Nay nói lập tứ trụ mà thủ ngũ hành, định một vận mà chở 10 cửa. Thanh trọc thuần bác, vạn lần không đủ, tốt xấu thị phi, lý khó chấp nhất. Cho nên xưa luận mệnh, nghiên cứu tinh vi, là từ Thể mà nên Dụng. Nay luận mệnh, câu nệ cách cục, lại nắm Giả mà mất Chân. Tất trước tiên là xem quy mô khí tượng, là cương lĩnh phú quý bần tiện. Thứ là luận xuất xứ dụng thần, tử sinh cùng đạt vô cùng tinh vi. Không cần bát tự phức tạp, chỉ cần ngũ hành hòa khí. Không chỉ ràng buộc Tam nguyên Lục Giáp, ai biết vạn nghìn đầu mối.
Học giả ắt phải nhớ: Tìm tòi huyền ẩn, phát sinh quy căn. Hướng Thực tìm Hư, từ Không thủ Có. Tuy viết là mệnh lý, ở đây đã nhớ hơn nửa vậy. Nhưng mà biển lớn ở từ muỗng nước, Thiếu Âm sinh sản ở Lão Dương. Thành là cơ bại, biến là dần hóa. Chỗ đoạn văn này nên khảo sát cho kĩ càng, như là Nhất Dương giải hàn, Tam Phục sinh hàn.
Dương cương bất trung, kháng thì hại vậy.
Cương mà có nhu, là đạo cát vậy. Tượng kháng dương này không có chế, lại không bao tàng âm vật. Còn vận lại hành đông nam, thì dương cương mất gặp, tất chủ ở hại. Dụng chỗ này, là cô bần hung bạo, tử ở giữa thủy hỏa. Ví như ngũ dương sinh ở tháng âm, can chi kẹp vật hợp âm nhu. Đạo vận lại hành đất âm nhu, là vị trí cát vậy. Dụng chỗ này, tuy xuất từ hàn tiện, cuối cùng tất vinh hoa.
Nhu nhược thiên khô là tượng tiểu nhân, cương kiện trung chính, là tác phong quân tử.
Tượng này là đạo bất trung vậy. Trong tứ trụ nếu thấy âm nhu, mà không nhập cách. Can chi lại không bao dương, thì cuối cùng nhật chủ nhu nhược. Dụng chỗ này la xảo trá âm độc, không có chỗ nào là không đến. Ví như Thể cương kiện là quân tử vậy. Trung chính, là đức quân tử vậy. Trong tứ trụ dương mà tàng âm, cương nhu được chế, không phạm phá khắc hình xung. Dụng chỗ này, đức hạnh hơn người, trung trực cái thế, cho nên là tác phong quân tử.
Quá ở hàn lạnh, chỗ ấm áp cuối cùng khó phấn phát.
Quá ở khô táo, xứ thủy kích lại có hung tai. Tứ trụ thuần âm, sinh ở tháng 10, không tuyệt căn ngũ hành. Nhật can lại thấy suy nhược, mà không có khí cường kiện. Dẫu có gặp đất ấm áp, cuối cùng cùng khó phát đạt. Tứ trụ thuần hỏa, sinh ở trước Hạ Chí, tính người khô cháy. Trong tuế vận sợ gặp thủy kích, không chỉ không có thể chế, trái lại dẫn đến hại vậy. Dụng chỗ này, là cô bần chết yểu, đa số là phạm hình luật pháp.
Quá ở Chấp thực (nắm đầy), việc khó sáng tỏ.
Quá ở thanh lạnh, nhớ có thê lương. Chấp thực, dụng một mà cũng không thông vậy. Giả như: Dụng Quan không có Tài, dụng Ấn không có Sát, hợi nhiều thành ít, gặp chuyện cuối cùng không có sáng tỏ. Nếu kim thủy quá ở thanh hàn, không gặp vận làm ấm ấp. Như Canh Tân sinh ở thang 10, trong trụ thuần thủy, vận lại hành tây bắc. Cả đời là ăn một mình rồi ngũ cũng một mình, kiếp sống cô quạnh, người không chịu nỗi sự buồn tẻ vậy. ]
Quá ở hữu tình, chí hướng không có đạt xa.
Vật ở trong cục, không thể quá ở hữu tình. Nếu quá hữu tình, thì liền say mê mà không thể thoát ra, không có chỗ thấy bên ngoài vậy. Như Giáp mộc lấy Kỷ thổ là vợ, nên có tình cảm vững chắc. Nếu ở dưới Giáp Kỷ, lại cưỡi Tý Sửu, trong ngoài đều hợp. Mà bên ngoài không có Tài Quan, Ấn thụ làm động tâm Giáp. Thì Giáp luôn bị vây ở dưới Kỷ thổ, ý chí sắp đặt sao có thể đạt xa chăng?
Quá ở dụng lực, cũng đa số là khó thành.
Phàm trong trụ vật được tự nhiên, là tốt. Nếu luôn phải dụng lực, cuối cùng cũng không tốt. Ví như dụng Tài, trong cục không thấy, tất cầu chỗ Thương quan Thực thần sinh. Như Thực Thương thất thời vô khí, lại cầu Tỉ kiên chuyển trợ, hoặc bên ngoài ở xa xung hợp. Đều là quá ở dụng lực, thì thành tựu tất là gian nan vậy.
Quá ở Quý nhân, phùng tai tự khỏi. Quá ở Ác sát, gặp phúc khó hưởng.
Trong bát tự vốn có nhiều Quý nhân nhị Đức, phù dụng Tài Quan, không có hình phá. Tuy cư trong phái điên, cũng không có nguy vậy. Vốn có nhiều Ác sát, tam hình lục xung, lại cùng Tài Quan nghịch phản. Dẫu có gặp đất Tài Quan, làm sao mà lấy được cơ hưởng phúc ?
Ngũ hành tuyệt xứ, Lộc Mã phù thân.
Ở trong tứ trụ, Tỉ kiên chia phúc. Phàm gặp tuyệt xứ, không thể liền chỉ là hung, bởi vì xứ hung cũng có cát thần tương phù. Giả như mộc tuyệt ở Thân, Thân có Nhâm thủy là Ấn, Canh Mậu là Tài Quan. Là vật chỗ ta dùng, tất có thể phù thân tiến phúc. Chỉ lo có thần khắc hại chỗ dụng Quan, thì chỗ tuyệt dụng vậy, như vậy là hung. Nếu lấy Quan là quý, lấy Tài là kỳ, trong cục được gặp Tài Quan, thì là cát vậy. Như thấy Tỉ kiên không sợ, tranh Quan Kiếp tài, thì không có toàn mỹ.
Âm dương vốn có cương nhu, can chi sao không có đảo nghịch.
Dương cương Âm nhu, là đạo trời đất vậy. Đảo nghịch, tức là phản phúc vậy. Cho nên mở đầu ở bên dưới.
Tuy xuất giá vợ không biết chồng.
Vợ chồng đã nhập cung, sao không có biết, nhưng tình ngăn cách mà không thông, thì không thấy chồng vậy. Như Ất mộc dụng Canh kim làm chồng, trung gian có Bính hỏa ngăn cách, Canh bị hỏa tổn thương. Hoặc tọa Tý Ngọ đất bại tử, khiến vợ cuối cùng không thể thấy chồng vậy.
Bản có Tử không chiếu cố đến Mẫu.
Tử chiếu cố Mẫu, là lý, là tình vậy. Thân có chỗ trói buộc, thì cuối cùng không có nuôi dưỡng. Như Giáp dụng Bính là Tử, lại bị Tân kim hợp. Nhưng lưu luyến tình vợ, mà xem nhẹ yêu Mẫu vậy. Cho nên trong cục tuy có Bính hỏa, mà không thể dụng vậy. Phàm trong mệnh nghị luận đến đây, để mà không sai lầm.
Phụ không có Tử mà không đơn độc, Tử có Phụ trái lại là cô.
Mộc lấy hỏa là Tử tức, trong tứ trụ nếu không có vị trí Bính Đinh Tị Ngọ, thì không có con vậy. Nếu địa chi ám giữ có hỏa, hoặc thiên can chế hóa đắc dụng, cũng không phải là không có con. Mộc lấy thủy là phụ mẫu, nếu bị tổn khắc, thì không được chỗ ngồi. Như ngày Giáp Ất sinh ở năm Hợi Tý, gặp tháng tứ quý, thủy bị thổ tổn thương. Chỗ người sinh mất vậy, sao không cô đơn chứ?
Sinh còn có thể tái sinh, Tử thì không thể lại tử.
Vật ở trong cục, vốn là có trường sinh, trước bị khắc tổn. Tuế vận lại gặp đất sinh vượng, thân lực lại cường, giống như tái sinh vậy. Tử là hết vậy, phàm vật ở tứ trụ, vốn là gặp cung tử tuyệt. Sau đó tiếp tục gặp ở đất này, không phải luận càng hung, bởi vì Tử không có 2 lần vậy.
Đã Tử cũng không phải là Quỷ, phùng sinh lại không thành người.
Mộc sinh mùa xuân, đắc thời là vượng, trong trụ tuy gặp cung tử tuyệt; nếu vận hành đất sinh vượng, cũng không phải là đất tử. Mộc sinh mùa thu, thất thời là nhược, trong trụ tuy gặp cung sinh vượng; nếu vận hành đất suy tuyệt, cối cùng không phải là sinh vậy.
Tử đa Mẫu bệnh, như điền phủ điền. Mẫu đa Tử bệnh, như lâm vực sâu.
Tử là chỗ Mẫu sinh, nhiều thì tiết khí Mẫu, đúng như nói Tử có thể khiến Mẫu hư vậy. Nếu Mẫu lại thêm đất suy bệnh, không đủ tinh lực, quyết không thể bảo vệ lấy con, gọi là Điền phủ Điền. Mẫu không có 2 tôn trưởng, là ân ái đầy đủ vậy. Nếu họ Mẹ đông, âm tụ đố sinh, là đầy gian mưu vậy. Tức là Ngũ tinh 2 Mẫu tranh quyền nuông chìu thái quá, Mẫu quên chỗ yêu thương, Tử sao có chỗ dựa? Như còn lâm cung bệnh tử, thay đổi sinh thân, tất là nhận ở phút chốc vậy.
Không chính không xung, không Thiên không hợp, không họa không hình, không trực không phá.
Kỳ Xung, là bắt đầu cực lục kỳ môn. Kỳ Hợp, là bắt đầu dấu vết hình dáng vạn vật. Kỳ Hình, là biến mà thay đổi. Kỳ Phá , là đối địch mà có tổn thương. Là lấy đất hiểm trở sinh vàng bạc, không bằng ruộng xanh giống như báu ngọc. Bốn đầu mối ở trên, chính là tượng khắc chiến vậy, bên trong có dụng Hình Hư Câu Viễn. Nếu trong đó đảo nghịch, mà thủ dụng thần là quý là phúc. Không bằng dụng Tài sinh Quan, dụng Ấn được Sát, tự nhiên mà kỳ diệu. Cho nên chỗ Tử Bình chuyên luận Tài Ấn Thực vậy. Cát thần giúp ta, công cầu giúp cát thần. Phàm nhân mệnh suy nhược, hoặc hình thương phá hại. Không thể thành dụng, tất muốn cát thần phù tá, thành phúc cho ta. Lại xem thần giúp ta, thế lực khinh trọng như thế nào. Nếu như vô căn thất lệnh, hoặc tự thụ thương, trước tiên dụng cầu trợ giúp cát thần như thế nào. Giả như ngày Giáp sinh mùa hạ, gặp hỏa thiêu đốt, được Nhâm Quý Hợi Tý giúp ta là cứu. Nhưng thủy trước tiên bị hỏa thổ khắc hao, không thể làm phúc cho ta. Tất muốn cầu kim, chuyển thủy vượng, khiến cho thủy có chiếu cố tình với ta. Công như vậy, không ở thủy mà ở kim vậy. Lại như Ngọ bị Tý xung, dựa vào Mùi hợp của ta, mà cùng Tý xuyên, thì là thần giúp cho ta. Như Mùi bị thương không thể là dụng, tất cầu thần sinh trợ Mùi thổ có lực, mà Mùi thổ mới được thành dụng.
