51. Huyền Không Phi Tinh Hóa Giải Chân Pháp
Huyền Không Phi Tinh Hóa Giải Chân Pháp
]Mọi người trong lúc dùng Huyền Không Phi Tinh , thường gặp phải một vấn đề , cùng một tinh bàn mà cát hung lại không giống, cùng một tinh bàn mà người không giống nhau, không cùng tọa hướng, nên kết quả cũng không giống nhau . Như Tý sơn Ngọ Hướng và Quý sơn Đinh hướng, Tinh bàn cho kết quả giống nhau hoàn toàn, nhưng kết quả cát hung khẳng định là không giống nhau , vì sao ? bên trong nó nhất định phải có nguyên nhân, hiểu được thì sẽ thông Đạo lý, vận dụng Huyền Không lý khí mới cho kết quả tốt ! Tý sơn Ngọ hướng có thể kiêm Nhâm Bính , cũng có thể kiêm Quý Đinh, Đều cho ra một kết quả Tinh Bàn, song hai trường hợp này cát hung không giống nhau hoàn toàn . Kiêm Nhâm Bính, trong Ngọ có Đinh hỏa, Đinh Nhâm tương hợp, là tốt ; Kiêm Quý Đinh, Quý Đinh tương khắc, nên dễ sinh hung tượng. Trong lúc định tuyến lập hướng, Tý Ngọ kiêm Nhâm Bính so với kiêm Quý Đinh có ưu thắng hơn .
Lại như Quý sơn Đinh hướng, kiêm hướng Tý Ngọ, rất dễ tương khắc, kiêm Sửu Mùi, lại nếu không phạm Không Vong, dễ sinh cát tượng, vì bao trùm Quý là Tý, Tý Sửu nhị hợp, Đinh tức Ngọ, Ngọ Mùi tương hợp.
Trên đây là lấy Nguyên Bàn mà định , nếu như kết hợp Tinh Vận mà định , hiệu quả tất nhiên tốt, như Càn cung là Hỏa Thiêu Thiên Môn tức là tổ hợp 69, kiêm Hợi tất vô ngại, kiêm Càn tất tương khắc, bố cục nên hợp với Đạo Lý .
52. 12 Tướng Tinh Đoán Quyết
Lấy Tọa Sơn làm chuẩn xem phương nào có đỉnh núi cao đẹp, lấy làm quý.
Quyết : Trạng Nguyên Cập Đệ xuất từ đâu. Ở chỗ “Công Tào” khởi ngọn cao, lại có triều sơn cùng nước đẹp. Trước Điện ( Kim Loan) được cử chức Tam Công. Bảng Nhãn cập đệ ít người biết, ở chỗ “Thái Ất” có nguy nga đẹp đẽ, núi cao đoan chính Thái Hoa lang, “Đăng Minh” cao cử tối vi lương. Như thế đoán đất có tướng quân. Ở chỗ “Truyền Tống” có đỉnh cao đẹp, nếu thấy “Thắng Quang” đoan chính ngồi, cháu con thường ở đế vương cung.
Khởi Quyết:
Càn Giáp Đinh sơn (Tuất Càn) khởi, Hợi Mão Mùi sơn (Hợi Nhâm) hành.
Khôn Nhâm Ất sơn (Tý Quý) thượng, Thân Tý Thìn sơn (Thìn Tốn) khán.
Cấn Bính Tân sơn (Tỵ Bính) lập, Dần Ngọ Tuất sơn tại (Thân Canh) .
Tốn Canh Quý sơn ( Mùi Khôn) thị. Tỵ Dậu Sửu sơn (Sửu Cấn) sinh.
Chú ý : Lấy song sơn chửơng quyết khởi (Thiên Cương Tinh), thuận hành.
Ca Quyết :
“Thiên Cương” bày lập ở trong mây, nhọn đẹp sáng trước chẳng đủ vui. Có cố đeo đuổi nghiệp văn chương, khoa trường rơi lệ về chốn cũ.
“Thái Ất” Núi nhọn như măng dài, thêm trời chiếu sáng nơi minh đường. Đoán định cháu con đăng khoa giáp, tay cầm hốt ngà trước quân vương.
