Phần Sấm chữ quốc ngữ trong nhiều bản in dài khoảng 400 câu, thường viết theo thể lục bát hoặc song thất lục bát, cũng có khi xen thể ngũ ngôn, lục ngôn, thất ngôn. Phần này có thể được phiên ra từ ba bản nôm của Trường Viễn Đông Bác Cổ: Trình Tiên Sinh Quốc Ngữ, Trình Trạng Nguyên Sấm Ký Diễn Ca, Trình Quốc Công Sấm. Phần Sấm chữ quốc ngữ không có giá trị chân xác bằng Sấm chữ Nho vì nhiều lý do :
- Thời Trạng Trình, thế kỷ XVI, chưa có thể thơ lục bát hoặc thể này mới phôi thai trong giới bình dân. Hơn một trăm bài thơ Nôm của Bạch Vân Thi Tập còn lại đều làm theo thể thất ngôn bát cú (bẩy chữ tám câu), thỉnh thoảng có bài sáu câu sáu chữ, không có bài nào làm theo thể lục bát.
- Viết bằng chữ Nho tiện cho Sấm văn vì nhiều khi phải dùng tới ẩn ngữ, chiết tự, kinh Dịch, tinh đẩu ... vốn là ưu điểm diễn đạt hàm xúc của Hán tự.
- Suốt 400 năm qua, thời Nho học, kẻ sĩ biết trọng chữ nghĩa của cổ nhân, ít ai dám bôi bác tác phẩm của ngươì khác, lại càng không dám mạo danh một vị danh nho như Trạng Trình để bịa đặt hoặc thêm thắt. Vì thế phần Sấm chữ Nho tương đối giữ được nguyên tác, trong khoảng 90 - 100 câu, chỉ độ 16 - 20 câu (20 %) đáng nghi ngờ, đa số các câu khác đều phản ảnh trung thực chủ đề của Sấm Trạng Trình. Một vài sửa đổi của vua Tự Đức (như đổi họ Lý ra họ Nguyễn) rất vụng về không ăn khớp với câu khác và với đại thể, nên các nhà Nho thời xưa đều phân biệt được.
- Từ 1930 tới nay, chữ quốc ngữ được xử dụng và thể lục bát rất phổ biến, lại thêm nhiều phe phái tuyên truyền trong hai ba thế hệ tranh chấp, nên phần Sấm quốc ngữ bị thêm thắt xuyên tạc, thay đổi, nhiều khi trắng trợn và vô nghĩa. Tuy vậy việc nhận ra nguyên bản không phải là không thể làm được. Một khi đã đọc toàn phần Sấm chữ Nho, lấy được đại ý và tìm thấy chủ đề, đọc sang phần chữ quốc ngữ sẽ phân định được ngay chính giả.
Dựa vào tiêu chuẩn trên, xoay quanh chủ đề Thánh nhân xuất, chúng tôi luận giải sau đây những câu Sấm đích thực hoặc những câu do cổ nhân (nhà Nho, nhà Sư ... ) viết thêm diễn nghĩa Sấm Trạng mà không có tà tâm xuyên tạc. Việc ghi hết các câu Sấm ra đây không cần thiết vì lẽ không có bản Sấm nào là chính bản, ngay cả những bản đầu tiên (1930) cũng sai sót.
1 - Xem ý trời có lòng khải thánh
Đốc sinh hiền điều đỉnh hộ mai
Chọn Đẩu, Thai, những vì sao cả
Dùng ở tay phụ tá vương gia
Bắc phương chính khí sinh ra
Có ông Bạch Sỉ điều hòa hôm mai
Đoạn này dùng khoa chiêm tinh, tính chu kỳ tinh đẩu để tìm ra thời thánh xuất, sự tụ hội của các vì sao trên nền trời nước Việt, ở đây là sao Ngưu (chủ tinh, xem phần chữ Nho) và sao Đẩu, sao Thai trên phương Bắc vốn là phương chính khí theo Dịch lý. Danh hiệu Bạch Sỉ của Thánh nhân được nhắc tới nhiều lần trong bộ Sấm. Bạch liên hệ tới tên Thánh, Sỉ hàm chữ Nhân, tức thánh Tản Viên. Tản Viên Sơn Thánh là một trong tứ bất tử của dân tộc Việt, ngài hóa thân vào một nhân vật để trị nước an dân.
