính Mậu lộc ở Tị, duy chỉ có Sửu có thể phá Tị, trong trụ gặp nhiều chữ Sửu, thì Bính Mậu xuất lộc, Tân Quý hợp xa được Quan tinh, kị thấy Tý trói Mùi xung, chữ Tị là điền thực, chẳng qua hư danh hư lợi mà thôi, tuế vận luận cũng vậy. Ngày Tân Sửu nên sinh mùa thu, ngày Quý Sửu nên sinh mùa đông, trong trụ kim thủy nhiều mới hợp cách này, lại thấy Thân Dậu, được một chữ hợp trụ Tị, không dẫn đến tẩu xuất quý khí là vi diệu. Không có Bính Đinh Tị Ngọ, ngày Tân là thuần túy, không có Mậu Kỷ Tị Ngọ, ngày Quý là thuần túy, lại không có trói xung, là người thuần hậu, phú quý song toàn, hơi thấy tổn thương, cũng chủ giàu có. Nếu sinh tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, nên lấy Tạp khí thủ dụng, gặp giờ Mão Thìn Thân Dậu Hợi, cũng không lấy cách này xem. Như ngày Tân sinh tháng Bính Dần, Bính Ngọ, Bính Tuất, chỉ lấy Quan tinh luận, như sinh Giáp Dần, lấy mộc thủ hỏa, có thể dụng Tài Quan. Ngày Quý nhiều thổ, lấy Quan Sát luận, thấy giờ Quý Hợi, lấy Củng Lộc luận, sinh tháng kim vượng, lấy Ấn thụ luận, sinh tháng hỏa vượng, lấy Tài tinh luận, như sinh tháng Giáp Dần, Thương quan không ngại, nên hành vận Quan tinh đắc địa cùng thân vượng, đa số là quý. Cách này cùng Tân Hợi, Quý Hợi Phi Thiên Lộc Mã là như nhau. Kinh nói: Ngày Tân Quý hợp Lộc, cả đời có dư của cải.
Thơ viết:
Ngày Tân ngày Quý gặp nhiều Sửu,
Danh là Diêu Tị hợp Quan tinh,
Chớ nói không hỷ Quan tinh vượng,
Ai ngờ Quan đến lại có thành.
Lại nói:
Can 2 ngày Tân Sửu Quý Sửu,
Sửu có phá Tị Tị tàng Quan,
Thấy nhiều chữ Sửu mới vi diệu,
Chữ Tý không nên ở giữa trụ.
Lại nói:
Tân Quý không Quan nhiều xa Sửu,
Bính Mậu trong Tị lộc đến triều,
Chi nguyên hỷ kiến Dậu Thân hợp,
Nhập cách là ứng quý lộc nhiêu;
Tân kị Bính Đinh kiêm Tị Ngọ,
Quý hiềm Mậu Kỷ Mã Xà Kiêu,
Tý đến trói Sửu tâm thật lười,
Cách cục như khinh phúc cũng tiêu.
Xung hợp Lộc Mã
+ Như người sinh ngày Giáp, trụ không có Dậu Tân Sửu, có Mão nhiều xung Dậu, Tị Dậu hợp Sửu là Chính Quan của ngày Giáp, hỷ Nhâm Quý sinh trợ, kị Dậu Tân điền thực, nếu chỉ có một chữ Mão, lại có hình hợp khởi cũng là mệnh tốt.
+ Người sinh ngày Ất trụ không có Thân Canh, lại có Dần xung Thân, Tý Thìn hợp củng hoặc Tị hình xuất, là Chính Quan của Ất, hỷ Nhâm Quý sinh trợ, kị Thân Canh điền thực.
+ Người sinh ngày Mậu trong trụ không có Mão Ất, lại có Dậu xung Mão, Hợi Mùi hợp Mão, Mậu được Quan tinh, hỷ Nhâm Quý Tài, Bính Đinh Ấn, kị thấy Mão Ất.
+ Người sinh ngày Kỷ trong trụ không có Dần Giáp, lại có Thân xung Dần, Ngọ Tuất hợp Dần tức là ám có Quan tinh, hỷ Tài, Ấn, kị thấy Dần Giáp.
Hai ngày Bính Đinh tức là Đảo Xung Lộc Mã cách, bốn ngày Canh Tân Nhâm Quý tức là Phi Thiên Lộc Mã cách, lấy vì dụ mà suy ra.
Lấy ở trên có bốn can xung hợp, đều kị Quan tinh lộ ra cùng thụ thương, nguyệt lệnh được Quan thừa vượng là tốt, xung thần gặp hợp, không gặp hợp bán, tất đăng thanh quý tướng công hầu, khuyết một thì giảm phân nửa, phá thì chỉ quý đủ ăn, nặng hơn thì bần, tuế vận hỷ kị giống nhau.
《 Vu Bảo kinh 》nói:
Ất dụng Canh cùng Thân là chồng, trụ không có, lại có hai chữ Tý Thìn, thì có thể hợp khởi Canh trong Thân là Quan tinh của Ất, có chỗ này bất tất lại phải chữ Dần khử xung, có Dần càng tốt, trụ không có Tý Thìn, là lấy xung xuất ra. Giáp Dần, Ất Mão, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Canh Thân, Tân Dậu, Nhâm Tý, Quý Hợi, lấy 10 ngày kể trên là bản thân kiện vượng, xung gốc lộc là khẩn cấp nhất, Nhâm Thìn, Nhâm Tuất, Mậu Thìn, Kỷ Sửu, xung lộc thì vô lễ, can còn lại không dùng ( như Minh Thần Tông: Quý Hợi, Tân Dậu, Quý Hợi, Tân Dậu, chủ bản đều là Quý Hợi kiện vượng, xung ra Bính Mậu Lộc Mã ở trong Tị là quý dụng, lại được hai Dậu hợp trụ là tốt ).
Phá Quan
Tứ trụ vốn không có gốc Tài Quan Ấn thụ, lại có thần phá Quan, như ngày Quý Mão phá xuất Kỷ thổ là Quan ở trong Ngọ, ngày Quý Dậu phá xuất Mậu thổ là Quan ở trong Thìn, ngày Giáp Ngọ phá xuất Tân kim là Quan ở trong Dậu, trong trụ cần gặp một chữ tam hợp hợp trụ quý khí là tốt.
《 Nguyên Lý phú 》nói: Mão phá Ngọ, Ngọ phá Dậu, là Tài Quan song mỹ. Lại nói : Chi trụ năm và ngày không có thần phá Quan, chi trụ tháng và giờ có thần phá Quan, là chủ quý. Như ngày Giáp Dần không có phá, tháng gặp Bính Ngọ, giờ đến Kỷ Tị, chỗ này lấy Ngọ phá Dậu trong có Tân Quan, có Tị hợp, lại dụng trong Tị có Bính Mậu hợp Tân, là quý.
Thơ viết:
Mão phá Ngọ Mùi có đại quan,
Ngọ Mùi phá Dậu xem như thường,
Sửu phá Tị Ngọ không thành lệ,
Tý phá Mão Thìn dụng không khó.
Phi Tài
Can ngày giống can tháng, chi ngày giống chi giờ, xung ra Tài đối cung là vậy. Được cách này nên phát tài lộc, kị tiết khí, là hung. Như ngày sinh Nhâm Thân, chi giờ cũng là Thân, hai Thân xung trong Dần ra Giáp Bính là Tài thành dụng, tuế vận gặp Tý thì hóa thành thủy cục. Như can ngày là Canh được cục, tiết khí Thương quan, khôg thể sinh Tài, Tuế quân, trong trụ lại gặp Thất Sát khắc thân, tất chết. Bởi vậy Phi Tài cách, cho nên chi Thìn không thể biến hóa cục khác vậy. Như Mậu Dần, Kỷ Mùi, Mậu Dần, Giáp Dần, có ba Dần một Giáp Thất Sát, tháng sáu hoàn toàn không có Tài khí, Tỉ kiên rất vượng, lại được ba Dần xung trong Thân là ra Tài thủy trường sinh, vận hành Tây Bắc, phát tài cự vạn.
Phá Tài
Cách này như sinh ngày Ất Mão, bát tự không thấy Tài Quan, dụng chữ Mão phá Ngọ Mùi trong có Kỷ thổ là ra Tài sử dụng, cần có một chữ Dần, Tuất ám hợp khí Tài là tốt, kị Kiếp Tài điền thực, nhưng có vị trí Tài cùng điền thực, vị trí xung liền phá không đến vậy. Như ngày Canh Thân, Tân Dậu phá Dần Mão Thìn mộc là Tài, ngày Bính Ngọ, Đinh Mùi phá Dậu Tuất kim là Tài, ngày Nhâm Tý, Quý Sửu phá Tị Ngọ trong có hỏa là Tài, mấy ngày này bản thể là ngày Nhật Nhận và Nhật Lộc nên bản thân tự cường, cho nên có thể xung phá lấy Tài làm dụng, ngoài ra nhật chủ nhu nhược, có thể khởi ở phá đoạt cắt ngang tới Tài. Hợp cách này, phần đa có thể cắt ngang lấy Tài bất ngờ.
Thơ viết:
Mệnh lý không Tài xem phá Tài,
Phá đến tài lộc như chồng núi,
Vận hành Quan Ấn thất nhiều phúc,
Lại sợ hình xung cùng điền thực.
Lại nói:
Mão phá Ngọ Mùi lấy Tài xem,
Ngọ Mùi phá Dậu cứ giống nhau,
Sửu phá Tị Ngọ Tài đến nhiều,
Dậu phá Thìn Mão phúc không khó.
Hổ Ngọ bôn Tị
Cách này chính là ngày Tân Quý thấy Sửu Dần, lấy Dần hình, Sửu hợp, hình hợp trong Tị ra Bính Mậu là Quan tinh của Tân Quý, lại gặp một chữ Dậu hợp quý là tốt, có hình không hợp, lộc không thể đảm nhận được, trụ thấy Thân Tị, tức là không nhập cách. Như mệnh: Nhâm Tuất, Tân Hợi, Tân Sửu, Canh Dần và mệnh: Giáp Tuất, Tân Mùi, Quý Sửu, Giáp Dần, hai mệnh này hợp cách là quý.
Thơ viết:
Ngày sinh Tân Quý năm tháng giờ,
Nếu gặp Dần Sửu liền thành cách,
Dần hình Sửu hợp lộc trong Tị,
Đây là công danh cơ phúc quý.
Dương kích Trư Xà
Cách này chính là hai ngày Tân Mùi, Quý Mùi, lấy 2,3 chữ Mùi hợp khởi chữ Hợi, xung Tị trong có Bính Mậu cuất ra là Quan tinh của Tân Quý, trụ có một chữ Dậu Sửu hợp trụ quý khí là tốt, sợ điền thực và xung hình. Như mệnh: Giáp Tuất, Tân Mùi, Quý Mùi, Quý Sửu, và mệnh: Canh Thân, Quý Mùi, Tân Mùi, Ất Mùi, hai mệnh này là hợp cách, đều quý.
Thơ viết:
Dương kích mạnh nhất Trư Xà cách,
Ngày gặp Tân Quý Mùi tương đương,
Trong trụ lại gặp chữ Dậu Thân,
Hợp Lộc không thương nhập miếu đường.
Lấy nhiều cách ở trên, trong trụ cần phải không có Tài Quan mới dụng, có thề không lấy.
Ghi chú: Dương là Dê là Mùi, Tru là Heo là Hợi, Xà là Rắn là Tị.
Lục Âm triều Dương
《 Hỷ Kị thiên 》nói: Ngày Lục Tân, gặp giờ Mậu Tý, sợ ngôi Ngọ, vận hỷ Tây phương. Cách này ngày Lục Tân là chủ, Tân lấy Bính là Quan tinh, lấy Quý là Thọ tinh, hỷ giờ Mậu Tý, lấy Mậu hợp Quý, Tý là đất Tân ở sinh địa, Mậu lộc ở Tị, Mậu là Ấn của Tân, Mậu là con của Bính, Bính thấy Mậu là Ấn của Tân, Bính lại sinh Mậu mà hợp Tân, là quý, ngày Tân được Quan tinh vậy. Trong trụ chỉ nên có một chữ Tý, nhiều thì không được, sợ Ngọ xung Sửu hợp trói, thì âm không thể hướng về dương (Triều dương), Bính Tị là điền thực, vận hành Tây phương đất kim vượng cho nên hỷ, Đông Bắc Tài tổn thương là bình thường, Nam phương thì tử tuyệt là kị. Cách này chỉ cần sinh tháng Thân Thìn Hợi Mão Mùi Dậu, nếu sinh tháng tứ quý, thì lấy Ấn thụ mà luận, tháng Bính Ngọ, Bính Dần, Bính Tuất thì lấy Tài Quan mà luận, tháng Giáp Dần, Ất Mão chỉ lấy Tài luận. Nguyệt lệnh là chủ, hành vận không tính toán là nam bắc, thân vượng là tốt, nếu thành cách này, phần đa danh thắng ở Tài, là người kiêu ngạo, thương thê hại tử, như phạm kị ở trên, là bần bạc.
Bí quyết nói: Ngày Tân giờ Tý, kị hành hỏa địa, hành đến Tây Bắc thì cát, vừa đến Đông Nam liền hung.
Cổ ca nói:
Tân gặp Mậu Tý hiệu Triều Dương,
Vận hỷ Tây phương lộc vị xương,
Sửu Ngọ Bính Đinh không xuất hiện,
Lưng vàng áo tía vào triều đường.
Lại nói:
Ngày Tân sinh gặp giờ Mậu Tý,
Mậu đến động Bính lấy Tân Quan,
Lục âm kim hợp Triều Dương cách,
Nền tảng phú quý là không khó;
Tý cung chỉ nên gặp một vị,
Nếu liền ngôi Sửu phúc vẫn khan,
Bính Đinh Tị Ngọ đều không vết,
Vận hướng Tây phương lợi bất phàm.
Lại nói:
Triều Dương hành vận hỷ Tây phương,
Lâm đến Đông phương cũng cát xương,
Sợ nhất Bắc phương không nhiều cát,
Nam Ly xung phá chủ tai ương.
Lục Ất Thử quý
《 Hỷ Kị thiên 》nói: Đơn độc Âm mộc gặp giờ Tý, gọi là đất Lục Ất Thử quý. Ất lấy Tý Thân là quý thần, đơn độc gặp Tý là dụng Thử (Chuột, là Tý) mà không sử dụng Thân ( Hầu là Khỉ) vậy. Ất dụng Canh kim là Quan tinh, gặp giờ Bính Tý, lấy Bính hỏa ở trên Tý ở xa quy về Tị trong có gốc lộc, Tị đến hợp Thân, Thân đến động Tý, gọi là Thân Tý Thìn tam hợp hội quý, gọi là trong Thân có mang theo Canh, ngày Ất gặp Quan tinh, dụng giờ Thân thì Quan tinh hiển lộ, cho nên không lấy. Nếu chữ Tý nhiều, gọi là tụ quý, càng tốt. Trong năm tháng có Ngọ xung, Sửu hợp trói, thì Tý không thể xa lộc, Thân Canh là Quan lộ, Dậu Tân là Sát lộ, gặp Bính hại, Tý trái lại là bất trung vậy. Tuế vận cũng vậy. Cách này cần tháng thông ở mộc cục, chi thần dưới ngày đều là đất mộc vượng, thủy Ấn cũng được, kị thấy kim hỏa, nếu gặp Tuế Vận là Thân Dậu, là hối hận bất hạnh, Đông phương dần dần thoái lui, Ngọ vận thì vong. Như một mệnh: Nhâm Dần, Tân Hợi, Ất Mùi, Bính Tý, là hợp cách, nếu ngày Ất Sửu là hợp bán Tý, ngày Ất Dậu là Sát thương, thì giảm phân nửa, một chữ Tý sợ thấy Mão hình, Sửu hợp bán, nhiều thì không sao, thấu chữ Tân không vượng, lại có Bính Đinh hợp khắc, Bính hợp Tân hóa thủy, vận thuận hành không tổn thương quý. Như Kỷ Sửu, Bính Tý, Ất Mão, Bính Tý, hai Tý kẹp một Mão; Đinh Tị, Nhâm Tý, Ất Sửu, Bính Tý, hai Tý kẹp một Sửu, tuy phạm kị ở trên, nhưng là kẹp giao trong sinh quý, cho nên đều là đại quý. Nếu sinh mùa Hạ, chỉ lấy Thương quan luận. Sinh tháng 7, 8, là bần hạ. Như gặp tháng Canh Thân, vận Bắc địa, lại lấy Quan luận. Sinh tháng tứ quý, có Tài khố, hỷ thủy cục, Thương quan, Thực thần, Nam vận, cũng cát. Phàm nguyệt lệnh thấy Tài Quan Ấn vượng, tức lấy Tài quan thủ dụng, không lấy Ngọ xung Tý là họa. Như hợp Thử Quý, trụ có Mùi hợp Ngọ, sơ lược có tổn hại, phú mà hư danh. 《 Tâm Tướng phú 》nói: Lục Ất Thử quý, gặp Ngọ xung mà bần hàn trắng tay.
Thơ viết:
Ất mộc sinh lâm giờ Bính Tý,
Phải không có Ngọ phá Mão hình,
Tứ trụ không gặp Thân Dậu Sửu,
Quản giáo thiếu niên bái thềm son.
Lại nói:
Người sinh ngày Ất gặp giờ Tý,
Tên là Thử quý tốt vô cùng,
Không nên thấy Ngọ đến xung phá,
Tân Dậu Canh Thân không phù hợp.
Lại nói:
Người sinh Lục Ất gặp giờ Tý,
Đã mang Quan tinh phục dụng Thử,
Canh Thân Tân Dậu lấn Ngưu Mã,
Chỉ gặp một vị thành ăn mày.
Nhật Lộc quy Thời
《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Nhật Lộc quy thời một Quan tinh, hào thanh vân đắc lộ. Cách này có 7 ngày: Giáp Dần, Đinh Ngọ, Mậu Tị, Kỷ Ngọ, Canh Thân, Nhâm Hợi, Quý tử, lộc của nhật chủ quy về ở vị trí giờ, hỉ nhật can tọa vượng, Ấn thụ sinh, tháng thấu Tài nguyên, Thương Thực, Thiên Nguyệt nhị Đức, là đại phú quý. Kỵ hình xung phá hại, Không vong Tử Tuyệt, cùng Kiếp tài phân chia Lộc, Đảo Thực tác hợp, Quan Sát khắc chế, tuy có thể thủ dụng, cũng không thuần túy. Tuế vận cụng vậy. Như ngày Ất thấy giờ Kỷ Mão, là Thời thượng Thiên Tài; ngày Bính thấy giờ Quý Tị, là Quan tinh hiển lộ; ngày Tân thấy giờ Đinh Dậu, là Thời thượng Thiên Quan, không lấy Quy Lộc cách xem. Tứ trụ như thế nào? Nếu tháng có Quan tinh hoặc thiên can thấu Tài Quan, chỉ lấy Tài Quan luận; nếu quy lộc ở giờ, chi năm tháng giờ cũng có lộc, gọi là Phúc tụ quy Lộc, lại gọi là Ngũ hành quy Lộc; nếu Nhật Lộc quy thời, Thời Lộc quy nhật, gọi là Hỗ hoán Lộc; nếu năm lộc quy về giờ, giờ lộc quy về năm, như các loại Giáp Thân kiến Canh Dần, Ất Dậu kiến Tân Mão, Nhâm Ngọ kiến Đinh Hợi, Quý Hợi kiến Nhâm Tý, đều chủ đại quý hưởng phúc; nếu thấy nhiều Lộc vị, như ngày Giáp giờ Dần, lại sinh tháng giêng Dần, Tài Quan đều nhược, chỉ lấy Kiến Lộc xem; nếu Thiên nguyên ngày tháng giống nhau mà chỉ có giờ là lộc, gọi là Phân Lộc, thì là vô dụng, nếu từng chữ quy lộc, nhưng lại không có sao.
Cách này có 7 phép:
+ Một là: viết Thanh vân đắc lộ, như: Mậu Tý, Giáp Dần, Ất Hợi, Kỷ Mão, trong trụ không có một chút Quan tinh, thân vượng đắc cục, có Ấn sinh trợ, tuy là Tý hình Mão lộc, không thể phá cục, cho nên quý. Lại như: Nhâm Ngọ, Canh Tuất, Nhâm Tý, Tân Hợi, thân vượng Ấn trợ, Mậu Thìn đăng Tiến sĩ, là Lang Trung Hình Bộ, lấy Tạp Khí cách luận thì là, là do vận Đinh Sửu khoa Mậu Thìn, Sửu hình Thìn xung vậy.
+ Hai là viết: Quan tinh tọa Lộc, như Bính Thân, Bính Thân, Bính Thân, Quý Tị, Bính lấy Quý là Chính Quan, sinh tháng 7 có đất kim vượng dựa, vận hành Tây Bắc đất Quan sinh vượng, Bính lâm Thân là vô khí, 3 Bính nương tựa nhau, xung Dần trường sinh, Quý Quan lâm ở Tị, dụng thần tọa Quý, được Tài Quan song mỹ, cho nên thiếu niên cập đệ khoa Giáp, trung niên bái tướng.
+ Ba là viết: Quy Lộc phùng Nhị Đức, như Tân Hợi, Tân Mão, Giáp Dần, Bính Dần, Giáp là chuyên lộc ở Dần, mà được Bính Dần là Hội thực Lộc, Giáp là Nguyệt Đức, nguyệt lệnh Tân Mão là Chính Quan của Giáp, Tân gặp tháng 2 là vô khí, Bính ở trong 2 Dần hợp khử 2 Tân, chỉcó 2 Dần là lộc của Giáp, Nguyệt Đức phùng Quy Lộc, chính là mệnh của anh hùng Bình Chương phụ quốc.
+ Bốn là viết: Quy Lộc phùng Ấn Thụ, như Bính Tuất, Quý Tị, Mậu Ngọ, Đinh Tị, trụ không có một chút Quan tinh, Bính Đinh là Ấn Mậu, ngày giờ hỗ hoán lộc, Ngọ Mậu đều lấy là hỏa đất Ấn thụ, sinh thân thái vượng, vận hành Tây phương đất Thực thần Thương quan sinh Tài, Quý cùng Mậu hợp hóa thành hỏa tượng, cho nên thiếu niên đăng khoa, làm quan đến tam phẩm.
+ Năm là viết: Quy Lộc phùng Thương quan, đại kỵ kiến Quan, như Nhâm Thìn, Ất Tị, Kỷ Hợi, Canh Ngọ, Kỷ tọa Hợi có Giáp là Quan, gặp Tị xung khử, có Ất là Sát, gặp Canh hợp hóa là chân kim Thương quan, dụng Nhâm là Tài, tọa khố, Quy Lộc ở dưới ngày, vận hành nam phương thân vượng, tây phương kim vượng, Thương quan khử Sát, sinh ra Tài khí, hữu dụng, anh linh tú thực, quý vậy.
+ Sáu là viết: Quy Lộc phùng Sát, như Giáp Thân, Bính Dần, Mậu Thân, Đinh Tị, Mậu tọa Thân tự sinh, can năm thấu Giáp là Sát, Quy Lộc ở Dần, có 2 Thân chế, Mậu quy lộc ở đất giờ, không có Quan hỗn tạp, cho nên nắm lấy binh quyền, uy trấn biên cương.
+ Bảy là viết: Quy Lộc phùng Tài, như Kỷ Hợi, Bính Dần, Đinh Sửu, Bính Ngọ, tự tọa Tài khố, Bính đoạt Tài, có Nhâm trong Hợi chế, Dần cùng Hợi hợp, vận phùng Quan Sát, Tỉ kiên cường vượng, có thể đãm nhận, Kỷ thổ Thực thần, quy lộc ở giờ, chế Quan Sát, vận hành Tuất Dậu Thân, đều là đất Tài vượng, cho nên quý.
《 Nguyên Lý phú 》 nói: Quy Lộc được Tài mà nhận phúc, không có Tài quy lộc cũng là bần. Lại nói: Nhật Lộc quy thời, tứ trụ tuế vận đều không hỉ Quan tinh, có hình hại, phúc giảm nửa.
Thơ viết:
Nhật chủ sinh giờ phùng Quy Lộc,
Không xung không hình không lạc Không,
Quan Sát không lâm Tài Ấn vượng,
Thương Thực thân kiện lộc nghìn chung.
Lại nói:
Người sinh Lục Giáp lộc ở Dần,
Nếu phùng Quan diệu thân khó quý,
Thân không kiện vượng vui Ấn sinh,
Lộc có dư nhiều thích Thực thần;
Nếu gặp tương xung tai tất đến,
Bỗng gặp khắc phá phúc không theo,
Lưu niên đại vận đều đồng luận,
Quý tôn cao áp đảo chúng nhân.