Hung vật thương thân, dụng vật giải trừ hung tổn.
Trong nhân mệnh, nếu gặp hung thần khắc cung thân của ta. Tất cầu vật nào ở trong trụ, có thể chế hại thần của ta. Thì nó tự giải vết tỳ này hay không, làm sao có thể cùng hại ta? Như Giáp mộc vốn là bị kim thương, chỗ họa khó miễn, được hỏa khắc thì nguy tự đi xa vậy. Lại như Mão bị Dậu xung, trong trụ thấy Ngọ cũng giải được.
Ngũ hành đều được vị trí, quy tụ thành phúc.
Phàm ngũ hành không thể thất vị hư danh, nhưng cần đắc lệnh quy viên, mới có thể là quý. Nếu quy tụ một cục, thì tốt không thể nói.
Một cục đều mất quy viên, thì lưu đãng không nơi nương tựa.
Phàm dụng thần nhật chủ, chỉ cần lạc chỗ. Như trong tứ trụ không được thông căn có nơi nương tựa, lại gặp Không Vong tử tuyệt, mộc dục hình xung. Thì cuối cùng là không có thành lập, tất nhiên là lưu đãng mất chỗ vậy.
Đại vận chiết trừ thành tuổi, tiểu vận nghịch thuận theo giờ.
Văn Khố xung mà văn minh thịnh, Vũ khố che đậy mà binh khí an ổn. Tuất là Văn khố, bởi vì hỏa là văn minh. Trong bát tự vốn không có Tài Quan, ấn thụ, Thực thần, Sinh khí, thì cơ bản là không có học vấn văn chương. Người được hỏa khố, lại bị đóng cửa, chỗ này là người không có văn chương. Nếu có ám Thương quan, hoặc Ấn thụ ẩn mà không hiện rõ, cũng chủ thông minh. Trong trụ được chữ Thìn Mùi Sửu, xung hình khố Tuất, lại nhận đường vận đông nam, phát ánh sáng hỏa. Văn chương tất từ chỗ này mà thịnh vậy, đạt cao nơi Hàn Uyển, tôi đã thấy nhiều rồi vậy. Sửu là Vũ Khố, bởi vì kim là vũ khí. Trong bát tự nếu như mang khí mùa thu, Thân Dậu Canh Tân là Sát, Thiên Quan Dương Nhận, lại thấy đồng cung, người này chẳng sợ hiếu chiến vậy. Trong trụ gặp Tý Tị Dậu thần hợp cục, kiêm hành Đông Nam mộc hỏa, chế kỳ kim ngu. Thì che dấu kỳ Vũ khố, vũ khí sẽ không được dùng mà yên ổn vậy. Tráng sĩ ở đây, sẽ vứt bỏ mũ giáp mà an nhàn, tôi vẫn thường thấy điều này.
Rồng bay xa trời, theo mây mà vào biển sâu.
Rồng ẩn ở trong đáy biểu sâu, theo mây bay lên trời. Rồng là Thìn vậy, Thiên môn là Hợi vậy, Mây là Nhâm vậy, Rồng gặp mây mà bay. Nếu can năm thấy Hợi, tháng thấy Thìn, can đầu năm tháng có Nhâm, thì Rồng ở trên trời vậy. Nếu ngày giờ thủy vượng, cùng Thìn hội cục, Rồng tất là theo mây mà nhập vào biển sâu. Bởi vì Rồng lấy thủy là nhà, cho nên ở trên tách rời xa trời, ở dưới ẩn ở trong thủy. Được tượng này, văn chương cái thế, cả đời thôg suốt. Công danh tuy xuất ra ở Đài các, sự nghiệp cuối cùng quay về ở ẩn. Trong trụ có 2 chữ Tị Ngọ, là mệnh bần bạc hạ lưu vậy. Nếu năm thấy Hợi, giờ thấy Thìn, ngày tháng hội thủy, thì Rồng xuống ẩn dưới biển sâu. Nếu can chi có hình xung khắc phá, Rổng không thể yên ổn. Cần ở trên ngày giờ có chữ Nhâm, tất là Rồng theo mây mà bay lên trời vậy. Tượng này nếu như năm không có Hợi, dụng Tị lại xung cũng cát, nhưng xuất thân hàn tiện, không có nương tựa tổ phụ. Sau này tất có người phụ tá lực, phấn phát công danh, chủ đảm nhận việc kề cận vua. Vận hành Kỷ Dậu đất bại tuyệt, là tang gia bãi chức, tức là Nhâm kỵ Long Bối cách.
Đại Lâm Long xuất gặp Thiên Hà, tứ khố thổ toàn cư Cửu Ngũ.
Đại Lâm Long, tức là Mậu Thìn vậy. Yêu cầu trong tứ trụ, nạp âm được Thiên Hà Thủy, thì Rồng mới bay lên trời. Thêm hoàn toàn tứ khố thì bốn bể đều có đủ, cho nên mưa biểnđược tất cả thiên hạ, tất là đấng đại nhân hàng Cửu ngũ vậy.
Mệnh Minh Thái Tổ: Mậu Thìn, Nhâm Tuất, Đinh Sửu, Đinh Mùi, chỗ này cũng có nguyên nhân mà nói.
Trường Lưu Long phục quy Đại Hải, Ngũ hồ thủy tụ theo bầy dân.
Trường Lưu Long, tức là Nhâm Thìn vậy. Long gặp Trường lưu, địa chi được Hợi, danh viết là Long quy Đại Hải, lại viết là Long vượt Thiên Môn. Diệu là ở nạp âm được Đại Hải thủy, tứ trụ đều mang thủy, thì thuỷ ở ngũ hồ, mà còn được bề sâu, chỗ Rồng rất thích, phải có Canh Tân để sinh, thì xuất nhập giao động, nói sao, không phải là tượng quý sao?
Như mệnh Vương Dương Minh: Nhâm Thìn, Tân Hợi, Quý Hợi, Quý Hợi, cũng vì mệnh này mà lập luận.
Lục hợp có công, quyền tôn lục bộ.
Phàm trong tứ trụ có tượng hình xung khắc hại phá, vốn là luận hung. Được thần dắt hợp có lực, trái lại là cát, phúc cao xa. Năm tháng dụng thành đại quý, ngày giờ dụng thành là thứ.
Tam hình đắc dụng, uy trấn tam biên.
Hình vốn là không cát, đắc dụng thì phú quý thông minh, vô dụng thì cô bần hung yều. Sao nói là đắc dụng, là tam hình có khí, nhật chủ cương cường, còn vô dụng thì trái lại.
Tý Ngọ là Đoan Môn, Song củng Kỳ Nghi dựa vào Ngoại Chính.
Hai vị Tý Ngọ, Chính mà không Thiên, cho nên viết là Đoan Môn. Nếu được kẹp củng không có phá tổn, lại có lực lượng, người tất thông minh, phấn lập huân nghiệp. Chính Củng, như Hợi Sửu củng Tý, Tị Mùi củng Ngọ.Ngoại Củng, như Thân Thìn củng Tý, Tuất Dần củng Ngọ. Kỵ Không Vong khắc phá là hại.
Tị Dần là sinh địa, thập phần tú khí hợp Càn Khôn.
Tị Dần sinh có lực, có thể hợp Hợi Thân. Hợi là Càn vậy, Thân là Khôn vậy, nếu không có xung tạp, Thân Hợi chính là nhận quý khí, tài hoa xuất chúng.
Thiên Địa bao tàng thần đắc dụng, trong tâm lộ rõ.
Hợi là Thiên, Thân là Địa, lộ ra có lực lượng. Như trong bát tự không thấy 2 chữ, trái phải được thần, củng khởi 2 chữ. Kiêm có quý khí, không lạc Không Vong, cần nên lộ rõ. Hoặc lấy Thân Hợi bao Dậu Tuất, xem thiên can thuộc vật nào, lấy hữu dụng là quý.
Phong Lôi kích liệt quý vô khuy, tính danh bay cao.
Tị là Phong môn, Mão là Lôi môn. Trong bát tự hư củng một vị, lại có quý nhân. Tuế vận nếu khởi phùng xung, tất có thể phát đạt.
Tặc địa thành gia, tặc loạn gia vong thân tất tang.
Phép này lấy chi tháng là ngũ âm vậy. Trong năm ngày có thần tranh hợp là Thê, chi tháng chìm đắm ở trong đó. Muốn ra mà không thể được, viết là Tặc địa. Lại gặp thần ở năm và ngày, tự hình, không có rảnh mà đi hợp ta. Được chi giờ thừa cơ, cùng chi tháng là hợp. Gọi là Tặc địa thành gia, phú quý không ít. Đại vận khử Tặc thì yên, lại thấy Tặc loạn thì hung.
Xà nhà liền chặt, mộc đa kim khuyết dụng khó thành.
Mộc vốn dựa vào kim đốn chặt để thành khí, nếu kim bị thần lưu hợp, không thể đến khắc mộc. Lại phải cần mộc cùng kim kề cận, thì nó có thể điêu khắc vậy. Nếu mộc thịnh kim suy, thì thì là tựu kim, cũng không thể chặt mà thành vật hữu dụng. Giả sử dụng mộc, cùng kim tác hợp, hai bên đều lưỡng cường, là lấy quý luận.
Thuần Dương là Địa Hộ bao Âm, binh quyền hiển hách.
Bát tự thuần Dương, vốn là thiên đảng. Đặc biệt Tý Dần Thìn Ngọ Thân Tuất là dương, ám củng Sửu Mão Tị Hợi Mùi Dậu là âm. Hai tượng giao cảm cứu trợ nhau, thì trái lại là chính khí của tất cả trời đất vậy. Lại phải cần tứ trụ không có Không Vong, cùng thiên can có sinh ý là cực tốt. Tượng quyền này thi hành trấn giữ ở biên cương, địa vị đến Công Hầu, phát phúc không nhỏ.
Độc Hổ Thiên môn mang mộc, Đài các thanh cao.
Phàm năm tháng được một vị Dần, lại cần có giờ thấy Thiên Môn, Hổ tất hướng Thiên gọi Nhật. Trong trụ lại có Mão Mùi hợp cục, mộc thịnh sinh phong, phong đi theo Hổ, sao không vĩ đại ư? Nếu khiến cho hình xung khắc phá, không được Ấn thụ tài quan, thì vô dụng vậy. Học Đường phùng Dịch Mã, thì văn chương cao như Bắc đẩu. Thân tọa vị trí Trường Sinh gọi là Học Đường, lại được Dịch Mã giao trì, một xung một hợp. Lại được khí tượng cao lớn, mang Tài Sát Quý nhân là tối quý, văn chương tự nhiên xuất trần.