“Thắng Quang” đẹp đẽ chiếu minh đường, nhà trắng Công Khanh Tể Tướng Lang. Năm thước thiên nhan thường chiếu ngự, đai vàng áo tía hồi quê hương.
“Tiểu Cát” đỉnh xanh đẹp như ngọn thương, nhọn nhọn cao khởi giữ minh đường. Cháu con cầm giữ Long Xà chạy, sẽ làm tào quan Thất Phẩm lang.
“Truyền Tống” Cao nhọn vút trong mây, tuổi trẻ danh hiển thật anh hùng. Tiếng truyền biển nam người người phục. Trở về kim điện chịu ơn trên.
“Tòng Khôi” Đỉnh nhọn chiếu mộ đài, xuất sinh văn chương quán thế nhân. Lúc đầu tuy được người ưa thích, mà sau lại thiếu vẻ sang trọng, về già vô danh có chút tiền.
“Hà Khôi” Ráp cả thiên hà trước mộ phần, xuất gia thuật sĩ đệ nhất tiên. Triều đình dạy cho Thiên Tử ba Đạo sách, đổi được Kim Ngư giữ được đầu.
“Đăng Minh” Tất cả ở trong mây, cao chiếu minh đường gia trạch giàu. Đỗ đạt danh thơm đăng hai Giáp, hình dáng rậm rậm bớt phải lo.
“Thần Hậu” Đỉnh cao ngang trời, chiếu mộ phúc biến họa tương liên. Cầu danh kiếm lợi chẳng quay đầu, điểm trán rồng già nguyên tại ruộng.
“Đại Cát” cao đẹp vịn đỉnh nhọn, tất nhiên đã kính lại thêm nhàn. Không lo trong bụng mưu kim cổ, danh thơm cuối cùng vào cháu con.
“Công Tào” Chen lẫn phá một nửa trời xanh, đoan chính ngọn ngọn tụ nhau lại. Cập đệ đăng khoa đệ nhất danh, trạng nguyên quay về ngựa như mây.
“Thái Xung” Thật cao áp hết mộ, nhận thấy cháu con đẹp như rồng. Vậy mà khoa trường rớt hết sạch, thở than lều lạnh thật khốn cùng.
Án : 12 Tướng Tinh Quyết, lấy Thái Ất, Thắng Quang, Tiểu Cát, Truyền Tống, Hà Khôi, Đăng Minh, Công Tào là các phương vị có núi cao đẹp đặc biệt, lại lấy thêm Tam Nguyên Ai Tinh bày bố các Quan Vị 1 – 4, 1 – 6, 6 – 8, đồng cung, cũng như có nhà đẹp, nước đẹp, hồ trong xanh, nước có giao tụ tại hướng đầu hoặc cung bên cạnh, phương đó xuất quý, nếu không đạt được các điều kiện trên thì chỉ có hư danh mà không thực quyền. Ngoài ra, muốn xuất quý, phải lo tích âm thiện đức, hiếu dưỡng cha mẹ cho tốt.
Càn Giáp Đinh sơn thuận hành, Hợi Mão Mùi sơn thuận hành, Khôn Nhâm Ất sơn nghịch hành, Thân Tý Thìn sơn Nghịch hành.
Cấn Bính Tân sơn thuận hành, Dần Ngọ Tuất sơn thuận hành, Tốn Canh Quý sơn nghịch hành, Tỵ Dậu Sửu sơn nghịch hành.
53. Vô Thường Phái Phong Thủy Và Chương Trọng Sơn
Thuật Huyền Không Phong Thủy Phái Vô Thường gắn liền với Tên Tuổi Chương Trọng Sơn và Họ Chương nhà ông. Ông họ Chương, tự là Trọng Sơn, hiệu là Vô Tâm Đạo Nhân, chỗ ở là “Thiên Mặc Am” , người Vô Tích Giang Tô. Trong khoảng từ đời Gia Khánh đến Đạo Quang nhà Thanh, Huyền Không có tất cả 6 phái lớn, gọi là Huyền Không Lục Đại Phái: Vô Thường Phái, Điền Nam Phái, Tô Châu Phái, Thượng Ngu Phái, Tương Sở Phái, Quảng Đông Phái.