Củng Lộc Củng Quý
《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Củng Lộc Củng Quý, điền thực thì hung. Củng, là hướng vậy, là kẹp vậy. Lộc, là Lộc lâm quan, Quý, là Quý Quan Tinh, hoặc là chỉ Thiên Ất quý nhân. Củng Lộc có 5 ngày 5 giờ: Quý Hợi, Quý Sửu, Quý Sửu, Quý Hợi củng Tý lộc; Đinh Tị, Đinh Mùi, Kỷ Mùi, Kỷ Tị củng Ngọ lộc; Mậu Thìn, Mậu Ngọ củng Tị lộc. Củng Quý có 5 ngày 5 giờ: Giáp Thân, Giáp Tuất củng Dậu, Ất Mùi, Ất Dậu củng Thân, là Quan quý; Giáp Dần, Giáp Tý củng Sửu, Mậu Thân, Mậu Ngọ củng Mùi, Tân Sửu, Tân Mão củng Dần, Quan quý kiêm Thiên Ất quý. Phàm Củng cách, cần ngày giờ cùng thấy, Quý Lộc cùng nguyệt lệnh thông khí, vận hành thân vượng cùng Quý Lộc vượng địa, mới đại tốt, vận Ấn thụ, Thương quan, Thực thần, Tài, cũng cát. Kỵ hình xung phá hại, Dương Nhận Thất Sát, tổn thương ngày giờ, củng không chắc quý khí. Đại kỵ Điền thực, Không Vong, thí dụ như dụng cụ không thì có thể chứa, đầy thì vô dụng, cho nên chỉ cần hư củng; hết thì có thể đựng, phá thì vô dụng, cho nên sợ kiến Không Vong. Tuế vận cũng vậy. Phú nói: Lộc trọng vị hiển, định biết đất kẹp Lộc, giả như Quý Sửu kiến Quý Hợi, củng chỗ Tý, Quý Lộc sinh mùa thu đông, lộc trọng có khí, như Mậu Tý kiến Giáp Dần, cũng là củng Sửu quý, nhưng Mậu bị Giáp khắc, sao có thể củng chứ? Còn lại theo ví dụ này mà suy. 《 Tam Mệnh 》 nói Kẹp Lộc kẹp Quý, tất tôn cư Bát tọa. 《 Cảnh Giám 》 nói: Củng lộc Củng quý, thuần túy là sánh vai Vương hầu, điền thực là hư danh hư lợi, không có Tài Ấn không hỉ Thương hại, kỵ Quan Sát, lại sợ Không Vong.
Thơ viết:
Hai ngày giờ Củng Lộc trong Đình,
Hòm vàng dấu ngọc cách tối thanh,
Rất quý rất cao quân tử mệnh,
Không sầu không lo đến Công khanh.
Lại nói:
Hư Củng Quý thần kiêm Lộc vị,
Không gặp Điền thực cùng Không vong,
Xung hình Dương Nhận cùng Thất Sát,
Phá bại Quan tinh không thể đương.
Lại nói:
Củng Lộc củng Quý trong cách hiếm,
Cũng cần Nguyệt lệnh xem chi đề,
Đề cương hữu dụng đề cương trọng,
Nguyệt lệnh vô thần dụng chỗ này.
Xung Lộc
Cách này như Canh lộc ở Thân, trong trụ không có Thân, được ngày Canh Dần, năm tháng giờ lại có chữ Dần, cùng xung Thân là lộc của Canh. Giáp lộc ở Dần, trong trụ không có Dần, lại được ngày Giáp Thân, năm tháng giờ lại có chữ Thân, cùng xung Dần là lộc của Giápc. Đại kỵ Bính tổn thương Canh, Canh tổn thương Giáp, vị trí lộc điền thực là không quý. Còn lại theo ví dụ này mà suy. Như Kỷ Tị, Đinh Sửu, Canh Dần, Mậu Dần; Tân Tị, Ất Mùi, Giáp Thân, Nhâm Thân; Ất Mão, Giáp Thân, Tân Mão, Tân Mão, cả 3 mệnh đều hợp cách, nên quý.
Lục Nhâm xu Cấn
Cách này chính là ngày Lục Nhâm thấy giờ Giáp Dần, hợp xuất Nhâm lộc ở trong Hợi, tức là Ám Lộc cách. Kinh nói: Lộ ra lộc không bằng Ám Lộc là vậy. Kỵ chữ Hợi điền thực, sợ hình xung khắc phá. Hai ngày Nhâm Dần, Nhâm Thìn là chính, kiến chữ Dần nhiều là đại phú, lấy Giáp mộc Thực thần sinh Bính hỏa ở trong Dần là Tài trường sinh, Tài vượng sinh Quan, cho nên hoàn mỹ. Kỵ Quan Sát tổn thân, Thân Canh hại Giáp, không thể sinh Tài, là hung. Lại viết: Ngày Nhâm thấy nhiều chữ Dần, dụng Giáp mộc ở trong Dần ám mời Kỷ thổ là Quan tinh của Nhâm, Bính hỏa ở trong Dần ám mời Tân kim là Ấn thụ của Nhâm, sợ Ngọ hợp Thân xung, kỵ Tài Quan điền thực, hỉ đất thân vượng, tuế vận cũng vậy. Khẩu quyết nói: Lục Nhâm xu Cấn, phùng tháng Hợi tất bần. 《 Tâm tướng phú 》 nói: Lục Nhâm xu Cấn, trí túc đa mưu. 《 Chân Bảo phú 》 nói: Lục Nhâm xu Cấn, thấu Tài Ấn là diệu kỳ, Quan Sát đến phạm, lại là bần cùng hạ tiện.
Lục Giáp xu Càn
Cách này chính là ngày Lục Giáp thấy Hợi. Hợi, là vị trí Thiên Môn, viên ở Bắc cực, Giáp mộc dựa vào trường sinh. Hợi lại có thể hợp xuất bản lộc ở trong Dần, cùng giống với cách Xu Cấn. Kỵ chữ Dần điền thực, chữ Tị hình xung. Lại viết: Giáp kiến giờ Hợi, Hợi có Nhâm lộc là Ấn, hỉ kiến Tân kim sinh Ấn, không hỉ kiến Tài, trụ có Mão hợp Hợi, tức là không thể hợp lộc trong Dần vậy, nếu thân nhược gặp Tị Dậu Sửu cục, Kim thần quá nhiều, tuế vận lại thấy, sinh tai họa. 《 Tâm Tướng phú 》 nói: Lục Giáp xu Càn, chủ người nhân từ, tâm ngay thẳng chính trực. 《 Chân Bảo phú 》 nói: Lục Giáp xu Càn, thấu Ấn thụ là tốt, lại thấy Tài tinh, vị liệt danh Khanh. 《 Thiên Lý Mã 》 nói: Nhâm xu Cấn, Giáp xu Càn, danh sĩ thanh triều.
Thơ viết:
Lục Giáp xu Càn tối vi kỳ,
Người sinh ngày Giáp được giờ Hợi,
Tuế vận nếu phùng Tài vượng xứ,
Quan tai hoạn nạn lại đến tìm.
Xem thơ và phú, có kỵ Tài hỉ Tài là khác nhau, tôi thấy thấu Ấn là kỵ Tài, thân vượng thì hỉ Tài.
Tài Quan song mỹ
《 Kế Thiện thiên 》 nói: Lục Nhâm sinh lâm Ngọ Mùi, hiệu viết là Lộc Mã đồng hương, ngày Quý tọa hướng Tị cung, chính là Tài Quan song mỹ. Lộc tức là Quan, Tài tức là Mã, hai câu nghĩa đồng nhất vậy. Nhâm lấy Đinh hỏa là Tài Mã, Kỷ thổ là Quan Lộc, lộc đều ở Ngọ; Quý lấy Bính hỏa là Chính Tài, Mậu thổ là Chính Quan, lộc đều ở Tị. Nhân mệnh Lộc Mã Tài Quan, khó được kiêm toàn, huống chi tự tọa ở dưới, cho nên là quý. Hỉ sinh mùa thu kim vượng vĩnh viễn sinh còn mộc thì tử, không thể khắc thổ, cho nên là không hại. Nếu thấy Dần Mão vượng thì tú mà không thực, sinh mùa đông Huyền Vũ đương quyền, quý là Vương Hầu. Như trụ có Tài Quan, lại được sinh 2 ngày này, càng kỳ diệu. Như Kỷ Sửu, Đinh Mão, Nhâm Ngọ, Quý Mão, năm tháng thấu ra Đinh Kỷ, quy lộc dưới ngày, hợp cách này, là đại quý. 《 Lạc Lục Tử 》 nói: Lộc Mã đồng hương, không Tam Thai cũng Bát Tọa. Lại nói: Mỗi khi thấy Quý nhân ăn Lộc, không ngoài Lộc Mã đồng hương là vậy. Giáp Tuất, Ất Sửu, Ất Tị, Bính Thân, Đinh Sửu, Mậu Thìn, Kỷ Hợi, Canh Dần, Tân Mùi, Nhâm Tuất, Quý Mùi, trong số ngày này tự tàng Tài Quan, cũng là Lộc Mã đồng hương, trải qua chỉ lấy 2 ngày Nhâm Ngọ, Quý Tị, lấy chỗ Nhâm Quý tọa Chính Tài Chính Quan, còn lại thì hoặc Thiên hoặc Chính, cho nên không thuần nhất vậy. Loại suy, 2 ngày Giáp Tuất, Ất Sửu, hỉ tháng kim thổ phân phú quý, nhưng kim khí không thể quá nhiều, e rằng thương thân cướp khí, nếu không có Quan quý, tất phát tài phú. 2 ngày Bính Thân, Đinh Sửu, tháng sinh kim mộc là quý, duy chỉ kỵ thổ trọng, nếu hội khởi thổ khắc Quan, chủ phú. Ngày Kỷ Hợi nên sinh tháng tứ quý, hoặc có chỗ dựa tương sinh là cát. Ngày Canh Dần hỉ kiến hỏa, cần sinh mùa đông đến sau lúc Nhất Dương sinh hỏa vượng, chủ quý, nếu được kim cương hỏa cường luyện thành kiếm khí sắc nhọn, sinh thu phùng hỏa càng tốt, như mệnh Đường Thái Tông: Bính Ngọ, Canh Tý, Nhâm Ngọ, Bính Ngọ, ngày Nhâm sinh tháng Tý là thân vượng, xung khởi can năm chữ Bính, 2 Bính đồng khoa, lại xung khử Canh Kiêu thực, Canh đã bị xung khắc, thì Tị Bính tựu bản nhật trên Ngọ, can giờ Bính tựu chi tháng Tý, Nhâm là con của Canh, tựu can giờ Ngọ, biến thành Bính Ngọ, Bính Tý, Canh Ngọ, Nhâm Ngọ, đều là Lộc Mã đồng hương, lại là Thủy Hỏa ký tế, còn có danh là Lục Nhâm di hoán, cho nên là đại quý. Đại phàm mệnh đại quý hợp thủ 2,3 cách cục, trái phải phùng nguyên, không có thể lấy cách nhiều là tạp, như thuyết Uyên Nguyên.
Cổ ca viết:
Lộc Mã đồng hương không khắc đoạt,
Tài Quan đồng xứ rất là vinh,
Tam Thai Bát Tọa chân kỳ quý,
Khắc đoạt nếu cường khuyết lợi danh.
Nhật Quý
Nhật Quý, là Nhật nguyên tự tọa Thiên Ất vậy. Cách này chỉ có 4 ngày: Đinh Dậu, Đinh Hợi, Quý Tị, Quý Mão, là người thuần túy, có nhân đức, có phong cách, không kêu ngạo. Quý khí tụ ở ngày, lại có Tài Thực Ấn tương trợ, quý khí là phúc. Hỉ tam lục hợp, trạch mộ hợp, hành vận Quý nhân Tài vượng, là phát phúc. Đại kỵ hình xung phá hại, Không Vong, vận hành lại gặp kỵ ở trước, Thái tuế gia hội, lại thấy Khôi Cương, định chủ bần yểu. Nếu thành cách khác, không luận. Nhật Quý cần phân ra ngày đêm, sinh ban ngày cần Quý Mão, Đinh Hợi, sinh ban đêm cần Quý Tị, Đinh Dậu, ngày đêm cũng không thoả đáng.
Kinh nói: Danh hiệu Quý nhân là hiền lành vui vẻ, xem trọng đức tính, gặp Tài Quan Ấn Thực là cát, gặp Sát Nhận xung hình là hung, vận gặp Khôi Cương, là hại không nhỏ.
Cổ ca viết:
Thiên can ngày sinh tọa chi quý,
Nếu thấy Khôi Cương phúc không thành,
Năm gặp tháng lộc không phải hỉ,
Nhật quý trọng phùng lại là kỳ.
Lại nói:
Nhật Đức Nhật Quý chủ nhân từ,
Tài Quan Ấn gặp phúc vinh xương,
Hình xung Sát Nhận như thấy đến,
Phản cát thành hung không thể đương.
Lại nói:
Quý lâm Xà Thỏ là anh kỳ,
Đinh hướng Trư Kê một lệ suy,
Thiết kỵ Khôi Cương phân đêm ngày,
Lại phòng hình hại mất tôn ti;
Vận hành gia hội danh phải trọng,
Mệnh mang Không Vong tất họa theo,
Quý trọng tôn nghiêm giữ dầy đức,
Hoặc phùng giới trước hung không sai.
Nhật Đức
Cách này chỉ có 5 ngày: Giáp Dần, Bính Thìn, Mậu Thìn, Canh Thìn, Nhâm Tuất, lấy 5 can dương Giáp Bính Mậu Canh Nhâm, Giáp tọa Dần được lộc, Bính tọa Thìn Quan khố, Canh lấy Thìn Tài Ấn lưỡng toàn, Nhâm tọa Tuất có đủ Tam Kỳ. Dần là thủ Tam Dương, Thìn Tuất là đất Khôi Cương, can chi khác ở vị trí khác, cho nên danh là Nhật Đức vậy. Nếu hợp Nhật Đức, chủ người có tính cách từ thiện, dáng mạo khôi ngô, có tâm kính lão thương người nghèo, không có ý độc hại khắc bác, phùng hung có cứu, gặp khó có giải, không gặp tai hoạ phát sinh, phúc tất phong hậu. Phú nói: Nhật Đức tâm thiện đa ổn hậu, mà làm việc nhần từ là vậy. Vận lâm thân vượng, thật là tuyệt vời, nếu vượng khí đã suy, hành vận gặp Khôi Cương tất chết, hoặc không phát phúc, cách cục đã tốt, đến vận Khôi Cương, tất sinh họa hoạn, một khi thoát khỏi chỗ này, cũng có thể tái phát, cuối cùng lực nhỏ. Cách ngày chỉ có một vị, hỉ Tài Quan, Nhật Đức trùng điệp, không nên kiến Tài Quan, cùng hình xung phá hại, Không Vong, Khôi Cương gia lâm hội hợp, đều là đại kỵ.
Thơ viết:
Nhâm Tuất Canh Thìn Nhật Đức quan,
Giáp Dần Mậu Bính phải cưỡi Long,
Vận phùng thân vượng tâm từ thiện,
Nhật Đức cư nhiều phúc tự phong.
Lại nói:
Nhật Đức không thích thấy Khôi Cương,
Hóa thành sát diệu rất khó đương,
Trong cục trọng kiến phải còn cát,
Đến vận Khôi Cương phúc không xương.
Lại nói:
Nhật Ngọ Đức trọng miễn họa ương,
Quan tinh lại kỵ kiến Tài hương,
Lại không xung phá Không Vong xứ,
Kham lấy trong triều một đống lương.
Lại nói:
Nhật Đức có Sát hỉ thân cường,
Không hỉ Tài tinh Quan vượng hương,
Là tính ôn nhu mà từ thiện,
Cả đời phúc thọ hỉ phi thường.
Như mệnh Trương Chúc Vận Đồng: Giáp Thân, Mậu Thìn, Mậu Thìn, Nhâm Tuất, do học quan mà lưng mang kim y tử, được quan ngũ phẩm, là cách này vậy. Một mệnh: Canh Thìn, Kỷ Mão, Mậu Thìn, Giáp Dần, có 3 vị Nhật Đức, lấy cách này luận, nhưng Giáp Dần kỵ thấy Canh Thìn, vận hành Nhâm Ngọ đất Tài hương, trong Ngọ Dương Nhận giữ quyền, đều phạm Nhật Đức, chỗ kỵ năm Đinh Tị, Dần Tị tương hình, tháng 4 chết, thọ đến 38 tuổi, cả đời nặng tính, cũng không từ thiện, dây dưa ác tật.
Khôi Cương
Cách này có 4 ngày: Canh Thìn, Nhâm Thìn, Mậu Tuất, Canh Tuất. Thìn là Thiên Cương, Tuất là Hà Khôi, là đất âm dương tuyệt diệt, cho nên có danh. Độc trừ can Giáp, thủ lấy ở can, ở Thìn là Thanh long, ở Mậu là Lộc đường, cho nên có cát mà không có hung vậy. Cách này cần điệp hóa trọng phùng vị trí ngày, gia lâm nhiều, lấy phục là quý.
Kinh nói: Khôi Cương tụ chúng, phát phúc phi thường, chủ là vì tính cách thông minh, văn chương chấn phát, lâm sự quả đoán, nắm quyền háo sát.
Phú nói: Khôi Cương tính nghiêm có kế hoạch, mà là người thông mẫn là vậy. Vận hành thân vượng, phát phúc bách đoan, một khi thấy Tài Quan, họa hoạn lập tức đến, hoặc mang hình sát rất nặng, nhưng một chỗ vị trí ngày, hình xung khắc chế lâm đến, tất là tiểu nhân, không khỏi hình trách, nghèo tận xương cốt, vận lâm xứ Tài Quan vượng, chủ phòng họa. Nếu Nguyệt lệnh kiến Tài Quan ấn thụ, nhật chủ một vị, tức là lấy Tài Quan ấn Thực thủ dụng, tuy là có phá bại, Tài Quan Ấn Thực đắc vị, cũng không có hại lớn, phải cân nhắc ở đề cương, lúc thủ dụng, không thể câu nệ tiểu tiết.
Lại viết: 2 ngày Canh Tuất, Canh Thìn, không có Quan tinh, nếu Khôi Cương trùng điệp hữu tình, chủ phú cao hơn danh, nhưng thấy Tài thì không thành cục, tuế vận lại thất đất Tài vượng, họa không thể lường.
+ Ngày Canh Thìn sinh tháng 9, tuy là Thìn Tuất tương xung, vận hành nam phương, trong trụ có hỏa, cũng có thể nói quý.
+ Ngày Canh Tuất sinh tháng 3, dẫu có Quan tinh Ấn thụ ũng không dụng, bởi vì Canh dụng hỏa ở trong Tuất là Quan khố, Mậu thổ là Ấn, Quý thủy Thương quan ở trong Thìn, lại tiết khí Canh, không thành cách vậy.
+ Ngày Mậu Tuất không có Tài không quý, không nên kiến Quan, nếu Khôi Cương trùng điệp hữu tình, phú quý lưỡng toàn.
+ Ngày Nhâm Thìn sợ thấy Tài Quan, đại hỉ Ấn thụ, bỏ Tài và Sát, tuế vận cũng vậy. Lại viết: Thìn là thủy khố thuộc Thiên Cương, Tuất là hỏa khố thuộc Địa Khôi, Thìn Tuất thấy nhaun, là thiên xung địa kích.
《 Tử Bình tổng luận 》 nói: Thân gặp Thiên Cương Địa Khôi, suy thì bần hàn thấu xương, cường thì quý hiển tuyệt luân.
Thơ viết:
Nhâm Thìn Canh Tuất và Canh Thìn,
Mậu Tuất khôi cương tứ tọa Thìn,
Không thấy Tài Quan cùng hình sát,
Thân hành vượng địa quý phu luân.
Lại nói:
Khôi Cương 4 ngày tối đứng đầu,
Điệp điệp tương phùng nắm đại quyền,
Canh Tuất Canh Thìn sợ Quan hiển,
Mậu Tuất Nhâm Thìn sợ liền Tài.
Lại nói:
Khôi Cương tứ trụ cùng nhiều ngày,
Quý khí triều đến ở trong đó,
Nhật chủ độc phùng xung khắc trọng,
Tài Quan hiển lộ họa vô cùng.
Theo cách này, đều dụng Thìn Tuất, chỉ có thiên can là ít khác, bên trong 2 ngày Canh Thìn Canh Tuất, đã viết là Nhật Đức, lại viết Khôi Cương, luận cách cục, khác hẳn không giống, bất tất phải luận. Như mệnh Trương Thời ký sự: Canh Ngọ, Đinh Hợi, Mậu Tuất, Bính Thìn; Lưu Đại thụ Thiếu Khanh: Đinh Hợi, Quý Sửu, Canh Tuất, Mậu Dần, cả hai mệnh là ngày Khôi Cương, chỉ thủ Tài Quan ấn là vậy.
Phúc Đức tú khí
Cách này chuyên lấy Tị Dậu Sửu kim cục mà xem chỗ được thiên can, như 3 ngày Ất Tị, Ất Dậu, Ất Sửu, là Ất dụng kim là Sát, hỉ Ấn thụ, hỉ chế phục, không nên sinh tháng 6 gặp Mùi, lấy trên mộ mang vượng. Kim có thể khắc mộc, không nên sinh tháng 8 lại lộ ra Sát, vận hành đất Ấn thụ Quan vượng, liền có thể phát phúc. 3 ngày Đinh Tị, Đinh Dậu, Đinh Sửu, là Đinh dụng Nhâm là Quan, hỉ kim vượng sinh thủy, cũng không hỉ sinh tháng 8, lấy tháng 8 hỏa tử, công danh thặng đặng, lại không thích sinh tháng 11, vì tháng 11 Quý thủy là Sát là thọ không dài, trong trụ hỉ thấy Tài Quan, vị trí vượng là quý, vận hành Quan vượng, liền có thể phát phúc. 3 ngày Kỷ Tị, Kỷ Dậu, Kỷ Sửu, là Kỷ dụng Giáp mộc là Quan, Tị Dậu Sửu kim cục đều là hại Quan, cũng là danh Cướp khí, sao mà cát chứ? Ai cũng biết kim có thể sinh thủy Tài, hỉ hành Tài vận liền phát, trong trụ không nên thấy Bính Đinh Dần Ngọ Tuất, vì tổn thương kim cục cùng hình xung phá hại, lại không hỉ sinh tháng 4 hỏa vượng, tú khí mỏng, lập thân lúc già, nhiều thành bại cô khắc. 3 ngày Quý Tị, Quý Dậu, Quý Sửu, là dụng Kim Thần là Ấn, thấy Tị Dậu Sửu kim cục có thể sinh Quý thủy, hỉ thu đông, cũng không thích sinh tháng 4, vì thủy tuyệt ở Tị, mặc dù kim sinh ở Tị, lấy kim sinh thủy cũng không thể tuyệt, được vận Quan Ấn liền có thể phát phúc, chỉ sợ hỏa Tài tổn thương kim. 3 ngày Tân Tị, Tân Dậu, Tân Sửu, trụ toàn kim cục là vi diệu, nếu thấy Ngọ Tuất hỏa vượng có phá, lại sinh tai ương, nếu thông Bính hỏa vượng là Chính khí Quan tinh, hoặc gặp Dần Mùi là Thiên Ất quý nhân, đều cát. Tuế vận giống vậy.
Cổ ca viết:
Âm mộc gia lâm Dậu Tị Sửu,
Sinh ở tháng 6 ám oán than,
Lại Quan đắc lộc khó trường cửu,
Dẫu có văn chương không đủ khoe.
Lại nói:
Ất Tị Ất Dậu cùng Ất Sửu,
Người sinh tháng 8 là đoản thọ,
Tứ trụ nếu thấy hỏa Thương quan,
Giáng quan mất chức chắc chắn có.
Lại nói:
Âm hỏa tương lâm Tị Dậu Sửu,
Sinh cư tháng 9 thọ khó dài,
Lại thêm danh lợi nhiều thành bại,
Phá bại hoang dâm không thể đương.
Lại nói:
Đinh Tị Đinh Dậu cùng Đinh Sửu,
Người sinh tháng 8 thọ không lâu,
Tiền trình danh lợi phân hai khu,
Lại kỵ ẩm tửu cùng giao hữu.
Lại nói:
Âm thổ phùng Xà Kê và Ngưu,
Danh là Phúc Đức hiệu Tỳ Hưu,
Tú khí hỏa đến xâm khắc phá,
Phải dạy danh lợi nhất thời ngưng.
Lại nói:
Kỷ Tị Kỷ Dậu cùng Kỷ Sửu,
Phúc Đức tú khí tạo hóa có,
Rất sợ tứ trụ hỏa tương xâm,
Dẫu có công danh không lâu dài.
Lại nói:
Âm kim hợp cục chủ tiền trình,
Tạo hóa thanh kỳ đại hữu tình,
Tứ trụ hỏa đến xâm khắc phá,
Phải biết danh lợi đều không thành.
Lại nói:
Tây phương kim khí tọa âm nhu,
Không sợ hưu thời không sợ tù,
Quỷ sát sinh thời mới phát phúc,
Công danh theo bước đến Doanh châu.
Lại nói:
Quý Tị Quý Dậu tháng đón Tị,
Trăm chuyện trì trệ làm việc không,
Danh lợi sinh thành khó hi vọng,
Mới biết người ở trong ngũ hành.
Lại nói:
Quý Tị Quý Dậu cùng Quý Sửu,
Người sinh tháng 4 không thọ dài,
Công danh thành bại ở vãn niên,
Tối kỵ tham hoa cùng ẩm tửu.
Lộc Nguyên hỗ hoán
Cách này chỉ có 4 ngày: Mậu Thân, Đinh Dậu, Bính Tý, Canh Tý. Ngày Mậu Thân thấy giờ Ất Mão, Mậu thủ Ất mộc ở trong Mão là Quan, Ất thủ Canh kim trong Thân là Quan, hỗ hoán thành kỳ Quý lộc, trong trụ hỉ Nhâm Quý là Tài, sinh trợ Ất mộc Quan tinh, vận lâm đất Quan vượng, liền thành quý mệnh, kỵ thấy Giáp Sát, Tân Thương, Dần Dậu xung. Đinh Dậu thấy Nhâm Dần, Bính Tý thấy Quý Tị, Canh Tý thấy Đinh Hợi, hỉ kỵ suy giống như trước. Như mệnh: Quý Hợi, Nhâm Tuất, Bính Tý, Quý Tị, hỗ hoán lộc vượng, đều lâm Quan quý, không có hình xung phá hại, cho nên quý. Lại như: Kỷ Mùi, Tân Mùi, Bính Tý, Quý Tị, là hợp cách, đại quý. Cổ pháp luận Lộc Nguyên hỗ hoán, như Mậu Ngọ kiến Đinh Tị, là thủ lâm quan Lộc.
