Cũng như nền móng, nền nhà phải có sức ch5u hết tải trọng bên trên chất đè lên nền a. Sự cấu tạo trong lòng móng sẽ là: lớp đất sét dưới cùng đến lớp cát to hột, đến lớp xỉ to hột, lớp bê tông gạch vỡ. Trên cùng là nên sạch, nền sạch có thể láng vừa xi măng, là loại thấp cấp nhất hoặc loại phổ thông là lát gạch bông xi măng. Nếu có điều kiện, sau khi lang vữa xi măng, dán trên nền nhà bằng gạch nhựa (có chất cao su) hoặc tấn nhưa cao su mặt bông thì nền nhà sạch êm, rất khô. Khi làm nền sạch bằng gạch nhựa cao su hoặc tấm nhựa dán cao su sẽ không có hiện tượng đọng sương.
Đã có một số công trình làm nền sạch bằng đá cẩm thạch. Nếu lát nền bằng đá cẩm thạch, phải làm lót nền bằng lớp đất xỉ dày từ 200mm trở lên và thay lớp bê tông gạch vụn bằng bê tông xỉ. Đá cẩm thạch chắc đặc hơn gạch xi măng, mặt đá cẩm thạch mịnh hơn mặt gạch xi măng. Nếu không giải quyết tốt khâu giữ ấm cho gạch hoặc đá cẩm thạch, người sử dụng dễ chịu thời gian đọng sương kéo dài, nhà ẩm hơn thông thường nhiều.
Nếu nền nhà tần trệt lót bằng gạch bông xi măng, chúng ta thấy những ngày cuối thu, đầu xuân, vào lúc giao mùa hội Âm Dương của ngày nghĩa là từ khoảng 7-8 giờ sáng và 4-5 giờ
chiều nền nhà thường bị ẩm như hay gọi là nhà đổ mồ hôi. Đó là hiện tượng đọng sương do những hột hơi nước trong không khí (khi độ ẩm tương đối bải hòa hơi nước, 1000%) ngưng tụ trên gạch bông lạnh sinh ra. Những lúc giao hội Âm Dương thường lặng gió, chỉ những khi lặng gió độ ẩm cao mới sinh đổ mồ hôi gạch. Nếu làm lớp xỉ lót nền trước khi làm lớp bê tông gạch vụn, nền nhà ấm hơn cách làm lâu nay, thời gian và lượng đọng sương giảm nhiều. Nếu nhà thông gió tốt thì hầu như không thấy đọng sương.
Một vị Bác sĩ đã thuê nhà ở phố Blanche (Paris). Trước ông ta ba đồng nghiệp khác đã lần lượt qua đời hi ở trong ngôi nhà đó. Lần này, ông Bác sĩ Aveline dọn đến và độ ba tháng sau thì bắt đầu thấy mệt mỏi. Thậm chí con chó của ông cũng bỏ ăn, nằm rên ư ử suốt nhày. Aveline suy nghĩ mãi về hiện tượng này và bỏ qua mọi lời đồn đại nhảm nhí về chuyện ma quỉ. Một thời gian sau Aveline với sự giúp sức của các nhà địa chất học đã khám phá ra rằng phía dưới nên nhà có một mạch nước ngầm chảy qua hai nghĩa trang.
Những chuyện như thế ngày nay không còn hiếm nữa và các kiến trúc sư, khi xây nhà cửa đều phải hội ý với các nhà địa sinh học hoặc dùng những dụng cụ điện tử tối tân để tìm cho ra “những sự cố” dưới nền nhà.
NGÀY TỐT NÊN DÙNG XÂY ĐẮP NỀN NHÀ
Ngày Bình Dần, Tân ,Tỵ, Mậu Thân, Kỷ Hợi.
BÌNH CƠ
CHỌN NGÀY TỐT BAN NỀN XÂY NHÀ
Chọn phục đoạn trực bế. Giáp tý, Ất sửu, Đinh mẹo, Mậu thìn, Canh ngọ, Tân mùi, Kỷ mẹo, Tân tỵ, Giáp thân, Đinh dậu, Kỷ hợi, Bính ngọ, Dinh mùi, Nhâm tý, Quý sửu, Giáp dần, Ất mẹo, Canh thân, Tân dậu. Phục đoạn: ngày Tý sao hư, Sửu đẩu, Dần thất, Mẹo nữ, Thìn cơ, Tị phòng, Ngọ giát, Mùi trương, Thân quỷ, Dậu chùy, Tuất mùi, Hợi sao bích.