2 - Lại nói sự Đà giang sinh thánh
Hoàng phúc xưa đã định Tây phong
Lầu lầu thế giới sáng trong
Lồ lộ mặt rồng, đầu có chữ vương
Rõ sinh tài lạ khác thường
Thuấn Nghiêu là chí, Cao Quang là tài
Chữ Đà giang bị vua Tự Đức đổi là Hoàng giang, một con sông gần vùng phát tích của họ Nguyễn (Gia Miêu, Thanh Hóa), đổi như vậy dễ nhận ra vì câu sau Tây phong (Tây phương ? ) ăn khớp với Đà giang, thuộc phương Tây đối với Thăng Long hoặc đối với Bạch Vân Am nơi Trạng Trình nhìn sao chép Sấm. Sau này có cơ quan tuyên truyền đổi thành: Lại nói sự Nam Đàn sinh thánh, Nam Đàn thuộc Nghệ An, phía Nam ! (Ông Phan Khắc Hòe cũng đã thuật lại năm 1945 chính ông đã đặt ra câu sấm: Đụn sơn phân giái, Bò đái thất thanh, Nam đàn sinh thánh để thuyết Bảo Đại thoái vị - Tạp chí CS 11 -82 Hà Nội).
Đại ý: Thánh nhân trị nước thanh bình nhân đạo như thời Nghiêu Thuấn, tài giỏi như Hán Cao Tổ, Quang Vũ Đế trong sử Trung Hoa ...
3 - Đời này thánh kế vi vương
Đủ no đạo đức văn chương trong mình
Uy nghi dung mạo khác hình
Thác cư một góc kim tinh phương đoài
Đoạn này mô tả dung mạo đức độ thánh quân vương, ngài xuất từ phương Đoài (tây phương, kim tinh). Thể thơ lục bát cho thấy đoạn sấm được viết vào thời sau, thế kỷ 18 – 19 - 20, như một công trình chú giải Sấm Trạng Trình bằng thơ nôm. Có thể đưa ra giả thuyết là Trạng Trình không viết Sấm, chỉ đọc một số quẻ Dịch (như quẻ Càn thuần quái cho học trò là Trương Thời Cử) hoặc quẻ Thái Ất ... các môn sinh ghi nhớ sao chép lại, từ đấy lời Sấm được truyền đi, bằng chữ hoặc bằng lời. Một số quẻ tiên tri như vậy dần dần được chú giải thêm bằng thơ nôm sau này trong giới nhà Nho, nhà Chùa ... tới thời hiện đại Sấm Trạng Trình trở thành một công trình tập thể.
4 - Nói cho hay Khảm cung rồng dấy
Chí anh hùng xem lấy mới ngoan
Chữ rằng lục thất nguyệt gian
Ai mà nghĩ được mới gan anh tài
Thánh nhân (rồng) dấy lên ở phương Bắc (Khảm cung), vào thời gian lục thất. Lục thất nguyệt gian có thể dựa trên lịch Thái Ất ( ? ), trên vận thất khai ( ? ), cụ Ba La không giải rõ mà chỉ nói Thánh nhân xuất vào thời này, nhưng trước khi xuất thì "phương Bắc phải mạnh lên đã rồi mới tới đúng thời". Chữ lục thất giống sấm Nostradamus nói về tháng 7 tháng 8 dương lịch 1999, tức tháng 6 tháng 7 âm lịch chăng ? Nếu vậy thì đây là đoạn sấm tính chu kỳ tinh đẩu kỹ càng như sấm Nostradamus. Chúng tôi nghĩ chữ lục thất đã được xử dụng trong cả bài sấm của Sư Vạn Hạnh, như vậy đây là một ẩn ngữ hoặc một cách tính chiêm tinh lý số mà bây giờ không mấy ai thấu triệt.