Tý Ngọ song bao
Tý là Đế Tọa, Ngọ là Đoan Môn, chỗ vị trí của đế vương ở, nhân mệnh hoặc có 2 Tý 2 Ngọ, hoặc có 2 Ngọ bao 1 Tý, hoặc có 2 Tý bao 1 Ngọ, có đạo Thủy Hỏa ký tế, dương sinh âm sinh chi ky, gặp là chủ quý. Như Nhâm Ngọ, Nhâm Tý, Mậu Ngọ, Nhâm Tý, có 2 Ngọ 2 Tý; Nhâm Tý, Quý Sửu, Mậu Ngọ, Nhâm Tý; Giáp Tý, Canh Ngọ, Bính Thân, Mậu Tý; Mậu Tý, Mậu Ngọ, Đinh Mùi, Canh Tý, đều là 2 Tý bao Ngọ; Mậu Ngọ, Giáp Tý, Giáp Thân, Canh Ngọ; Giáp Ngọ, Nhâm Thân, Giáp Tý, Canh Ngọ, đều là 2 Ngọ bao 1 Tý. Đều là quý mệnh.
Thanh Long phục hình
Giáp Ất mộc thộc Đông phương, gọi là Thanh Long phục hình, là nói phục ở kim vậy. Như sinh ra 5 ngày là Giáp Thân, Giáp Tuất, Ất Tị, Ất Dậu, Ất Sửu, tọa dưới Tài Quan, đều cần dựa vào Nguyệt lệnh, Quan tinh đắc địa, không thấy thần Thương quan, kim mộc ngang nhau là hợp tượng. Có lấy ngày giờ Ất Tị, danh là Thanh Long phục tàng, chủ có mất ẩm tửu, ám tổn phúc thọ, không ẩm tửu thì được.
Thơ viết:
Giáp Ất như cư đất Thân Dậu,
Mộc phùng xuân vượng tối vi lương,
Tứ trụ nếu phùng khố tương trợ,
Tài Quan song mỹ không tầm thường.
Bạch Hổ trì thế
Canh Tân kim thuộc Tây phương, gọi là Bạch Hổ trì thế, là đắc thế vậy. Như các ngày Canh Ngọ, Canh Dần, Canh Tuất, Tân Tị, Tân Mão, Tân Mùi, 6 ngày này, tọa dưới Tài Quan Ấn quý, nhật chủ cần có đón nhận sinh khí, hoặc Quan vượng đắc thời có trợ, không thấy Tài Quan, dụng Quan tất quý, dụng Tài tất phú, tuế vận cũng vậy. Có lấy ngày giờ Tân Mão phạm Bạch Hổ, bất lợi chiến đấu dũng mãnh, khiến người phần đa có bệnh mắt, trọng phạm càng kỵ.
Thơ viết:
Bạch Hổ trì thế Dần Mão cường,
Như lâm Tị Ngọ Mùi Tuất hương,
Tứ nhiều cũng gặp là phú quý,
Tất hướng hoàng đô làm cột trụ.
Chu Tước thừa phong
Bính Đinh hỏa thuộc Nam phương, gọi là Chu Tước thừa phong, cũng giống như nghĩa trì thế vậy. Bính Đinh hỉ cư đất kim thủy, thân vượng có chỗ dựa là phú quý. Như Bính Tý, Đinh Hợi, là Thủy Hỏa ký tế, lại hợp Thai nguyên thụ quý khí, Quan vượng Tài vượng là thượng đẳng. Bính Đinh có Thân Tý Thìn hội thủy cục, cũng là Ký tế. Phú nói: Hỏa vượng gặp thủy, lấy thành công ký tế, thủy hỏa cần phải ngang nhau, không dẫn đến thiên khô mới đúng. Như Bính Thân, Bính Thìn, Đinh Dậu, Đinh Sửu, thân có được chỗ dựac, sinh khí tương phù, Tài Quan vượng tướng, đều cát. Có lấy ngày giờ Đinh Mùi danh là Chu Tước gãy chân, đại bất lợi cho lục súc, vong tán tử thương, hoặc mắc bệnh lở loét, có Giáp Ất thì có tử tôn.
Thơ viết:
Chu Tước thừa phong là Bính Đinh,
Như phùng kim thủy liền tranh vanh,
Thân Tý Thìn hương nhiều quý đạt,
Giờ phùng đa điện ngọc giai hành.
Huyền Vũ đương quyền
Nhâm Quý thủy thuộc Bắc phương, gọi là Huyền Vũ đương quyền, nghĩa giống như trì thế. Như Nhâm Dần, Nhâm Ngọ, Nhâm Tuất, Nhâm Thìn, Quý Tị, Quý Sửu, Quý Mùi, đều tọa dưới Tài Quan Ấn, nếu thân vượng có chỗ dựa, Quan tinh thông sinh khí nguyệt lệnh, là quý, đại kỵ thủy cục Thương quan, trọng cùng hung ác, chết bất tử, như gặp thổ cục hỏa trọng, cần thấy khí kim tiết, sinh trợ bản thân, là cát, xung phá thân nhược thì hung, tuế vận cũng vậy. Có lấy ngày giờ Nhâm Thìn danh là Huyền Vũ thụ xuyên, chủ chức quan bị gièm pha, có mất tiểu nhân, thị phi không yên.
Thơ viết:
Huyền Vũ sinh thu vượng bắc phương,
Như lâm Tị Ngọ thổ thần hương,
Nếu thấy Cấn Dần tài phúc hậu,
Cả đời danh lợi lưỡng cát xương.
Lại nói:
Huyền Vũ đương quyền phải đắc chân,
Nhật can Nhâm Quý tọa Tài tinh,
Quan tinh nếu cũng cư môn hộ,
Không phá nên làm người đại dụng.
Câu Trần đắc vị
Mậu Kỷ thổ thuộc Trung Ương, gọi là Câu Trần đắc vị, nghĩa tức là đương quyền. Như Mậu Dần, Mậu Thìn, Mậu Tý, Mậu Thân, Ất Mão, Kỷ Hợi, Kỷ Mùi, đều tọa dưới Tài Quan Ấn, nếu thân vượng, quan đắc thời là quý, Tài đắc thời là phú, không thấy Thương Quan Kiếp Tài là tốt, kỵ xung hình, Sát vượng sinh tai hoạ, tuế vận cũng vậy.
Thơ viết:
Mậu Kỷ Câu Trần ở vượng hương,
Trong cung Dần Mão nói tối cường,
Nếu là còn lâm Thìn Mão Mùi,
Hợi Tý tương phùng đại cát xương.
Lại nói:
Nhật can Mậu Kỷ tọa Tài Quan,
Viết danh Câu Trần là đắc vị,
Biết có tài lớn chia thuận lợi,
Trong mệnh gặp đây liệt triều ban.
Mượn khí hoàn Hồn
Ngũ hành tự tử tuyệt mà có cứu mà vẫn còn lưu lại. Như mộc tuyệt ở Thân, mà gặp Giáp Thân; kim tuyệt ở Dần, mà gặp Mậu Dần là tối cát, thứ là có phúc thần, không có thì hạ đẳng.
Bát chuyên Lộc Vượng
Trước có nói ngày Bát Chuyên, lại có thêm Bính Ngọ, Đinh Tị, Mậu Thìn, Mậu Ngọ, Kỷ Tị, Ất Sửu, Nhâm Tý, mà không có Đinh Mùi, Lục thập Giáp Tý, độc nhất chỗ này là can chi đồng loại, trong đó 4 ngày Giáp Dần, Ất Mão, Canh Thân, Tân Dậu tự chuyên lộc vượng là chính, Giáp Ất phải có tháng Hợi Mão Mùi Dần thành mộc cục, Canh Thân cần tháng Tị Dậu Sửu Thân thành kim cục, là thuần tú khí mà không tạp, là người thông minh có thọ, cả đời ít bệnh, đa số thích tửu sắc, trụ có Quan Sát, nhưng thân cường không sợ, nếu hỗn tạp thì lộc không có chuyên, cuối cùng là có họa, bát tự mang Tài Ấn Thực là phúc, vận hành đất chuyên lộc vượng, đất Tài Ấn Thực vượng, đều phát phú quý, sợ Tỉ kiên, Kiếp tài, trụ không có Tài Thực Quan Ấn, đa phần là cô đơn, hoặc làm tăng đạo.
Kinh nói: "Can cùng chi giống nhau, tổn Tài thương Thê."
Lại nói: "Thân vượng vô ỷ, định là tăng đạo" đúng vậy.
Nếu chỉ có một vị lộc, vận hành đất thân vượng Tài Thực Ấn vượng, cũng chủ phát quý. Nếu trùng điệp 3,4 vị lộc mà không có Tài Quan, lại thủ xung khởi đối cung tài phúc là dụng, hoặc tháng giờ mang Quan có khí, lấy thân vượng phùng Quan, càng là quý cách. Kỵ xung hình tán khí vượng của ta, dù quý cũng sinh nhiều bệnh.
Như Chu Văn Công: Canh Tuất, Bính Tuất, Giáp Dần, Canh Ngọ, ngày chuyên lộc được hỏa cục là Thực, 2 Canh là Sát, cư khố hỏa vượng, mộc tú đắc địa, hóa Sát thành quyền, nên thành nhà đại nho. Đổng Thừa tướng: Kỷ Tị, Tân Mùi, Ất Mão, Đinh Hợi, là ngày chuyên lộc mà được mộc cục, nhật can hoàn toàn tụ sinh vượng tú khí, vận hành đông phương cục thân vượng, hoàn toàn xung khởi đối cung lộc là quyền, cho nên đại quý.
Khúc Trực
Ngày Giáp Ất được Hợi Mão Mùi mộc cục, trong trụ cần có chữ Hợi mang Ấn là nhập cách, nếu không có Hợi mà có Mão, chỉ là bản khí của mộc, lại cần thấy kim thổ là quý, đã không có chữ Hợi, lại không có kim thổ, thì mộc không tú không thực, khó mà nói quý. Như ngày Giáp Dần có Hợi, giờ gặp Đinh Mão Kiếp tài, Dương Nhận, Thương quan, tuy quý nhưng không hoàn toàn hợp cách.
Thơ viết:
Ngày Giáp Ất sinh Hợi Mão Mùi,
Cục toàn Khúc Trực nên vinh quý,
Trong trụ không có Hợi cần thổ kim,
Sinh ra tất nhiên hưởng phúc địa.
Lại viết:
Người sinh Giáp Ất Dần Mão Thìn,
Có danh Nhân Thọ có lưỡng bình,
Hợi Mão Mùi đủ sợ Bạch Đế,
Nếu phùng Khảm vị tất thân vinh.
Viêm Thượng
Ngày Bính Đinh gặp cục Dần Ngọ Tuất, trong trụ nếu có chữ Dần mang Ấn là nhập cách, không có Dần chỉ là mệnh Cửu Lưu cận quý, nếu hỏa tự vượng, không có Hợi thủy cứu giúp, không quý. Hỉ vận đông bắc phương, kỵ thấy Thìn Sửu Mậu Kỷ, làm mờ ánh sáng hỏa, phần đa chủ tật mắt, hoặc mắc bệnh phong khí, trụ có mộc chế thành quý, kỵ đất thủy kim, sợ xung.
Thơ viết:
Ngày Bính Đinh tọa Dần Ngọ Tuất,
Hỏa Viêm Thượng cách xuất từ đây,
Không Dần không Hợi không thành danh,
Kỵ phùng thổ hối chủ tàn tật.
Tòng Cách
Ngày Tân thấy cục Tị Dậu Sửu, cần mang 1,2 vị Bính Đinh Tị Ngọ mới thành khí, nhưng hoả không thể nhiều. Như 3 ngày Tân Tị, Tân Dậu, Tân Sửu không thích sinh tháng 5, bị chỗ hỏa làm tổn thương, thích hợp tháng 8 hoặc thủy thổ nuôi dưỡng Thực thần Ấn thụ là cát.
Thơ viết:
Bạch Hổ nếu phùng Tị Dậu Sửu,
Cách là Tòng Cách danh Thiên Hậu,
Bính Đinh Tị Ngọ có gặp ít,
Quý khí luyện thành đứng đầu quan.
Lại nói:
Kim cư Tòng Cách nhận quý nhân,
Tạo hóa thanh cao phúc tối thâm,
Tứ trụ hỏa đến cùng hỗn tạp,
Luận trải qua Nghệ thuật Không môn (Tu đạo, học thuật).
Nhuận Hạ
Ngày Nhâm Quý thấy đủ Thân Tý Thìn, kỵ dẫn đến đất Mão Tị tử tuyệt, đất tam hình tứ xung, tử tuyệt thì không chảy, xung hình thì chảy tràn lan, tuế vận cũng vậy. Hoặc viết Thủy quá phiếm lạm trụ cần có thổ thần 1,2 vị để chế, để đắp thành đê ngạn, đã có thổ vẫn sợ hội mộc là hung, như có mộc hại thổ cần có kim Ấn cứu giải, cuối cùng là thành bại cả đời. Vận hỉ tây phương, không hỉ đông nam.
Thơ viết:
Ngày Nhâm Quý phùng Thân Tý Thìn,
Tên cục Nhuận Hạ rất là chân,
Tất cần Tị Ngọ cùng Thìn Tuất,
Chữ Thân nắm quyền quý tuyệt luân.
Lại nói:
Thiên can Nhâm Quý hỉ sinh đông,
Lại gặp Thân Thìn hội cục thành,
Hoặc là quy đụ Hợi Tý Sửu,
Thanh nhàn bước thẳng lên mây xanh.
Giá Sắc
Phú nói: Mậu Kỷ mừng gặp tứ quý, chính là danh Giá Sắc. Là Mậu Kỷ sinh phùng tháng tứ quý, hỉ thấy mộc là Quan, chỉ được một mộc là vi diệu, mộc nhiều thì thổ hư, chủ hư trá là người phá gia bất nhân. Đất Thìn Mùi thổ tụ, kiến Tị Ngọ hỏa là quý, cũng không nên có nhiều, nhiều thì thổ táo, không thể giúp sinh vạn vật. Sửu Tuất thổ, bên trong thích kim khí, không nên thấy, sợ tồn Sát khí, không sinh vạn vật, lại không nên thấy kim tiết khí, không quý. Thu thổ không thành khí là thổ tử, vì trong thổ chứa kim, đông thổ không thành khí vì thổ nê, vì trong thổ chứa thủy, cho nên thổ chỉ có thích tứ quý vậy.
Thơ viết:
Ngày sinh Mậu Kỷ cần tứ quý,
Đa phòng Sửu Tuất phá khí kim,
Sinh ra thấy mộc hoặc phùng hoả,
Trong đó tiêu tức chân quý vinh.
Lại nói:
Mậu Kỷ sinh phùng trong bốn tháng,
Thìn Tuất Sửu Mùi phải có đủ,
Hỉ hành Tài địa sợ Quan Sát,
Đến vận đông phương định có hung.
Thổ cục Nhuận Hạ
Phú nói: Mậu Kỷ cư ở ngũ Nhuận, là cánh bèo tha hương. Tượng này chính là 3 ngày Mậu Thân, Mậu Tý, Mậu Thìn, sinh ở đất Thân Tý Thìn Nhâm Quý thủy vượng, không những bần tiện bôn ba, hợp chủ bệnh tật tứ chi, đôi mắt, hoặc bệnh lở loét máu mủ mà chết. Ứng vận Thìn Tuất Sửu Mùi, còn lại là thổ hư, phùng thủy cục, đều là mệnh phiêu lưu, nếu thổ vượng, ở thủy cục là phú quý, hành hỏa hương phát đạt. Như Mậu Thìn, Giáp Tý, Mậu Thân, Ất Mão, là Thổ hư phùng Nhuận Hạ, cho nên chủ bệnh mắt. Tân Mùi, Canh Tý, Mậu Thìn, Nhâm Tý, thổ theo bầy thủy, được thổ đê phòng, hành vận Bính Thân, Đinh Dậu sinh tài đại phát, giao vận Ất Mùi năm Mậu Ngọ phá tài, được phục chức Bình Chương, không thể ví dụ Mậu Kỷ cư Nhuận Hạ là hung.
Kim bạch Thủy thanh
Phú nói: Kim bạch Thủy thanh, chỗ này là thế hệ đăng khoa đệ. Tượng này chính là ngày Canh Thân, Tân Dậu sinh ở mùa thu, dẫn đến thời thượng gặp đất Hợi Tý thủy, lấy kim thì bạch, lấy thủy thì thanh, không có hình xung phá hại, chủ giàu có. Thiết kỵ sinh mùa hạ, thì không nhập cách, xuân kim tháng 2,3, vận hành tây bắc cũng được. Như các ngày Canh Thìn, Canh Tý, Quý Tị, Quý Dậu, Quý Sửu, sinh mùa thu đông, không có hỏa thương, không có thổ chế, thấy kim thủy tương đình là thành cục.
Thơ viết:
Kim thanh thủy bạch chủ vinh quý,
Văn chương tú lệ định xuất quần,
Lại không hỏa thổ đến hình chế,
Danh dự hiên đằng Hàn Uyển nhân.
Mộc Hỏa giao huy
Phú nói: Hỏa minh mộc tú, sinh mùa xuân là lấy vinh. Tượng này là các ngày Giáp Tuất, Giáp Ngọ, Giáp Dần, Bính Ngọ, Bính Dần, Bính Tuất, sinh mùa xuân hoặc mùa hạ, trụ không có kim thủy thương phá, trụ giờ có mộc hỏa. Hành vận mộc hỏa, mộc gặp hỏa tú, hành vận nam phương, hỏa gặp mộc tú, hành vận đông phương, chủ thanh quý phúc hậu, hỏa gặp hỏa tú, hành đông cũng quý. Như ngày Bính Thìn sinh tháng hỏa vượng, hành vận mộc hỏa cũng được, nhưng phú mà không quý, mộc tú không có hỏa, thì không thành cục, là vì lấy mộc hỏa có tượng thông minh vậy.
Như:
Đinh Tị, Giáp Thìn, Giáp Dần, Đinh Mão;
Giáp Ngọ, Bính Dần, Đinh Mão, Bính Ngọ;
Đinh Tị, Giáp Thìn, Ất Tị, Đinh Hợi.
Ba mệnh này đều là Mộc Hỏa quang huy, tạo thanh quý.
Hỏa Kim đúc Ấn
Phú nói: Kim không có hỏa không thể thành khí, hỏa không có kim thì dụng nhiều không hiển, kim hỏa tương đình, có tượng đúc Ấn, kỵ chữ Sửu là tổn khuông đúc. Phú nói: Ngồi cao áo gấm, vì kim hỏa nhiều. Lại nói: Kim quỷ không thiên, là chỗ này vậy.
Hỏa Thổ giáp tạp
Hỏa thấy thổ thì mờ, thổ đủ thì hỏa mờ, cho nên hỏa là hỏa, thổ là thổ, cả hai không nên yểm nhau là vi diệu, nếu hỏa thổ giáp tạp, chủ ngu trọc. Kinh nói: "Hỏa hư thổ tụ thành dụng gì, định là trần ai người lao lục" là vậy. Như: Mậu Thân, Kỷ Mùi, Bính Ngọ, Ất Mùi; Canh Tuất, Ất Sửu, Bính Thìn, Mậu Tuất; Mậu Tuất, Đinh Tị, Kỷ Mùi, Bính Dần. Ba mệnh này đều là Hỏa Thổ giáp tạp, bình thường.
Mộ Sát
Cổ ca viết:
Trong Mộ gặp Quỷ cần phải biết,
Kẹp Sát cầm Khâu cốt nhục ly,
Phạm hung tinh này không cứu trợ,
Sinh ra phúc thọ thiếu niên kém.
Như: Ngày Giáp thấy Canh Tuất, Canh Thìn; ngày Ất thấy Tân Sửu, Tân Mùi; ngày Bính thấy Nhâm Thìn, Nhâm Tuất; ngày Đinh thấy Quý Sửu, Quý Mùi; ngày Mậu thấy Giáp Thìn, Giáp Tuất; ngày Kỷ thấy Ất Sửu, Ất Mùi; ngày Canh thấy Bính Thìn, Bính Tuất; ngày Tân thấy Đinh Sửu, Đinh Mùi; ngày Nhâm thấy Mậu Thìn, Mậu Tuất; ngày Quý thấy Kỷ Sửu, Kỷ Mùi. Chỗ này gọi là Thất Sát nhập Mộ.
《 Lạc Lục Tử 》 nói: Kẹp Sát cầm Khâu, thân nhân khóc tiễn. Như Kỷ Tị, Mậu Thìn, Quý Sửu, Bính Thìn. Ngày Quý thấy Mậu là Quan, Kỷ là Sát, Mậu Kỷ cùng ở trên Thìn, lại là khố Quý thủy đa số là sớm phát sớm yểu.Hoặc viết: Sát không phải chỉ có Thất Sát, là Dương Nhận, Vong, Kiếp, cùng ngày giờ hoặc là tháng ngày có kẹp tàng trong mộ, đều hung.
Tứ vị thuần toàn
Dần Thân Tị Hợi có ngũ hành sinh khí Dịch Mã Học Đường, gọi là Tứ Sinh; Tý Ngọ Mão Dậu có ngũ hành vượng khí, Ất Tân Đinh Quý lâm, gọi là Tứ Chính; Thìn Tuất Sửu Mùi, ngũ hành tạp khí, Hoa Cái, Chính Ấn lâm, gọi là Tứ Mộ.
Kinh nói: Tài Quan Ấn thụ, trấn ở Dần Thân Tị Hợi. 《 Chân Bảo phú 》 nói: Tý Ngọ Mão Dậu, là tượng Bát Chuyên, văn là nhất phẩm bang Để Trụ, võ là phân mao treo Ấn thành công. Lại nói: Dần Thân Tị Hợi, địa vị hàng Tam Công. 《 Nguyên Lý phú 》 nói: Tý Ngọ Mão Dậu đầy đủ, hôn mê tửu sắc. 《 Thiên Lý Mã 》 nói: Tứ khố toàn bị, Long biến hóa thành đại hải, là đấng chí tôn cửu ngũ. 《 Bảo Giám phú 》 nói: Thìn Tuất Sửu Mùi thuận hành, quân mệnh đế vương là không sai. 《 Lý Ngu ca 》 nói: Tứ khố toàn thời là tứ quý, vị ban cư thượng liệt quyền hành. 《 Độc Bộ 》 nói: Dần Thân Tị Hợi cục Tứ Sinh, vật dụng thân cường, gặp là phát phúc. Tý Ngọ Mão Dậu cục Tứ Bại, nam phạm hưng suy, nữ phạm cô độc, hợp cách này, đa số chủ đại phú quý, thì khó tránh hình hại lục thân, nối liền tiến thoái, cho nên đều lấy tương xung không có hợp vậy. 《 Tinh Kỷ 》 nói: Tý Ngọ Mão Dậu, nhập cách là đầy đủ tứ cực, mất cục là Biến Dã Đào Hoa, nam nữ phạm, tuy là quý có tài, nhưng khó tránh hoang dâm tửu sắc, là người bạc đức.
Thơ viết:
Dần Thân Tị Hợi liền bốn chữ,
Thìn Tuất Sửu Mùi cũng như vậy,
Không ở đại thế nắm khôi quyền,
Trong triều tất định là Thị vệ.
Lại nói:
Nhật Đức Nhật Quý cùng Khôi Cương,
Tứ trụ thuần toàn đại cát xương,
Lục cách trong cục vẫn nhập cách,
Tạo hóa như vậy sao tầm thường.
Chỗ này lấy tứ vị Nhật Đức, tứ vị Khôi Cương, tứ vị Nhật Quý, không có phân biệt can chi, cùng Tứ Vị thuần toàn cách đồng luận.
Nhất khí sinh thành
Thiên Nguyên nhất khí, chính là 4 Nhâm Dần, 4 Tân Mão, 4 Canh Thìn, 4 Kỷ Tị, 4 Mậu Ngọ, 4 Đinh Mùi, 4 Bính Thân, 4 Ất Dậu, 4 Giáp Tuất, 4 Quý Hợi vậy. Tứ trụ có can chi nhất khí, trong đó cũng có khinh trọng quý tiện, cần suy xét kĩ. Nhâm Dần, Tân Mão, Giáp Tuất phú quý song toàn; Kỷ Tị cũng quý; Mậu Ngọ, Đinh Mùi Nhận vượng tính cường, tuy quý cũng nhiều hung hiểm, khắc thê, cuối cùng không thiện; Canh Thìn quý mà phong lưu, danh trọng lợi khinh; Ất Dậu đa số thương tàn; Quý Hợi nhiều bần bạc; Bính Thân sinh bắc phương cũng có thể thủ quý, tuế vận như gặp hình xung phá đoạt, tất sinh tai họa. Đại để suy tính bên trong có hay không có Tài Quan Ấn Thực, nhập cách có hay không có thương tổn, thiên can có hay không có đắc lệnh, can chi trên dưới Tài Quan Ấn Thực có hóa hay không có hóa, có tòng hay không thể tòng, định kỳ khinh trọng quý tiện.