Nhật chủ tọa Hàm Trì, giang hồ hoa tửu.
Hàm Trì còn có danh là Đào Hoa Sát. Nam nữ gặp, tất nhiên dâm loạn, đa số người là tửu sắc, lưu lạc giang hồ. Nếu thấy Tài Quan Quý Đức đồng cung, lại được phẩm cách thanh kỳ, an hưởng phú quý. Đại kỵ hình hợp, chỉ hỉ Không Vong.
Phúc đầy nên phòng có họa, hung nhiều vị tất không có cát.
Đại để dụng Ấn sinh thân, chính là phúc của ta vậy. Trong trụ vốn có Quan Sát, chuyển sinh Ấn vượng, không gặp Tài Thương Thực thần tiết khí là quý. Vận hành Tỉ Ấn vượng địa sinh phù thái quá, xứ phúc quá đầy sao không khởi sinh hoạ? Quân tử xứ cực thịnh vậy. Trong cục vốn có nhiều Quan Sát, tuế vận lại hành Quan Sát, là rất hung, liên tiếp gạp gian hiểm. Về sau tất có vận chế phục thân vượng, là tượng Phủ cực Thái lai. Như ngày Giáp bị chỗ Quan Sát vây khốn, vận thần lại hành Thân Dậu, là rất hung vậy. Thuận đi có vận Hợi Tý Ấn, nghịch hành có vận Tị Ngọ chế, là có vật cứu, sao mà không tốt ư? Chỗ này nói âm dương tiêu trưởng, họa phúc ẩn phục, thiên đạo nhân sự, là lưu thông, nên nhìn cho kĩ.
Mã đầu đeo tiễn, sinh ở Tần mà chết ở Sở.
Sau Mã mang roi, hướng ở Hồ Bắc mà mộ ở Hồ Nam. Chỗ này nói Dịch Mã ở dưới ngày giờ, tất phải mang hợp. Gọi là Liền dây cương, tụ tài phúc lớn, trợ lý hơn người. Nếu trước Mã thấy có hình xung, gọi là Đeo tiễn, tượng đứt dây cương vậy. Nếu đến xung thuộc loại kim, thụ khắc thuộc loại mộc, thì họa càng nặng, chủ người tha hương mất mạng. Phàm thủ dụng Dịch Mã, thuận thì năm lấy ngày giờ, nghịch thì giờ dụng nhật chủ. Mã không có rào chuồng, thì bất chấp mọi thứ mà làm càng giữ không được. Như sau lại thêm có hình xung, Mã tất lao nhanh. Cuối cùng không có nơi yên ổn, chủ cả đời lao khổ, bôn ba khắp nơi. Nếu thần hình xung, có gặp tam hợp lục hợp, thì không lấy thêm roi mà luận vậy. Tính linh Hình ngủ, phần nhiều là lý trọc lưu thanh.
Tướng đẹp tâm ngu, cái thị thanh trung hàm trọc.
Phàm thủ dụng thần, hình xung thác loạn. Chưa có thể liền nói trọc mà vô dụng, nên suy xét kĩ trong đó có vật ám tàng. Như trong trọc xuất ra một điểm cô thanh, thì người tuy là chất phác, phần nhiều tính tình thông minh, cơ mưu khác thường. Nếu dụng thần thanh kỳ đặc biệt xác lập, không phải là hỗn tạp hình thương, chưa có thể nói là thanh vậy. Nếu trung gian có vật ám tàng, cũng chỗ vật sử dụng có tổn thương, thì cuối cùng bệnh chung không thể hết. Cho nên tướng người tuy đẹp, tất nhiên thất học mà vô thành, hôn mê tửu sắc.
Một tướng gác cửa quan, quần tà tự phục.
Tướng, là thần quý trọng vậy. Quan, là nơi khẩn yếu vậy. Tà, là vật ghét ta vậy. Giả như ngày Giáp Ất sinh ở năm tháng kim vượng, đều đến khắc ta. Được Bính thấu ra trên tháng, chế Sát thành quyền, mà Sát tự phục vậy. Lại như Nhâm Quý gặp Mậu Kỷ, chi thổ loạn khắc, thân không thể đối địch. Xứ Khẩn yếu, lại cần có Canh Tân là Ấn hóa Sát, không dám làm loạn.
Chúng hung khắc chủ, độc lực khó thắng.
Chỗ này nói Sát trọng Thân khinh, cô độc không có trợ giúp. Bởi vì không có thần gác cửa có thể cứu, thì không thể thắng chỗ khắc vậy, quyết là yểu tật.
Thoát chỗ bối nghịch, kỵ thấy chỗ bối nghịch, hóa thần này, hỉ thấy thần này.
Kỳ diệu của Tòng hóa, không thể vội vàng cùng tận, ắt phải dụng tâm suy xét. Như Giáp Kỷ hóa thổ, thoát khí mộc mà theo nhà vợ. Nếu thấy Giáp Ất Dần Mão Mùi Hợi, đều là Tỉ kiên của ta. Thì có dựa vào gốc vượng, sao không lưu luyến chứ? Huống chi Tỉ Nhận lại có thể tranh hợp Tài của ta, khiến cho Giáp Kỷ không thể lấy thành, lại có oán hận ly gián vậy. Lại như Ất Canh hóa kim, hỉ thấy kim vượng, mà vợ nương tựa được chồng. Đinh Nhâm hóa mộc, hỉ thấy mộc vượng, là hai nữ được dựa vào mẹ. Bính Tân hóa thủy, hỉ thấy thủy vượng, mà Mẫu được dựa vào Tử. Mậu Quý hóa hỏa, hỉ thấy hỏa vượng, mà chủ được dựa vào Tài. Rất sợ thấy Không Vong thấy Sát, Tỉ kiên tranh đố. Không thành danh quan lớn công chức, thì là cô nhi khác họ vậy.
Dịch Mã không có dây cương, làm khách nam bắc đông tây.
Không có dây cương, là Mã không có hợp vậy. Nam bắc đông tây, là không có chỗ nào là không đến vậy. Như nhân mệnh gặp chỗ này, tất chủ phiêu linh.
Đào Hoa đái Sát, làm ca kĩ níu kéo quan lại.
Là Đào Hoa thấy ở trên ngày giờ vậy. Không chỉ kỵ hình hợp hữu tình, càng kỵ Ngũ Sát đồng xứ. Phàm gặp chỗ này, không dạy dỗ nhận lễ nghĩa liêm sỉ không có vậy.
Mẫu Tử có nương tựa nhau thủy chung, phu thê phải gắn bó sinh tử.
Mẫu Tử Phu Thê, là chuyên nói 2 đầu mối Thể Dụng, duy chỉ có ở ngày tháng là trọng yếu. Giả như ngày Mậu tọa Thìn, sinh ở tháng Thân. Nhưng thổ lấy kim là Tử, kim dưỡng ở Thìn, ít dựa vào Mẫu mà tự cường. Thổ sinh ở Thân, già được con mà có chỗ dựa. Tượng này rất hiếm, đại kỵ tuế vận phá mà thành họa. Giả như ngày Bính tọa tháng Tý, dụng Dậu kim. Nhưng hỏa lấy kim là vợ, Tân kim sinh ở Tý, thích hợp nhà chồng để dưỡng thân. Hỏa đến Dậu vong, dựa vào thê tài để mệnh sống. Tượng này quý dụng Tài Quan, rất sợ hình xung tán cục.
Đôi mắt không có đồng tử, hỏa thổ nấu khô Quý thủy.
Quý thủy ở con người thuộc thận, là nền tảng toàn thân, gốc của đôi mắt. Mắt là cửa quan ngũ hành, chỉ riêng đồng tử thuộc thủy, thủy khô thận hư, thì đồng tử không có chỗ dựa. Nếu nhật can sinh ở tháng hỏa thổ, ngày giờ tọa thổ là gốc. Mà trong trụ gặp mộc hỏa nấu khô tổn hao, không thành tòng hóa, đa số mắc bệnh đôi mắt. Nếu ở trong năm tháng giờ, tuy được khí mùa thu. Không hành đại vận tây bắc, gặp mộc hỏa đất quá nóng, e rằng có khổ mất sáng. Tức là thủy hơi được thông căn, cũng có tật đôi mắt.
Đại tràng có bệnh, Bính Đinh khắc tổn Canh kim.
Canh thuộc đại tràng, cần gặp thủy thổ, sợ Bính Đinh Dần Mão đắc cục không có chế. Canh kim tuy được nối căn, lại bị hình xung khắc phá, kiêm nhập đại vận mộc hỏa. Thủy thổ ở xứ suy, liền có tật này.
Thổ hành thấp địa mà đổ căn, Bá Ngưu có oán hận. Hỏa gặp trời viêm nóng mà được cục, Nhan Tử không lo.
Mậu thổ thuộc tỳ, trong tứ trụ không có thông căn vị trí sinh vượng. Sinh gặp giờ ẩm thấp, lại thêm thủy ngâm xứ thổ. Vận hành đất ẩm thấp, can tuế thổ khắc, thì tỳ thổ thụ thương, vì vậy có tật. Hỏa là tượng văn minh, sinh ở mùa hạ, tam hợp Dần Ngọ Tuất cục, hỏa càng phát sáng. Làm phiền dùng một phần mộc giúp, không cần thấy thủy thông căn, gặp ngọn lửa hỏa. Người sinh gặp chỗ này, vui vẻ không lo. Hỏa hành xứ cực, gặp nhiều mộc sinh, lại chủ yểu bần, rất là bất lợi vậy.
Thủy phiếm mộc phù, chết không quan tài. Hỏa viêm thổ táo, sinh nhận cô đơn.
Mộc theo thủy chảy tràn lan, không gặp vận thổ làm đê ngăn, lại gặp đất tử tuyệt. Phùng xung cùng Sát, tất định rơi núi rơi thủy, hoành hại độc vong, đa số không tốt. Thổ do hỏa táo, vạn vật không sinh, đầu vận nam hành, phế mà vô dụng. Đến sau tuy gặp Tài Quan, không thể làm dụng. Dẫn đến bôn tẩu cô bần, mệnh không nhà vậy.
Thê đa lực nhược, sinh nhai hoa phấn. Mã nhược Tỉ nhiều, hình hài phiêu bạc.
Phàm dụng Tài là vợ, tối yếu là phải đắc thời đắc vị, nhật chủ lại hỉ thân cường. Năm tháng có chỗ dựa, âm dương đều được chỗ, cũng biết là phối tốt. Nếu Tài đa tán loạn, hình hợp không đồng đều, nhật chủ cô nhược, không thể đảm dụng. Tất nhờ vợ hưởng lợi để dưỡng thân vậy. Chỗ này thì lại nói ngược lại là Tài khinh Tỉ nhiều, là vật dưỡng thân, dụng không thể không có. Phàm gặp Tài vượng thân cường, cả đời an vui. Thấy Tài khinh Tỉ nhiều là không đủ sử dụng, cuối cùng tất phiêu bạc giang hồ, đuổi theo tài mà lao khổ, sao mà an hưởng chứ? Phàm gặp hung thần giao hội, lấy thiện ít mà khó thành. Cát tinh cùng lâm, ác tuy nhiều mà cũng hóa. Đạo từ ngộ lý, thần nhập tâm sinh, khổ cầu học thuộc, mà được lớn hay bé vậy.