5 - Bốn phương chẳng động can qua
Quần hùng các xứ điều hòa làm tôi
Bấy giờ rộng mở quy khôi
Thần châu thu cả mọi nơi vẹn toàn
Thánh nhân xuất bốn phương an tĩnh, mọi người mọi phe qui phục, bờ cõi mở rộng, thần châu bao gồm châu Kinh châu Dương khi xưa thuộc địa phận Bách Việt sẽ thu lại vẹn toàn cho nòi giống.
6 - Xem tượng trời biết đường đời trị
Ngẫm về sau họ Lý xưa nên
Dòng nhà để thấy dấu truyền
Ngẫm xem bốn báu còn in đời đời
Xem thiên văn biết nước Việt sẽ tới đời thịnh trị, nhà Lý thời xưa về sau lại dấy nghiệp lên. Bốn báu đời Lý để lại cho nước Nam ta là Tháp Báo Thiên, Phật Quỳnh Lâm, Vạc Phổ Minh, Chuông Phả Lại, còn gọi là An Nam tứ khí do quốc sư Nguyễn Minh Không chủ xướng như là dấu ấn của triều đại vương đạo thịnh trị. Triều Lý khởi đầu vào năm Canh Tuất 1010, được 215 năm, thì bị họ Trần diệt. Trong các vương triều Việt Nam, đây là vương triều dài liên tiếp nhất và tương đối nhân đạo nhất sau đời Hùng Vương. Đồng dao có câu:
Bao giờ rừng Báng hết cây,
Đầm Long hết nước Lý nay lại về
Rừng Báng và Đầm Long gần Đình Bảng, đất phát tích của họ Lý một ngàn năm trước. Nay rừng Báng cây đã chặt hết, đầm Long đã lấp từ lâu, vậy là tới chu kỳ họ Lý trở lại chăng
7 - Lại nói sự Đà giang sinh thánh
Sông Bảo giang thiên định ai hay
Lục thất cho biết ngày đây
Phụ nguyên ấy thực ở rày Tào khê
Có thầy Nhân Thập đi về
Tả phù hữu trì cây cỏ làm binh
Giốc hết sức sửa sang vương nghiệp
Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời
Ra tay điều đỉnh hộ mai
Bấy giờ mới biết là tài yên dân
Lọ là phải nhọc kéo quân
Thấy Nhân ai chẳng mến Nhân tìm về
Năm Giáp Tý vẻ khuê đã rạng
Lộ ngũ tinh trinh tượng thái hanh
Ơn trên vũ thí vân hành
Kẻ thơ Ký túy, kẻ canh Xuân đài
Bản đồ chẳng sót cho ai
Nghìn năm lại thấy mọi nơi vẹn toàn
Đoạn này nhắc lại Bảo giang và lục thất, hai chữ lục thất chưa thấy tài liệu nào giải được rành mạch. Có thể chắc rằng đây là một cách tính trong kinh Dịch, Thái Ất ... để cho mốc thời gian từ đó có thể tính ra chính xác thời điểm xuất hiện của "Ngưu tinh tụ Bảo giang" và "Đại nhân cư chính trung". Trong đoạn sấm khác cũng có câu tương tự
Quyển vàng mở thấy sấm trời
Từ Đinh đổi đời chí lục thất gian
Trong khi chờ đợi các bậc cao minh nghiên cứu lý số tinh đẩu để xác định, may thay trong đoạn số 5 và số 6 người xưa đã cẩn mật để thêm một mốc nữa đánh dấu thời điểm thánh xuất: Câu "Ngẫm về sau họ Lý xưa nên" được nối tiếp ở đoạn sau: "Nghìn năm lại thấy mọi nơi vẹn toàn". Như vậy đã khá rõ khi ta đọc liền lại hai câu là nghìn năm sau họ Lý lại thấy mọi nơi vẹn toàn. Triều Lý khởi đầu năm 1010, khoảng nghìn năm sau là 2010, hợp với câu Sấm: Canh, Tân, tàn phá (Canh Thìn 2000 ?, Tân Tỵ 2001 ?), Tuất, Hợi phục sinh (2006 - 2007 ?), nhị ngũ dư bình (nhị ngũ có thể là năm nhuận tháng 5 ?) sẽ thái bình. Hai câu sấm khác cũng diễn tả tương tự :
Chó nọ vẫy đuôi mừng Thánh chúa
Ăn no ủn ỉn, lợn kêu ngày
Chó là năm Tuất, Lợn là năm Hợi, cùng hợp vào câu "Tuất Hợi phục sinh". Câu "Thấy Nhân ai chẳng mến Nhân tìm về" và câu trên "Có thầy Nhân Thập đi về" nhấn mạnh khéo léo những chữ Nhân ám chỉ tên thánh Tản và cũng hàm ý nhân nghĩa đạo đức của bậc Thánh quân vương.