Lại viết: 4 can thuần nhất không tạp, gọi là Thiên Nguyên nhất khí, không thể lấy Tỉ kiên luận, cần xem kĩ địa chi có hay không có sinh hóa, có hay không có hình khắc, mang Tài Quan Ấn hợp cách, tuế vận không nghịch, tất lấy đại quý, xung hình khắc chế cũng hung, không thể chấp định nhất khí đều lấy quý nói. Như Giáp Tý, Giáp Tuất, Giáp Dần, Giáp Tý, còn có danh là Phượng Hoàng can cách. Quả Chính Lang: Nhâm Thìn, Nhâm Tý, Nhâm Dần, Nhâm Dần, Nhâm tự tuyệt ở Dần, gọi là bác tạp, cho nên chỉ là Chính Lang.
Lại viết: Tứ chi thuần nhất không tạp, địa vật cùng là một, danh là Chi Lan cùng Tú cách, cần xem nguyên can là tụ phúc hay tụ họa, nếu như hợp cách tụ phúc, đa số là quý cư lưỡng phủ. Như Giáp Dần, Bính Dần,Canh Dần, Mậu Dần, còn có danh là Phượng Hoàng cách.
Thơ viết:
Thiên Nguyên nhất khí định tôn vinh,
Thiên can không tạp một chữ thanh,
Không so Tỉ kiên tranh cạnh luận,
Sinh ra phú quý hàng Công Khanh.
Lại nói:
Thiên Nguyên một chữ mới là nguyên,
Sinh ở thu đông hay chớ nói,
Đại cát thổ thần phùng một vị,
Thiếu niên quan lộ tất cao thiên.
Lại nói:
Thiên Nguyên một chữ thổ là cơ,
Sinh thời tứ quý càng là kỳ,
Thân Dậu hai chi thên nhập cục,
Thông minh tuấn tú mà dị thường.
Lại nói:
Thiên nguyên một chữ mộc là căn,
Phát truyền đăng minh hiển phúc nguyên,
Tứ trụ Quan tinh như đắc địa,
Công danh lợi lộc được giành trước.
Lại nói:
Thiên Nguyên một chữ nếu phùng kim,
Ngày giờ Khôi Cương dày phúc khí,
Dương Nhận phùng xung cùng mang quý,
Cả đời được gặp kính quý nhân.
Lại nói:
Thiên Nguyên một chữ hỏa dung dung,
Đại cát Công Tào ngày giờ gặp,
Xung khởi Tài Quan làm phát dụng,
Cả đời phú quý phúc hưng long.
Thiết nghĩ hai cách, Thiên Nguyên đồng nhiều quý, địa chi đồng thì phải phân ra ở trong có hay không có quý, khinh tinh trọng trọc vậy.
Lại nói:
Tứ trọng dương Nhâm thủy 4 chữ Dần,
Ly Khảm giao tranh vượng khí sinh,
Vận đến đất thêm quý hiển,
Qua lại nên kỵ đối xung đề.
Lại nói:
Nhân mệnh như phùng tứ Mão đủ,
Can đầu chữ Tân lại nối liền,
Thân khinh phúc thiển như gian sự,
Chỉ lo lúc sinh thọ không kiên.
Lại nói:
Bính Thân 4 vị trong mệnh đủ,
Thân Sát tương đình hiển phúc nguyên,
Không sánh tầm thường danh lợi khách,
Quản giáo thế lực trấn khôi quyền.
Lại nói:
Thiên can tứ Giáp đều phùng Tuất,
Phân đoạt Tài Quan chỗ vô ích,
Như còn hành vận đến Nam phương,
Hợp Thương quan này chút tiểu cát.
Lại nói:
Thiên can tứ quý lập cung Càn,
Mộc thủy tương sinh lấy Đảo xung,
Danh lợi doanh doanh cần có vượng,
Vận hành Nam phương số vẫn hung.
Bối Lộc Trục Mã
Bối Lộc, Giáp lấy Tân là Quan là Lộc, Giáp sinh xuân hạ, kim tuyệt thì không có quan vậy, cho nên gọi là Bối Lộc. Trục Mã, Giáp lấy Kỷ thổ là Tài là Mã, bị Ất cùng Hợi Mão Mùi cướp đoạt, Giáp không có Tài vậy, cho nên gọi là Trục Mã. Còn lại theo ví dụ này mà suy. Như Nhâm Tý, Nhâm Tý, Đinh Mùi, Ất Tị. Đinh lấy Nhâm là Quan Lộc, Nhâm, tháng Hợi là Kiến Lộc, Đinh sinh tháng Tý, Quý vượng là Sát, đã vượt qua Nhâm Lộc gọi là Bối, Hướng là có Lộc, Bối là không có lộc; Đinh lấy Canh là Tài là Mã, tháng Tý Canh tử, chỗ này gọi là Bối Lộc Trục Mã, gặp Sát vận, hành Kiếp địa, cũng không phát phúc, là do không có căn nguyên vậy. 《 Lạc Lục Tử 》nói: "Bối Lộc Trục Mã, thủ đường cùng mà hoảng sợ", cùng chỗ này là khác nhau, có thể thấy trong bài phú.
Ví dụ Thập can 12 năm sinh đại quý nhân
+ Năm Lục Giáp, tháng Đinh Mão, ngày Ất Mùi, giờ Mậu Dần;
+ Năm Lục Ất, tháng Kỷ Mão, ngày Giáp Tuất, giờ Ất Hợi;
+ Năm Lục Bính, tháng Canh Dần, ngày Đinh Tị, giờ Bính Ngọ;
+ Năm Lục Đinh, tháng Bính Ngọ, ngày Nhâm Thìn, giờ Đinh Mùi;
+ Năm Lục Mậu, tháng Nhâm Tuất, ngày Kỷ Sửu, giờ Mậu Dần;
+ Năm Lục Kỷ, tháng Tân Mùi, ngày Kỷ Mùi, giờ Bính Dần;
+ Năm Lục Canh, tháng Giáp Thân, ngày Canh Thân, giờ Tân Tị;
+ Năm Lục Tân, tháng Bính Thân, ngày Canh Ngọ, giờ Tân Tị;
+ Năm Lục Nhâm, tháng Tân Hợi, ngày Nhâm Thìn, giờ Đinh Mùi;
+ Năm Lục Quý, tháng Bính Thìn, ngày Bính Thìn, giờ Mậu Tý.
Từng năm kể trên, chỉ có một ngày một giờ chủ có mệnh người đại quý ứng thế kiến công lập nghiệp, nếu không thì, thần tiên xuất trần, nói thường không thể hiểu vậy. Người đại quý không qua đế vương, khảo sát các triều đại vua lập nghiệp, chính là triều Minh có nhiều đế vương, không có hợp nhất. Tôi thường gọi là thiên hạ rộng lớn, hàng triệu người dân, sinh cùng năm tháng ngày giờ như vậy, sao không phải kỳ nhân? Như vậy vị tất đều là đại quý nhân. Nếu, trời sinh ra đại quý nhân, tất có lấy số mệnh sâu xa, dựa vào năm tháng ngày giờ đa số là chưa đủ. Tôi thấy quan thì thắt lưng cùng với dân thường, mệnh giống nhau không thể kể hết. Tạm thời là luận quan chức, như Hoàng Mậu Quan Thị Lang, cùng mệnh Thân Giới phó sứ giống nhau, họ Hoàng thì chết do chiến tranh, họ Thân chết ở cửa hạ, Thân trước là hoàng tử, quan lớn nhỏ thì không kể vậy. Chu Hoành cùng mệnh Lý Đình Long giống nhau, Chu phát khoa ở Nhâm Thìn, Lý phát khoa ở Quý Sửu, Chu làm quan đến Thượng Thư, Lý chỉ là làm quan trưởng giám sát, thọ lại không lâu, con cháu nhiều ít hiền đức hay không lại không luận vậy. Vạn Cử cùng Nhiêu Tài mệnh giống nhau, Vạn Cử là tiến sĩ, làm quan đến hàng nhị phẩm, họ Nhiêu chỉ là Cử Nhân, làm quan chức Thái Thú, nhưng họ Nhiêu nhiều con còn họ Vạn thì ít, họ Vạn lại bị giáng chức uất ức mà chết còn họ Nhiêu thì không, thọ yểu có tang lại khó nói vậy. Khắp nơi vua chúa trai giới anh em cùng sinh, mà công danh trước sau cũng đều khác nhau, huống chi thiên hạ rộng lớn, 9 châu bao la, hàng triệu dân chúng, cùng bát tự hạn ở đâu, cần phải lấy ví dụ để luận sao! Tôi nhớ lại, kể một lính hầu cùng mệnh Lỗ Công giống nhau, Lỗ Công gặp triều đình có ân sủng lớn, còn người hầu thì bị nhiều trách phạt, Lỗ Công có ít hỉ khánh, còn người hầu thì có ít khiển trách, có trái nghịch như vậy. Lại có một người hầu cũng giống mệnh của Lỗ Công, trước sau kém 60 tuổi, thuật giả lấy mệnh Lỗ Công làm chứng, nhà này rất vui, nói ngày đó tất quý, là do cưng chìu hắn từ lúc còn nhỏ, sau vì nát rượu, lêu lõng say rượu rơi nước chết, năm đó mới 19 tuổi. Kể ra rất nhiều vô số mệnh là như vậy.
Hợp lại mà xem, chỗ sinh ra gia đình khác nhau, mà chỗ từng người thì lập nghiệp lại khác, sữa đổi giữ mình cẩn thận, nhiều năm tiết kiệm, ở chúng ta tự cầu phúc nhiều mà thôi, nếu nói mệnh của ta phải phú quý trường thọ, mà không tu đức để học, buông thả không có phép tắc, cho nên khởi mệnh là mệnh vậy!
Luận Chính Tài
Chính Tài, ví dụ như Giáp kiến Kỷ, Ất kiến Mậu. Bị ta khắc chế, là vợ của ta, giống như người cưới vợ, vợ đưa tài lấy ta, ta tất là tinh thần khoẻ mạnh, sau đó có thể hưởng dùng, nếu suy bại không phấn chấn, tuy thê tài phong hậu, nhưng có thể mắt thấy, cuối cùng không dùng được. Cho nên Tài phải đắc thời cưỡi vượng, Thiên Chính không hỗn loạn, không thấy nhiều trùng điệp, bản thân nhật chủ có lực, đều có thể phát phúc. Nếu Tài đa thân nhược, trụ không có Ấn trợ, Tài ít thân cường, trụ có Tỉ Kiếp, thái quá hay bất cập, đều không là phúc.
《 Lạc Lục Tử 》 nói: Nếu nguyệt lệnh được Tài cục, thân suy phùng Ấn trợ giúp, nến lấy phú luận, như trước thấy Ấn, lại sợ thấy Tài.
《 Độc Bộ 》 nói: Trước Tài sau Ấn, lại thành phúc, trước Ấn sau Tài, lại thành nhục là vậy. Dụng Tài không nên lộ rõ, trụ thấy Tỉ Kiếp, thì nên thấu ra, khiến người cùng thấy thì không thể đoạt.
Phú nói: Tài nên tàng, tàng thì phong hậu, lộ thì phù vân là vậy. Phàm Tài cách, hỉ kiến Quan tinh hiển lộ, không có thương tổn, hoặc thêm Thực sinh Ấn trợ nhật chủ kiện vượng, phú quý song toàn. Như can chi thấy Sát, cũng có thể hưởng dụng, nghĩa tức là Phùng Tài xem Sát vậy. Rất sợ Kiêu đoạt thì không thể sinh, Nhận Kiếp thì không thể hưởng, khố phùng Không thì không thể tụ. Vì dụ như Giáp sinh tháng Ngọ, kiến Nhâm thương, Bính Mão phá, Ất đoạt; Ất sinh tháng Tị, kiến Quý thương, Đinh Hợi phá, Giáp đoạt; Nhâm sinh tháng Tuất, tuần Giáp Tý Tuất lạc Không Vong. Còn lại theo ví dụ này mà suy.
Lại viết: Tài là nguồn dưỡng mệnh, phàm bát tự con người không thể không có Tài, nhưng không nên quá nhiều, nhiều thì không thanh, nếu trụ vốn không có Tài mà hành Tài vận, chính là Hữu danh vô thực, như Tài đa thân nhược, lại hành Quan hương đất Tài vượng, thấy Tài cướp khí, Quan khắc thân, không chỉ không phát lộc, mà còn họa hoạn bách xuất.
Lại viết: Tài là Mã, Quan là Lộc, cả hai không thể khuyết một, thực khó mà lưỡng toàn, vốn có Tài tinh cần hành Quan vận, vốn có Quan tinh nên hành Tài vận, hành Tài vận sinh Quan, hành Quan vận phát tài, nếu trong trụ vốn không có Quan tinh, chỉ là Tài nhiều, lại hành Tài vận, cũng có thể thành tựu danh lợi, trong đó có cả đăng khoa. Bởi vì Tài không sợ nhiều, nhiều thì ám sinh Quan vậy, cẩn có thân vượng mới có thể đảm nhận được, nếu không có Tài, Quan nhiều thì thân bị chế, lại không là cát, trong trụ không có Quan, chỉ có thủ Tài là phúc.
Lại viết: Tài Quan và Sát, dụng ở chi tháng, cho nên lấy chi là Mệnh, nhật can, chỗ nói lấy can làm Lộc, nếu chi tháng có Tài Quan, đầu can không lộ, tự đủ là phúc, nếu địa chi không có Tài Quan, đầu can lộ rõ, là mệnh hư trá không thực, dẫu coo12 hành vận vượng, cũng không làm nên chuyện. Nếu như chi tháng không có mà chi năm ngày giờ có, cũng có thể thủ dụng, địa chi tháng tọa Tài Quan, gọi là Đắc thời, địa chi ngày tọa Tài Quan gọi là Đắc vị, địa chi giờ tọa Tài Quan, gọi là Hữu thành. Đắc thời là thượng cách, đắc vị là thứ, hữu thành lại sau nữa, kiêm được cả hai càng tốt. Năm chủ tổ phụ phú quý, sau trung niên là vô dụng.
Lại nói: Ngày Canh Tân sinh ở tháng giêng, vị trí khác có hỏa là Sát, khắc lấy Canh Tân, tuy năm tháng thấy Dần Mão, cũng không có tài sản của ông bà, chịu khổ cả đời, gặp chỗ phát tài tất thành tai họa, lấy mộc vượng sinh hỏa, hại can chi ngày kim, thiên nguyên suy nhược, Tài đảng sinh Sát, không thể thành phúc.
Lại nói: Chính Tài cách, chủ người thành thực, hành sự tiết kiệm, phú tính thông minh, duy chỉ có khan lận, nếu Tài vượng thân suy, chủ vợ nắm quyền nam, làm con sâu độc nắm quyền giữa nhà, lại chủ có con giỏi thế lực, trái lại được vui vẻ thanh nhàn, vận hành Tỉ Kiếp, thê thiếp nhiều nguy hiểm.
《 Độc Bộ 》 nói: Tài vượng sinh Quan, phú mà còn quý, lộ Quan tàng Tài, không khỏi chưc cao, tàng thì phong hậu, lộ thì hư phí, xung thì nên thấu, thực thì sinh lợi.
《 Trung thư Áo chỉ 》 nói: Ta đi khắc nói là Thê Tài, can cường thì phú. Lại nói: Tài đa Thân nhược, hỉ huynh đệ Dương Nhận có trợ. Lại nói: Tài vượng gặp Tỉ là không ngại. Lại nói: Thê Tài lộ rõ, muốn nhờ cây to, Tài tinh nhập mộ, tất định hình thê, dưới chi phục tài, thiên phòng yêu thiếp. Khẩu quyết nói: Tài tinh thái quá ngu. Lại nói: Đại vận, lưu niên, tam hợp Tài hương, tất chủ hồng loan cát triệu.
《 Thiên Lý Mã 》 nói: Tài nguyên bị Kiếp, mệnh cha đổ trước. Lại nói: Nam phùng Tài đa thân nhược, cứ nghe vợ nói, Tài tinh đắc vị, nhờ vợ thành gia làm giàu, Tài gặp trường sinh, điền viên vạn khoảnh, Tài vượng sinh Quan, sáng thân vinh hiển.
《 Nguyên Lý phú 》 nói: Đại quý là dụng Tài mà không dụng quan. Lại nói: Tài lâm đất vượng người nhiều phúc. Lại nói: Cô Quả là chỉ vì Tài thần bị Kiếp. Bí quyết nói: Tài sinh thân vượng lưỡng tương đình, không hỉ tái kiến Tỉ kiên.
《 Vạn Kỳ 》 nói: Chính Tài phùng sinh vượng mà ưu du hưởng phúc, gặp Kiếp tài thì hối trệ thân ngâm, nếu thấy Quan tinh, cả đời gây ra thị phi, nếu gặp Thất Sát, xử sự ít thành nhiều bại. Tài vượng thân suy, họa thâm phúc thiển, Tài đa thân nhược, cần Ấn phù thân, thân vượng Tài suy, sợ Kiếp phân đoạt, Tài Thực nhập khố là phúc hậu, nếu Thực cầu Tài là bần yểu.
Thơ viết:
Chính Tài hỉ Thực vượng phong doanh,
Nhật chủ cương cường lực có thắng,
Nếu là Tài đa thân tự nhược,
Cả đời phá bại việc không thành.
Lại nói:
Tháng Chính Tài và Quan vẫn đồng,
Rất sợ can chi gặp xung phá,
Tuế vận nếu lâm xứ Tài vượng,
Phải dạy giàu có thắng Đào Công.
Lại nói:
Chính Tài thiết kỵ Kiếp tài thần,
Hình xung phá hại không thể luận,
Tuế vận sao chịu gặp đất Nhận,
Duyên mệnh không chết cũng gặp nguy.
Tài tinh đắc vị chính đương quyền,
Nhật chủ cao cường danh lợi đủ,
Ấn thụ nếu phùng cùng cứu giúp,
Vàng ngọc đầy rương phúc triền miên.
Lại nói:
Thân vượng không Quan chỉ thủ Tài,
Tài thần xung phá lại là tai,
Thân suy Tài vượng vẫn biết yểu,
Quan thịnh thân cường phúc lộc môi.
Lại nói:
Tài đa làm sao không phát tài?
Chỉ vì thân nhược thiếu bồi tài,
Vận đến Tỉ kiên thân vượng địa,
Phú quý vinh hoa lần lượt đến.
Lại nói:
Tài đa thân nhược Nhận cương cường,
Ở đất Thân vượng rất không cát,
Phượng Quả loan Cô đêm lạnh oán,
Trong phòng vợ khóc hai ba tràng.
Lại nói:
Tài thần kỵ thấu chỉ nên tàng,
Thân vượng nếu gặp đại cát xương,
Thiết kỵ Tỉ Kiếp tương hội ngộ,
Cả đời danh lợi bị phân trương.
Lại nói:
Tài đa thân vượng đủ vinh vui,
Thân vượng Tài đa hóa làm quan,
Thân suy Tài đa Tài mệnh mệt,
Thị phi không giành khởi tranh chấp.
Hợp lại các thuyết, xem Chính Tài hỉ kỵ liền thấy vậy.
Tuế mang Chính Mã
Như ngày Giáp năm Ngọ Kỷ, ngày Ất năm Tị Mậu, hỉ kỵ cùng giống như can tháng Chính Tài. Nếu năm mang Chính Mã, sinh tháng Thìn Tuất Sửu Mùi hoặc ở trong tháng mùa hè, Kỷ thổ vượng tướng, không phạm hình xung phân đoạt, nhật can thừa vượng, chủ nhận tổ nghiệp phong hậu. Nếu sinh tháng Dần Mão, trong trụ lại mang Tỉ kiên, hoặc gặp vận hành đất Thương Kiếp, tất chủ bần khốn.
Giờ mang Chính Mã
Ví dụ như ngày Giáp mang giờ Tị Ngọ, không có hình xung phá kiếp, chủ được vợ đẹp, được tài vật đến từ bên ngoài, sinh con vinh quý, tài sản phong hậu, chỗ này không phải là tài của cha mẹ, chính là tài ngoài bản thân, gây dựng sản nghiệp, nên tiết kiệm không nên xa xỉ.
Tài vượng sinh Quan
《 Kế Thiện thiên 》 nói: Phú mà còn quý, định vì Tài vượng sinh Quan. Bởi vì lý là Tài có sinh Quan, đã thủ Tài là dụng, không nên thấy Quan, nếu thấy Quan thì là Tài Quan cách vậy. Trụ có Thương Thực, tuy Tài phong hậu cũng không thể sinh Quan. Như Mậu Kỷ lấy Hợi Tý, Nhâm Quý là Tài, lấy Dần Mão Giáp Ất là Quan, nếu sinh tháng Nhâm Tý, Quý Hợi, tứ trụ không thấy Dần Mão Giáp Ất, thì là Tài vượng sinh Quan, người có nguyên mệnh như vậy giàu mà còn quý, hoặc như nạp tiền làm quan, nếu nguyệt lệnh Tài không có tổn khắc, cũng chủ đăng khoa, thấu Canh Tân thì không thể sinh, không lấy cách này luận.
Thiên Nguyên tọa Tài
Như ngày Canh Thìn, Tân Mão, sinh mùa xuân, Giáp Ất mộc là Tài, hỉ Mậu Kỷ Ấn sinh thân, Nhâm Quý Thực sinh Tài, kỵ Canh Tân kim Kiếp đoạt, nhất thiết không thể gặp năm Quan Sát, tức là mùa xuân kim nhược, không thể đảm nhận, lại không thành phúc. Ngày Giáp Ngọ, Ất Mùi sinh mùa hạ, Kỷ thổ là Tài; ngày Giáp Thìn sinh mùa hạ, Mậu thổ là Tài; ngày Bính Tuất, Đinh Sửu sinh mùa thu, Tân kim là Tài, hỉ kỵ đều giống như ở trước. Duy chỉ có 2 ngày Nhâm Ngọ, Quý Tị, là Lộc Mã đồng hương, không chuyên lấy Tài luận.
Luận Thiên Tài
Sao gọi là Thiên Tài? Ví dụ như Giáp kiến Mậu, Ất kiến Kỷ. Không phải chỗ mang Thê, chính là Tài của mọi người vậy. Thiết kỵ có tỷ muội huynh đệ phân đoạt, trụ không có Quan tinh, họa hoạn bách xuất.
Kinh viết: Thiên Tài hỉ lộ, cũng không sợ tàng, duy chỉ sợ phân đoạt, cùng lạc Không Vong, ở đây một, đem quan không thành, đem tài không vững. Như Tài nhược tất đợi trải qua đất vượng là vinh, Tài thịnh mọi việc đều thuận, nhưng sợ thân thế không có lực, không thể đảm nhận. Thiên Tài cách, chủ người khảng khái, không có lận tài, cùng người có tình mà đa trá, nếu như đắc địa, không chỉ tài phong, mà còn có thể vượng quan, lấy Tài thịnh tự sinh Quan, vận hành vượng tướng, phúc lộc đều có, một khi gặp đất Quan, liền có thể phát phúc. Trong trụ vốn óc mang Quan tinh, liền lấy mệnh tốt xem, nếu huynh đệ nghịch xuất ra, dẫu có nhập đất Quan, phát phúc tất mù mịt. Thiên Tài chỗ nguyệt lệnh mang là tối trọng, trong trụ không nên thấy nhiều. Trụ năm có Thiên Tài sinh vượng, trong trụ nguyệt lệnh thông khí, chủ nhận sản nghiệp ông bà chú bác phong thịnh, hoặc là sản nghiệp ngoại tổ nuôi dưỡng. Đại để cần nhật chủ hưng vượng, Tài tinh sinh vượng, vận hướng đất Tài vượng là phát phúc. Nếu thấy hình xung phá hại, Tỉ Kiếp phân đoạt, hoặc Tài tinh thái suy, nhật chủ thái nhược, hoặc Tài đa sinh Sát, đều là mệnh phá tổ lao đao. Phàm nguyệt lệnh có Tài, chủ thiếu niên phú quý, nếu giờ sinh không đắc địa, hoặc có Kiếp Bại, vận lại đến hung địa, về giá phá hết tổ tài, cuối cùng thân khốn cùng, trước phú sau bần. Nếu năm tháng vốn không có, ngày giờ mang Tài, chỗ khác không có Kiếp Bại xung khắc, thì chủ tự thành lập gia đình, trung niên đến già đại phát. Nếu trong trụ Tài đa thân nhược, thiếu niên lại qua đất hưu bại, lần lượp gặp nhiều chuyện không toại ý, trung niên đến về già bỗng lâm đất phụ mẫu, hoặc tam hợp có thể trợ giúp bản thân, thì bỗng nhiên phát hưng. Nếu thiếu niên thừa vượng, đến già thoát cục, không chỉ thủ đường cùng bệnh tật, mà còn khởi lấy thị phi, lấy tài tư lợi cho bản thân, cũng gây ra phỉ báng vậy. Nếu tứ trụ tương sinh, không mang quý cách, không gặp Không Vong, hựu lại vận vượng, tam hợp Tài tinh, đều là quý mệnh, còn phúc lộc ít hay nhiều, tùy theo cách khinh hay trọng mà nói.
Lại viết: Phàm nhân mệnh có 2 vị Tài, thân nhược không ngại, vốn là dụng Chính Tài, thân vượng phát tài, vốn dụng Thiên Tài, thân vượng thoát tài.