Vô Thường Phái cũng đứng ngang hàng trong các phái. Phái này nguồn gốc từ Vô Tích, phát triển khắp Thường Châu! Cho người bên ngoài thường gọi là Vô Thường Phái. Vô Thường Phái lấy sự biến đổi vô thường làm sáng chỉ của phái, Chương Công ( Trọng Sơn) chính là tông sư khai sáng môn phái!
Chương Trọng Sơn là người cự phách của Huyền Không Địa Lý sau Tưởng Đại Hồng, Vũ Tiến Lý đã ca ngợi “Độc ngữ chân thuyên, thục thôi sinh khắc chế hóa chi dụng, cát hung tiêu trưởng chi lý, Thần minh kỳ đạo vu đại giang nam bắc tam thập niên – Tức là :Một câu là rõ ràng, đã nhuần nhuyễn cách dùng sinh khắc chế hóa, tốt xấu tiêu trưởng cũng rõ lý, là bậc Thần Minh suốt hai bờ nam bắc Trường Giang 30 năm”.
Sách ông viết gồm “Biện Chính Trực Giải”, “Lâm Huyệt Chỉ Nam”, “Thiên Nguyên Ngũ Ca Giản Nghĩa”, “Tâm Nhãn Yếu Chỉ”, “Huyền Không Yếu Chỉ” . Trở thành người kế tiếp sau Tưởng Đại Hồng thành một lãnh tụ của Huyền Không. Trải qua đời con đời cháu các thế hệ vẫn tiếp nối.
Học trò có :
Đồng Hương Trần Liễu Ngu
Trường Châu Kha Viễn Phong
Kim Quỹ Tiền Kinh Sơn
Ngô Huyện Từ Gia Cốc
Hồ Châu Trần Đào Sinh
Kim Quỹ Đaò Khang Cát.
Đến đầu đời Dân Quốc, hay có người là truyền nhân của Vô Thường Phái hành thuật bí mật trong đời, cầu được thật không dễ. Sách do Chương Trọng Sơn viết công khai không nhiều, con cháu môn sinh cũng không viết sách lưu truyền. Hầu như chỉ có vài cuốn như sau :
1. “Âm Dương Nhị Trạch Lục Nghiệm” : là viết năm Gia Khánh thứ 8 Quý Dậu ( 1813) năm 1874 Thẩm Trúc Nhưng và Hồ Bá An, dùng rất nhiều vàng đưa chohaauj nhân của Chương Trọng Sơn đề mượn đọc, rồi trong một đêm chép bằng tay mà về. Về sau họ bổ chú, cải thành “Trạch Đoán” đưa vào “Thẩm Thị Huyền Không Học”, nhưng cũng chỉ đưa 54 ví dụ về Âm Trạch, 17 ví dụ về Dương Trạch mà thôi. Đàm Dưỡng Ngô trong “Đại Huyền Không Thực Nghiệm” có đưa vào cuốn “Lâm Huyệt Chỉ Nam”, đầu có lời Tự của Trương Trọng Sơn, họ Đàm do có liên hệ với thầy Dương Cửu Như truyền thụ, toàn bộ sách có 200 hình, chỉ trích 30 hình; “Đại Huyền Không Lộ Tú” trong có “Nhị Trạch Huyền Cơ” hai di cảo, cũng là của Dương Cửu Như trao cho. Duyệt qua nội dung hai họ Thẩm và Đàm đều là dùng các tư liệu bị tiết lộ, chỉ là các cái đầu đề, mà toàn bộ đều là trích dẫn từ tư liệu của họ Chương vậy.
2. “Địa Lý Biện Chính Chân Giải” : Hoàn thành vào giữa xuân năm Đạo Quang nguyên niên Tân tỵ (1821) hoặc sớm hơn.
3.”Huyền Không Bí Chỉ Phê Chú” : Hoàn Thành vào năm Đạo Quang thứ 3 Quý Mùi (1823) , sau đưa vào “Tâm Nhãn Yếu Chỉ”.
4.”Tâm Nhãn Yếu Chỉ” : Theo sách Chương Trọng Sơn tự thuật lại : “Tôi vào mùa đông năm Đinh Hợi đời Đạo Quang đến chơi Ngô Môn”, có thể cuốn này hoàn thành tại Đạo Quang thứ 7 (1827) đến khoảng Đạo Quang 16 Bính Thân ( 1836).
theo sự hoàn thành“Tâm Nhãn Yếu Chỉ” của tác giả thì thấy, Chương Trọng Sơn về già tập chung vào viết sách, và cuối cùng cuốn “Tâm Nhãn Yếu Chỉ” đã trở thành đại biểu cho ông. Sách gồm ba cuốn : Cuốn 1 là họ Chương tự thu thập, cuốn hai là Tôn Trúc Điền viết, cuốn ba là Thẩm Vũ Bình đọc.