Trực bế: Tháng giêng ngày Sửu, tháng hai Dần, tháng ba Mẹo, tháng tư Thìn, tháng năm Tị, tháng sáu Ngọ, tháng bảy Mùi, tháng tám Thân, tháng chín Dậu, tháng mười Tuất, tháng mười một Hợi, tháng mười hai Tý.
TƯỜNG VÂY (TƯỜNG RÀO)
Bản thân mỗi ngôi nhà là một “thế giới”. Tường rào là chỉ giới, giới hạn của cái “thế giới” đó. Tường rào phản ánh bộ mặt thăng trầm của ngôi nhà và cũng liên quan đến sự an toàn và thoải mái của ngôi nhà. “Chu lễ” viết: “Tường dày ba thước, đáng trọng “Dịch lâm”, tường cao nghìn nhận, họa không vào nhà”.
Thuật Phong Thủy quan niệm rằng, nhà ở tốt nhất là hình vuông, tường vây tốt nhất là chữ chi hoặc đường tròn. Nhận xét: Đây là thuyết “trời tròn đất vuông” để đạt ý nghĩa dòa hợp với người. Đồng tiền cổ cũng là cạnh tròn, lỗ vuông cũng cùng ý nghĩa. Nhưng trong thực tiễn, tường hình tròn chiếm quá nhiều đất, không thực dụng.
Dây leo không được bám lấy tường rào. Nhận xét:”dây leo rất thú vị vì thêm màu xanh và lạm đẹp cảnh quan. Nhưng dây leo cũng dễ có sâu bọ và tăng quá mức độ ẩm cho ngôi nhà.
Không trổ của lớn trên tường vây, vì vậy là “Châu tước khai khẩu” dễ bị điều tiếng. Tường vây mà trước rộng sau hẹp, không tốt. Tường vây mà trước hẹp sau rộng thì gọi là “Thoái điền bút” tiền không vào nhà. Tường vây không được cao quá hoặc thấp quá cũng không được áp sát nhà. Góc Đông Bắc của tường vây không được vỡ nức.
Nhận xét: Ngoài ý nghĩa thực dụng, tường vây còn phải đẹp mắt. Tình huống cụ thể, nắm vững linh hoạt.
Không được xây tường rào trước, xây nhà sau nếu không phạm vào chữ “tù”. Nhận xét: xây tường rào trước không thuận tiện cho việc xây nhà sau đó mặt bằng bị vướng, nhưng được cái lợi là bảo quản được nguyên vật liệu.
Mái hiên trên tường vây không được rộng quá hai thước. Nếu không vợ mọn nắm quyền trong nhà. Nhận xét: Mái hiên của tường vây quá rộng thì lãng phí nguyên vật liệu, choáng không gian, nhưng có ưu điểm là trú mưa nắng.
Hai bên cổng lớn, tường phải cao thập rộng hẹp bằng nhau và phải đúng qui cách.
Nhận xét: tường vây chỉ cần rộng rãi, đẹp mắt, an toàn, thực dụng là tốt.
Bốn bên quanh nhà đều có tường, tường nhiều thì dầy, tuy nhiên cũng tốt và xấu. Tương như hình cung ôm lấy thì mua thêm ruộng nhà. Tường như thước cong ôm lấy bên trong, quanh co vây xung quanh nhà, sẽ giàu có phát tài. Tường xây sâu dưới nước sẽ giàu có thịnh vượng, tường nổi ở trên lương thực thiếu thốn, tường ngang hay dọc xông thẳng vào sẽ chết đường.