Lại nói: Thiên Chính nhị Tài, hỉ kỵ giống nhau, duy chỉ có hỉ Quan tinh hay không hỉ Quan tinh có khác một chút, Có Chính Tài nếu không có Thiên Tài, thực trọng Thiên Tài, thì phúc dầy, rất sợ Kiếp bại Tỉ kiên, ở năm là tối trọng, ở tháng là hơi thứ, còn một danh là Cô Thần, một danh là Trục Mã, chủ khắc thê hại tử, phá tài bần bạc, lại đề phòng âm tặc tiểu nhân đồng loại hại nhau, trong trụ vốn phạm kỵ này, vận hành đất Tài vượng, cũng có thể phát phúc, lại hành Tỉ Kiếp, thoái bại mà phải bỏ mạng, gặp quan có phá bại.
《 Thông Minh phú 》 nói: Trụ tháng Thiên Tài, không Kiếp không Bại, phú giáp nhân gian.
《 Tâm tướng phú 》 nói: Thiên Tài thấu lộ, khinh tài hiếu nghĩa, thích người cung phụng, thích nói thị phi, là tham tửu sắc, đều thuộc như vậy.
《 Kinh Thần phú 》 nói: Thiên Tài thân vượng, Con buôn tìm người giàu có.
《 Áo Chỉ 》 nói: Thiên Tài có ích thọ duyên niên.
《 Thiên Lý Mã 》 nói: Xuất hiện Thiên Tài, ít yểu vợ chính, phần đa yêu thiếp.
Cổ ca viết:
Thiên Tài vốn là Tài mọi người,
Can chi tối kỵ huynh đệ đến,
Thân cường Tài vượng đều là phúc,
Nếu mang Quan tinh canh diệu thay!
Lại nói:
Thiên Tài thân vượng cần Quan tinh,
Vận nhập đất Quan phát lợi danh,
Tỷ muội đệ huynh phân đoạt khử,
Công danh không toại họa sinh theo.
Lại nói:
Thiên Tài Tài vị phát tha hương,
Khảng khái phong lưu tính phải cường,
Biệt lập gia viên hai ba xứ,
Nhân danh nhân lợi nhà mình mang.
Thời thượng Thiên Tài
《 Hỉ Kỵ Thiên 》 nói: Thời thượng Thiên Tài, sợ phùng huynh đệ, như ngày Giáp kiến giờ Mậu Thìn hoặc Giáp Tuất. Hỉ kiến Tân Quan, Nhâm Quý sinh trợ, kỵ Canh Sát, Ất Kiếp, trong trụ không nên thấy tiếp chữ Mậu Kỷ, nếu thân thái vượng, vận đông phương Dần Mão thì mất tài, còn lại theo ví dụ này suy. Chỗ này cùng thời thượng Thiên Quan cách giống nhau, chỉ cần một vị, không nên gặp nhiều, Thiên nguyên thấu ra là tốt, chỗ tàng trong chi là thứ, trụ có Quan Ấn tương trợ, nhật chủ kiện vượng, liền lấy mệnh tốt xem. Rất sợ năm tháng xung phá, huynh đệ bối xuất, thì không đủ phúc khí.
Cổ thơ nói:
Thời thượng Thiên Tài xung tối kỵ,
Huynh đệ bối nghịch đều không nên,
Hỉ hành thân vượng đất Quan Lộc,
Chỗ khác không thấu mới là quý.
Khí mệnh Tòng Tài
《 Độc Bộ 》 nói: Khí (Khí là bỏ) mệnh Tòng Tài, cần phải hội Tài, nếu gặp căn khí, mệnh tổn là không sai. Giả như Đinh sinh tháng Dậu, trụ có nhiều Canh Tân, nhật can vô khí, chỉ được Khí mệnh mà Tòng, vận nhập Bắc phương đất Tài Quan vượng, chính là nhập cách, hành nam là gặpp tai.
Cổ ca nói:
Nhật can vô khí Tài đầy bàn,
Khí mệnh tòng theo là phúc thai,
Vận vượng Tài Quan đều phúc quý,
Như phùng căn trợ lại thành tai.
Nhật tọa Thiên Tài
Như Mậu Kỷ thổ khắc thủy là Tài, Thìn là thủy mộ vậy.
Cổ ca nói:
Can năm khắc dưới là Thiên Tài,
Nơi gặp khắc mộ chính khố khai,
Tài nhập giờ khố nhiều lụa thóc,
Hiệu là kim vật tích thành đôi.
Như mệnh Tất Trạng nguyên: Kỷ Tị, Quý Dậu, Canh Thìn, Giáp Thân là vậy.
Hợp luận Thiên Chính Tài
《Tinh Kỷ 》:
Có Sinh thành Tài, như Giáp Ất kiến Mậu Kỷ thổ là Tài, toạ trên Thân Tý Thìn sinh vượng khố, Mậu Thân, Mậu Thìn, Mậu Tý can chi hợp thành là vậy. Phàm mệnh nhập quý cách, ngoại trừ quý, cần phải là đại phú, vẫn trải qua nhiều lần đảm nhiệm lúa tiền; nếu không nhập quý cách, lại không có Phúc thần trợ, cũng là phú ông trăm họ. Nếu tự sinh tự vượng, như người Giáp thấy Mậu Ngọ, Kỷ Hợi, chủ phú. Còn lại loại suy theo chỗ này.
Có Sinh Hợp Tài, như các loại người Giáp thấy Mậu Quý, người Kỷ thấy Quý Mậu, người Canh thấy Giáp Kỷ, chủ thành lập phú quý.
Có Tử Mẫu Tài, như người mệnh mộc thấy tháng hỏa, ngày giờ là thổ, chủ cả đợi gặp nhiều chuyện hỉ sự.
Có loại Tài Sát, như người Dần Ngọ tuất thấy Ất Canh, người Tị Dậu Sửu thấy Đinh Nhâm, người Thân Tý Thìn thấy Mậu Quý, người Hợi Mão Mùi thấy Giáp Kỷ, có một danh nữa là U Vi Sát, chủ danh lợi đều có.
Có Tài hội Sát, người Dần Ngọ Tuất thấy Tân Sửu, người Tị Dậu Sửu thấy Ất Mùi, người Thân Tý Thìn thấy Bính Tuất, người Hợi Mão Mùi thấy Mậu Thìn, chỗ này là thần thê tài tụ hội, gặp là giàu có cùng có vợ đẹp có nhiều của cải, lại đề phòng vợ lấy độc dược hại mệnh.
Có Danh vị Tài, chính là Thực thần thấy trong khố, như người Mậu Tý hỏa thấy Canh Tuất, Mậu Thực Canh, hỏa khố ở Tuất, hoả khắc kim là Tài, phùng chỗ này thì cả đời nhận lộc.
Có Trường sinh Tài, như Giáp dụng Mậu Kỷ là Tài kiến Mậu Thân, Quý dụng Bính Đinh là Tài kiến Bính Dần, loại này phần đa là được tài từ bên ngoài.
Lại viết: Thuật giả đa số lấy các loại như Giáp kiến Mậu, Ất kiến Kỷ là Tài, không biết Giáp Kỷ kiến Bính Tân, Bính Tân kiến Mậu Quý là Chân Tài, sinh chỗ hữu khí vượng tướng, chủ phú thịnh. Nạp âm từ bản can lại thấy chân ngũ hành, như người Ất Hợi trong tháng ngày giờ thấy Canh, Ất Hợi nạp âm là hỏa, Ất Canh là chân kim, can đầu tất nhiên là Tài vậy, chỗ này danh là Thiên Tài, chủ giàu có dư dã. Nếu nạp âm lại khắc chế can đầu, như Đinh Mão hỏa lại có thể chế Ất Canh kim, chỗ này danh là Quỷ Tài, chủ cả đời được thế tài, hoặc là hào kiệt dựa vào quan tư mà khởi gia. Mậu Dần, Mậu Thân gặp Bính Tân, Ất Dậu, Ất Mão được Mậu Quý, đúng như vậy. Thêm lại mang Thìn Tuất Sửu Mùi, là chủ nghệ thuật, nhận thế tài lớn.
Luận Ấn thụ
Ấn thụ, danh chính là ngũ hành sinh ra ta. Như Giáp Ất ở tháng Hợi Tý, Bính Đinh ở tháng Dần Mão, chính là nguyên khí của ta, là Sinh khí, là Phụ Mẫu, có thể hộ Quan tinh của ta, khiến cho không có thương khắc, thí dụ như người sinh được vật tương trợ nuôi dưỡng, nhận phúc hiện thành, sao không tốt? Cách này chủ thông minh, nhiều trí tuệ, tính nhân từ hiền hậu, lời nói thiện lương, thân thể chậm rãi từ từ, dáng mạo mập mạp, có thích ẩm thực, cả đời ít bệnh, không gặp hung hoạ, nhưng chỉ lận tài mà thôi, làm quan đa số là Chính Quan, nhận tuyên sắc chỉ không câu nệ văn võ, đều nắm giữ ấn tín, hỉ Quan tinh, lấy Quan có thể sinh Ấn.
Kinh nói: Ấn dựa Quan sinh. Lại nói: Có Quan không có Ấn, tức là không phải chân quan, có Ấn có Quan, mới thành phúc dầy là vậy. Kỵ Tài tinh, vì Tài có thể phá Ấn.
Kinh nói: Năm tháng giờ sinh Ấn thụ, kỵ kiến Tài tinh, vận nhập Tài hương, lại cần thoái thân tránh chức vị là vậy. Tuế vận đồng luận. Ấn thụ không gặp tổn thương, đa số là nhận phúc ấm của phụ mẫu, của cải kiến thành, an hưởng phú quý, so sánh nhiều mệnh, nên lấy Ấn thụ đa số là thượng cách, tháng là tối yếu, ngày giờ là thứ, can năm tuy trọng, cần quy lộc về tháng ngày giờ, mới có thể thủ dụng, nếu năm lộ ra Ấn, tháng ngày giờ không có, cũng không làm nên chuyện. Tứ trụ vốn có Quan tinh là vi diệu, nếu Ấn thụ ít, Quan Quỷ nhiều, hoặc nhập cách khác, lại không thể chuyên nói Ấn thụ, nếu Ấn thụ lại gặp các cách như Củng Lộc, Chuyên Lộc, Quy Lộc, Thử quý, Giáp quý, Thời quý, thì càng đặc biệt, nhưng chủ ít con hoặc không có con cái, Ấn thụ nhiều thì thanh cô. Phàm Ấn thụ, hỉ Thất Sát, nhưng Sát không thể quá nhiều, nhiều thì hại thân. Vốn không có Thất Sát, hành vận gặp thì phát; vốn là Thất Sát, hành Tài vận, hoặc Ấn thụ tử tuyệt, hoặc lâm mộ địa, đều là hung.
Kinh nói: Sát có thể sinh Ấn, sợ hành Tài hương, phá Ấn trợ Quỷ, quyết chủ không cát tường. Phàm cách hỉ thân vượng, duy chỉ có Ấn thụ hỉ sinh nhược, nếu nguyên cục mang Tài tổn thương Ấn, vận hành Tỉ Kiếp thân vượng, cũng có thể phát phúc, không có thì không nên, như không có Quan Sát Tài thần, lại hành thân vượng, chủ bình thường.
《 Uyên Nguyên luận 》: Ấn thụ, như ngày Giáp gặp tháng Tý là Chính Ấn, tháng Hợi là Thiên Ấn, tối hỉ phùng Thiên Nguyệt Đức, Tý Thiên Đức ở Tốn, Nguyệt Đức ở Nhâm, Hợi Thiên Đức ở Ất, Nguyệt Đức ở Giáp, giờ cần phải thấy Dậu Tân Chính Quan là vi diệu, hoặc Thân Canh Thất Sát, nhưng cần phải thấy Tỉ Kiếp trợ thân, hợp Sát mới quý, sợ Mậu Kỷ Tài tinh tổn hại Ấn, kỵ Bính Đinh Thực Thương sinh Tài phá Ấn; Ất phùng tháng Hợi Tý, hỉ kỵ cùng giống như Giáp. Ngày Bính phùng tháng Mão Chính Ấn, Thiên Đức ở Khôn, Nguyệt Đức ở Giáp, tháng Dần Thiên Ấn, Thiên Đức ở Đinh, Nguyệt Đức ở Bính, hỉ kiến Tý Quý Chính Quan, hoặc Nhâm Hợi Thất Sát, lại cần phải thấy Tỉ Kiếp trợ thân hợp Sát, sợ Thân Canh Dậu Tân Tài tinh tổn phá Ấn, kỵ Mậu Kỷ Thực thương sinh Tài phá Ấn; Đinh phùng tháng Dần Mão, hỉ kỵ cũng giống như Bính. Ngày Mậu phùng tháng Ngọ Chính Ấn, Thiên Đức ở Hợi, Nguyệt Đức ở Bính, tháng Tị Thiên Ấn, Thiên Đức ở Tân, Nguyệt Đức ở Canh, hỉ phùng Mão Ất Chính Quan, Dần Giáp Thất Sát, kiến Sát lại cần có Tỉ Kiếp trợ thân hợp Sát, kỵ thấy Nhâm Quý Tài phá Ấn, Thân canh Tân Thực Thương sinh Tài phá Ấn; Kỷ sinh tháng Tị Ngọ, hỉ kỵ cũng giống như Mậu. Ngày Canh sinh tháng Ngọ Chính Ấn, Thiên Đức ở Càn, Nguyệt Đức ở Bính, tháng Tị Thiên Ấn, Thiên Đức ở Tân, Nguyệt Đức ở Canh, hỉ kiến Ngọ Đinh Quan Tinh, Tị Bính Thất Sát, kiến Sát lại cần có Tỉ Kiếp trợ thân hợp Sát, kỵ Giáp Ất Dần Mão vượng Tài phá Ấn, Nhâm Quý Thương Thực, Ngọ Tài phá Ấn; Tân sinh tháng Tị Ngọ, hỉ kỵ cũng giống như Canh. Ngày Nhâm sinh tháng Dậu Chính Ấn, Thiên Đức ở Dần, Nguyệt Đức ở Canh, tháng Thân Thiên Ấn, Thiên Đức ở Quý, Nguyệt Đức ở Nhâm, hỉ giờ phùng Tị Ngọ Chính Quan hoặc Kỷ Mậu Thất Sát, lại nên thấy Tỉ Kiếp trợ thân hợp Sát, kỵ Bính Đinh vượng Tài phá Ấn, Giáp Ất Thực Thương, Ngọ Tài phá Ấn; Quý sinh tháng Thân Dậu, hỉ kỵ giống như Nhâm.
Kinh nói: Quan hình không phạm, Ấn thụ cùng Thiên Đức đồng cung.
Lại viết: Ăn chay tâm từ, Ấn thụ hỉ phùng ở Thiên Đức.
Như mệnh của Mạnh Trọng Đô Hiến: Ất Hợi, Đinh Hợi, Ất Sửu, Bính Tuất, là Ấn thụ cùng Thiên Đức đồng cung. Như mệnh: Giáp Dần, Bính Dần, Bính Dần, Đinh Dậu, là Thiên Đức ở Đinh, Nguyệt Đức ở Bính, Ấn thụ ở Dần. Như mệnh: Canh Thân, Canh Thìn, Canh Tý, Nhâm Ngọ, là Thiên Đức Nguyệt Đức đều ở Nhâm, Ấn thụ ở Thìn là vậy. Cách này cần phải sinh vượng, tối kỵ tử tuyệt. Nếu như Ất thấy Hợi Tý là Ấn, thấy kim thành nuôi dưỡng nhân nghĩa, Ấn vốn thấy thổ thì cách hỗn tạp, vận hành tây bắc, Quan Ấn là phúc, nếu giờ dẫn quy về đất Mão Thìn Tị, hoặc vận hành đất này, Tài Ấn quy về tử tuyệt, lưu niên lại gặp Tài khắc Ấn, quyết nhập hoàng tuyền là không sai. Hợp cách Ấn thụ, hành đại vận tối kỵ Ấn thụ biến hợp, gặp đất tam hợp, hoặc là biến thành Thương cục, hoặc biến thành Tài cục, hoặc biến thành Sát cục, rất là không cát.
Phú nói: Kim dựa thổ sinh, thổ dầy thì kim bị chôn vùi. Mộc theo thủy dưỡng, thủy thịnh thì mộc tất phiêu lưu. Hỏa viêm thổ táo, thì không thể sinh vật (như ngày Kỷ gặp Ngọ). Cương kim không thể sinh thủy (như ngày Canh gặp Tuất). Vượng thổ kiến vượng hỏa, phùng chỗ này tất chủ mắt tật, ung thư, bệnh nhiệt. Thổ nóng không thể sinh kim, táo kim không thể sinh thủy, thuỷ tuyệt không thể sinh mộc, gặp chỗ này cần nhìn cho kĩ, không thể nhìn sơ qua mà luận Ấn thụ. Nếu thủy được kim sinh mà gặp mùa thu, chính là Thủy thanh Kim bạch, tú lệ kham khoa, 1 thủy 3 kim, hào viết là Tượng Thể toàn. Hỏa được mộc sinh mà gặp mùa xuân, là Mộc tú Hỏa minh, phát sáng màu hồng lục, thấy kim thì tổn thương mộc, diệt ánh sáng hỏa. Là Kim Mộc nhị Ấn, đa số đều lấy cát luận. Nếu hỏa Ấn nhiều thì hỏa táo diệt thổ, thủy phù Ấn nhiều thì thủy phiếm mộc phù, thổ Ấn nhiều thì thổ trọng chôn kim, đều không là cát.
Lại nói: Ngày Giáp tháng Tý, kỵ giờ Kỷ Tị, sợ Ngọ xung. Ngày Ất tháng Hợi, kỵ giờ Mậu Thìn, sợ Tị xung. Ngày Bính tháng Mão, kỵ giờ Tân Mão, sợ Dậu xung. Tháng Dần kỵ giờ Canh Dần, sợ Thân xung. Ngày Đinh tháng Dần, kỵ giờ Canh Tý, sợ Thân xung. Tháng Mão kỵ giờ Tân Sửu, sợ Dậu xung. Ngày Mậu tháng Ngọ, kỵ giờ Quý Mão, sợ Tý xung. Ngày Kỷ tháng Tị, sợ giờ Nhâm Tý, Nhâm Tuất, kỵ Hợi xung. Ngày Canh tháng Ngọ, kỵ giờ Kỷ Mão, Ất Dậu, sợ Tý xung. Tháng Tị kỵ giờ Mậu Dần, sợ Hợi xung. Ngày Tân tháng Tị, kỵ giờ Canh Dần, Giáp Ngọ, sợ Hợi xung. Tháng Ngọ kỵ giờ Tân Mão, Ất Mùi, sợ Tý xung. Ngày Nhâm tháng Dậu, kỵ giờ Đinh Mùi, sợ Mão xung, tháng Thân kỵ giờ Bính Ngọ, sợ Dần xung. Tháng Dậu kỵ giờ Đinh Tị sợ Mão xung.
Ngật can bên trên, đều hỉ kiến Tỉ kiên khai thông, kỵ thấy Thực Thương làm tiêu Ấn sinh Tài, phạm chỗ này, vật vận lại lâm thân Ấn đất suy đất Tài vượng, tất nhiên là Tham Tài phôi Ấn, là bãi quan thoái chức.
Kinh nói: Ấn thụ, thấy Tài tinh trọng, trăm sự khó thông.
Lại nói: Tháng Ấn thuần túy, không có Tài tinh, chủ văn chương được Hoàng giáp.
Lại viết: Thân vượng Ấn nhiều, Tài vận không ngại, thân nhược có Ấn, Sát vận sao hại!
Lại viết: Ấn thụ có căn, hỉ gặp Tài tinh, Ấn thụ vô căn, kỵ kiến Tài tinh, Quan tinh, là căn Ấn thụ vậy, Ấn thụ có Quan có Tài, thì Tài sinh Quan, Quan sinh Ấn, Ấn sinh Thân, thân khắc Tài thì vinh quý, cho nên không kỵ.
Lại nói: Ấn thụ có căn, phùng Tài là phát, phùng Quan thì hiển, phùng hợp thì mờ, phùng xung thì tai.
《 Thông Minh phú 》 nói: Tài Ấn giao soa, luận khí bẩm khinh trọng, nhưng nếu Tài khinh mà Ấn khí trọng, bỏ Tài thủ Ấn, biết là quý; nếu như Ấn khí khinh mà Tài khí trọng, bỏ Ấn thủ Tài, tuy có bối lộc, can chi trọng vượng, lại được tư tài.
《 Bảo giám 》 vân: Ấn bị Tài thương, có tang mẹ sớm.
《 Áo Chỉ 》 vân: Ấn thụ bị thương, mất tổ nghiệp, mệnh lao khổ.
《 Lạc Dịch phú 》 vân: Ấn lâm vị trí tử tức, con nhận vinh.
《 Thiên Lý Mã 》 vân: Phùng Ấn xem Quan, mà gặp Quan 10 có 7 quý.
《 Tạo Vi luận 》 vân: Ấn thụ phùng Hoa, tôn cư hàn uyển.
《 Vạn Kỳ phú 》 nói: Chính Ấn kiến Tài là hung, phùng Quan thì cát, có Quan không Ấn, dù phú quý vẫn thương tàn; có Ấn không Quan, dù vinh hoa mà có mất. Tứ trụ lo sầu phùng tử tuyệt, tam nguyên hỉ kiến trường sinh.
Cổ thơ nói:
Mệnh phùng Ấn thụ phúc không nhẹ,
Thiếu niên ung dung hưởng kiến thành,
Vượng tướng Ấn nhiều Thiên Phúc hậu,
Thụ ân thừa ấm lập công danh.
Lại nói:
Tháng phùng Ấn thụ hỉ Quan tinh,
Vận nhập Quan hương phúc tất thanh,
Tử tuyệt vận lâm thân bất lợi,
Tái hành Tài vận việc không thành.
Lại nói:
Ấn thụ không suy hưởng phúc toàn,
Làm quan nhận phúc có điền viên,
Quan nhận tuyên sắc đầy của cải,
Thường dùng mâm cơn phí vạn tiền.
Lại nói:
Trùng trùng Ấn thụ cách thanh kỳ,
Lại phải xem chi tử tế suy,
Trong chi Hàm Trì can mang hợp,
Tuổi trẻ phong lưu mà phá gia.
Lại nói:
Ấn thụ trùng trùng hưởng kiến thành,
Chỉ sợ Thực thần ám tương hình,
Tuổi trẻ nếu không quy tuyền lộ,
Cô khổ ly hương quấn quanh bệnh.
Lại nói:
Ấn thụ không cần thân thái vượng,
Nói chung vô sự cũng bình thường,
Trừ phi nguyên mệnh nhiều Quan Sát,
Lại có thanh danh làm Đống lương (*).
(Đống Lương: Ở đây ý nói là trụ cột của triều đình)
Lại nói:
Người sinh Ấn thụ khí thuần vượng,
Gặp nhiều Quan Sát chuyển tinh thần,
Ấn hành tử tuyệt cùng Tài địa,
Không cứu là người xuống hoàng tuyền.
Hợp lại các thuyết, xem hỉ kỵ Ấn thụ thì thấy ngay vậy.
Thời phùng sinh Ấn
Như ngày Giáp giờ Tý, thủ Quý thủy ở trong Tý là Ấn, trợ giúp nhật chủ, là người túc trí đa mưu, an hưởng ăn lộc, trên năm tháng cần thấy Tân Quan sinh Ấn, vận hành tây bắc, Quan Ấn chính là Quý mệnh, nếu trụ phùng Mậu Kỷ thổ trọng, lại có chữ Ngọ xung phá, vận đến đông nam, Quan Ấn suy tuyệt, bách sự không thành, là người bất chấp nhà nước vậy.
Bào Thai phùng Ấn thụ
Kinh nói: Bào Thai phùng Ấn thụ, lộc hưởng nghìn chung. Như Canh Dần, Tân Mão, Bính Thân, Ất Dậu, ngày giờ nguyệt lệnh gặp đất Ấn thụ, chủ quý. Kinh nói: Ngày giờ Bào Thai cách, tháng thông Ấn thụ, phùng vận Sát Quan Ấn trợ giúp, chức vị liệt Tam Công.
Khí Ấn tựu Tài
Kinh nói: Khí Ấn tựu Tài phần Thiên Chính, Ấn thụ kỵ Tài, lý này rất rõ. Chính Ấn cư ở Nguyệt lệnh, quyết không thể kiến Tài, nếu cư năm và giờ, Nguyệt lệnh kiến Tài chỉ dụng Tài cách, hỉ Ấn sinh thân, địch Tài là phúc. Nếu Thiên Ấn, nguyệt lệnh cùng năm và giờ thấy Tài không ngại, gọi là Khí Ấn tựu Tài, bỏ khinh mà dụng trọng. Như Nhâm sinh tháng Thân, Bính sinh tháng Dần, tọa đất trường sinh, năm giờ gặp Tài, tức là thân vượng hỉ kiến đất Tài, tạo hóa như vậy, tất chủ bỏ tổ cơ mà tự sáng lập thân nghiệp.