Lục Thần thiên
Ngũ hành diệu dụng, khó thoát tong một lý. Tiến thoái tồn vong, phải biết đạo biến thông.
Chính Quan bội Ấn, không bằng cưỡi Mã. Nói phép dụng Quan, đại để cần kiện vượng thanh cao, tối kỵ thiển bạc. Quan vượng cần Ấn, nhược thì cần Tài, chỗ này là lý bất dịch vậy. Này nói dụng Ấn, không bằng dụng Tài, là có một thuyết: Giả như thân vượng Quan khinh, thấy nhiều Ấn thụ, thì nhật chủ càng cường, mà Quan càng nhược vậy. Hồ Trung Tử nói: Quan khinh không bằng Sát khinh cho nên hỉ đất Tài vượng. Sinh Quan khắc Ấn, ngọn nguồn phải được trung hòa, chỗ này đủ để phát phúc.
Thất Sát dụng Tài sao cần gặp Lộc?
Chỗ này nói Sát vượng thái quá, nhật chủ không có chỗ dựa. Nếu như dụng Tài sinh Sát, thì nhật chủ càng nhược, còn Sát càng vượng vậy. Không thể đảm nhận, không thể bỏ đi, chỉ có thể bỏ mệnh mà đi theo, để có thể tránh hoạ xâm phạm. Vận hành đất Tài Sát vượng, khởi đầu tâm không dễ đi theo. Một khi gặp tuế vận quy lộc, nhật chủ đặc biệt cường, chính là cùng khắc chiến với Sát. Lấy ít địch nhiều, có thể thắng hung sao? Có thể biết vậy.
Ấn phùng Tài là bãi chức, Tài phùng Ấn lấy Thiên Quan.
Ấn là vật chính đại thanh cao, thấy Tài thì không thể bảo vệ danh vị. Lại như nguyên dụng Ấn thụ, không lấy Quan Sát làm chỗ dựa, vận hành đất Ấn Quan, làm quan thanh cao. Một khi gặp đất Tài, khắc mất Ấn thụ, trụ không có Tỉ kiên để giải cứu, khó tránh bãi chức về vườn. Tổn thương nặng, tất chết ở đất thủy hỏa. Thân vượng dụng Tài có thể biết vinh hoa, lại hành đất Tài vượng, chủ không thể vượt qua. Lại cần lưu niên Ấn vượng, trợ giúp bản căn cho ta, lại có thể tiến tước thăng quan. Không lấy Tài phá Ấn luận vậy.
Mệnh nhận yểu chiết, Thực thần củng lập phùng Kiêu.
Thất Sát hại thân, vốn không có Chính Ấn để cứu giải, chỉ lấy một vị Thực thần chế Sát. Vận đạo thanh niên, hỉ hành đất chế Sát. Nếu gặp Kiêu thần có lực, khắc Thực thần của ta, trụ không có gặp Thiên Tài đối địch. Khó tránh Sát hại thân, là họa càng thêm mãnh liệt.
Vận đến hung nguy, Dương Nhận trọng phùng phá cục.
Chuyên nói dụng Tài không có Sát, đại kỵ Dương Nhận gây họa. Nếu tuế vận trọng phùng Dương Nhận Kiếp tài phá cục, tất có khổ tang gia tù ngục. Hại vợ hại con thống khổ, mộc hỏa binh Nhận, tất có phát sinh vậy.
Tranh Chính Quan không thể không có Thương.
Quan là Lộc vậy, ai cũng mong muốn. Nếu trong trụ thấy nhiều Tỉ Nhận, lại có một vị Quan tinh. Tất nhiên là tranh đoạt, sao thành lập mà có phúc? Không bằng vận đến Thương quan, thương tận Quan tinh, thì Tỉ kiên không có tranh đoạt, mới có thể yên vậy.
Quy Thất Sát rất sợ có chế.
Chỗ này cũng lả nói Tỉ kiên vậy. Bởi vì tứ trụ thấy nhiều Tỉ kiên, tất nhiên là tranh Lộc tranh Tài, mà tuế vận đoạt vật là họa. Như năm tháng thấu ra một vị Thất Sát, Biết sợ Tỉ kiên, thế tất quy phục. Tuế vận một khi gặp Thực thần chế Sát, thì trụ không có thần chủ trương, khiến cho Tỉ kiên phục loạn như ban đầu. Thì tán tài phá nghiệp, chết đột ngột dưới Thực thần phóng túng, đoán có bằng chứng vậy.
Quan cư Sát địa, khó giữ Quan. Sát ở đất Quan, sao có thể biến thành Sát.
Quan là quý nhân thuần nhã, Sát là ác khách gian tà. Như Quan cư Sát đảng, thế không thể độc lập, tất hỗn hóa mà thành Sát. Tuy Quan có phong độ thuần nhã, sao thể lấy chăng? Sát là vật cường bạo, tuy ở đất Quan tinh lễ nghĩa, cuối cùng lễ nghĩa không khỏi thay đổi. Cho nên không thể biến Sát thành Quan vậy.
Tham Tài phôi Ấn bỏ cao khoa, Ấn phân khinh trọng.
Phàm mệnh có Ấn trọng Sát khinh, cuối cùng cũng không là quý. Phải hành vận Tài vượng, khắc Ấn thái quá, bất cập sinh Sát. Sát Ấn tương đình, tất có thể siêu việt. Nếu Ấn khinh phùng Tài, thì là đại hại, nên xét kĩ Tiêu Tức.
Gặp Tỉ dụng Tài nắm bạc triệu, Tỉ được sinh phù.
Tài là vật của ta sử dụng, được nó là tốt. Trong trụ có một Thất Sát chuyên quyền, nhật chủ bị chế, thì không rảnh mà dụng tài. Nếu được Tỉ Kiếp thấu lộ, hoặc tuế vận sinh phù. Nhật chủ không đến nỗi suy nhược, có thể địch Sát, mà Tài mới là của ta dùng vậy.
Vận đến đất vượng thân lại nhược.
Chỗ này nói Tòng Tài, Tòng Sát không thành tượng. Nhật chủ suy nhược, không chịu bỏ mệnh là theo Tài Sát. Nếu hành đại vận gặp đất sinh phù, tất cùng Tài Sát tranh địch. Địch mà không thắng, lại bị Tài Sát làm hại, thì càng nhược vậy. Định tất vì Tài mà mang họa, tai bệnh đến thân.
Tài phùng xứ Kiếp họa không nhẹ.
Tài đa Thân nhược, không thể đảm nhận. Hành gặp Tỉ Kiếp, phân Tài trợ khí, mà họa lại nhẹ.
Tài không có Thương, vẫn kỵ âm mưu đạo tặc.
Trong trụ dụng Tài, không có Tỉ Nhận cướ đoạt, thì không có tổn thương. Nhưng kỵ trong khố có ám tàng Tỉ Nhận, hoặc bị xung hình, thì khó tránh tai hại xâm phạm vậy.
Sát không có lộ chế, nên tìm binh phục địch.
Sát là vật hung bạo vậy, tất muốn có Thực thần lộ ra chế, mới có thể là dụng. Như trong trụ không có thần lộ ra chế phục, không thể liền nói lấy hung, cần phải thâm cầu thần trong tứ trụ. Như có Thực thần ám phục, hoặc gặp hình xung, hoặc tựu lực binh tam hợp cũng có thể phục địch. Đại vận hành đất chế Sát, tất chủ thành danh tiến lộc.
Trên đầu Quý nhân mang Tài Quan, cửa đầy tứ mã.
Chỗ này chuyên nói năm và ngày có quý nhân hỗ hoán, không gặp Không Vong Kiếp hại, Sát Nhận đồng cung. Ở trên mang Tài Quan, còn cư nơi chính vị, mang hợp lại có căn, đắc thời tiến khí. Chính là người phú quý, chấp chưởng binh hình, là mệnh phi thường. Ngọc Tỉnh phú nói: Tiến cung kim ngọc, trên đầu quý nhân mang Quan tinh, là Quan hay là Tài là trọng yếu nhất vậy.
Trong cung sinh vượng tàng Vong Kiếp, anh dũng đoạt tam quân.
Trong bát tự, như có mang Vong thần Kiếp sát, được gặp đúng chân Trường Sinh, cùng nạp âm năm. Hoặc được Trường sinh Lâm quan Đế vượng, chủ vũ lược siêu quần, có anh dũng cử đỉnh bạt sơn vậy.
Là vì cưỡi Mã vong thân, chỉ vì đắc lộc mà né tránh chức vị.
Trong trụ vốn có nhiều Tỉ Kiếp không có Tài dụng, tuế vận phùng Tài, nhật chủ chính là dụng Thực. Tỉ Nhận tất nhiên cướp đoạt, nặng thì tổn mệnh tang gia, nhẹ thì từ quan bãi chức. Nguyên dụng Quan tinh, mang Tài là quý, vận hành đất Quy Lộc, là đất Tỉ kiên vượng. Tất nhiên tranh đoạt Quan, chính là nói gặp Tỉ kiên mà cạnh tranh, ở chỗ này lại mất bổng lộc, cho nên né tránh chức vị là vậy.
Ấn lưỡng hiền giải ách, Tài đến tranh lục quốc.
Lưỡng hiền, là nhị Sát vậy. Ấn là nhân từ vậy. Phàm dụng nhật chủ không nhược, Lưỡng Sát thấu ra thiên can, cũ là tai vả cho nhật chủ. Không có Thực cứu trợ, dẫu có cũng bị gặp chỗ Kiêu thần là tối hung. Nếu có thể dụng Ấn hóa Sát, khiến cho hàng phục ở ta. Như vậy thì người không chỉ có phú quý, mà còn có thể hưởng phúc. Vừa nói Lưỡng hiền, là Quan cùng Sát vậy. Nếu chỉ lấy Sát nói, ý là trọng ở câu dưới Chúng Sát hỗn hành. Tài, là vật chỗ con người muốn, vì cái này mà gây ra nhiều tai họa vậy. Nếu trong cục có Nhận phục ở trong đó, không gặp Tài, thì không có tranh cướp. Nếu có Tài làm dụng, hoặc tuế thấy Tài, trêu chọc Tỉ kiên hỗn Kiếp thành họa. Hình háo hại vợ, khó mà tránh khỏi vậy.
Chúng Sát hỗn hành, một người có thể hóa.
Nhất Sát cuồng loạn, độc lực có thể cầm. Sát vốn là đợi chế mà sau đó phục tùng, nếu thấy nhiều Sát, lực không thể chế, chế thì tất dẫn đến làm nghịch. Cho nên nếu không dụng Ấn, Ấn là nhân từ vậy, lấy nhân hóa sát, khiến Sát tự hàng phục là vi diệu. Hỉ đất Ấn vượng, là giúp ích để hóa, không nên lại thấy chế phục, là chỗ nói tật càng quá mức, là loạn vậy. Độc Sát cuồng loạn, thế lực có hạn, có một Thực chế, tự có thể hàng phục, huống chi Thực thần nhiều chế là quá!