Sau này Trọng Sơn có chú thêm : “Thiên Nguyên Ngũ Ca Xiển Nghĩa” 5 cuốn, “Huyền Không Bí Chỉ Phê Chú” cùng “Bảo Mộ Lương Quy” một thiên.
Trọng Sơn từng nói “Nhãn lấy hình tượng mà nói, gốc vậy. Tâm lấy lấy Lý mà nói, là dụng vậy.”. “Nhãn” chỉ mắt thịt thấy được cái gì thì đó hình Loan Đầu “Hình Thế”, “Tâm” là chỉ cái không thấy được, tất phải dùng tính toán trong lòng để mà thấy cái Lý Khí vô hình ( Phương vị, Tinh Quái). “Tâm Nhãn Yêu Chỉ” tức tại chỗ làm rõ Loan Đầu và Lý Khí là hai bộ phận liên quan mật thiết quan trọng. Xan Hà Đạo Nhân Diêu Đình Loan nói : “Loan Đầu là thể, Lý Khí là dụng. Toàn bộ Loan Đầu do chân tay người, ngũ quan từ đó mà thành hình; Lý Khí như có tai mắt, tất có đức tính thông sáng. Cho nên Loan Đầu Lý Khí khuyết một đều không được. Nếu mà Loan Đầu không kiêm Lý Khí, là có tai mà tai không thông, có mắt mà mắt không sáng. Khô khan vô dụng như cái cây héo úa; Nếu chỉ nói Lý Khí không cầu Loan Đầu , tất muốn thông mà không có chỗ đề thông, muốn sáng mà làm sao để sáng. Nếu chỉ là lời nói kỹ xảo, mà cuối cùng cũng không có kết quả gì , thì làm sao mà giúp đỡ đây !”( Lời tự “Âm trạch Tập Yếu” năm 1744) .
Huyền Không Địa Lý nói Nhân Hình Cầu Lý, Nhân Khí Sát Hình, Nhân Tinh Đo Tượng, Lấy Tượng Biết Sao. Các Minh Sư thời xưa như Dương Quân Tùng, Ngô Cảnh Loan, Liêu Kim tinh, Hoàng Diệu Ứng, Mục Giảng Sư, Lưu Bá Ôn, Tưởng Đại Hồng ai chẳng không thông Loan Đầu với Lý Khí. Chương Trọng Sơn là người nổi bật, là đệ nhất Minh Sư vùng Giang Chiết, đương nhiên là phải thông hai Pháp : Hình và Khí.
54. Lưu Niên Cửu Tinh Đoán Quyết
Nhất Bạch Tiên Thiên tại Khôn, Hậu thiên ở Khảm, là sao Tham Lang, là Quan Tinh, ngũ hành thuộc Thủy, màu sắc trắng, Thu tiến Đông vượng, Xuân hiển lộ Hè chết, đương lệnh là vượng người học gặp được tất có lộc, người thứ gặp nó định tiến tài hỷ, rất nên là 14 đồng cung, 16 hai sao liên kết có thể giúp cho Vượng khí. Khi thất lệnh, nếu gặp nó khắc tất đau xót như Trang Tử, đau đớn vì tang thương.