Luận Đảo Thực
Đảo Thực tức là nói Thiên Ấn, còn có một tên là Thôn Đạm Sát, Thực thần tối kỵ thấy nó. Như Giáp sinh Bính hỏa là Thực, hỏa có thể sinh thổ, là Tài của Giáp, Tài vượng sinh kim, là Quan của Giáp, Thực thần sinh vượng, được Tài Quan vậy. Nay Giáp kiến Nhâm gọi là Đảo Thực, Nhâm vượng thì khắc Bính hỏa, Bính bị khắc khử, không thể sinh thổ, Giáp không có Tài vậy; Nhâm hợp khởi Đinh, hại Tân Quan của Giáp, Giáp không có Quan vậy; Nhâm khắc khử Bính, Canh Sát được yên, đến hại Giáp mộc, Giáp sinh hoạ vậy. Chỗ nói dụng Thực kỵ thấy là vậy. Phàm mệnh mang Đảo Thực, phúc bạc thọ yểu, nếu có chế hợp, như ngày Giáp kiến Nhâm Thìn, Nhâm Tuất, trong Thìần Tuất có mang thổ chế Đinh hợp; ngày Ất kiến Quý Mùi, Quý Sửu, trong Sửu Mùi có Kỷ chế Quý; ngày Bính kiến Giáp Thân, ngày Đinh kiến Ất Tị, Ất Dậu, ngày Mậu kiến Bính Tý, Bính Thân, Bính Thìn, ngày Kỷ kiến Đinh Hợi, ngày Canh kiến Mậu Dần, Mậu Thìn, ngày Tân kiến Kỷ Mão, Kỷ Hợi, ngày Nhâm kiến Canh Ngọ, Canh Tuất, ngày Quý kiến Tân Tị, Tân Mùi.Chỗ loại Thiên Ấn này không thể là thực hại, là do có khắc chế vậy. Trong trụ thân vượng, Tài Quan đều sinh, có thể thủ là phúc trợ thân, ngày dương gặp có thể ám hợp Thương quan sinh Tài, ngày âm gặp có thể ám hợp Tài tinh, trong trụ không có Thực, chỉ lấy Thiên Ấn luận.
Lại viết: Phàm mệnh có Thực gặp Kiêu, do tôn trưởng chế ta, không được tự do, làm việc làm biếng tiến thoái, có thủy không có chung, tài nguyên càng thành càng bại, dung mạo lệch một bên, phẩm chất vụn vặt, nhát gan sợ việc, phàm chuyện là không thành, khắc hại lục thân, lúc nhỏ khắc mẹ, lớn lên hại thê tử.
Phú nói: Đảo Thực, danh là Thiên Ấn, hào viết Kiêu thần, gặp thân vượng mà tài phong phúc hậu, gặp hình sát thì thân bần thọ yểu, nếu thấy Tài tinh, phi Tinh đái Nguyệt không ngừng chạy, nếu sinh Sát tinh, gánh chạy từ bỏ không ngày định, thân nhược trọng phùng Thiên Ấn, nên sầu thương như Nhan Tử, chính Thực nếu gặp Kiêu thần, khó miễn hoạ như Hàn Tín, gặp thủy là tinh thần lười nhác, trọng phạm thì dung mạo nghiêng lệch.
《 Vạn Kỳ phú 》 nói: Kiêu thần kiến Quan Sát, đa thành đa bại, Thiên Ấn gặp Tài tinh, phản nhục thành vinh, thân vượng là quý, thân nhược là bình thường, có Thương quan mà cả đời phong nhuận, gặp Thực thần thì xử thế lẻ loi.
Cổ thơ nói:
Ấn tinh thiên lệch là Kiêu Thần,
Trong trụ tối hỉ kiến Tài tinh,
Thân vượng gặp đây mới là phúc,
Thân suy Kiêu vượng lại vô tình.
Như: Bính Tuất, Bính Thân, Giáp Tuất, Nhâm Thân, Giáp thấy Bính Thực, lại thấy Nhâm Đảo Thực, Giáp sinh tháng Thân bị Sát chế vô khí, 2 Bính cướp khí, Nhâm thủy chế Bính, Sát được thi hành, cho nên không có danh lợi.
Lại như: Nhâm Thân, Nhâm Tý, Giáp Tuất, Bính Dần, hội Ấn quy Lộc, thủy tinh hỏa thần vi diệu, tượng Mộc Hỏa thông minh.
Lại như: Kỷ Mùi, Nhâm Thân, Giáp Tý, Bính Dần, Dĩ Sát hóa Ấn, quy lộc được tú, là Mộc Hỏa thông minh, Thủy Mộc thanh kỳ.
Hai mệnh trên đều đại quý. Trước thì kỵ Đảo Thực, phùng chế hợp lại quý, nhất thiết không thể thấy Đảo Thực, liền lấy hung luận.
Luận Tạp khí
Tạp khí, chính là Thìn Tuất Sửu Mùi, trong Thìn có Ất Mậu Quý, là thủy thổ khố; tronng Tuất có Tân Mậu Đinh, là hỏa khố; trong Sửu có Quý Tân Kỷ, là kim khố; trong Mùi có Đinh Kỷ Ất, là mộc khố. Tất cả tùy theo chỗ khí tàng mà nói, xem nhật can của ta, là Quan, là Tài, là Ấn, quan hệ là những vật giúp thân, Tài là nguồn dưỡng mệnh, Ấn là gốc sinh thân, ở con người thì là rất cần thiết. Tứ khố đều tàng giữ ba vật, là khí thiên địa bất chính, cho nên nói là tạp vậy.
Kinh nói: Tài Quan Ấn thụ toàn bị, tàng chưa ở trong tứ quý là vậy.
Cách này hỉ thấu lộ xung hình, kỵ áp chế, còn lại hỉ kỵ nói tiêu mất, cùng ở trên nói chính khí Tài Quan Ấn là giống nhau. Giả như lệnh là ngày sinh Lục Giáp được tháng Sửu, lấy ở trong Sửu có Tân kim là Quan, Kỷ thổ là Tài, Quý thủy là Ấn, xem thiên can thấu xuất chữ nào được chỗ phúc, phân ra tiết khí nông sâu, vật nào đương lệnh, đại khái là thấu Tài thì phú, thấu Quan thì quý, thấu Ấn thụ thì hưởng thụ tổ phụ để thành phúc, được tổ tiên che chở, phù hộ mà đạt quý hiển, như không thấu xuất, ít xung hình lại thêm thân vượng là tốt, kỵ thân nhược, hình xung thái quá thì khí phúc tụ tán vậy. Như trụ gốc có vật phá hại, lại tiếp tục không thể gặp vận cùng loại này, tiếp tục hành thì là thái quá, xung phá tú khí trái lại không là cát, gốc không có phá hại, thì mừng gặp vận hình xung.
《 Cảnh Giám 》nói: Tạp khí Tài Quan, thân vượng có xung mà phát, như thái quá trái lại chịu cảnh cô bần là vậy.
Lại nói: Tạp khí Tài Quan cách, tứ trụ cần Tài tinh nhiều, liền thành mệnh tốt, nếu tứ trụ quay nhập cách khác thì dựa vào cách khác đoán.
Lại nói: Tạp khí Tài Quan có Chính Quan cách, Thiên Quan cách, Chính Tài cách, Thiên Tài cách, tạp khí Ấn thụ có Chính Ấn cách, Thiên Ấn cách, cần phân biệt thiên hay chính, nếu Thiên Quan, cũng cần ít đồng ý chế phục thì có được, nếu gặp mộ khố thay nhau trùng lắp, gốc không có hình xung, không thấu quý khí, lại thêm có Mậu Kỷ áp chế ở trên, rất khó phát triển ở thiếu niên, cho nên nói Tài Quan khóa bít thời thiếu niên, không phát người trong mộ là vậy.
Lại nói: Tứ khố cũng là đất suy, dưỡng, quan đái, nếu can giờ thấy thì gọi là Thời Mộ cách, cùng với can tháng là luận giống nhau, cũng phát nhưng chậm. Như Đinh Hợi, Mậu Tý, Bính Thân, Kỷ Sửu, Bính dụng Sửu mộ là Tài khố, hành Mùi vận xung Sửu khố thì phát tài. Thấy Nhâm, Thìn là Quan khố, đến Tuất vận xung Thìn khố thì phát quan. Nhưng trong trụ đặc biệt có Mậu Thìn, Kỷ Sửu áp chế ở trên khố, thì không có thể phát Tài phát Quan, khó lấy là mệnh tốt, nếu có xung thấy hợp, thì lại không có thể gặp xung vậy.
Lại nói: Tháng lâm khố địa, Đông Tây Nam Bắc là khí tứ ngung, như Mùi mộc hành Đông phương, Tuất hỏa hành Nam phương, Thìn thủy hành Bắc phương, Sửu kim hành Tây phương lâm khố mộ, vận hành đất sinh vượng tất là phát, như tháng lâm Thìn thủy khí, vận chuyển Nam phương, không thấy hội hợp, thì chỉ lấy thổ luận.
Lại nói: Cổ nhân lấy ngũ hành xứ mộ là Thương khố, nếu trong mệnh mang Thương khố, gặp chỗ Thái tuế khắc thêm ngũ hành, như mộc được Tân Mùi, hỏa được Canh Tuất, thổ được Nhâm Thìn, thủy được Giáp Thìn, kim được Quý Sửu, gọi là trong khố có Tài, bản thân nhất định giàu có; nếu mệnh mang mộ tuyệt, mà trái lại gặp chỗ Thái Tuế sợ ngũ hành gia thêm, như mộc được Ất Mùi, hỏa được Nhâm Tuất, thổ được Mậu Thìn, kim được Kỷ Sửu, thủy được Bính Thìn, gọi là Tuyệt xứ không có nơi nương tựa, bản thân nhất định trì trệ. Nếu ngũ hành lần lượt cùng nhau khố mộ thuần túy mà không phá, lại có phúc thần tăng thêm, chỗ này là hai cách khố vậy. Nếu phá mà sinh vượng, phá mà tử tuyệt, có phúc thần đến thêm, thì hạ thấp. Nếu khắc phá mà không có phúc thần, thì chỉ là dân chúng. Chỗ này là cách cục mộ khố, không hỏi quý tiện, chỉ là bản thân cả đời vinh vượng, không lợi cho lục thân, nhưng khó được con cháu.
Có Khố đầu Quỷ, là người Giáp Ất thấy Tân Mùi, kỵ Đinh Tị; người Bính Đinh thấy Nhâm Tuất, kỵ Mậu Dần; người Mậu Kỷ thấy Giáp Thìn, kỵ Canh Dần; người Canh Tân thấy Đinh Sửu, kỵ Quý Tị; người Nhâm Quý thấy Mậu Thìn, kỵ Giáp Dần. Một tên là Hiên Xa Sát, nếu phạm chỗ kỵ, chủ là xe cộ phá nát, ngựa gãy chân, đàn bà gặp tật ách, thường nhân làm trộm cướp. 《 Thần Bạch kinh 》nói: ngày sinh phạm được dùng, nếu gặp giờ không phạm kỵ, chủ nhiều phú quý, người quân tử thời niên thiếu đạt khoa giáp, thường nhân thì nghệ thuật xuất chúng.
Có Khố đầu Tài, là người Giáp Ất gặp Kỷ Mùi, Bính Đinh gặp Canh Tuất, Mậu Kỷ gặp Nhâm Thìn, Canh Tân gặp Ất Sửu, Nhâm Quý gặp Bính Thìn, người quân tử chủ nhiều tiền, lúa gạo, người thường nhân thì gia sản khá giả, tức là thấu xuất Tài Quan luận vậy. Như kim thấy Kỷ Sửu hỏa, mộc thấy Ất Mùi kim, thủy thấy Bính Thìn thổ, thổ thấy Mậu Thìn mộc, hỏa thấy Nhâm Tuất thủy, cách như chỗ này, tức là trong mộ gặp quỷ, sợ rất nguy hiểm.
Cổ ca nói:
Tạp khí Tài Quan dụng cung tháng,
Thiên can thấu lộ thủy là giàu,
Tài nhiều Quan vượng cần xung phá,
Cần kỵ can chi áp chế nặng.
Lại nói:
Tạp khí chưa hề nói không thuần,
Thiên can thấu xuất thủy là chân,
Thân cường Tài vượng sinh Quan lộc,
Vào vận xung hình tụ báu vật.
Lại nói:
Nguyệt lệnh đề cương không thể xung,
Mười xung chín mệnh đều là hung,
Duy có Tài Quan gặp mộ khố,
Vận hành đến đây lại thành công.
Lại nói:
Thời mộ gặp Quan chủ phát muộn,
Hỉ gặp xung khắc là đứng đầu,
Trấn áp không đến nới xứ quý,
Quan cao chức hiển không nghi ngờ.
Lại nói:
Thiếu niên không phát người trong mộ,
Đều là Tài Quan đóng cửa khố,
Phá hại có thể mở cái khóa,
Ấn chế cuối cùng chịu khổ thân;
Đinh Nhâm vốn lấy Thìn là mộ,
Mậu thổ đến thương phú lấy bần,
Ất Mão Giáp Dần đồng cứu tế,
Tài tinh lộ ra tự nhiên thịnh.
Lại nói:
Tạp khí Tài Quan cùng giống Ấn,
Trong cách kỵ nhất Quỷ Tài nặng,
Nhưng cần Ta nhiều sinh là tiến,
Dù hỉ gặp nó cần phải được;
Nếu là Tài nhiều cần từ chức,
Như gặp Quan vượng phúc vô cùng,
Tham Tài phôi Ấn cần phải nhớ,
Sừng ốc đầu ruồi uổng phí tâm.
Lại nói:
Tài Quan tạp khí tàng trong khố,
Hỉ nhất sinh thân vào đất vượng,
Sát trọng thân khinh cần chế phục,
Tài nhiều đầy khố cần xung thương;
Ngũ hành có lấy tìm cách khác,
Tứ trụ vô tình lại có sách,
Tuế Vận như lâm đất Tài vượng,
Thanh danh ngày càng tiến cao cường.
Phụ luận Mộ vận
Bí quyết nói: Trẻ tuổi không nên phùng mộ khố, về già gặp đây tất hưng phong. Lại nói: Vượng Quan vượng Ấn và vượng Tài, nhập mộ là có họa; Thương quan Thực thần cùng Thân vượng, gặp khố khởi tai. Lại nói: Vượng Sát nhập mộ, thọ toán khó dài. Có thể thấy phàm Quan Ấn Thương quan Thất Sát là dụng thần, đều kỵ hành vận mộ khố, duy chỉ có lúc về già thần hành khố địa là cát.
Luận Thương quan
Thương quan, là nói ta sinh nó, như loại Giáp kiến Đinh, Ất kiến Bính, Giáp dụng Tân là Quan, Đinh hỏa thừa vượng, cướp khí của ta, khắc chế Tân kim, khiến cho không thể phụ Giáp làm quý, cho nên danh là Thương quan. Thương quan cách yêu cầu thương tận, mới lấy quý xem, vốn là có Quan tinh, thì tổn thương nặng.
Kinh nói: "Thương quan kiến Quan, vi họa bách đoan" là vậy. Thương quan tuy hung, là chỗ ta sinh, là vật của nhà mình, thương tận thì có thể sinh Tài, Tài vượng thì có thể sinh Quan, tạo hóa xoay chuyển có tình. Như nguyệt lệnh ở Thương quan, tứ trụ xảy ra kết cục, đều ở vị trí Thương, không có xung phá, không thấy một chút Quan tinh, gọi là Thương tận. Lại có chi tháng Thương quan, thời thượng Thương quan, tứ trụ không có Quan tinh, cũng gọi là Thương tận. Thêm thân vượng, Tài vượng hoặc Ấn vượng, là đề danh bảng vàng, là nhất phẩm quý nhân. Cách này chủ đa tài đa nghệ, tính khí kiêu ngạo, tâm hiểm không sợ sệt, đa mưu nhưng ít thành, lộng khéo thành vụng, thường cho người không bằng mình, mà người cũng căm ghét. Thương quan không có tài chủ bần cùng, bởi vì sinh Tài khí cũng tức là Thực thần Thương quan, cướp Tài khí tức là Thất Sát Quan tinh, cho nên Thương quan phải thấy Tài, mà không nên thấy Quan. Giả sử như Giáp sinh tháng Ngọ, mộc không thể chạy hướng nam, thế thân quá nhu, sao có thể gặp kim chế? Kim có thể cướp khí thổ, cho nên không thể thấy Quan. Đã không có Quan tinh, mà trụ lại không có một chút Tài để dựa, dù thông minh mưu trí, bất quá cũng là hư danh hư lợi.
Kinh nói: "Thương quan không có Tài để dựa, dù xảo cũng bần" là vậy. Thương quan cách dụng Tài, cũng có dụng Ấn.
《 Thiên Huyền phú 》 nói: Thương quan dụng Ấn nên bỏ Tài, dụng Tài nên khử Ấn, nếu như Tài Ấn lưỡng toàn, làm sao phát phúc? Thân vượng là dụng Tài, thân nhược là dụng Ấn, dụng Ấn phải khử Tài mới có thể phát phúc, dụng Tài thì không dụng Ấn cũng là hanh thông, Thương quan dụng Ấn, không kỵ Quan Sát, khử Tài mới phát, vốn phạm Thương quan, cần phải thấy Tài mới phát. Thương quan tối hỉ hành Tài vận, Ấn thụ thân vượng là thứ, không hỉ hành đất Quan, tứ trụ Thương quan nhiều mà kiến Quan, không nên lại hành vận Thương quan, một vị là không sao.
Lại viết: Thương quan cách yêu cầu phải thương tận, nếu trụ thấy Thương quan, mà Quan tinh ẩn hiện, thương không tận, tuế vận lại thấy Quan tinh, Quan đến thừa vượng, lại thấy hình xung phá hại, Nhận Sát khắc thân, thân nhược Tài vượng, tất chủ tù tội mà tử vong, ngũ hành có cứu, cũng tàn tật. Nếu tứ trụ không có Quan mà gặp Thương Sát trọng, vận nhập đất Quan, lại gặp Tuế quân, nếu không tật mắt, tất chủ tai phá.
Kinh nói: Ngũ hành Thương quan, duy chỉ có người hỏa thổ Thương quan, người thổ kim Thương quan kỵ kiến Quan tinh, nếu người kim thủy, người thủy mộc, người mộc hỏa, không kỵ. Bởi vì hỏa lấy thủy là Quan, lấy thổ là Thương, thủy sợ thổ khắc, thổ được thủy là vô ích; thổ lấy mộc là Quan, lấy kim là Thương, mộc sợ kim khắc, kim được mộc là vô ích, cho nên Hỏa Thổ Thương quan cách kỵ thấy Quan tinh. Kim lấy thủy là Thương, lấy hỏa là Quan, thủy tuy khắc hỏa, nếu kim hàn thủy lạnh, không được hỏa ấm, khó mà cứu vật, huống chi thủy được hỏa thành công ký tế; thủy lấy mộc là Thương, lấy thổ là Quan, mộc tuy khắc thổ, nếu thủy phiếm mộc phù, không được thổ, khó mà tồn tại sống, huống chi mộc được thổ thành lực vun bồi; mộc lấy hỏa là Thương, lấy kim là Quan, hỏa tuy khắc kim, nếu mộc thịnh hỏa tắt, không được kim gọt đẽo, khó mà lấy thông minh, huống chi kim được hỏa thành tượng vật dùng, cho nên kim thủy mộc Thương quan cách không kỵ Quan tinh.
Cho nên Kinh nói: " Hỏa Thổ Thương quan nên thương tận, kim thủy Thương quan cần kiến Quan, mộc hỏa kiến Quan Quan phải vượng, thổ kim Quan khử lại thành Quan, duy chỉ có Thủy Mộc Thương quan cách, Tài Quan lưỡng kiến mới là hay" là vậy.
Lại viết: Thương quan thương tận, cũng có không lấy phúc, Thương quan kiến Quan, cũng có không lấy họa. Như mệnh: Đinh Mùi, Đinh Mùi, Bính Ngọ, Bính Ngọ, ngày Bính tọa Ngọ, nhật chủ tự vượng, có 2 Ngọ, 2 Đinh, 2 Mùi, Tài Quan đều tổn thương, tuy là Thương quan thương tận, nhưng tứ trụ khí hỏa thái vượng, cướp khí lại nặng, vận hành đông nam đất hỏa vượng, không có một chút Tài khí, thân vượng không có nơi nương tựa, là người rất nghèo, thân vượng nhất thiết không thể kiến Thương quan thương tận, liền lấy mệnh tốt xem. Lại như người sinh ngày Giáp, trụ có Tân là Quan, lại có Đinh Thương quan, nếu sinh mùa thu là Quan vượng, tuy phùng Đinh hỏa hoặc cư ở trên Hợi, Tý, hoặc kiến Ngọ ở dưới phục Nhâm, Quý, thì Đinh không thể thương Quan, cuối cùng là mệnh có quan chức, tuế vận gặp Sát Quan Ấn thụ, đều cát, kỵ vận thân suy bại, phù hợp có Quan tinh không thể thấy Thương quan cách, thì không thể xem là mệnh tốt.
Lại viết: Nhân mệnh vốn có một chút Thương quan, không thể tổn hại quý khí, hoặc vận nhập đất Quan, Quan tự vượng cường kiện, hoặc nhập Ấn vận chế phục Thương Sát, hoặc có Tài sinh trợ, hoặc tòng hóa nhập vào cách khác, là không mất đi mệnh tốt, sợ lại hành đất Thương, bệnh mà không có khởi, nếu không, thì văn thư khẩu thiệt, quan sự phá bại, tai ương sẽ đến. Trụ vốn có Tài, lại hành Tài vận, cũng có thể thành tựu công danh lợi lộc, vừa hành đất Quan Sát, hoặc đất Tài suy bại tử tuyệt, tức là mất tài lộc, không quan tụng thì tang phục cùng đến.
Lại viết: Tứ trụ Thương quan, duy chỉ có can năm Thương quan là tối trọng, gọi là nền phúc thụ thương, cả đời không thể trừ khử, nếu chi tháng lại có, nặng hơn cả Thất Sát thương thân. Như sinh ngày Giáp, lấy Tân là Quan, kiến năm Đinh Mão, sinh tháng Dần Ngọ Tuất, là trọng phạm Thương quan, lại có Mão là Kiếp Nhận, danh là Bối Lộc trục Mã, là người thoái mờ, phản thương tổ ấm, vận hành đất Quan, lưu niên lại thấy, hoặc vận Sát vượng Thân nhược, tất có họa. Nếu Nguyệt lệnh chân chính Thương quan, lại thấy Quan tinh, ví dụ như ngày Giáp sinh tháng Ngọ, kiến giờ Tân Mùi, trong Ngọ có Đinh hỏa khắc Tân; ngày Ất sinh tháng Tị, thấy giờ Canh hoặc giờ Giáp Thân, trong Tị có Bính hỏa khắc Canh; ngày Bính sinh tháng Ngọ, thấy Mậu Tý, giờ Quý Tị, trong Ngọ có Kỷ thổ khắc Quý. Đại để nhật chủ cần phải kiện vượng, lại lâm vận Thương quan, có thể phát danh lợi, nhật chủ nếu nhược, vận qua đất Tài Quan, họa không thể nói.
Lại viết: Thương quan, như ngày Giáp kiến Đinh, hỉ Nhâm hợp Quý phá; Ất kiến Bính, hỉ Tân hợp Nhâm phá; Bính kiến Kỷ, hỉ Giáp hợp Ất phá; Đinh kiến Mậu, hỉ Quý hợp Giáp phá; Mậu kiến Tân, hỉ Bính hợp Đinh phá; Kỷ kiến Canh, hỉ Ất hợp Bính phá; Canh kiến Quý, hỉ Mậu hợp Kỷ phá; Quý kiến Giáp, hỉ Kỷ hợp Canh phá.
《 Vạn Kỳ 》 nói: Thương quan nguyên thần không có Quan tinh, lại hành vận Thương quan, đây là cướp khí thái quá, tức là một mộc gặp quá nhiều hoả, danh nghĩa là Tán khí, không bần thì yểu, hỉ thân vượng cùng đất Quan, Thương quan kiến Quan, lại bị cướp khí lại bị ngưng trệ, trong cục vận nhập đất Quan, lại cát, tức là Thương quan thương tận lại hỉ kiến Quan tinh. Thương quan nếu mang Tài kiến Ấn, họa không nhẹ. Thương quan nếu mmang Ấn, Quan Sát không là hình, Thương quan nhiều nên hành đất Ấn, tức là Thực đa dụng Ấn. Thương quan ít lại hành đất Ấn, tức là Kiêu Thần đoạt Thực. Thương quan nếu mang Ấn, không nên gặp Tài, Thương quan nếu mang Quan, không nên hành chế phục, Thương quan dụng Tài, không nên hành đất Kiếp, Thương quan dụng Ấn, không kỵ thấy Quan Sát, Thương quan nếu thấy Quan tinh trùng điệp, chớ lấy Quan tinh luận. Thương quan dụng Quan, ở năm tháng tất cần cướp mất Quan, vận ở ngày giờ, không nên bị thương, một khi thấy thương, họa không thể nói, không thể lâm mộ, thọ khó dài.
《 Thiên Lý Mã 》 nói: Thương quan kiến Quan, hay là nhập đất Ấn Tài. Lại nói: Thương quan phùng Tài là có con.
《 Tâm tướng phú 》 nói: Thương quan thương tận, đa nghệ đa năng, khiến tâm kiêu ngạo khinh người, đa số quỷ quyệt gian trá mà khinh người thái quá, quyền cao cốt tuấn, mắt to mầy thô.
《 Cảnh Giám 》 nói: Thương quan không Tài lại mang Nhận, là người hành gian lộng xảo.
《 Thông Minh phú 》 nói: Trọng kiến Thương quan, thân tất gian cần lao khổ. Lại nói: Thương quan nhiều mà thân vượng vô y, định là kẻ sĩ tăng đạo nghệ thuật.