Vách dựng một bên, cô quả tang tóc. Tường xây như đuôi chim én, có con ghõ nghịch, tường xây như lưỡi chim sẽ bị thưa kiện, giếng nước soi ánh lên tường con cháu bị hải. Tường vách lủng lổ, đàn bà độc ác. Tường vách cao hơn nhà hao tán tiền tài hai nhà đối diện giữa có đường ngăn anh chị em sẽ cấu xé xung đột. Tường phía Đông lủng hở tài không tụ. Tường đất hướng ra ngoài tán tài người bị bệnh. Tường chiếu ào góc nhà tai nạn binh đao. Đầu tường ngói bị bể mọi việc lôi thôi, gói đường đối diện nhọn, bị bắt bớ. Tường nhọn góc chiếu thẳng vào bên phải xấu cho nữ giới, tường chiếu thẳng vào bên trái không có con trai, chiếu đâm ngang cả trái và phải hại trẻ con.
Tường nhà không được nứt nẻ. Nếu nức nẻ thì dễ sập nhà. Lúc thường thì bị thấm nước, lọt gió, cát bụi, rắn rết, không lợi cho nghĩ ngơi, ngủ hay nằm mơ, thậm chí tinh thần hoảng loạn, ốm đau.
CỬA NGÕ (CỔNG)
– VỊ TRÍ TRÍ CỬA NGÕ :
khi chủ nhà cần giao tiếp thương mại, nên làm mặt đứng nhà sát với đường phố và mở hết cỡ lộ công trình với đường phố. Nếu công trình chỉ để ở mà miếng đất rộng, thì làm cửa ngõ vào nhà, mà nhà thường lui sau hàng rào một khoảng cách tuỳ sự cân nhắc tính toán theo nhiều nhân tố.
Giả sử như hướng gió cho phép quay mặt chính của nhà ra ngõ, đường giao thông công cộng không bố trí sát hè phố thì cửa ngõ có thể bố trí ngay lối vào chính của nhà… có thể bố trí lệch một bên hoặc lệch một phần.
Thông thường khi tính đến việc bố trí chổ để xe hơi là một nhà phía sau nhà chính cửa ngõ bố trí lệch về phía đường vào cho xe. Nếu mặt giáp đất của miếng đất khá dài thì có thể bố trí hai cửa ngõ, một cửa ngõ chính nghi lễ một cửa ngõ cho xe vào. Thói quen của người Việt Nam không thích ai nhìn thông thống vào cửa nhà mình nên chỉ mới có công sở hay làm cửa chính thẳng với cửa ngõ giao thông đối ngoại, còn thường làm lệch che tầm mắt nhìn xuyên suốt nhà.
Một quan niệm gần như phong tục là nhà chỉ nên có cửa ngõ. Nếu nhà có nhiều cửa ngõ thì tiền tài thu vào cửa ngõ trước sẽ đi ra cửa ngõ sau mà người chủ không kiểm soát được. Muốn giải quyết phòng khách không đồng thời làm phòng gác cửa ngõ, phải làm diện tích đệm để
các đầu mối giao thông cùng toả ra đó rồi ra ngoài theo một cửa ngõ chung nhưng khi vào lại từ diện tích phụ này tỏa về các phòng có chức năng phục vụ gia đình khác nhau.
– QUAN NIỆM VỀ CỬA NGOÃ THEO THUẬT PHONG THUỶ
Làm cửa ngõ là một nghệ thuật. Theo nguyên lý “tụ khí” của thuật Phong Thủy, cửa ngõ là phải đón được khí lại có thể tụ khí, lại không để khí bị đè chết. Do đó, thuật Phong Thủy thường dùng la bàn từ phương vượng dẫn khí để xác định cửa ngõ lớn, các cửa ngõ trong cửa ngõ lớn đều căn cứ vào nguyên tắc tương sinh của ngũ hành, không được khắc chế lẫn nhau. Các cửa ngõ không được cùng một hướng, nếu không “khí” sẽ thoát đi mất. Người Phương Tây chú trọng kiến trúc đơn chiếc và cửa ngõ. Người phương Đông chú trọng kiến trúc và cảnh quan.