Ấn cư Sát địa, lấy đức hóa.
Sát cư Ấn địa, lấy đủ hình phạt. Như nhật chủ Giáp, dụng Thân là Sát, khắc ta không có chế, cũng biết là hung vậy. Ai cũng biết thủy Ấn trường sinh ở Thân, tự có thể hóa Sát, làm cho không hung bạo. Nếu can chi nhiều Tài, là thành hạ cách. Tỉ vượng Tài khinh, dụng càng đẹp. Như Ất mộc dụng Tân kim là Sát, gặp Tý cắm căn, đặc biệt cường mạnh khắc ta. Tuy là Ấn của ta, là chỗ cung Sát sinh. Nếu Canh Tân kim thấu ra, xâm hại nhật chủ, can không có Thực thần để giải cứu. Được vượng Ngọ xung Tý, khử cung Sát sinh, thì Tân không có chỗ dựa, miễn thứ hoạ khắc thân vậy.
Huynh đệ phá Tài, Tài đắc dụng. Sát Quan khi chủ, chủ phải tòng.
Nhất cục Tỉ kiên, nhật can chuyên lộc, trong trụ không thấy Tài Quan, thì không có chỗ dụng. Nhưng nếu Tỉ kiên thành đảng, hi vọng Không xung phá cung Tài vượng, mà Tài lực thành chỗ dụng cho ta. Rất sợ điền thực xung cung, lưu hợp Tỉ kiên. Giả sử như ngày Tân Dậu, gặp Dậu nhiều xung Mão, gặp Mão nhiều phá Ngọ, là hợp chính dụng. Quan Sát quá nhiều, nhật chủ vô lực, tứ trụ nó lại không có căn, vận đồ lại hành Tài Sát. Không bằng bỏ mệnh tòng Sát, thông đất Sát vượng, tất có thể phát phúc, đại kỵ vận thân vượng và Thực thần.
Nhất Mã ở chuồng, người không nên đuổi, Nhất Mã ở ngoài đồng cũng xua đuổi.
Mã, là Tài vậy. Tất Tỉ kiên là vật tranh giành. Nếu Tài thấu lộ, trong tứ trụ đặc biệt độc lập không có chuồng rào ngăn giữ. Thí dụ như Mã ở trong chuồng, cố định không thể phân chia, Tỉ kiên không dám tranh đuổi. Rất sợ vận bối Tài, đất tam hợp lục hợp, Tỉ kiên thừa cơ ám cướp, dẫn đến họa không nhẹ. Nếu dụng Tài không thấy lộ ra, ẩn ở trong khố, là chỗ đất người không thấy. Tỉ kiên mưu đồ ăn cướp, tuy thâm tàng khoá cổng, khó mà bảo vệ không có hoạ hoạn.
Tài lâm sinh khố phá sinh cung, kiêm phụng lưỡng gia tông tự.
Phàm mệnh lấy Ấn là mẹ, lấy Tài là cha. Tài kiên cố lấy Ấn là nhà, Ấn tất lấy Tài làm chủ. Nhưng Tài quý mà Ấn tự vinh, chồng bại thì vợ không có chỗ dựa. Cho nên luận căn cơ cha mẹ của con người, tất phải lấy Tài xem là trước tiên. Nếu Tài có cung trường sinh, lại thấy cục mộ khố. Nhưng có thần phá chỗ cung sinh, không có phạm ở mộ khố. Thì là trẻ mồ côi làm con nuôi người khác, là con bỏ cha theo mẹ vậy. Bởi vì sinh là ban đầu không rõ, đang thu tàng ở trong khố vậy. Là bỏ thủy theo chung, cho nên biết chỗ này vậy.
Thân tọa Tỉ kiên thành Tỉ cục, phải là vài độ tân lang.
Phàm mệnh không có Thương quan Thực thần, tất nhiên dụng Tài là vợ. Thê cũng thuộc cung này, là một vị ở dưới ngày vậy. Nhưng bị Tỉ kiên chiếm mất lại thấy tam hợp thành cục, trong năm tháng giờ, thấy Tài tất đoạt. Trụ nếu không có Tài, tuế vận thấy cũng là gặp hoạ, khắc thiếp thương thê, sao chỉ có 1,2 mà thôi?
Phụ Mẫu một ly một hợp, cần biết Ấn thụ lâm Tài.
Trong trụ có Tài Ấn, chính là thần làm cha mẹ, vị trí không được đồng cung. Tuy danh là cha mẹ, thực ra là có ý khắc cướp, sao có thể miễn tai hoạ ly gián chứ? Nếu Ấn cùng Tài một cung liền nhau, mà Tài Ấn đều có được chân. Sinh Lộc đồng hương, cuối cùng được tụ hợp thành gia mà không có ngăn cách vậy.
Phu thê tùy thú tùy thương, bởi vì Tỉ kiên phục Mã.
Phàm luận Tài là vợ, dụng năm Tài phùng vượng, hoặc có sinh trợ tiến khí, nên được một vợ. Nếu ở dưới Tài vốn có phục Tỉ kiên, vì bị Sát thần chế phục, không nguyện ý có cơ thể cướp đoạt. Một khi gặp Tài, lại thấy Thực thần chế Sát. Thì cẩu thả đến đoạt Tài, chỗ vợ khó mà ở lâu.
Tử vị Tử điền, cô than bá đạo, Thê cung Thê thủ, hiền tài đủ sáng.
Tử, là con là Quan Sát vậy, Tử vị là vị trí ở giờ sinh vậy. Trụ giờ có Tài, cùng dụng khí Quan Sát sinh vượng. Không gặp Hình Hại Cô Hư, sau lúc dụng thần không mất, thì có con vậy. Nếu Quan thất lệnh, lại có Thương quan thần Thực thần là tranh đoạt, đường đến trụ giờ điền thực, trái lại là có oán than bá đạo. Thê, là vợ là Tài vậy, Thê cung, là vị trí ở chi ngày vậy, bản cung nếu thấy thê Tài, là được lập vậy. Không gặp Tỉ Nhận, không gặp hình xung, không có Đào Hoa ác sát. Được Thiên Nguyệt nhị Đức quý nhân cùng chỗ. Không chì là anh tài hiền huệ, mà còn có ánh sáng chiếu đức vậy. Nhập khố Thương quan, âm sinh dương tử. Bang thân Dương nhận, hỉ hợp sợ xung. Thương quan vốn có âm dương, nên tính có sinh tử hay không. Phàm Thương quan quy khố, gặp ở tuế vận, đa số là thấy tang vong hoành họa. Ai không biết ngũ âm Thương quan, trái lại chỗ này là không có linh hồn. Nhận là vật bang thân, rất sợ thân vượng gặp. Được một Sát trọng, cùng Nhận tác hợp, hóa thành Quyền tinh. Nếu thấy Quan cùng Nhận xung chiến, là thành Ác sát. Dụng nêu suy xét kỳ khinh trọng, tốt xấu như thế nào vậy.
Quyền Nhận phục hành Quyền Nhận, đao dược vong thân.
Tài Quan lại gặp Tài Quan, là vì tham ô mà bãi chức. Quyền, là Sát vậy. Nhận, là binh khí vậy. Thân vượng dụng 2 cái này, là người xuất thân từ binh hình vậy. Sát vượng hỉ hành đất chế, Nhận vượng hỉ hành Sát địa. Nếu vốn có Sát vượng, lại hành đất Sát vượng, là chỗ kiến công lập nghiệp, không tránh chết dưới đao kiếm. Nhận nhiều lại gặp đất Dương Nhận, tiến lộc được xứ Tài, tất nhiên cuối cùng cũng ở chỗ ăn bã thuốc. Là do số khiến như vậy. Tài, là bổng lộc, là quan lộc vậy. Thân cường gặp 2 chỗ này, là người danh lợi siêu quần vậy. Phàm Quan nhược hỉ hành đất vượng, Tài vượng hành Ấn địa, đều là lúc thành lập phát phúc vậy. Nếu có Ấn phùng Quan, thì vượt quá lộc vậy. Tài vượng phùng Tài, thì dư bổng lộc vậy. Quân tử bổng lộc quá dư, tất thấy vì tham ô mà bãi chức.
Lộc đến Trường sinh vốn có Ấn, đảm nhận thanh quan. Mã hành Đế vượng trước không có tổn thương, hoạn đồ tiến tước.
Vốn dụng Quan tinh suy nhược, không thể xưng vinh Ấn thụ. Nếu Quan gặp Trường sinh, thì thấy đặc lập thanh kỳ, mà có tình chiếu cố Ấn. Ấn vốn là vật phù thân, đã thành khép kín dụng cả ba, ở đây tất nhiên là tiến tước. Vốn dụng Thiên Chính Tài, tuy đắc vị mà thất thời, cư Quan cũng không hiển hách. Tất đợi tuế vận đế vượng lâm quan, Tài lấy đủ dụng, chỗ này tất chạy khoẻ. Nếu không có Tỉ Nhận Thương Kiếp, chỗ này là tăng quan tiến tước, lập nghiệp dư tài, có đủ bằng chứng vậy.
Tài vượng thân suy phùng sinh tức chết.
Tài vượng thân suy, lực không thể đảm nhận, ý nếu cùng quên nhau, lại thấy chỗ thủ an nhiên. Một khi gặp đất trường sinh, cho dù ỷ mạnh mà cẩu thả được tài vị, mà họa cũng theo đến vậy.
Nhận cường Tài bạc kiến Sát sinh Quan.
Chỗ này nói dụng Quan suy nhược, mà Tài lại cũng suy yếu. Bởi vì Dương Nhận Kiếp tài, không thể sinh Quan, thì Quan không có dựa vậy. Như thấy một vị Thất Sát, hợp Nhận bỏ Tài, lấy vật tài bệnh. Lấy đủ sinh Quan, Quan tự vượng vậy. Học giả xét chỗ này, lại không thể có, sợ thấy Sát hỗn Quan vậy.
Tăng Ái phú
Giàu không giàu ở thuần túy, bần không bần ở chiến tranh. Quý không quý ở tú thực, tiện không tiện ở phản thương.