Bí Quyết nói: Thương quan thái trọng, con tất có suy. Lại nói: Năm mang Thương quan, cha mẹ bất toàn, tháng mang Thương quan, huynh đệ không đủ, giờ mang Thương quan, con cái hung ngoan, ngày mang Thương quan, thê thiếp không hiền. Lại nói: Thương quan không tận, cần đề phòng hoạ bất trắc, Thương quan phùng Tài, là hưởng phúc thanh nhàn, Thất Sát cùng đến, tật tổn phải lo, thân vượng vô y, cô khắc khó miễn, Thương quan gặp Kiếp, tụ tài như cây Liễu theo gió cuốn, Thương quan không có Ấn, cầu lợi tựa như đưa tiền ra ngoài mưa gió.
Cổ ca nói:
Thương quan vốn là thần sản nghiệp,
Thương tận đúng là đại quý nhân,
Nếu là Thương quan thương không tận,
Quan đến thừa vượng họa không khinh.
Lại nói:
Nguyệt lệnh phùng Quan ở đất Thương,
Thương khinh giảm lực thì không ngại,
Nếu thấy hình xung cùng phá hại,
Định biết làm quan không lâu dài.
Lại nói:
Thương quan thương tận lại sinh Tài,
Tài vượng sinh Quan hỗ hoán đến,
Tứ trụ nếu Quan không hiển lộ,
Liền nói phú quý chớ có sai.
Lại nói:
Thương quan nếu gặp vốn không nên,
Có Tài không Quan là tổ phúc,
Ngày giờ tháng Thương quan cách cục,
Vận hành Tài vượng quý không sai.
Lại nói:
Thương quan thương tận mới vi kỳ,
Nếu gặp Thương nhiều lại không nên,
Trong cách cục này thiên biến hóa,
Suy kĩ cần phải dụng tâm cơ.
Lại nói:
Thương quan không Quan tối kỵ bác,
Vận nhập đất Quan lại kiến kỳ,
Trong Tuế vận mệnh phùng Ấn thụ,
Trở thành phú quý định không sai.
Lại nói:
Thương quan không kỵ Tỉ kiên phùng,
Thất Sát Thiên Quan lý cũng giống,
Nếu như không Quan thì kỵ Tỉ,
Như phùng thân vượng lại sợ nặng.
Lại như:
Thương quan không tận lại phùng Quan,
Chém cổ tù tội họa bách đoan,
Tháng phạm cha con không toàn mỹ,
Ngày phạm bản thân chủ thương tàn;
Giờ Thương tử tức nhiều chật vật,
Phải biết phú quý không chu toàn,
Nếu như Thương quan cư Thái Tuế,
Tất gây tai họa ở năm này.
Hợp các thuyết lại mà xem, thì biết hỉ kỵ của Thương Quan vậy.
Luận Thực thần
Thực Thần, là chỗ Nhật can sinh thuận đếm đến vị trí thứ 3, ví dụ như là Giáp Thực Bính, Ất Thực Đinh. Giáp sinh Bính là tiết khí, Bính sinh Mậu là Thiên Tài của Giáp, Thiên Tài là tài của lộc trời tự nhiên, thân tâm không có lao lực, kiến hưởng thành phúc lộc. Giáp Bính có đạo cha con, như con vượng tướng, sinh ra tài lộc lấy phụng dưỡng cha mẹ, sao không an hưởng? Giáp lại thấy Canh là Sát, thấy Mậu là Tài, Thực thần Bính hỏa có thể chế phục Canh Sát, khiến không cho khắc thương Giáp mộc, có thể sinh Mậu Tài, để cho Giáp mộc sử dụng. Phàm mệnh gặp đất Tài Sát, Thực thần vượng tướng, Sát bị Thực chế, không dám gây họa, Tài được Thực sinh, sung túc không kiệt, cho nên Thực thần còn có một danh là Thọ tinh, một danh nữa là Tước tinh, là người hiền lương vậy. Cách này phải có nhật chủ cùng Thực thần đều sinh vượng, không có xung phá, chủ người có tài dày thực trọng, phúc lượng vô biên, thân thể béo phì, ưu du tự tại, có con cháu, lại có thọ. Tứ trụ thấy Tài Thực ở trên năm tháng, hưởng thụ tổ ấm hưng phong, ở ngày giờ, nhận phúc vợ, sợ mẫu tử đều suy tuyệt, cả hai đều không có thành.
Cho nên Kinh nói: "Thực thần cần Thực sinh Thực vượng, không thể Thực suy Thực tuyệt." Lại nói: "Thực thần sinh vượng, tự thắng Tài Quan" là vậy. Thực thần đại kỵ Thiên Ấn là Đảo Thực, là người có thủy không có chung, dung mạo méo lệch. Vóc dáng bỉ ổi, tâm tính cục mịch, lo nhiều mà không thành. Giả như Giáp kiến Bính là Thực, trong trụ có Nhâm là Thiên Ấn của Giáp mộc, khắc chế Bính hỏa không thể sinh Mậu thổ, không thể chế Canh kim, khiến Giáp mộc bị chế thoái tài, sao không khốn cùng chứ?
《 Nguyên Lý phú 》 nói: Thực thần chế Sát, phùng Kiêu không bần thì yểu. 《 Nhất Hành 》 nói: Ngày dương Thực thần ám hợp Quan tinh, ngày Âm Thực thần ám hợp Chính Ấn, Quan Ấn không nên lộ rõ, nhưng nếu Thực thần thuần túy, chủ quý mà còn có lộc, phú mà còn có thọ, Thực thần chỉ cần một vị, không nên quá nhiều, sợ cướp khí bản nguyên.
Kinh nói: "Một mộc gặp nhiều vị hỏa, danh là Tán khí phụ lão" là vậy. Thực nhiều thì cần hành Ấn vận, Thực ít thì không nên, là Kiêu thần đoạt Thực, cho nên Thực hỉ vượng lộc tương trợ, nguyệt lệnh kiến lộc là tốt nhất, giờ lộc là thứ, lại thêm phùng vận quý nhân, hành đất Thực thần sinh vượng, đầy phúc lộc. Kỵ thân suy Kiêu vượng, trong trụ tuy hỉ kiến Tài, cũng không nên thấy nhiều, nhiều thì không thanh, bất quá chỉ là một phú ông mà thôi. Thực thần trọng kiến, biến thành Thương quan, khiến người ít con, dẫu có, có mang tính ương bướng khó dạy, lại không thể nhập mộ, tức là Thương quan nhập mộ, thọ khó mà dài. Đại kỵ Không Vong, lại có thêm Quan Sát hiển lộ, là kẻ sĩ làm y sư ở thuật số cửu lưu, nếu Thực thần phùng khắc, lại gặp Không Vong, thì không quý, lại hành vận tử tuyệt hoặc gặp Kiêu, thì vì ăn uống mà sinh tai hoạ, ăn uống mắc nghẹn buồn nôn, thiếu áo cơm, nhẫn nhục cơ hàn mà thôi.
Lại viết: Ngày Giáp Thực Bính, trong trụ không có Nhâm Quý Hợi Tý mới tốt, như có khí thủy, chữ Bính bị chế, ở người khuất phục, bản thân không thể tự kiến lập, sao có thể sinh vật để dưỡng cha chứ? Như chỗ này không có chế, lại cần sinh vượng hướng lộc, như Bính sinh mùa hạ, vận qua đông nam, hỏa thổ đều vượng, Giáp dụng Tài tất hậu. Nếu sinh mùa xuân Giáp vượng, Bính hỏa tuy được sinh, không bằng khí Mậu Kỷ bạc, cần trải qua nam phương hỏa thổ đều vượng, mới nói phát phúc. Lại như Canh lấy Nhâm là Thực, vận qua bắc phương đất thủy vượng, phát tài tất hậu, đông phương đất mộc vượng, phát phúc tất nhanh. Luận rõ, Canh lấy Nhâm là Thực, trường sinh ở Thân, nên đoán đất Thân phúc trọng, bạo bại ở Dậu, Nhâm thủy đến Dậu, liền không là tốt, lấy Nhâm sinh Giáp mộc là Tài của Canh, tức là tự sinh ở Thân mới phát tài, không phải Tài là hôn phối chính thê, Giáp đến đất Dậu là mộc khốn kim hương, Nhâm thủy tự bại, sao mộc có thể trợ dưỡng cho cha chứ? Nên đoán vận này bình thường. Hành vận đến Tuất, như gặp can Nhâm Giáp, cũng chỉ đoán là nửa cát nửa hung, phùng Mậu có thể đoán là có tai, thấy Canh có thể đoán là phúc. Hợi vận mới nói là đại cát, Tý vận là Quý thủy Thương quan, Thương trọng tiết khí bản thân, lại là Canh tử ở Tý, Giáp bại ở Tý, nên đoán là thân tai sinh họa. Vận đến Sửu, là khố Canh kim, đất thủy vượng, lại có Kỷ Sửu trợ Canh Giáp quan đái đất thành nhân, có thể đoán là 10 năm phát. Dần vận cũng cát, Mão vận có hoạ, còn lại cứ loại suy.
Lại viết: Thực thần kỵ Kiêu, cũng có không sợ vậy. Như Kỷ Hợi không sợ Đinh Đảo Thực, Đinh cùng Nhâm hợp hóa mộc, mà Nhâm lộc ở Hợi; Bính Ngọ không sợ Giáp Đảo Thực, Giáp và Kỷ hợp hóa thổ, mà Kỷ lộc ở Ngọ; Ất Tị không sợ Quý Đảo Thực, Mậu Quý hóa hỏa, Ất Tị cũng là hỏa; Quý Tị không sợ Tân Đảo Thực, Bính Tân hóa thủy, Quý quý ở Tị; Canh là thủ chúng dương, không sợ Mậu Đảo Thực, Mậu, dương khí số quy nguyên, thấy Mậu lấy hỉ thần mà luận; Kỷ không Đảo Thực Tân, vốn ban đầu âm khí phát tán; Canh không Đảo Thực Nhâm, vốn ban đầu dương khí phát tán; Tân có Đinh, không sợ Kỷ Đảo Thực, vì Đinh nuôi dưỡng Tân kim vậy, huống chi có chỗ Đinh thì sẽ có Kỷ thổ, âm dương can thiệp, được trợ thanh phúc. Thực thần, thập can hội phúc lộc, quân tử được thì hiển đạt phong thịnh, tiểu nhân được thì cấp đủ chu toàn, ở đất phúc tụ thì quan cao lộc hậu, ở đất họa tụ thì chức thấp mệnh bạc. Như lấy luận Giáp Tý, Thực Bính Tý là Phúc tinh quý, Thực Bính Dần là lộc trường sinh, lại là Lộc Mã đồng hương, Thực thần Học Đường quý, Bính Thìn là Chính Ấn, Bính Ngọ là tự hình phá mệnh, Bính Thân là khắc thân phá lộc, Bính Tuất là thân suy phá Không Vong, còn lại loại suy theo như vậy. Nếu gặp các loại sinh vượng, khố, Ấn, Thiên Ất, Thiên Quan, Hoa Cái, Văn tinh, Học Đường, Quan Ấn Lộc Mã, là đất phúc tụ, gặp khắc phá, Không Vong, Ác sát, hình hại, hưu, bại, tử, tuyệt, là đất tụ họa.
Lại viết: Giáp Ất Thực Bính Đinh, gia trên Dần Mão Tị Ngọ; Bính Đinh Thực mậu Kỷ, gia trên Thìn Tuất Sửu Mùi; Mậu Kỷ Thực Canh Tân, gia trên Tị Ngọ Thân Dậu; Canh Tân Thực Nhâm Quý, gia trên Thân Dậu Hợi Tý; Nhâm Quý Thực Giáp Ất, gia trên Hợi Tý Dần Mão, gọi là Thực thần kiến sinh vượng, mang thêm Lộc Mã vượng tướng, văn là Lưỡng Chế lưỡng Tỉnh, võ là Kiến tiết Phòng Đoàn, không có, cũng là tài bạch phong hậu, Thực thần và Lộc thấy đủ, tứ trụ thuận là rất tốt.
《 Hồ Trung Tử 》 nói: Phạm Đảo Thực, ở mệnh đa số là bị người quất nhiễu, mang trùng điệp, lúc nhỏ thì nói thiếu sữa bú, lúc già thì nói thiếu ănc. Chính Thực là có dư giả phú quý, Tranh Thực mà không đủ là bần tiện. Có dư, như người Giáp được 2 Bính 3 Bính; Không đủ, như trong trụ có 2 Giáp mà chỉ có 1 Bính. Lại viết: Nhật chủ có can giờ trùng điệp Thực, viết là Thôn Đạm não tử, ngày giờ đều có Thực, chủ bệnh đầu não, sớm khắc mẹ chết, sau không có con đưa tiễn khi chết, nếu trong Thôn phùng Thôn, như người Giáp phùng ngày giờ Nhâm, lại phùng chữ Canh, chủ bần tử câu thông, có can hợp giải thì trì hoãn.
《 Tâm tướng phú 》 nói: Thực thần có thể đứng đầu về ẩm thực, thâm mập béo mà thích ca hát.
《 Áo Chỉ thiên 》 nói: Nguyệt lệnh gặp Thực, thân kiện vượng, thích ẩm thực, tư chất béo phì, tứ trụ có cát tinh tương phù, là vàng bạc đầy nhà, thanh danh nổi tiếng.
《 U Vi phú 》 nói: Thực thần vượng tướng, sống thọ cao.
《 Nguyên Lý phú 》 nói: Thực cư trước, Sát cư sau, công danh hiển đạt.
《 Bảo Giám phú 》 nói: Tháng lộ Thực thần giờ lộ Quan, vinh hiển đài cao trợ quốc thần.
《 Vạn Kỳ phú 》 nói: Thực thần danh là Cát diệu chế Sát, hiệu xưng là Thọ tinh, can cường nhật vượng, người phú quý, Thực vượng thân suy, người lao khổ, phùng Tài vượng thì Thực ở trước, gặp Ấn thụ thì đáy nồi sinh bụi, thấy một vị thì khắc đỉnh chung lớn, có 2,3 thì không tốt, Dương Nhận trọng lâm, cả đời lao khổ, hình khắc hội nhau, một đời bôn ba.
Cổ ca nói:
Thực thần chế Sát cát phi thường,
Tài vượng vợ vinh con càng mạnh,
Trong trụ nếu gặp Thôn Đạm Sát,
Quản giáo kim điện phò quân vương.
Lại nói:
Thực thần phùng Lộc hiệu Thiên Trù,
Không xung khắc Không Vong Quan Sát,
Tử tuyệt vận lâm Thiên Ấn địa,
Thọ tinh hợp xứ phúc tin giao.
Lại nói:
Thực thần Ấn thụ không nên gặp,
Duy thấy Tài Quan phúc lại hưng,
Thực thần hỉ hành thân vượng địa,
Phùng Kiêu phùng Tỉ lại thành không.
Lại nói:
Thực thần sinh vượng là đứng đầu,
Duy hành thủy mộc thổ kim tốt,
Quan Sát lại không đến hỗn tạp,
Cả đời y lộc đủ vinh hoa.
Lại nói:
Người Giáp thấy Bính vốn cướp khí,
Bính đi sinh Tài hiệu Thực thần,
Tâm rộng thân mập dày y lộc,
Nếu lâm Thiên Ấn chủ cô bần.
Lại nói:
Thực thần sinh vượng không hình khắc,
Mệnh phùng cách này thắng Tài Quan,
:ại thêm thân vượng phùng Tài địa,
Thanh xuân niên thiếu bược điện Kim.
Lại nói:
Thực thần không tổn thọ lâu dài,
Thứ Mẫu (Kiêu) phùng đây không thể đương,
Nếu không Thiên Tài đến cứu hộ,
Mệnh như thu thảo mang đông sương.
Lại nói:
Thực thần trên tháng hiệu Thiên Trù,
Nhân mệnh nếu gặp phú có dư,
Thiết kỵ Kiêu đến hiểu giảm phúc,
Rất sợ xung khử ám tiêu trừ.
Sinh Tài hóa Quỷ kiêm không bệnh,
Chế Sát là cát tin có trữ,
Sĩ tử như phùng lợi khoa giáp,
Quan phong yếu chức lĩnh Thiên thư.
Hợp các thuyết lại, xem có thể biết hỉ kỵ của Thực thần vậy.
Phi thiên Lộc Mã
《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Nếu Nguyệt kiến phùng Thương quan, như xứ hung vị tất là hung, bên trong có Đảo Lộc xung phi, kỵ Quan tinh, diệc sợ hợp trói, cách lấy duy có 4 ngày: Canh Tý, Nhâm Tý, Tân Hợi, Quý Hợi, sinh tháng 10, tháng 11 mùa đông thủy thuần âm, trụ không có Tài Quan, mới dùng. Lại cần tháng giờ hoặc năm và ngày cùng chi, mới có thể cùng xung. Kỵ Quan tinh hiển lộ, lộc khó xung phi, hợp thần hợp trói, không thể xung phi, trong trụ phải có một chữ hợp trụ Lộc Mã, mới không mất quý khí. Hỉ Thương quan, Thực thần cùng can chi bản vận. Giả sử như ngày Canh Tý, Canh lấy Đinh hỏa là Quan, sinh tháng Tý, là nguyệt kiến Thương quan, có thể nói là xứ hung, nếu chữ Tý nhiều, xung xuất Đinh hỏa trong Ngọ, thì ngày Canh được Quan tinh, không thể lấy hung luận, trụ phải có Mùi hoặc Dần, Tuất, nếu có được một chữ hợp Ngọ là tốt, nếu có chữ Sửu hợp trói, Tý đi tham hợp, không thể xung lộc ở trong Ngọ, thấy chữ Đinh là lộ Quan, Bính là lộ Sát, chữ Ngọ là điền thực, Mậu là Thôn Đạm, thì giảm phân số, tuế vận cũng vậy. Ngày Nhâm Tý, Nhâm lấy Kỷ thổ là Quan, trong trụ phải có chữ Tý nhiều, xung xuất Kỷ thổ trong Ngọ, thì ngày Nhâm được Quan tinh, hỉ kỵ cùng giống ngày Canh Tý. Ngày Tân Hợi, Tân dụng Bính hỏa là Quan, ngày Quý Hợi, Quý dụng Mậu thổ là Quan, đều phải có chữ Hợi nhiều, xung xuất Bính, Mậu Quan ở trong Tị, thì ngày Tân, Quý được Quan tinh, trụ có Thân hoặc Dậu, Sửu, nếu có một vị tác hợp là vi diệu, nhiều thì không được, có Dần hợp trói, thì Hợi sẽ đi tham hợp, không thể xung lộc ở trong Tị, thấy Bính, Mậu, Kỷ lộ là Quan tinh, giảm phân số, tuế vận cũng vậy.
Cổ ca viết:
Cách chính xung chỉ là Canh Nhâm,
Tử khứ xung Quan Lộc tự hanh,
Tứ trụ lại phùng Dần Tuất vị,
Ba chữ được một hợp công danh.
Lại nói:
Canh Nhâm tháng Tý hiệu Xung Quan,
Động Ngọ Đinh dời Kỷ cũng thiên,
Điền thực phá hình đều không phạm,
Anh danh khôi dự truyền bốn phương.
Lại nói:
Lộc Mã phi thiên biết là hiếm,
Canh Nhâm trùng Tý quý không sai,
Trụ không hợp trói Quan hiển hiện,
Bước thẳng mây xanh đến Phượng Trì.
Lại nói:
Tân Quý xung Quan trùng ngày Hợi,
Trong Tị Bính Mậu lộc lại cao,
Canh phùng Dậu Sửu Thân cư mệnh,
Được một hợp thần liền quý vinh.
Lại nói:
Ngày phùng Tân Quý chi lâm Hợi,
Dậu Sửu gia Thân hợp quý nhân,
Tứ trụ tương phù không Mậu Kỷ,
Uy phong thiên lý chấn anh thanh.
Đảo xung Lộc
Nguyệt kiến Thương quan, bên trong có Đảo xung Lộc Mã cách, hỉ kỵ cùng giống như Phi thiên, duy chỉ có giờ là không luận. Cách này chỉ có 2 ngày: Bính Ngọ, Đinh Tị, ở dưới ngày thuần dương, Bính lấy Quý thủy là Quan, trong trụ phải có chữ Ngọ nhiều có lực, xung xuất Quý thủy ở trong Tý, thì ngày Bính được Quan tinh; Đinh lấy Nhâm thủy là Quan, cần trong trụ có nhiều chữ Tị có lực, xung xuất Nhâm thủy trong Hợi, thì ngày Đinh được Quan tinh. Lại được Sửu Dần hoặc Thân Thìn Mão Mùi, nhưng có một chữ hợp trụ Lộc Mã là hay, nhiều thì không phải. Ngày Bính Ngọ sợ Mùi, ngày Đinh Tị sợ các chữ Thân Thìn hợp trói, thì Tị Ngọ tham hợp, không thể xung lộc ở trong Tý Hợi, trụ có Hợi Nhâm Tý Quý là Sát Quan hiển lộ, thì giảm nửa phần, tuế vận cũng vậy.
Cổ ca nói:
Ngày Bính nhiều Ngọ không Quan cục,
Đảo xung Lộc Mã quý quan hòa,
Không phùng chữ Mùi đến trói vướng,
Quý Tý đều không phúc cheo leo.
Lại nói:
Đảo xung quý khí đạo bất đồng,
Bính Ngọ xung bay Tý lộc thần,
Quý thủy đến khắc là quý lộc,
Hình thương Điền thực là thường nhân.
Lại nói:
Đảo xung Lộc Mã quý phi thường,
Ngày Bính gặp nhiều ở Ngọ tốt,
Thất Sát không phùng cùng sợ trói,
Bạch y bước thẳng nhập triều đường.
Lại nói:
Ngày Đinh nhiều Tị là Đảo xung,
Quan tinh khởi bay xuất cung Càn,
Trong trụ không thấy chữ Nhâm Hợi,
Thìn không lưu Tị phúc quý hưng.
Lại nói:
Ngày Đinh xung quan Tị phải cường,
Hợi là lộc Nhâm người nơi quý,
Trong trụ không thấy Thìn Nhâm quý,
Tuế vận tương phù phúc lộc xương.
Phúc Tinh quý nhân
Chính là người Giáp thấy Bính Dần, Bính Tý, người Ất thấy Đinh Hợi, Đinh Sửu, độn được chân Thực thần trong bản tuần, chủ hưởng thụ tự nhiên, gặp thì không quý cũng phú, còn lại suy theo như vậy. Tiền nhân lấy 《Giáp Bính mời nhau nhập hổ hương ca 》, là lấy năm luận, cho nên có Bính Dần, Bính Tý, nếu lấy ngày độn thì không phải.
Thực thần đồng khoa
Nói Giáp Thực Bính, là người Giáp Tý thấy Bính Tý, tức là 13 vị trí đồng, là vật của nhà mình vậy, được chỗ này không quý cũng phú, tháng không bằng ngày, ngày không bằng giờ, nếu hỗ hoán sinh vượng mang lộc, quý là đại quý. Như mệnh Hàn Ngụy Công: Mậu Thân, Canh Thân, Canh Thìn, Canh Thìn; Tống Tần Cối: Canh Ngọ, Kỷ Sửu, Ất Mão, Nhâm Ngọ; Lại như Minh Vương Sùng Cổ Thiếu Bảo: Ất Hợi, Tân Tị, Mậu Thân, Canh Thân là vậy. Như Đảo Thực bản gia, năm Giáp Tý thấy giờ Nhâm Tý, năm Canh Tý thấy giờ Mậu Tý, cũng quý, nhưng hại con.
Thực thần đái hợp
Là nói người Giáp thấy Bính có Tân hợp, người Kỷ thấy Tân có Bính hợp, Ất thấy Đinh Nhâm, Canh kiến Nhâm Đinh, Bính kiến Mậu Quý, Tân kiến Quý Mậu, là quan có quyền ấn.
Hồng Loan Thiên Ấn
Là nói Bính Thực Mậu mà được Mậu Tuất, Tân Thực Quý mà được Quý Sửu, Nhâm Giáp Thìn, Ất Đinh Mùi, ngày giờ nếu gặp, chủ phú quý.
Mặc trì Dũng tuyền
Nói Tân Tị được Quý Tị, Quý Hợi. Như mệnh Trần Triều Nghị: Tân Tị, Nhâm Thìn, Quý Tị, Quý Hợi là vậy. Suy theo loại này, Bính Dần thích Mậu Dần, Mậu Thân thích Canh Thân, Kỷ Tị thích Tân Hợi, Canh Ngọ thích Nhâm Thân, Giáp Tuất thích Bính Dần, Nhâm Thìn thích Giáp Thân, đều hợp cách này, chủ văn quý.
Luận Dương Nhận
(Trước có luận Dương Nhận Sát, cùng tham khảo thêm chỗ này)
Dương, là âm dương; Nhận, là đao gươm, tức là trước lộc một vị trí, là nói quá vượng, cho nên nguy hiểm. Thiết nghĩ người Giáp kiến Mão, trong Mão có Ất mộc, Ất là đệ Giáp, có thể cướp tài của huynh, xung khử Tân Quan trong Dậu, hợp vợ Canh, Canh là Thất Sát Giáp, Kiếp tài xung Quan hợp nấu nhừ, cho nên rất hung. Duy chỉ có 5 can dương Giáp Bính Mậu Canh Nhâm là có Nhận, 5 can âm Ất Đinh Kỷ Tân Quý là không có Nhận, cho nên viết Dương Nhận. Duy chỉ thấy Thương quan cùng Dương nhận là đồng họa, cho nên Ất kiến Bính gọi là nhận, lấy Bính khắc Canh Quan, hợp Tân Sát, khắc Ất mộc, âm kim khắc âm mộc rất độc, cho nên hung dữ giống Dương Nhận.