Qua điều tra cho thấy, phần lớn cửa ngoã của nhà ở của dân, đều trổ ra hướng Nam, Đông, Đông Nam, toàn là nhìn ra phía núi đẹp, sông chảy uốn khúc. Sau cửa ngõ thường có bức tường và bình phong (bức cửu long tranh châu ở cố trung thuộc loại này) để đứng ngoài không nhìn thấy trong nhà. Cửa nhà có đúng hướng có thế tụ khí. Trong nhà quanh co, yên tĩnh, vừa thông đạt lại vừa bị khống chế. Tất cả những điều đó phản ánh quan niệm Phong Thủy. Thuật Phong Thủy cho rằng cửa ngõ nhỏ thì tốt, không khí không lưu thông, bất tiện khi ra vào, cũng thiếu vẽ đẹp. Nếu nhà nhỏ cửa ngõ to cũng không tốt, không an toàn, không thực dụng. Nhất thiết không để tảng đá đối diện với cửa ngõ nhà ở. Vì : Đá tảng gây trở ngại, người già trẻ em dễ bị vấp ngã, cũng không thuận tiện cho việc quét dọn.
– QUAN NIỆM VỂ CỬA NGÕ THEO LỖ BAN PHÁP
Lỗ ban pháp rất chú trọng cửa ngõ. Vì so sánh với con người cửa ngõ cũng cái mặt của một ngôi nhà.
1/ Vách cửa nhiều kẻ học bị thủng, bất lợi. Tiền của trong nhà đi ra nên tu bổ lại cho kín đáo sẽ tránh được bần hàn.
Theo như lý trên của lỗ ban chúng ta có thể thấy rằng ông áp dụng cái lý “Tâm vật đồng thể” của nhà Phật. Cửa ngõ hư thủng tức là người bên trong không để tâm chăm sóc không giữ gìn. Tất nhiên kẻ trộm cướp bên ngoài có cơ hội lọt vào, hoặc con cái trong nhà chỉ lo ăn chơi không nghĩ đến nhà cửa, tức nhiên của cải có ra mà không có vào.
2/ Vách thủng hư ngói rơi rớt trong nhà không vui. Hay bệnh hoạn nên sửa chữa ngay.
3/ Vách cửa bên phải mỏng vách cửa bên trái dày, thay đổi chồng vợ, nhà gặp kiện tụng. Bên phải dày bên trái mỏng, con cái mồ côi hoặc bần khổ nên sửa chữa liền.
Vách cửa lệch lạc, một bên dày một bên mỏng, tức là tâm người không ngay chánh dễ thay lòng đổi dạ, hoặc nảy tâm tà ác, sao khỏi đến tụng đình?
4/ Cửa ngõ cao hơn nhà chánh đời sau tuyệt tự, cửa ngõ cao hơn vách người hay có việc rầu buồn.
Cửa ngõ cao hơn nhà chánh tức là người có tâm kiêu ngạo hay khoe khoang bề ngoài mà khinh thường bề trong. Người như thế, ít ai có thể sống chung nổi, sao tránh khỏi tuyệt tự? Xem như vậy đủ thấy cái lý “Vạn pháp duy tâm tạo” là đúng.
HÀNH LANG
Còn gọi là ban công phần sàn làm nhô ra khỏi mặt tường để ngắm cảnh quan sát. Thông thường ban công nhìn ra phố, nhìn ra vườn từ các phòng như phòng ngủ, phòng sinh hoạt hoặc có thể ở phòng khách trên gác, đầu của đầu mối giao thông đi lại trong nhà.
Thuật Phong Thủy coi hành lang như tay chân của nhà. Không có chân tay không làm được gì. Hành lang có nhiều qui cách không được ngộ sát, không thiếu hành lang không được xa tường.
Có hậu lang (hành lang sau) tất phải có hành lang trước hành lang hai bên phải dài và rộng bằng nhau.
Nếu trong nhà có nhiều ngăn, chổ nào gặp sát khí thì mở một phòng lớn cho tiết đi. Tron căn nhà có 2-3 ngăn thì không thể có hành lang. Xà ngang của mái hiên trước, chỗ nước phải cao hơn xà ngang của mái hiên sau một vài tấc mới hợp cách, mới giàu có lâu dài. Hành lang nên làm theo kiểu chữ nhân, kiểu chữ Thủy nếu trước sau không hiên và cột thêm như vẻ quay lưng ra ngoài, người trong nhà bất hoà, tôi tớ người ngoài nên cây cột thêm của hiên sau phải thấp hơn hiên trước 5-6 hoặc 8-9 tấc.