Nhị Hắc thuộc Thổ, hiệu gọi Cự Môn, ứng với sao Thiên Y, tiên thiên thuộc Hỏa, vận 2 gặp nó, phát ruộng đất tiền tài chẩy về không dứt, vượng nhân đinh tất vui mừng khong dứt; Tuy nhiên vì là hối Khí bệnh phù, nên dễ có sự ưu sầu ấm ức, phiền muộn kéo dài không thôi. Khi đã thất lệnh gặp khắc sát bà chửa có sự không yên, hoặc mẹ trong nhà lắm bệnh, hoặc dính vào nữ giới mà có kiện tụng hoặc con gái có sự quan phi. Nếu gặp thêm Ngũ Hoàng nhẹ thì trọng bệnh, năng tất tử vong; gặp cửu tử hoặc ngũ hoằng thêm Mậu Kỷ Đô Thiên chủ cháy, tranh cãi. Đại để phương có nó đến tất không nên động, phạm nó âm nhân không lợi, tất có bệnh lâu dài. Nếu có Lục Bạch phương tác động, khả dĩ cân bằng, hoặc tại phương hướng Nhị Hắc đến treo một cái Phong Linh bằng kim loại, lấy đức Kim mà hóa, nếu gặp Tam Bích phạm vào Đấu Ngưu Sát, chủ thị phi khẩu thiệt.
Tam Bích Suy Vưu tinh, thích tranh đấu, thường ở cung Chấn, sắc xanh ngũ hành thuộc mộc, nếu đang lúc sinh vượng, hưng gia lập nghiệp. Đủ cả phú quý công danh. Nếu gặp quan phi gặp nó khắc vậy. Tàn tật hình khắc gặp nó hung. Phạm phải, viêm nhiễm máu huyết tai nạn. Xúc phạm nó, chân tật đại họa. Nếu gặp Thất Xích, gọi là xuyên tâm sát, bị cướp bóc cùng gặp quan tai; như gặp Khaano Cấn Ngũ Hoàng, gọi là Đấu Ngưu Sát, chủ thị phi hoặc bị quan hình.
Tứ Lục là thần Văn Xương, vốn ở cung Tốn, có màu xanh lục, ngũ hành thuộc mộc, tên hiệu Văn Khúc đương lúc vượng, đăng khoa giáp đệ, quân tử thăng quan, bình dân sinh đẻ, nếu là khắc sát, gào thét rồi tự vẫn, thật khó tránh. Dâm dật lưu đãng, là dó nó thất thời. Nếu 14 đồng cung tất chủ về khoa danh, nếu không cũng có quý nhân trợ lực, 46 hợp thập chủ cát tường. Tứ Cửu hóa Kim tuy rò rỉ cũng không ngại.
Ngũ Hoàng là Chính Quan Sát, ứng với sao Liêm Trinh, trấn vị trí Trung Ương, uy khắp tám cõi, ngũ hành thuộc Thổ, tính nó thuộc Dương, nên tĩnh không ưa động, động tất là rất hung, nếu Ngũ Hoàng hội Lực Sĩ, hoặc hội Kiếp Sát, không nên tạo táng hoặc sửa chữa, nếu không tất không chết cũng đại họa. Nên tiết (Hóa) không nê khắc ( Chế), khắc tất có họa. Hội cùng Thái Tuế, Tuế Phá, họa hoạn liên miên. Nhị Ngũ giao nhau không chết cũng trọng bệnh, như tại phương Bát Bạch tác động, tất gặp nguy biến tốt, chỗ sao này bay đến, tại vùng đất bằng, cửa đi ngắn tán, vẫn còn bệnh tật. Vào chỗ cao lớn, môn lộ dài tụ, tất chủ mất người. Lại thêm Mậu Kỷ Đô Tiên tái hội cùng Thất Cửu hai hỏa, có đất đá cao nhọn tất làm cho phẫn nộ, cây cổ thụ hay chùa miếu làm cho thêm uy tất gặp Hồi Lộc Chi tai, vạn nhà đều cháy. Gặp ách ôn dịch, là vì ngũ đã mất vận. Tính nó rất mạnh, nên họa tàn khốc.
Lục Bạch tên là Vũ Khúc sống ở Càn Cung , ngũ hành thuộc Kim, tỉnh cũng cương liệt, lúc đương lệnh, uy quyền chấn động thế nhân. Rất giàu đông con cháu. Đến lúc khắc sát, điêu linh cô khổ, khắc vợ hại con. Thất vận rồi 6 gặp 9 con trưởng mắc bệnh về máu, nếu 6 gặp 7 là Giao Kiếm Sát, chủ mất trộm hoặc động kinh, đương lệnh gặp Thất xích tức là tỷ hòa là vượng, gặp Tứ Lục tuy khắc xuất, nhưng cũng không trở ngại. Gặp nhị hắc không kỵ bệnh phù, ngược lại sinh tài, gặp bát bạch càng tốt, gặp Ngũ Hoàng cũng đoán là tốt.