Văn chương rực rõ, Quý Mã hội ở Học Đường. Tấm lòng to lớn, thủy hỏa hợp với tình tính. Mưu sâu lo xa, Đức tinh cư ở cung Trầm tĩnh. Nghệ thuật tinh vi, Đế Tọa quán thủ văn chương. Cát phúc sinh vượng Lộc Mã, yểu cầu đủ toàn bộ tinh thần. Khôi Cương có cơ linh biến, Ly Khảm là cửa thông minh. Quý nhân Lộc Mã nếu gặp, Kiếp Nhận Không vong cũng xa. Trường sinh khả ái rước lấy Quý nhân, suy bại ghét sợ gặp tiểu nhân. Tứ cung hội tụ loạn, là người bất nhân bất nghĩa. Ngũ hành tương sinh, là trung là hiếu. Ấn Lộc ở vị trí hình xung, tâm loạn thân mang. Ngày giờ cư trong Quỷ khố, lo nhiều vui ít. Nhật can vượng mà ít tai hoạ, Tài mệnh suy mà gặp nhiều chông gai. Y thực bôn ba, là do xứ vượng gặp khắc. Lợi danh thành bại, quý địa phùng tổn thương. Họa phúc cả đời, dựa vào ở ngày giờ. Một năm cát hung, dựa vào ở khí vận. Phúc tinh có khí, mà biến động thăng thiên. Tuế khắc vận hung, mà người tan tài tán. Đại vận nguy mà sinh bách họa, lưu niên cát loại trừ nghìn tai ương. Không có tuyệt đến vận tuyệt, tài mệnh khuynh nguy. Cầu sinh được sinh, danh lợi xứng toại. Tam hợp lục hợp, phùng cát nhiều hung ít. Thất Sát tứ hung, gặp thì họa thâm phúc thiển. Gia quan tiến chức, định vì năm hội lộc. Điền sản ngày càng tăng, tất là đất hợp Tài. Tuế Quân xung áp chủ hung tai, đại vận thụ thương biết ít cát. Tuế nên sinh Vận, Vận hỉ sinh Thân. Cả ba vị tương sinh, một năm toại ý. Tài Quan đều vượng, ứng làm quan hiển đạt. Tài Thực đều vinh, sao lo ở bạch ốc? Lộc nhập đất tụ sinh, có thể biết phú quý. Mã bôn đất Lộc vượng, có thể nói vinh hoa. Muốn lấy giao quan lợi tức, phải biết lục hợp tương phùng. Can giờ mang Lộc triều nguyên, định chủ an nhiên nhận phúc. Tháng suy giờ vượng, tuổi trẻ mập phì. Bản trọng Chủ khinh, cuối cùng thân phiêu đãng. Thói quen thủ lợi ở chợ búa, tất là vì xứ vượng phùng Tài. Bỗng nhiên hiển đạt thành gia, định là trong Hình kiến Quý. Chủ Bản nắm thời, được cõi âm phù trì. Quý Lộc có tình, vì quân tử mà hợp cát lợi. Nam thương Bắc lữ, định vì thông Mã đạo. Đông phiến Tây trì, tất là lợi vận xe chuyển. Nhật can khốn nhược, Bá Ngưu oán than trời xanh. Lộc Mã suy vi, Nhan Tử khó tránh đoản mệnh. Hung không hung ở Nhận, cát không cát ở can cường. Mã liệt Tài vi, nam đào nữ tẩu. Thiên La Địa Võng, không họa cũng nhiều tai. Đường cùng phùng Kiếp, nguy hiểm tất phạm tự hình. Tuyệt xứ phùng Tài, vợ khó ứng cân đối với già. Đại hao Tiểu hao, đa số là vì cờ bạc mà mất nhà. Quan phù Tử phù, tất chủ có lúc tụng ngục. Hoặc tứ trụ lại gặp tuyệt, tam mệnh hình thương khó tránh hình phạt tù tội, cuối cùng cũng bị xăm mặt. Nếu phùng Ngũ Quỷ, sét đánh cọp vồ là không sai. Lại gặp bầy hung sát, đoán định ác ương hoành tử. Nữ nhiều dâm tiện, nam tất xương cuồng.
Hoặc hỏi tính tình con người, hiền ngu thiện ác.
Trước tiên suy Quý Sát vượng suy, mới nghiên cứu cơ xảo linh biến. Tâm cao là Khôi Cương là họa, tính thuận là Lục Hợp là cát tường. Xem người phóng khoáng nhàn hạ, gặp sao Hoa Cái Cô Hư. Thế hệ được nhờ thế lực bá đạo, phạm quyền Thiên Quan Kiếp Nhận. Kiếp Nhận sinh thô tục keo kiệt, lại lộ ra cơ mưu hiểm độc. Mưu lược hơn người ở Nhâm Quý, uy mãnh tất Bản ở Bính Đinh. Giáp Ất thuận mà nhân từ đại lượng, Canh Tân suy mà quả đoán không cứng rắn. Gặp Cô tù là không có tinh thần, phá bại ngộ chi đa sơ tiển. Hình chiến là ngu ngoan, an tĩnh là hiền tuấn. Táo bại là hỏa thịnh, ẩn nhẫn là kim nhiều. Kim thủy nắm lệnh mà còn tương sinh, hỏa thổ phùng thời mà tương trợ. Không lao tâm mà y thực tự đủ, không phí lực mà mưu sinh tự thành. Lại nếu có Đức thần tương phù, định là quê nhà tôn sùng. Lộc Quý củng vị, tất nhiên dương danh trên đài các. Chỗ lo là phúc không phúc, chỗ sợ là thành không thành. Phúc hay không phúc, là xứ cát gặp hung. Thành không thành, là cách cục thấy phá. Tổn thương cách thì tổn thương phúc, phá cách thì rước họa. Thí dụ như mầm cây gặp mùa thu khô hạn, mà mùa đông kho thóc hư không. Hoa bị sương mùa xuân, mà mùa hạ không thành quả. Mưu trí tuy có thừa, bỏ dụng thì không thành. Dẫu có cơ xoay chuyển trời đất, mà kiến công lập nghiệp không có thành công. Sao không thấy Lệ Sinh nấu nhừ đế nghiệp, Phạm Tăng ung thư sống lưng. Uyên Minh Đông quay về, Tử Mỹ Tây không còn. Mạnh Kha không gặp, Phùng Diễn không quay lại. Mãi Thần thiếu củi mà hành ca, Giang Cách khổ hàn mà ngồi đọc. Bởi vì có mầm mà không nở, nở mà không có quả. Lại gặp thương bại thái quá, một phúc chẳng qua chỉ là cắt rơm hái củi. Dẫu có bách nghệ đa năng, khó tránh tật khổ cơ hàn. Khốn ở kênh rạch, khiến cho mệnh như vậy mà thôi. Ngưng chìm không thành, sao nhọc oán than? Muốn hỏi phú quý đều thắng, sao cho phép chứ? Không lớn ở tư cơ, không ở tú thực. Đạt thánh đạt hiền, vô thời thì không có. Rất phú rất quý, từ xưa đều như vậy. Hoặc sinh trong Sát cục, văn cao võ hiển. Hoặc cư dưới quan đái, sự nghiệp đại tài. Nếu như chỗ này huyền diệu, làm sao suy đoán? Trước tiên luận ở trong Học Đường, Tam kỳ Tứ phúc. Thứ khảo sát bên ngoài cách cục, nhất cát nhị nghi. Như Kỷ Mùi thấy Giáp Tý là cát tường, Nhâm Thìn thấy Đinh Tị là cát. Nhâm Tý Bính Ngọ, chủ người phong quang nho nhã. Tân Dậu Bính Thân, là người tuấn tú vinh hoa. Âm dương hoàn toàn dựa vào thuần mỹ, tạo hóa tối hỉ tương sinh. Khó biện Nhật Nguyệt tinh hoa, khó đo Kim đường Ngọc quỹ. Được là vinh, gặp là quý.
Nếu luận hiền ngu tối sáng, chẳng qua là tạo hóa bề trên vui vẻ.
Vật có vinh khô, làm người sao không có thành bại? Giả như Phượng sinh ra Trĩ, Xà hóa thành Long. Hoa Lan không đứt ở cỏ cây, khô mộc sinh từ chỗ núi vậy. Trẻ quý già tiện, đầu khốn sau hanh, đều là do đại vận suy vượng, thay đổi dẫn đến phú quý. Cách cục thuần mà chuyển tạp, khốn đốn tàn thương. Vận hành lúc già mà đắc thời, vãn cảnh ưu du. Phòng vận bất trắc gian nguy. Là lấy mùa có xuân có thu, tháng có tròn có khuyết. Thường xem người có phúc ấm, bản thân tang mà định buồn chán. Lại thấy người cày ruộng, một vận thông mà rất hiển. Tước lộc nhiều năm, bỗng chốc tang thành tro bụi. Đến thời vận, cùng giờ tương ngộ. Gặp sinh vượng, vị tất không có hung. Có tình thông, vô tình thì không thông. Có hợp là cát, có xung là hung. Quan Ấn lâm Tuế, định biết làm quan tiến triển. Gặp vận Thực Tài, thứ dân cũng hứa vinh xương. Hoặc có ít vinh dựa vào tổ phụ, nhờ tôn trưởng mà quý. Lại có rủ tóc khó khổ, đến già không nơi nương tựa.
Bởi do tứ trụ vượng suy, chỗ do đại vận tốt xấu. Sao không thấy mộc khô héo, dù có gặp mùa xuân vẫn không vinh. Ngọn cây xanh tốt, tuy trải qua gió sương mà không bại. Ngày giờ lại kém hơn năm tháng, định không có xuống dưới một chút. Giờ sinh hướng về vượng khí, về già tất có phúc. Xưa có đẽo gọt ngọc, giá trị là liên thành. Thế người có cô lập, tự thành gia kế. Như tôi rèn luyện mà không tổn, sau năm hàn mà không héo. Tiêu Tức diệu ở biến thông, họa phúc nên khảo sát suy vượng. Thứ để ngỏ hầu quân tử, cùng làm gương là may mắn.
Tiêu Tức phú
( Lạc Lục Tử chú, Dục Ngô cư sĩ giải thích. )
Nguyên Tiên thiên là nhất khí, bẩm thanh trọc là tự nhiên. Được Tam Tài làm thành tượng, truyền bốn khí để thành năm.
( Tạo hóa vốn từ sơ khai nguyên thủy, là từ chỗ sinh tam mệnh vậy. Tam mệnh lấy can làm Lộc, gọi là Thiên Nguyên; lấy chi là mệnh, gọi là Nhân Nguyên; lấy nạp âm là thân, gọi là Địa Nguyên. Chỗ này cổ nhân nhìn thấy tạo hóa, cho nên làm theo thiên địa và thể âm dương, phối tứ trụ mà thành bát tự. Chỗ này là nghĩa nói đầu của Lạc Lục Tử vậy. )
Lấy Can làm Lộc, Hướng Bối định kỳ bần phú; lấy Chi làm mệnh, nói thuận nghịch theo tuần hoàn.
( Can như can mộc, chi như chi mộc. Nói chung, can dương mà chi âm vậy; phân ra nói, can chi đều có âm dương vậy. Lộc thập can, gửi trong 12 địa chi, dương đạo thuận hành, âm đạo nghịch chuyển, đều từ Trường Sinh mà đếm, gặp bản âm lâm quan lấy ở chỗ này. Chỗ này là dương sinh âm tử, âm sinh dương tử, là lý tự nhiên vậy. Lấy Can là Lộc mà suy, thì có Hướng Bối. Như Giáp lộc ở Dần, gặp Sửu thì gọi là Hướng, thấy Mão thì gọi là Bối. Cho nên trước Lộc một thần là Dương Nhận, sau Lộc một thần gọi là Khố Lộc. 《Kinh 》nói: Hướng lộc thì Sinh, Bối Lộc thì Tử. Chỗ này gọi là lấy Hướng Bối định kỳ bần cùng phú ! Còn nói rõ lấy Chi là mệnh, nói rõ là có thuận nghịch. Như dương nam âm nữ, từ tháng sinh mà thuận hành; âm nam dương nữ, từ tháng sinh mà nghịch hành. Con người chịu nhận khí âm dương thuận nghịch, ở trong chỗ can chi, xoay vòng tròn, tuần hoàn qua lại, như vận chuyển hàn lạnh bốn mùa mà vô cùng tận vậy. Cho nên viết, lấy chi là mệnh, nói rõ thuận nghịch xoay thành vòng tròn. Đàm Oánh viết: Suy Can Lộc có Hướng Bối, nghiên cứu cát hung có nông sâu. Bối, là nghịch, có thể định là bần; Hướng, là thuận mà biết phú. Nhưng mà không ở một đường quỹ đạo, cũng có lúc gặp Bối Lộc mà không bần. Vì vậy, chi làm Nhân Nguyên, vận đồ được mất, nữ đưa nam hứng, chuyển giao tốt xấu, hội cát hội hung, định tác dụng vậy. )
Vận hành, thì một ngày 10 năm; chính là chiết trừ 3 ngày 1 năm. Tinh hưu vượng cho là Diệu, cùng thông biến hoá cho là Huyền.