Nhưng mái nhà ở đầu hiên bên dưới không cao hơn mái hiên đầu trên được lưu thông. Nếu bế tắc thì định tài đều hao tán, nhà cửa sẽ bán cho người khác. Nếu người sau mua nhà mà không sửa chữa lại cũng sẽ bán nữa. Vì mái nhà dưới không mở ra không tụ tài được. Sau đây là những lời bàn về sự tốt xấu về hành lang của những học giả danh tiếng.
Nhà lớn không có hành lang thì mất của, ly hương, mất chức. Hành lang đứng rời xa tường căn nhà, ruộng nương bị bán mất, thương tổn thân nhân. Có hành lang trước mà không có hành sau nhà sẽ được ở lâu, yên ổn, có hành lang sau mà không có hành lang trước, suốt đời ăn chơi hết của cải. Hành lang bên dài bên ngắn sẽ bị thưa kiện, hổn loạn. Một bên có hành lang một bên không sẽ tổn hại các con nhỏ, ăn nhà không có chái tực như quan tài, sẽ tán tài, cha con không hòa thuận. Hai hành lang như co ngắn lại nắm tay, trong nhà thường có người chết. Hành lang một bên rộng và có đắp tường bên ngoài, thì một phòng sẽ không. Xối nước từ hành lang hướng vào nhà thì các người giúp việc tân tâm, tận lực.
SẢNH ĐƯỜNG
Chính sảnh là ngôi nhà chính làm chủ của các căn nhà nhỏ phụ thuộc rất quan hệ đến sự tốt xấu của mọi người trong căn nhà ấy. Xây cất đúng cách thức như hình chữ Kim kiểu thủy sẽ được nhiều phước lành. Muốn cất nhà chữ Kim kiểu thủy thì trước hết đặt địa bàn để qui định nền. Nếu nhà cũ sửa sang lại cần phải dùng thước đo để biết nền sâu, cạn, rộng, hẹp thế nào! Chiều cao của mái nhà phải tương xứng với chiều sâu của căn nhà theo tỷ lệ 1/3.
Ví dụ : căn nhà sân cao một trượng thì mái nhà cao 3 thước 3 tấc. Nhà sâu thêm một thước thì mái nhà thêm 3 tấc 3 phân. Như nhà sâu một trượng 4 thước 8 tấc thì nên tính là một trượng 1’thước (lẻ 2,3,4,5 phân thì bỏ đi lẻ 6,7,8,9 phân thì tính là một tấc) và mái cao 1 thước 9 tấc 5 phân. Nếu sâu 1 trượng 4 thước 8 tấc thì mái cao 4 thước 9 tấc, cột hiên cao 9 thước 9 tấc, cộ giữa cao 1 trượng 4 thước 8 tấc. Đó là công thức cất một tòa nhà chính sảnh, nếu muốn làm lớn ra hay rút nhỏ lại thì cũng theo tỷ lệ 1/3 mà tính ra. Nếu trường hợp là căn (gian) ở giữa nhà chính sảnh thì hiên sau có thể kéo dài thêm ra lối hai thước gọi là tọa thể, chủ phước trạch lâu dài. Sau đây là bản sơ đồ một tòa (ngôi) chính sảnh thủy thức của nhà hình chữ Kim.
Căn nhà chính này sâu 1 trượng 3 thước 8 tấc, ngang rộng 1 trượng 3 thước 8 tấc. Tường hiên trước, sau cao 8 thước mái cao 4 thước 8 tấc. Tổng cộng cao 1 trượng 2 thước 8 tấc, hợp với nhà hình Kim thủy thức (6 không mỗi không ngang rộng 2 thước, 3 tấc chẵn) cột giữa cao một trượng 2 thước 8 tấc chẵn (kể cả chôn khuất đi là 1 trượng 2 thước tấc) cột thứ nhì cao 1 trượng 1 thước 8 tấc) cột thứ 3 cao 8 thước 6 tấc chẵn (kể cả chổ chôn khuất là trượng 2 tấc).