Chữ Giáp Tý có thể bị vua Tự Đức đổi vì năm Giáp Tý (1804) là năm vua Gia Long được Tầu phong vương mặc dù lên ngôi từ năm Nhâm Tuất (1802). Nếu suy diễn một nghìn năm sau nhà Lý đúng, thì câu đó phải đọc là năm Mậu Tý 2008 đi liền sau 2 năm phục sinh Bính Tuất 2006 và Đinh Hợi 2007.
Nếu là năm Giáp Tý chu kỳ sau, 2044, thì lại không ứng hợp với câu nghìn năm lại thấy mọi nơi vẹn toàn (sau nhà Lý). Chữ Đà giang bị đổi thành Hoàng giang, chữ phụ nguyên (chiết tự thành chữ Nguyễn) cũng có thể đã bị sửa vào đời Nguyễn. Tưởng cũng nên kể ra ở đây một sự kiện lịch sử lý thú là con cháu Hoàng tử Lý Long Tường lưu lạc sang Hãn Quốc từ bảy trăm năm nay, đã trở về thăm đền Lý Bát Đế tại Đình Bảng, Kinh Bắc, và lễ tổ vào năm 1997. Như vậy một phần nào lời Sấm đã bắt đầu ứng nghiệm và đang mở dần dần ra.
* Theo lời Bốc sư Ba La, Sư Vạn Hạnh đã biết núi Tản Viên là tổ sơn, Bảo giang, Bảo Sơn có đại thế phong thủy nên đã đặt đất cho nhà Lý để nghìn năm sau tái phát thánh vương, lấy đại địa tối linh phối hóa vào Nhân Thập Bạch Sỉ với đại hồng vận non sông.
* Năm 1963, một nhà Chiêm tinh Ấn Độ sang Việt Nam và đã nhìn thấy ma khí trong dinh Độc Lập, sau ngày chính biến 11 - 1963, ký giả Phan Nghị trên báo Ngôn Luận đã tường thuật cuộc phỏng vấn bị kiểm duyệt trước đó, bài tường thuật có 2 điểm rất đáng chú ý: Một là nước Việt Nam có nhiều cơ hội để thống nhất, hai là ông (Chiêm tinh gia Ấn) nhìn thấy một vì sao rất sáng trên vòm trời Khảm phương nước Việt, báo hiệu sự giáng thế của một đại nhân.
8- Chờ cho động đất chuyển trời
Bấy giờ Thánh mới nên trai anh hùng
Dù cho ai chửa biết tường
Nhất thổ thời sĩ Khảm phương thuở này
Ý ra lục thất gian nay
Thời vận đã định tuần này hưng vương
Trí xem nhiệm nhặt cho tường
Bảo giang thánh xuất trung ương thuở này
Trong 8 câu này lại thấy Bảo giang, Khảm phương chỉ phương hướng thánh xuất, ba chữ lục thất gian chỉ định tuần này hưng vương. Đọc đoạn này càng thấy rõ hai chữ lục thất là chìa khóa Tử vi tinh đẩu xác định thời điểm hưng vương, thánh Tản hóa thân xuất hiện trên vòm trời Việt với chủ tinh sao Ngưu ở trung ương và các phụ tinh rực sáng chung quanh Khảm phương. Chìa khóa đó nằm trong Thái Ất, Tổng Trì Tam Ma Địa, Quẻ Dịch ... mà hiện tại không còn mấy ai thấu triệt. Có thể Trạng Trình đã xử dụng nhiều khoa lý số - trong đó phải có khoa chiêm tinh - để đi đến một quẻ tiên tri vận số quốc gia ngũ bách niên hậu. Điều này Sư Vạn Hạnh đã làm trước Trạng Trình 500 năm và đã xử dụng khoa Tổng trì Tam Ma Địa với ảnh hưởng chiêm tinh học Tuyết sơn Hy Mã do các nhà sư Tây Trúc mang sang trung tâm Luy Lâu (thuộc Kinh Bắc). Bài Sấm của Vạn Hạnh được ghi trong chính sử có ba câu kết đáng chú ý:
Đoài cung ẩn tinh
Lục thất niên gian
Thiên hạ thái bình.