( Trước tiên nói can chi, là định bát tự vậy. Hành vận là tối yếu nhất trong Tam mệnh, cho nên đứng đầu phép này, con người dùng chỗ này. Vận hành, thì một ngày 10 năm; Chiết trừ, chính là 3 ngày một năm. Phép này cổ nhân dùng lập vận vậy. Chiết trừ phải hiểu số thực lịch, mệnh có tiết khí nông sâu khác nhau, có vận thì sinh thì tiết thay đổi lẫn nhau, trung gian hoặc là hưu hoặc là vượng, phải cùng bát tự phù hợp. Có Hỷ là sinh vượng còn Ác là hưu bại, có hợp hưu bại mà sợ sinh vượng, thiên biến vạn hóa, không phải đạt huyền thông Tiêu Tức, dùng hết cái kỳ diệu của tạo hóa, ai có thể cùng ở đây? Cho nên viết: Hóa mà cắt gọi là Biến, cắt mà được gọi là Thông, là được lý lẽ Thông Biến vậy. Nghĩa cát hung tồn tại chỗ này, cho nên có thể vi diệu là hàng đầu, là thập toàn thập mỹ. )
Kỳ cũng là khí, tương lai là tiến, thành công là thoái. Như Rắn ở bụi, như Lươn ở bùn.
( Khí, là khí ngũ hành vậy, lan truyền ở bốn mùa. Như mùa xuân mộc vượng, hỏa tướng, thổ tử, kim tù, thủy hưu, đón lấy lâm quan, đế vượng, Tương lai là tiến; lấy Bối là hưu phế, tử tuyệt, Thành công là thoái. Khí ngũ hành, tiến thoái xoay vòng, hành vận con người, thường cư một thần, tương lai đã tiến, vượng là thoái, dụng nắm quyền là phúc, dụng không nắm quyền là vô ích. Nếu khí ngũ hành đã qua là thoái, Rắn Lươn đều thuộc loại hoả, hỏa tới tù tử là thổ, hưu phế là tro bụi. Ba thú ở trong Tị là Rắn, là Lươn, là Giun, cho nên biết Rắn Lươn là hoả, tới từ tù hưu phế, thì ở bụi ở bùn là thổ tiến mà hoả thoái vậy.
Oánh Hòa thượng viết: Lươn, Giun là thuộc loại thủy thổ, cư ở bụi nhơ tất là buồn lo. Đằng Xà là thần tro lửa, làm vui ở xứ nhơ bẩn. Phương lấy loại tụ, vật phân theo bầy, chỗ muốn thuận là cát; chỗ nghịch là hung, tức là vật có thể xem tạo hóa vậy. Hành vận con người, tuy đồng một cung, mà khí có tiến thoái, vị trí không có khác; còn mệnh có sinh tử, thấy kỳ không thể không tinh hưu vượng, cùng thông biến vậy. Là hiểu thuyết này.)
Kỳ cũng là có, là theo không mà lập có; Kỳ cũng là không có, trời buông Tượng theo chữ.
( Chỗ này là chính khí ngũ hành rõ ràng, là theo không có mà lập có, cho nên dựa vào thiên tượng ngũ tinh để làm sáng tỏ. Bởi vì, ban đầu vật truyền bá, cái nào là có? Sau Thái Cực, cái nào là không có, có xuất phát từ cái không có, không có sinh từ chỗ có. Thành tượng trời, thành hình ở đất, gặp biến hóa vậy. )
Kỳ cũng là Thường, lập Nhân lập Nghĩa; Kỳ cũng là Chuyện, có thấy có nghe.
( Ngũ hành, ở trên trời là Ngũ Tinh, ở dưới đất là Ngũ Nhạc, ở con người là Ngũ Tạng, mà được phát triển là Ngũ Thường, đạo thường đã có lâu đời. 《 Dịch 》 viết: Đạo lập trời, gọi là âm và dương; đạo lập đất, gọi là nhu và cương; đạo lập con người, gọi là nhân và nghĩa. Đạo con người, không phải nhân và nghĩa thì không thể lập vậy. 《Thư 》 viết: Nhị ngũ sự, một là nói tướng mạo, hai là lời nói, ba là đối xử, bốn là nghe,năm là nhớ. Ngũ thường, ngũ sự, đều là ngũ hành biến hóa, cùng với nhân sự là tương thông. Tính tình của con người thành hay mất, biết động hay tĩnh, đều không thoát khỏi con số này. Hoặc thấy hoặc nghe, như kim mộc thủy hỏa thổ là thấy, còn âm thanh Cung Thương Giác Chuỷ Vũ là nghe; tướng mạo, lời nói, nghe nhìn, suy nghĩ là thấy; còn cung kính, mưu mô, tài ba là nghe. Bởi vì dụng ngũ hành, rất là không thể thắng hết, không phải vì kẻ sĩ sáng suốt, ai có thể tinh xác mà âm thầm nhớ chứ? )
Sùng là báu vật, Kỳ là quý vậy. Tướng tinh Phù Đức, Thiên Ất gia lâm; bản chủ hưu tù, hành tàng ẫn giấu.
( Sùng, là ngược lại với thấp hèn. Kỳ (lẻ), là đối với Ngẫu (chẵn). Vật đã tích lũy mà cao, cao gọi là Sùng, ở ngũ hành, là trên sinh dưới vậy. Vật lấy không và ngẫu là kỳ; ở ngũ hành tách ra chính là bầy vậy. Tướng tinh, là Nguyệt tướng vậy. Đức, là Thiên, Nguyệt Đức vậy. Thiên Ất, là quý thần vậy. Năm sinh là Bản, ngày sinh là Chủ, hưu tù là nói đối xứng với sinh vượng. Năm, tháng, ngày, giờ sinh mệnh con người, tứ trụ có ngũ hành, trên sinh dưới. Có Tam Kỳ, Ất Bính Đinh lại mang thêm Tướng tinh, Đức quý. Chủ Bản ở sinh vượng đắc địa, chỗ gọi là cát tướng giao lâm, mà phúc đến thành khánh, chỗ này là mệnh rất quý. Trước có nói Sùng Kỳ là báu vật quý, sau nói Chủ Bản kị hưu tù, thấy Sùng Kỳ là khó gặp, lấy Chủ Bản là thiết yếu, còn nói loại phương thần sát là thứ yếu. Biết mệnh trước tiên là lấy ngũ hành, sinh vượng là thượng, Tướng tinh Đức quý cộng thần sát là tối cát vậy. Từ viết: Nói Sùng là lấy Chủ Bản. Phàm trong mệnh thần nắm thọ, nắm Tài, nắm họa phúc, cũng gọi là Sùng. Kỳ là lấy Lộc Mã mà nói, phàm Tài Quan, Ấn Thực ở trong mệnh, cũng gọi là Kỳ. Đức là Đức ở chi ngày, Thần là lục hợp vậy. Như năm Nhâm Dần, tháng Canh Tuất, ngày Quý Mão, giờ Ất Mão, tháng 9 Tướng ở Mão, phù kỳ ngày sinh; ngũ hành tháng 9, kim thổ lục hợp, Mão Tuất hợp, Ất Canh hợp, Mậu Quý hợp. Ngũ hành như vậy, đều không ở đất hưu bại, là quý. Nghĩa câu phú dường như không phải. )
Đến như Câu Trần đắc vị, không thiếu chữ Tín để thành công; Chân Vũ đương quyền, biết là đại tài mà phân chia thuận lợi.
( Chỗ này đưa ra thủy thổ, còn lại để ví dụ. Lấy Câu Trần là thổ, ở ngũ thường cũng là Tín. Thần Chân Vũ chính là thủy, ở ngũ thường cũng là Trí. Tín cũng là đủ để đạt đến Thánh nhân; Trí cũng là đủ để viết ra Đạo. Dụng ngũ hành, duy nhất là chỗ này. Đắc vị, như Mậu Kỷ sinh tháng 7, Mẫu ở đất Tử, Đương quyền, như Nhâm Quý sinh tháng 7, là Tử ở nhà Mẫu. Hai vật như nhau, cho nên đều sinh ra ở thân vậy. Họ Từ lấy Mậu Kỷ tọa lâm Dần Mão, cùng Hợi Mão Mùi; Nhâm Quý tọa lâm Ngọ Tị, cùng Thìn Tuất Sửu Mùi, dưới có đủ Quan Ấn, Lộc Mã, vượng tướng, mộ khố gọi là Đắc vị đương quyền. Dường như cùng câu nghĩa là có nghịch nhau. Không bằng chỉ lấy thổ sinh ở tứ quý, còn thủy gặp ba tháng mùa Đông là đúng. )
Bất nhân bất nghĩa, Canh Tân cùng Giáp Ất giao soa; hoặc thị hoặc phi, vương quý cùng Bính Đinh tương úy.
(Lời nói ở trên là Đương quyền đắc vị, thì không có Giao soa, không có Tương úy vậy. Nếu Giáp thấy Canh, Ất thấy Tân, Bính thấy Nhâm, Đinh thấy Quý, giống như hai nữ cùng sống chung, hai nam ở cùng chỗ, không hợp âm dương, không thành hỷ khánh vậy. Canh Tân chủ Nghĩa, Giáp Ất chủ Nhân, lấy giao nhau, cho nên nói là bất nhân bất nghĩa. Bính Đinh chủ Lễ, Nhâm Quý chủ Trí, lấy tương úy, cho nên hoặc thị hoặc phi. Nếu Canh hợp ở Ất, Tân hợp ở Bính, cương nhu cùng đón nhau, gồm đủ nhân nghĩa, không phải là giao soa vậy. Nếu Bính thấy Quý Quan, Đinh hợp Nhâm lộc, thì thành âm dương tương phối, là Thủy Hỏa ký tế, không phải là tương úy vậy. Hoặc lấy Giáp Thân, Ất Dậu là bất nhân, Canh Dần, Tân Mão là bất nghĩa, bởi vì Dần Thân Canh Thân giao soa, Mão Dậu Ất Tân ám chiến; Bính gặp Nhâm, thì Bính không phải là Nhâm; Đinh phùng Quý, thì Quý không phải là Đinh, Tý Ngọ cùng như vậy, Tị Hợi cũng vậy. Phàm 10 gặp một ngày này, mới có thể nói. )
Cho nên bản thân tiên hiền khiêm tốn, xứ tục cầu tiên. Sùng buộng thì định bỏ quan; Quy đạo, là thủy phủ cầu huyền.