Thất Xích ứng với sao Phá Quân, chỗ ở chính Tây. Ngũ Hành thuộc Kim, màu sắc là đỏ, có hình trạng tiểu nhân, là tinh đạo tặc. Nếu đang lúc sinh vượng, tài đinh đều tăng. Nếu khắc sát, quan phi khẩu thiệt. Thất hội cửu tử chủ hồi lộc chi tai, hoặc thiếu nữ bị tai nạn. Các tháng hạ kỵ vào, bát bạch thì hòa. Gặp Tam Bích ( Xuyên Tâm Sát) bị cướp cùng quan phi, gặp Lục Bạch ( Giao Kiếm Sát) cũng chủ cướp đoạt hoặc phá tài, gặp Ngũ Hoàng cùng Mậu Kỷ Đô Thiên, là tai nạn thêm nặng.
Tám Cấn được số 8, sao hiệu tả Phụ, màu nó trắng, thuộc Thổ, sinh vượng tất Phú Quý công danh. Gặp Tứ Lục tất miệng tổn thương. Bản tính từ thiện tốt lành, hóa giải các hung thần, phản quy cát diệu. Thất lệnh 3 gặp 8 hóa mộc lại tương khắc, nên khó gọi là thập toàn thập mỹ. Nên với 1, 6 đều luận là cát , thường gọi Tam Bạch. Nếu thất lệnh cũng thuộc hung thần.
Cửu ở Cung Ly, gọi là Cửu Tử, tên sao là Hữu Bật, ngũ hành thuộc hỏa, tính rất khô nóng. Gặp nó khi tốt lập tức phát phúc. Gặp nó khi xấu bỗng nhiên đại họa. Cho nên người khéo dùng thường lấy nó làm Thần để cản sát thôi quý, tuy nhiên do hỏa tính rất mạnh, khó mà dung tà, cho nên kỵ gặp Thất Xích, nếu Thất Cửu lại gặp Ngũ Hoàng , lại thêm Đô Thiên Mậu Kỷ hoạc gặp hình sát, tất chủ nạn cháy bỏng. Nên cát không nên hung, cho nên mới nói Tử Bạch song ứng
Trên đây là chín Sao, không luận Cát Tinh, Hung Tinh lúc đương lệnh đều là tốt, gặp cái gì cũng có lợi, Khi mất vận, tât là phản nghịch, nếu gặp sao liên kết sinh vượng, chủ có cơ duyên bất ngờ; Nếu sao liên kết khắc, thì có việc ác ngoài ý; Như sao liên kết gặp 16 thủy, 38 mộc, 49 kim, tuy sinh xuất, tất chủ vui vẻ tiền tài. Tóm lại nhất thiến đều lấy hướng tinh làm căn cứ, luận tọa, tất lấy sơn tinh làm chủ.
55. Ứng Dụng Phương Pháp Luận Đoán Huyền Không Phi Tinh Chuẩn Xác
Sau khi xác định bàn cục xong , cần xem cát hung thế nào , tất cả đều lấy dịch lý mà phán đoán . Nội dung phán đoán có 3 mặt quan hệ . Một là lấy thời vận và quan hệ ngũ hành phán đoán . Thứ 2 , lấy địa hình địa thế với lý bàn tương quan phán đoán . Thứ 3 , phán đoán sơn hướng hai phi tinh quan hệ với nhau .