Đoài cung, phương Tây, và lục thất gian được nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong Sấm Trạng Trình. Có thể Trạng Trình chỉ xác định lại lời tiên tri của Vạn Hạnh. Vạn Hạnh nhìn ra ẩn tinh một ngàn năm sau và Trạng Trình cũng nhìn ra năm trăm năm sau bằng cùng một khoa lý số học. (Xin xem phần Sấm Vạn Hạnh) .
9 - Tìm lên đến Thạch Bàn Khê
Có đất sinh Thánh bên kia cuối làng
... ... ... .
Chẳng tìm thì đến Bình gia
Thánh chưa sinh Thánh báo ca địa hình
Nhìn xem phong cảnh cũng xinh
Tả long triều lại có thành đợt vây
Hữu hổ uốn khúc giang này
Minh đường thất diệu trước bày mặt tai
Đằng xa thấy một con voi
Cúi đầu quen bụi, trông về hồ sau
Ấy điềm Thiên tử về chầu
Tượng trưng Đế thánh, tộ lâu trị đời
... ... ... .
Đến đời thịnh trị còn lâu ... .
Đoạn này của hậu thế dựa trên Sấm Trạng đi tìm đất sinh Thánh và mô tả phong thủy địa lý của ngôi đại địa đó. Thạch Bàn Khê là khe suối Thạch Bàn nơi Sơn Tinh tức Thánh Tản lựa chọn ngự giá: "Vương đi lên núi Thạch Bàn đầu non Vân Mộng mà ở ... " theo Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp. Câu Thánh chưa sinh Thánh có nghĩa là Thánh Tản chưa hóa thân vào một vị Thánh vương.Về phương diện phong thủy người ngắm đất thấy Tả long, Hữu hổ, Minh đường và một thế đất hình con voi. Hữu hổ uốn khúc giang này cho biết tay hổ bên dòng sông, Bảo giang tức Đà giang vốn là tay hổ (tả long hữu hổ) theo địa lý vùng đất Hồng Đà, Tam Đảo Tản Viên. Đến đời thịnh trị còn lâu cho thấy đoạn này đã được viết khá lâu, có thể từ thế kỷ XVIII - XIX.
10 - Trí xem nghiêm ngặt cho tường
Bảo giang Thánh xuất trung ương thuở này
Vua ngự Thạch Bàn xa thay
Đại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng
Vua còn cuốc nguyệt cày mây
Phong điều vũ thuận thú rày an thân
Phong đăng, hòa cốc chứa chan
Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây
Chính cung phương Khảm vần xoay
Thực thay Thiên tử là tay trị đời ...
Đoạn này mở rộng đoạn trước: Vua ở Thạch Bàn bên Bảo giang trong khu rừng vắng vẻ. Vua chưa xuất, còn cuốc trăng cày mây chờ thời. Người biết chiêm tinh lý số thấy được mây ngũ sắc hiện ra nơi Khảm cung phương Bắc, thấy chu kỳ tinh đẩu tụ hội trên giang sơn gấm vóc với sao Ngưu tinh trung ương rực rỡ. Có thể đoạn Sấm này được viết ra không lâu (thế kỷ XIX ?) vì người viết đã thấy ngũ sắc mây tức điềm lành, mà điềm lành không thể hiện ra mấy trăm năm trước.