Dương Nhận có 3 loại: Có Kiếp Tài Nhận, như Giáp kiến Ất là vậy, bất lợi cho Tài Quan cách; Có Lộc hộ Nhận, như Giáp kiến Mão là vậy, đại lợi Quy Lộc cách; có Bối Lộc Nhận, như Ất với Bính vậy, đại lợi cho khử Quan lưu Sát cục.
《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Kiếp tài Dương Nhận, thiết kỵ gặp ở giờ, tuế vận cùng lâm, tai ương lập tức đến, độc lấy giờ Dương Nhận nói, trọng ở năm tháng ngày vậy. Giả như người sinh ngày Giáp, trụ giờ thấy Ất Mão, đây đúng là Chân Nhận, trong mệnh đã gặp Dương Nhận, thì phá tài hại vợ, tai ương đã có lúc mới chớm nở vậy, lưu niên tuế vận lại gặp Dương Nhận, thì gọi là cùng lâm, thấy Tị Dậu là xung Tuế quân, thấy Hợi Mùi Tuất là hợp Tuế quân, Dương Nhận, là hung sát vậy, Thái tuế, là hung thần vậy, Thái tuế được cát thần tương phù, hợp thì cát, nếu Dương Nhận hung sát đến xung hợp Tuế quân, thì gọi là Toàn Hung tụ Sát, họa khó miễn.
Kinh nói: Dương Nhận xung hợp Tuế quân, đột nhiên họa đến, là chỗ này vậy. Trong đó cũng có phân biệt rõ, mệnh nguyên suy bạc, gặp chỗ này thì đúng, nếu mệnh vượng nắm khí thâm hậu, hoặc có Thiên Nguyệt Đức cùng Thiên Xá giải cứu, chỉ có phù thực, cũng không có đại nạn. Hoặc trụ ngày vốn có Nhận, kiến xung hoặc hợp, tuế vận lại lâm xung hợp, là đại hung, nếu Tuế xung hợp mà vận không xung hợp, vận xung hợp mà tuế không xung hợp, luận họa giảm nửa. Lại viết: Nhật can vô khí, giờ phùng Dương Nhận không là hung. Nói Thiên nguyên ngày sinh lâm đất tử tuyệt suy bệnh bạo bại, không thông nguyệt khí, không thể đảm nhận Tài Quan, nếu phùng Dương Nhận, có thể cướp Tài hóa Sát, thí dụ như lực huynh nhược Tài trọng, được đệ nhận phân chia, thì có thể thắng Tài mà làm vật dụng cho ta, cho nên không lấy hung luận. Nói thân nhược kiến Tài Quan, cho nên hỉ Dương Nhận phân chia Tài hợp Sát, nếu kiến Thực Thương, thân nhược thoát khí, cũng hỉ Dương Nhận phù trì, nếu thấy Ấn thụ, thì không phải nhật can vô khí vậy. Trước có nói kỵ Dương Nhận, là thân cường lực có thể đảm nhận Tài, cho nên không hỉ Kiếp đoạt, sau nói hỉ Dương Nhận, là vì thân nhược lực không giữ nỗi Tài, cho nên không kỵ Kiếp đoạt, nghĩa đều có cách dùng. Cách này cùng Thương quan là tương tự, phàm mệnh có gặp, chủ mắt to râu vàng, tính cương tâm cao ngạo, không có tâm trắc ẩn hiền từ, có ý phớt lờ khắc cướp, đa số là mang đủ tật, tham bạo không dừng, tiến thoái đa nghi, cứ thế mà đi, ly tổ làm con nuôi, khắc cha hại vợ, hoặc kiến tam hình, hoặc tự hình Khôi Cương, toàn phát tích ở biên cương, như lại vô tình hoặc lâm Tài vượng, chủ hung, nếu có đủ hình hại, đều đắc địa, lại có cứu thần, quý không thể nói.
Lại viết: Dương Nhận cách, đại khái không cần đất Tài, sợ khởi xung, như ngày Mậu Nhận ở Ngọ, kỵ hành Tý vận Chính Tài; ngày Nhâm Nhận ở Tý, kỵ hành Ngọ vận Chính Tài; ngày Canh Nhận ở Dậu, kỵ hành Mão vận Chính Tài; chĩ có ngày Giáp Nhận ở Mão, hành Tị Ngọ cùng Thìn Tuất Sửu Mùi vận Tài là không sao, kỵ Dậu vận; ngày Bính Nhận ở Ngọ, hành Thân Dậu Canh Tân Sửu vận Tài cũng không ngại, kỵ Tý vận. Dương Nhận là chỗ Tài kỵ, Mậu Nhận Ngọ kiến Tý Tài, Nhâm Nhận Tý kiến Ngọ Tài, Canh Nhận Dậu kiến Mão Tài, đều xung Tài, cho nên kỵ, đến Giáp Nhận Mão không kỵ Mậu Kỷ Tị Ngọ Tài, mà kỵ Dậu Quan vậy, Bính Nhận Ngọ không kỵ Canh Tân Thân Dậu Tài, mà kỵ Tý Quan vậy, có thể đồng loạt là nói kỵ Tài chứ? Nếu thiên can Tài sinh Quan, chính là dụng thần, mà phương hỉ, sao có thể nói là kỵ.
《 Tâm Cảnh 》 nói: Dương Nhận trùng trùng lại kiến Tài, phú quý thêm vàng lụa, là nói chỗ này vậy. Hoặc viết Giáp Mậu Canh thấy Nhận phùng xung, phát họa đa số là ứng nghiệm, Nhâm Bính phùng Nhận kiến Tý Ngọ xung, đa số là không có họa, lấy Bính kiến Tý, Nhâm kiến Ngọ đều là Chính Quan, lại lấy quý khí luận vậy. Lại viết: Giáp lấy Kỷ là Thê Tài, tứ trụ lại có Mão Ất, Kỷ thổ thụ thương, không thể phù Giáp, cho nên chủ có tang thê tử, tuế vận phục lâm, Kiếp Nhận vượng tướng, thành chỗ khó miễn, như vị trí khác phùng Canh Tân Dậu Thân, Canh có thể mời Ất làm vợ, tức là thành gia quyến, không phải là Thất Sát của Giáp, Tân phụ Giáp là quý, có thể khắc phá Ất Sát, là phản hung thành cát. Kinh nói: "Giáp lấy Ất muội gả vợ cho Canh, điềm hung thành cát" là vậy. Còn lại theo ví dụ này mà suy.
Lại viết: Ngày Lục Giáp phùng Ất Mão là hung, Tân Mão là cát, Giáp Thân Đinh Mão không là Nhận, vì trong Thân có Canh hợp Ất mộc ở trong Mão là Tài, nếu có Tài lộ, cũng hung, Đinh hỏa Thương quan, Ất mộc đoạt Tài, tuế vận cùng lâm, tai họa khó miễn. Ngày Ất Dậu thấy giờ Canh Thìn, không phải Nhận, Ất tọa Canh ở dưới có Tân kim trong Dậu, gặp chế thần Ất mộc. Ngày Bính Tý thấy giờ Giáp Ngọ, không phải Nhận, trong Tý có Quý thủy khắc Đinh hỏa trong Ngọ. Ngày Đinh Hợi thấy giờ Bính Ngọ, không phải Nhận, trong Hợi có Nhâm hợp Đinh trong Ngọ. Ngày Canh Ngọ thấy giờ Ất Dậu, không phải Nhận, trong Ngọ có Đinh hỏa chế Tân trong Dậu. Ngày Nhâm Ngọ thấy giờ Canh Tý, không phải Nhận, trong Ngọ có Kỷ thổ chế Quý trong Tý. Ngày Tân Tị thấy giờ Mậu Tuất, không phải Nhận, trong Tị có Bính hỏa hợp Tân trong Tuất. Ngày Quý Tị thấy giờ Quý Sửu, không phải Nhận, trong Tị có Mậu thổ hợp Quý trong Sửu. Các ngày ở trên, gặp không nên thấy hình xung phá hại, nếu không thì lấy đoán mệnh tốt.
Lại viết: Dương Nhận, là hung tinh trên trời, là ác sát nhân gian, hỉ Thiên Quan, Ấn thụ, kỵ phản ngâm, phục ngâm, Khôi Cương, Tam Hợp, đại để cùng Thất Sát là tương tự, cho nên Dương Nhận hỉ kiến Thất Sát, Thất Sát hỉ kiến Dương Nhận, lưỡng hung chế phục lẫn nhau, giống như Chính Quan hỉ Chính Ấn, loại thiện hợp loại thiện là phúc.
Kinh nói: Sát không có Nhận không hiển, Nhận không có Sát không uy, Sát Nhận đều đủ, là không phải thường nhân, thêm thân vượng không thấy Thương quan là tốt, nếu nguyên mệnh có Sát Nhận, tuế vận lại gặp, hoặc có Nhận không có Sát, tuế vận phùng vận đất Sát, đều phát đại phúc. Như mệnh có Nhận có Ấn không có Sát, tuế vận phùng Sát, lại chuyển thành hậu phúc. Nếu trụ không có Nhận Sát, mệnh hợp Tài Quan, tuế vận lại gặp Nhận Sát, chủ một năm trì trệ, nhân tài cạnh tranh, huynh đệ phân cư, xa vợ xa thiếp, nếu vốn không có Nhận, hành vận Nhận tuy không sao, cũng chủ có chuyện khắc vợ, vốn có Nhận, tuế vận nhất thiết không nên lại thấy đất Thương quan Tài, vốn có mang Thương quan Tài tinh, tuế vận lại gặp, họa hại cực nặng, thân nhược càng hung. Lại viết: Nhật Nhận chỉ có 3 ngày: Mậu Ngọ, Bính Ngọ, Nhâm Tý, phép cũng giống Dương Nhận.
Kinh viết: Xích Hoàng Mã độc ngọa, Hắc Thử thủ không phòng, nam hại vợ, nữ hại chồng, chỉ có 3 ngày này vậy. Không hỉ hình xung phá hại cùng tam hội lục hợp, phải có Thất Sát tương chế, lại hành đất Quan Ấn, thì thành mệnh tốt.
Phú nói: Nhật Nhận đại kỵ xung hợp, hỉ Quan Sát tương chế, hợp hình là hung, gặp Ấn là cát, có Sát không có Nhận, thì là hữu dũng vô uy, có Nhận không có Sát, lấy việc đục trọc mà không hiển, không có Sát gặp Sát, nhất thiết sợ họa hoạn tương xâm, có Nhận gặp Nhận, phải kỵ tai nguy tương phạm, Nhận sinh Thân tử, là năm khó lấy cát suy, Tài vượng Quan thương, năm này không lấy hung đoán.
Lại viết: Ngày Mậu Ngọ, năm tháng thấy hỏa nhiều, thì lấy Ấn thụ luận; ngày Nhâm Tý, tháng giờ thấy Tý nhiều, thì lấy Phi Thiên Lộc Mã luận; ngày Bính Ngọ thấy Ngọ nhiều, cũng lấy Đảo xung Lộc Mã luận. Tự Nhận lại có 4 ngày: Quý Sửu, Đinh Sửu, Đinh Mùi, Kỷ Mùi, vì tọa dưới Tỉ kiên Dương Nhận; Phi Nhận có 4 ngày: Bính Tý, Đinh Sửu, Mậu Tý, Kỷ Sửu, vì lấy ở dưới xung xuất Dương Nhận, cùng Nhật Nhận ở trước có hỉ kỵ giống nhau. Trụ năm Dương Nhận cùng trụ giờ Dương Nhận là tối trọng, trụ năm là chủ phá bại tổ cơ, không được sản nghiệp của cha mẹ, cả đời thi ân lại oán; trụ giờ thì chủ khắc vợ con, về già không có kết quả, tứ trụ lại phùng, tai tật tay chân; trụ tháng hơi nhẹ, trụ ngày càng nhẹ hơn. Can chi tháng ngày nhân mệnh mang Tài nhiều, nhật can suy nhược, giờ mang Dương Nhận, là vô hại; tháng mang Thất Sát, giờ mang Dương Nhận, nhật chủ có khí, đại quý; như tháng mang Dương Nhận, trụ giờ là lúc mang một chút Quan, lực không thể chế, cũng hung. Lại viết: Nam mệnh kiến Bại Kiếp, lại kiến Thương quan, tất khắc vợ con, nữ mệnh khắc phu.
Phú nói: Bại tài là Tỉ kiên tinh, thần cướp đoạt, Tài đa thân nhược, thấy là tốt, Tài nhược thân vượng, thấy là họa, có Tài gặp Kiếp, vận nhập Tài hương, tự có thể thành gia, không có Tài gặp Kiếp, dàu không có năm Tài, cũng là kiến phá, vốn có Kiếp lại gặp Kiếp vận, thủ đường cùng thê thảm, thân vượng lại thêm Ấn trợ, tất vinh hoa mà phát phúc.
《 Tâm tướng phú 》 nói: "Kiếp tài Dương Nhận, rời tổ thành gia, bên ngoài khiêm hòa thượng nghĩa, trong nội ngu độc vô tri, có ý cướp khắc, không có tâm từ thiện."
《 Tâm Cảnh 》 nói: "Dương Nhận trùng trùng lại kiến Sát, đại quý, đăng khoa giáp."
《 Thiên Lý Mã 》 nói: "Dương Nhận có Thiên Quan chế, ứng chức nắm giữ binh quyền." Lại nói: "Nam phùng Dương Nhận, thân nhược gặp là tối kỳ." Lại nói: "Dương Nhận Thất sát, xuất sĩ thành danh." Lại nói: "Dương Nhận nhập Quan Sát, uy trấn biên cương."
《 Ngọc Hạp phú 》 nói: "Hỏa kim Dương Nhận, Lục Châu rơi chết từ lầu cao" . Lại nói: "Dương Nhận trùng trùng 3,4, tất phải hoạn tật đui điếc."
《 Kinh Thần phú 》 nói: "Đầy bàn Dương Nhận, tất định phân thây."
《 Định Chân thiên 》 nói: "Dương Nhận nếu phùng Ấn thụ, dẫu có giàu thì cũng tàn tật ở thân."
《 Tạo Vi luận 》 nói: "Dương Nhận phùng ở ngũ hành, định phải trọng phạm tù tội."
Tôi thấy phạm Dương Nhận sát đa số là mù loà, như: Quý Dậu, Mậu Ngọ, Mậu Dần, Quý Sửu; Bính Dần, Canh Dần, Bính Ngọ, Ất Mùi; Đinh Mão, Quý Mão, Giáp Tý, Ất Hợi, 3 mệnh này đều bị mù loà.
Cổ ca viết:
Giờ phùng Dương Nhận hỉ Thiên Quan,
Nếu thấy Tài Tinh họa bách đoan,
Tuế vận tương xung cùng tương hợp,
Đột nhiên hưng họa đến cửa nhà.
Lại nói:
Dương Nhận trọng phùng hợp có thương,
Chủ nhân tâm tính khí cao cường,
Hình xung thái trọng đa hung ách,
Có chế mới có ôm cát xương.
Lại nói:
Nhận phùng Thất Sát mộ đất Quan,
Chỉ sợ hình xung lộc không hưng,
Hội hợp lại phùng Tài vượng vận,
Dự phòng tai họa đến tai ương.
Lại nói:
Tỉ kiên Dương Nhận cách phi thường,
Phải thấy Quan tinh cùng đất Sát,
Nguyên thần nếu không Quan Sát chế,
Tái hành Tỉ kiếp họa khó đương.
Lại nói:
Tài tinh khinh nhược Nhận cương cường,
Ở đất thân vượng rất kkho6ng cát,
Phượng Quả Loan Cô đêm thanh oán,
Đợi nghe khắc vợ hai ba song.
Lại nói:
Nhận phùng đất vận Thất Sát Quan,
Phá hại hình xung quý dị thường,
Thiết kỵ hợp phùng Tài vượng địa,
Tất gặp tai họa phản hình thương.
Lại nói:
Nhật Nhận vẫn giống như Dương Nhận,
Quan tinh Thất Sát hỉ gặp đây,
Tuế Quân nếu cũng không khắc Nhận,
Trên chi xung hình lập vũ công.
Lại nói:
Dương Nhận thường cư ở trước Lộc,
Tính cương quả quyết ít nhân từ,
Không nên hội hợp phòng tai đến,
Nếu thấy Tài tinh họa tất triền;
Có Quan có Sát danh hiển đạt,
Không xung không phá lộc vinh thiên,
Lại thêm hình hại Khôi Cương hợp,
Phát tích biên cương nắm rọng quyền.
Như mệnh: Nhâm Thân, Nhâm Tý, Mậu Ngọ, Ất Mão, là tự tọa Dương Nhận, 2 Nhâm Thân Tý, Tài vượng mà còn nhiều, Tý Ngọ tuy xung, Thân Tý hội Ngọ không thể xung, giờ có Quan chế phục Dương Nhận, chỉ lấy Tài Quan cách mà xem, cho nên đại quý. Lại như mệnh: Bính Tuất, Quý Tị, Mậu Ngọ, Đinh Tị, Mậu quy lộc ở Tị, Ngọ tuy là Dương Nhận, sở dĩ nhận lộc, là vì có Ấn thụ hóa Nhận, cho nên quý.
Luận Kiến Lộc
(Chỗ này cùng ở trước luận Lộc đồng tham khảo)
Kiến Lộc, là ngày Giáp tháng Dần, ngày Ất tháng Mão, ngũ hành ở vị trí lâm quan vậy. Giáp dụng kim là Quan, kim tuyệt ở Dần, dụng thổ là Tài, thổ bệnh ở Dần, lấy thân vượng thái quá, Tài Quan đều không được, nếu chỗ khác không có Tài Quan để thủ, lại gặp Kiếp đoạt, Mã đã không phù, Lộc lại cũng không dưỡng, đa số chủ bần tiện, khá thích hợp giờ mang Thiên Quan, Thiên Tài hoặc Thực thần, lại xem trên năm giờ lộ ra là thủ dụng, nếu hơi thấy Tài Quan, trái lại là tranh đoạt không cát. Phàm mệnh có Nguyệt lệnh Kiến Lộc, khó được tổ nghiệp, tất chủ cả đời thấy tài không tụ, nhưng ít bệnh thọ lâu, hành vận lại thấy Tỉ kiên, là khắc vợ hại cha tổn thương con, hoặc qgặp uan phi phá tài, hoặc vì vợ cùng nô tài bạch tranh đoạt. Như trong ngoài bát tự vốn có Tài Quan, dẫn về đất vượng đắc địa, Quan tinh có trợ, vận lâm Quan tinh đất có khí, cũng quý; Tài tinh có trợ, vận lâm đất Tài vượng, cũng phú; Tài Quan đều vượng, là mệnh phú quý. Nếu gặp giờ Tài khố, vận đến đất Tài, tất chủ về già đại phú. Trụ năm có Tài Quan trợ, tất hưởng tổ ấm. Nếu tứ trụ vốn không có Tài Quan, dù vận hành đất Tài Quan, cũng chỉ là hư hoa mà thôi. Mệnh không có Tài Quan, tuế vận lại hành Tỉ kiên, cả đời bần khốn.
Phú nói: Căn ở trước mầm, quả ở sau hoa. Là nói trước có căn sau đó mầm sinh trưởng, có hoa sau đó mới kết quả. Nếu trụ năm lúc sinh ra không có Tài Quan, dù gặp vận Tài Quan là cát, phát phúc không lớn. Giả sử như ngày Giáp tháng Dần, trong trụ có chữ Ất Mão Mùi nhiều, chủ không có tổ tài, khắc vợ, cả đời cô bần, làm việc hư trá, dáng dấp ra vẻ người lớn. Ngày Ất sinh tháng Mão, trụ có các chữ Canh Tân Tị Dậu Sửu Thân cùng Mậu Kỷ Tị Ngọ Thìn Tuất, Tài Quan nhiều thì quý, Nhâm Quý Thân Tý Thìn Hợi phù thủy Ấn thành cục cũng tốt, vận là phùng càng tốt, nếu trụ không thấy Tài Quan Ấn Thực, đoán như trước vậy. Bính sinh tháng Tị, can chi năm giờ có thủy kim thành cục, vận trải qua đất Tài Quan vượng, cũng chủ phú quý. Đinh sinh tháng Ngọ, kim bại thủy tuyệt, Tài Quan đều nghịch, thuận vận thì khắc vợ, nghịch vận thì khắc 3 vợ, nếu trụ có Tị Dậu Sửu Canh Tân Nhâm Quý Hợi Thân Tý Thìn, vận lâm đất Tài Quan vượng cũng phát, dụng Sát hoặc Ấn, lấy nhiều là quý, nếu chỉ Kiến Lộc, cũng đoán giống như trên. Ngày Mậu tháng Tị, năm ngày giờ không có thủy, chủ khắc vợ, không có tổ nghiệp, con nhiều nhưng không ra gì, trong trụ có nhiều Quan thì cát, như thấy Thiên Quan, chủ tôn quý, năm tháng nếu như hỏa nhiều hoặc cùng Ấn thụ, tuy không có Tài Quan, chủ cát, nếu bên trong trụ ẩn hiện Nhâm Quý Hợi Thân Tý Thìn thủy cục, con chậm chị có 1,2, có Giáp Dần Ất Mão Hợi Mùi mộc cục, vận đến đất Tài Quan vượng cũng phát. Kỷ sinh tháng Ngọ, lấy Nhâm thủy là Tài, tháng 5 thủy tù, chủ không có tổ nghiệp, khắc vợ, con cũng không nhiều, năm giờ thấu ra Dần Giáp là Chính Quan, tháng 5 Giáp tử, Quan tất bé nhỏ, hỉ kiến Hợi Mão Mùi Ất, thân vượng kiến Quan Sát là tốt, Thiên Tài cũng hay. Ngày Canh tháng Thân, sinh ở thượng tuần, gần mộc dư khí, cũng khó có tổ tài, tuy tiết khí lâm đất thủy tuyệt, ở trên có 3,4 phần khố Tài là phúc, vận đến Bính Tuất, hết tài vậy, nếu năm ngày giờ mang nhiều Tài, xem là mệnh tốt, kiến Bính Đinh Tị Ngọ Dần Tuất hỏa cục thì có Quan, lấy Sát hóa Quan vậy, Quan nhỏ cũng không thanh hiển, sợ Nhâm Quý Hợi Tý, khắc Quan không thành. Ngày Tân tháng Dậu, không có tổ tài, trong trụ thấy nhiều phân đoạt, cô bần không vợ, hoặc khắc vợ không có tài, nếu mang mộc hỏa sinh vượng, lại lấy phú quý, nguyên không có Tài Quan, lại hành Sinh địa, kiếp họa càng nặng, hoặc thấy Tân Dậu thì là Chuyên Lộc, lại có Tài Quan Ấn Thực thần tuế vận lại gặp càng tốt, nghịch vận nam phương thì cát, thuận vận bắc phương, bách sự không thành, nếu ngày Tân Mão, Tân Mùi là thân tự tọa Tài, có thể có y lộc, ngày Tân Tị có Quý, quan lộc cũng nhẹ.
Ngày Nhâm tháng Hợi, ngày Quý tháng Tý, đều không có tổ nghiệp, trong trụ thấy nhiều hỏa thổ, chủ có liên quan tự thành lập, như thấy thủy nhiều phiếm lạm, không thành, khắc vợ, bần bạc.
Lại viết: Ngày Giáp tháng Dần thích hợp lúc trẻ đảm nhận, ngày Ất tháng Mão thích hợp giờ Tân Tị, ngày Bính tháng Tị thích hợp giờ Kỷ Hợi, ngày Đinh tháng Ngọ thích hợp giờ Canh Tý, ngày Mậu tháng Tị hợp giờ Giáp Dần, ngày Kỷ tháng Ngọ hợp giờ Ất Sửu, ngày Canh tháng Thân hợp giờ Bính Tuất, ngày Tân tháng Dậu hợp giờ Đinh Dậu, ngày Nhâm tháng Hợi hợp giờ Mậu Thân, ngày Quý tháng Tý hợp giờ Kỷ Mùi. Là thấy Sát thủ quý, nhưng cũng không thể quá nhiều, tuế vận lại phùng Sát địa, chủ yểu chiết. Như mệnh: Năm Nhâm Thân, mất lộc, tuế vận xung mà còn hội Thương Quan Sát vậy, Kiến Lộc dụng Tài Quan, thương khử Bính hỏa, cho nên yểu. 《 Độc Bộ 》 nói: "Nguyệt lệnh Kiến Lộc, phần đa không có tổ ốc, một khi thấy Tài Quan, tự nhiên thành phúc." Lại nói: "Kiến Lộc sinh đề nguyệt, Tài Quan hỉ thấu thiên, không nên thân tái vượng, duy hỉ Mậu Tài nguyên."
《 Minh Thông phú 》 nói: "Kiến Lộc, tọa Lộc hoặc cư Lộc, đơn độc gặp Tài Quan Ấn thụ, phú quý lâu bền."
Hợp các thuyết lại, Tử Bình luận Kiến Lộc đều cùng cổ nhân luận Lộc, thủ dụng khác xa không giống vậy. Tôi căn cứ theo Dương Nhận, Tỉ kiên, Bại tài, Kiến Lộc, danh tuy khác nhau, thực ra cũng giống như cùng một nhà, ở địa chi viết Nhận, viết Lộc, ở thiên can viết Tỉ, viết Kiếp, thủ dụng khá là giống nhau, cho nên lấy Kiến Lộc kế sau Dương Nhận, Kiến Lộc cũ là không có cách, cũng chỉ thủ lấy chi tháng, không có thể thủ cách, còn thiên can nếu có Tài Quan quý khí, cho nên thủ Kiến Lộc như Tỉ Kiếp, đặc biệt phát minh ra ý nghĩa mà thôi.
(Hết quyển 6)