Trong Huyền Không Phi Tinh luôn coi trọng thời vận , rồi lấy ngũ hành sinh khắc mà phán đoán nơi đó . Thời vận chia làm đắc thời và thất thời . Nếu một sao đương vận vượng , nó sinh ta là cát , khắc ta cũng cát , được sao đương vượng sinh cho tất nhiên tốt , nếu nó khắc được ta chứng tỏ ta đang là suy , vượng khí khắc suy khí tất nhiên cũng tốt . Ngược lại sinh ta là sao suy tử tất nhiên xấu , khắc ta là sao suy tử tất nhiên càng xấu . Tất cả là do các sao nhập vào trung cung mà xuất hiện các tình huống . Nếu được vượng sơn vượng hướng thì toàn trạch đều vượng , nếu bị thướng sơn hạ thủy , cả nhà đều suy . Cho nên lấy đắc thất làm ngưỡng mà suy đoán . Điểm đặc sắc của Huyền Không Phong Thủy chính là lấy sinh khắc ngũ hành , đắc thất thời vận mà phán đoán , Huyền Không cũng lấy hoàn cảnh bên ngoài phối hợp với lý bàn mà luận đoán . Sơn thủy thực tế chính là cơ sỏ để phán đoán . Riêng luận đoán Tinh Bàn thì dựa vào Dịch Lý để đoán các việc liên quan . Hoàn cảnh sơn thủy mà đẹp , bàn lý lại là vượng sơn vượng hướng , tất là đất đẹp để xây nhà , chôn táng . Sơn Thủy hoàn cảnh tàn khuyết , mà bàn lý có vượng sơn vượng hướng thì rút cục vẫn là không tốt . Nếu Sơn Thủy hoàn cảnh tốt đẹp mà tinh bàn hoặc thướng sơn hạ thủy , hoặc phản ngâm phục ngâm , hoặc xuất quái kỵ tuyến , hoặc lưu niên hung sát thì nên căn cứ theo sơn thủy mà điều chỉnh quái tượng , hoặc chính hướng hạ quái , hoặc kiêm hướng .
Hoặc lấy Thành Môn , hoặc Tọa Mãn Triều Không , hoặc Tọa Không Triều Mãn , hoặc tạm thời chấp nhận , thậm chí bỏ đi không dùng . Cho nên nói Thu Sơn Thoát Sát , Thành Môn hai cung cũng là để căn cứ theo hoàn cảnh trạng thái mà quyết định lấy hay bỏ . Trong lúc tiến hành có thể theo hoàn cảnh mà chọn tinh bàn , lấy cái sẵn có , khoanh vùng nơi đất định chọn , rồi sau mới theo lý bàn mà điều chỉnh . Hiện nay trong các đô thị , tấc đất nghìn vàng , nên để chọn được chỗ vừa ý thật khó , chỉ là tương đối mà dùng , lấy lý bàn tiến hành điều chỉnh cho hợp lý . Cũng có thể theo bàn lý mà tìm kiếm hoàn cảnh cho hợp với yêu cầu , trèo non lội suối , tất rồi cũng tìm được đất lý tưởng . Tại nơi đất rộng người thưa thì có thể tìm được . Còn như tại nơi phồn hoa đô hội đông người cơ hội thật ít lắm . Sơn Thủy hoàn cảnh , trừ tạo hoàn cảnh phán đoán cát hung , ngoài ra trạng thái các loại thực vật cũng dùng vào phán đoán . Cho nên Phong Thủy nói “Ngoại Lục Sự” là chỉ Trạng Thái Cây Cỏ , Hình Thế Núi , Nước Quanh Co , Đường Công Thẳng , Cây Lớn Nghiêng Vẹo , Cầu Cao Thấp , Sa Hướng Lưng , Đá Bên Vệ , Ao Trong Đục , Màu Sắc Chùa , Vị Trí Tháp , Động To Nhỏ , Gió Tụ Tán tất cả đều lấy làm căn cứ để đoán .
Xác định xong quan hệ giữa hai yếu tố , rồi mới xét đến quan hệ giữa hai phi tinh sơn hướng . Tám Cung tinh bàn hình thành , có Địa Bàn , Vận Bàn , Phi Tinh Bàn ba mối quan hệ . Lấy Địa Bàn quan hệ mà nói , Địa Bàn là chủ , Vận Bàn là khách . Lấy Vận BÀn với Phi Tinh Bàn mà nói , Vận Bàn là chủ , phi tinh là khách . Xét trong tám cung thì hai cũng sơn hướng là chủ , 6 cung còn lại là thứ . Nói tóm lại lấy nơi nào mà xét thì nơi đó là chủ , cái liên quan đến nó là khách . Nói cho tận cùng , trong một tinh bàn , quan trọng nhất là Hướng Phi Tinh . Hướng phi tinh là vượng tinh , toàn bàn đều vượng ; Hướng phi tinh suy , toàn bàn đều suy . Hướng Phi Tinh thao túng trạch vận rất lớn , nó quan hệ họa phúc của một nhà . Đó là một đặc điểm lớn của Huyền Không Phi Tinh .