11 - Đời ấy những quỷ cùng ma
chẳng còn ở thật người ta đâu là
... ..
Cây bay lá lửa đòi ngàn
Một làng còn mấy chim đàn bay ra
Bốn phương cùng có can qua
Làm sao cho biết nơi hòa bảo thân
... ..
Chiến trường chốn chốn cát lầm
Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông
Nói về cảnh tao loạn. Lúc sinh thời, Trạng Trình đã sống trong nội chiến, ông tiên đoán 8 đời sau "binh qua khởi trùng trùng" cho tới thời "Ngưu tinh tụ Bảo giang" mới thanh bình thật sự. Những câu trên không biết ứng vào thời loạn nào, không thể xác định được thời gian.
12 - Xem Đoài cung đến thời bất tạo
Thấy vĩ tinh liệu dạo cho mau
Nguôi lòng tham tước tham giầu
Tìm nơi tam hiểm mới hầu bảo thân
Trẻ con mang lệnh tướng quân
Ngỡ oai đã dậy, ngỡ nhân đã nhường ...
Vĩ tinh, sao chổi, là điềm rất xấu đối với Đông và Tây. Năm 1910 sao chổi Halley có đuôi dài hết chân trời, các lần xuất hiện trước vào năm 1531, 1607, 1682, 1758 ... lần gần đây nhất là năm 1986. Cổ nhân thấy sao chổi, mây thành (mây đen kín và thẳng băng chân trời như bức thành đen dài) chiêm nghiệm là loạn lạc binh biến xẩy ra. Năm 1949 có mây thành xuất hiện ở miền Bắc và chiến tranh kéo dài suốt 25 năm. Hai câu cuối nhiều người cho là ứng vào cuộc chiến Việt Nam vừa qua, đàn bà trẻ con thiếu niên cũng được dùng vào chiến trận. Nơi tam hiểm có người cho là núi cao, sông sâu, rừng rậm, nhưng nếu ẩn thân vào những nơi đó thì phải vào thời xưa mới bảo thân được, thời nay chiến tranh bom đạn không còn nơi nào trốn tránh an toàn.
13 - Một cơn sấm dậy đất bằng
Thánh nhân ra mới cứu hằng sinh linh
Lược thao văn vũ tài tình
Mới hay phú quí hiển vinh lạ lùng
Tam công gập hội vui mừng
Bõ khi cá nước vẫy vùng biển sông
Bõ khi chém rắn vẽ rồng
Bõ khi non Bắc ải Đông mịt mù
Bõ khi kẻ Việt người Hồ
Bõ khi kẻ Sở người Ngô xa đường.
Sau chiến tranh khốc liệt, Thánh nhân mới xuất để trị dân vỗ về trăm họ. Ba bậc hiền thần - Tam công sẽ cùng Thánh vương gánh vác non sông, bõ khi xa cách mỗi người một phương. Đoạn này có thể ứng vào giai đoạn hiện tại khi dân Việt tản mát khắp năm châu, kẻ Việt người Hồ, kẻ Ngô người Sở. Có câu Sấm khác: Tỵ nhân vi tướng, Thìn, Tuất vi quân sư, có thể ứng vào ba vị Tam công cột trụ đó không ?
14 - Đoài phương thực có chân nhân
Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người
Vững nền Vương cha truyền con nối
Dõi muôn đời một mối xa thư
Bể kình tăm lặng bằng tờ
Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân
Âu vàng khỏe đặt vững chân
Càng bền thế nước Vạn Xuân lâu dài.
Bậc chân nhân xuất ở phương Tây cùng thất thập nhị hiền tướng (xem phần Sấm chữ Nho), phân phân tùng bách khởi, nhiễu nhiễu xuất Đông chinh,đây là cuộc đại tập hợp dân tộc, lấy nhân nghĩa thắng hung tàn của quần tiên phá chấp, từ bi đại lượng, không một giọt máu đổ. Lúc ấy núi sông sẽ vững âu vàng, thế nước Vạn Xuân lâu dài Vương đạo.
ST