(Nhân nghĩa trái với ở chỗ được mất, thị phi thường vướng ở vinh khô, vì vậy thường dùng không biết, bèn không có nghĩ ngơi, cho nên nói có bản thân Tiên hiền khiêm tốn, ở xứ tục cầu tiên, bỏ những thứ yêu thích, ít ham muốn dục vọng cá nhân. Hoặc tôn thờ để diệt hỏa bốc cao, hoặc trở về lấy bổ ích Thận tinh, giữ lấy tinh thần bên trong, ngoại trừ dối trá xằng bậy, đạt vật ta không có, minh sắc không cứu cánh, hẳn là vậy. )
Là biết ngũ hành thông đạo, thủ dụng nhiều cửa. Lý ở hiền nhân, loạn ở bất tài. Thành ở diệu dụng, bại ở bất lực.
( Đạo không ở không còn, vật không ở không không hợp, ngũ hành biến hóa, thông ở đại đạo, chỗ nào không nên, thủ dụng không là một, cho nên gọi là nhiều cửa. Như biết lấy để sữa định, thì trước tiên phải bắt tay đi tìm. Bản thân không tỉnh ngộ, sao có thể đến chỗ này? Cho nên người có đức, có thể hiểu hết lý tính, đạt đến diệu dụng ngũ hành; Ngu là mất, cuối cùng rồi cũng mê muội., mà không có chỗ được. Có thể để nuôi lấy phúc, không thể bại để lấy họa. 《Dịch》 viết: Người không cẩu thả, đạo không uổng được. )
Kiến bất kiến chi hình, không có thời không có; tư tưởng trừu bất trừu, liên tục muôn đời.
( Kiến bất kiến chi hình, Như Thập can Lộc ký gửi ở 12 chi, hình có thấy và không thấy cùng nhau tồn tại ở chỗ này. Giáp lộc ở Dần, rõ ràng Dần là Kiến lộc; không thấy Dần mà thấy Tuất, vốn lấy Ngũ Tý Độn đến Tuất thấy Giáp Tuất, trở thành Lộc Đường của Giáp, chỗ này gọi là Bất kiến lộc. Giáp lấy Tân là Quan, Tân lộc ở Dậu, Giáp được kim kê Dậu, rõ ràng Dậu là Kiến Quan; không thấy Dậu mà thấy Mùi, lấy Thiên Quan độn Giáp nhập bầy Dê (Mùi), ở Mùi có Tân, chỗ này gọi là Bất kiến Quan. Tư tưởng trừu bất trừu, như khí dương sinh ở Tý vượng ở Mão cuối cùng ở Ngọ, khí âm sinh ở Ngọ vượng ở Dậu cuối cùng là ở Hợi, dương sinh thì âm tử, âm biến thì dương hóa, Tý Ngọ chính là âm dương bắt đầu hoá sinh, cuối cùng là vô cực vậy. Âm cực thì dương sinh, dương cực thì âm sinh, khí từ trong Tý Ngọ, nói Giáp chen lấn tách ra, xuất nhập chặt chẽ, qua lại bất tận, giống như sợi tơ liên kết, nghĩa như liên tục muôn đời. 《 Thái Huyền 》nói: Kiến bất kiến chi hình, trừu bất trừu chi tự, là ngày dời tháng đổi, nóng đi lạnh đến, phế rồi lại hưng, lại ngừng lại vượng, một rõ một mờ, một co một duỗi, liên tục tồn tại, không có lúc nào là không có. Bởi vì âm dương ngũ hành, có thấy không thấy, có mất không mất, lý lẽ huyền diệu, là cơ phát tiết, không có gì là không có, không lúc nào không như vậy, tự có Thiên Địa Nhân đến nay, thì như vậy, phải tỉnh ngộ như thế nào. )
Là lấy Hà Công sợ kỳ Thất Sát, Tuyên Phụ sợ kỳ Nguyên Thần. Nga Mi trình bày theo ba đời, kẻ sĩ hoàn toàn không nhiều; Quỷ Cốc truyền bá Cửu mệnh, xem tinh sao quy ước. Nay muốn tập hợp nhiều nhà, có thể phát qua phiến diện, là lấy chưa giải khúc thông, diệu là cần phải thần ngộ.
( Nguyên Thần, Thất Sát, là đứng đầu hung sát. Mệnh bẩm ngũ hành, hoạ này ai trốn? Thời xưa thánh hiền, như Hà Thượng Công, rơi vào cõi tiên vậy; Văn Tuyên Vương, lrất tài ba vậy, vẫn sợ Nhị Sát, huống chi bề dưới? Vì vậy, viết sách cứu thế, cát hung họa phúc, nói cho mọi người lúc còn manh nha. Nga Mi tiên truyền lại ba đời, không phải không tinh vậy; Quỷ Cốc Tử truyền bá Cửu mệnh, không phải không thông vậy. Chỉ nói kể huyền hoặc, âm u áo diệu khó biết, cho nên nói, xem tinh sao mà quy ước, không nhiều kẻ sĩ. Ba đời, là nói Thân Lộc Mệnh vậy. Cửu mệnh, là hai cung Thân Mệnh, hai vị Lộc Mã, năm sinh, Thai, nguyệt, ngày, giờ vậy. Lạc Lục Tử tập hợp tham khảo yếu chỉ của nhiều nhà, có bỏ qua thành kiến, chỉ thấy phát sinh tâm đắc, giải thích nhiều nghĩa chữ “Huyền”, diệu cơ khúc thông, là ở học giả giác ngộ mà biến thông, vì thế là tốt vậy. )
Thần xuất từ Lan Dã, Ấu mộ chân phong. Nhập diệu tứ vô huyền hồ, thần du hành không hóa trượng. Tức là Nhất khí đã ngưng tụ, Tiêu là ngũ hành mà thông đạo.
( Thần là xưng đối với vua. Lan Dã, là địa danh, ghi từ chỗ xuất ra. Ấu mộ chân phong, là chí lớn vậy. Huyền hồ hóa trượng, là câu chuyện Hồ Công bỏ cháu đích tôn, người xưa xưng gọi tên rất hay, ân hận bản thân không có tài năng. Bên ngoài đoạn tuyệt chỗ ham muốn, bên trong không có chỗ suy nghĩ. Tức là Nhất khí đã ngưng tụ, Tiêu là ngũ hành đến chỗ thông đạo, cho nên viết bài Phú này có danh gọi là《 Tiêu Tức 》. Bởi vì tạo hóa có Tiêu có Tức, cho nên nói như vậy. )
Càn Khôn lập loài Đực Cái, kim mộc định kỳ cương nhu; ngày đêm đổi nhau là Quân Thần, lúc Thanh Xích là phụ tử.
( Chỗ này tạo hóa Tiêu Tức là đại quy mô. Càn thuộc dương, là thiên đạo, là quân đạo, là phu đạo; Khôn thuộc âm, là địa đạo, là thần đạo, là phụ đạo. Càn lấy Động làm thể, gọi là Ích Hộ ( mở cửa); Khôn lấy Tĩnh làm thể, gọi là Hạp Hộ (đóng cửa). Càn Khôn lập âm dương, giống đực hợp với giống cái, cả hai cấu kết nhau, vì thế ngũ hành biến hóa ở trong đó vậy. 《Dịch 》lấy Càn Khôn, đúng nghĩa như vậy. Nhân là nhu Nghĩa là cương, chủ chỗ tính tình của kim mộc. Một âm một dương, cương nhu đẩy nhau. Chỉ có cương mà không có nhu, thì không thể sinh biến; chỉ có nhu mà không có cương, thì không thể sinh hóa. Ban ngày là cương, sinh biến để tiến, ban đêm là nhu, sinh hóa để thoái. Tích tụ cương nhu mà thành biến hóa, theo ngày đêm mà thành tiến thoái. Ban ngày là dương theo tượng là Quân (vua); ban đêm là âm theo tượng là Thần (bề tôi). Đạo ngày đêm, là kỳ có Tiêu Tức; kỳ có được Doanh (đầy) Hư (trống rỗng); kỳ có phân chia âm u sáng tỏ; kỳ có số sinh tử. Một Thái (tốt) một Phủ (xấu), một Tổn (giảm) một Ích (tăng). Bởi vì giữa nhau có chung thủy, mới cũ thay đổi lẫn nhau, dẫn đến vinh nhục, tự đến phúc lộc, nếu không có cũng nhiều căn nguyên như vậy. Thần ngũ hành gọi là Đế, Đông phương Thanh Đế là cha; sinh phương Nam Xích Đế là con. Lý lẽ Thanh, Xích, là cha truyền đạo cho con vậy. Nói trong âm dương ngũ hành, có đạo Quân Thần, Phụ Tử, Phu Phụ tồn tại ở chỗ này. Nội dung chính là tạo hóa, là thông đạo luân lý làm người vậy.)
Không thể chỉ tuân thủ một đườn, không thể một lý mà suy. Thời có Đông gặp viêm nhiệt, Hạ có lúc cỏ gặp sương; loài có Âm Thử tê băng, Thần Quy túc hoả.
( Chỗ này là nói đạo âm dương ngũ hành, kỳ diệu khó thông, bí ẩn khó lường, không thể chỉ tuân thủ một đường, một lý mà suy. Như đông hàn hạ nhiệt, chỗ này là lý thường tình, là chính thời vậy. Nếu Đông gặp viêm nhiệt, Hạ cỏ gặp sương, thì không phải thời (Thời là thời tiết) vậy. Không phải thời kỳ mà hành lệnh, là có thể trói buộc lẽ thường chăng? Thử (Chuột) hỏa Quy (Rùa) băng, chỗ này có lý, thích hợp với loài vậy. Âm Thử tê băng, Thần Quy túc hoả, là không phải loài vậy. Chỗ không phải loài mà ở, là có thể luận một đường chăng? Thường dễ nghiên cứu, bất thường thì khó cùng, tạo hóa sao dễ nói chăng? Người Trâu (tên quốc gia thời Chu, nay ở vùng huyện Trâu, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc) thổi luật, mà hàn cốc hồi xuân; hiếu phụ hàm oan, mà tháng 6 sương bay, từ xưa đến nay ghi lại thiên tai, loại này quá nhiều, không thể nói âm dương ngũ hành không thay đổi vậy. Lông Hoả Thử, se lại thành vải bố; mỡ băng tằm, giẫm đạp mà làm tấm thớt, chỗ này là biết thời đại vậy. 《 Thần Dị Kinh viết: Bắc phương có tầng băng vạn dặm, dầy cả trăm trượng, có con chuột nặng vạn cân, lông dài hơn cả thước, chỗ này ẩn giấu ở trong, chính là Âm Thử tê băng vậy. 《 Nhĩ Nhã 》 viết: Một ngày Thần Quy, 10 ngày Hoả Quy. Quách Phác nói giúp: Trời sinh ra thần vật, các loài Quy (con Rùa), có thể chơi với lửa, là Thần Quy túc hoả vậy. Từ Tử Bình chỉ ra Đông Chí Nhất Dương sinh, Hạ Chí Nhất Âm sinh, chính là Đông phùng viêm nhiệt, Hạ thảo tao sương. Lấy Quý lộc ở Tý làm nhân nguyên, Bính lấy Quý làm Quan Ấn; Mậu lộc ở Tị là nhân nguyên, Quý lấy Mậu làm Quan Ấn, là Âm Thử tên băng, Thần Quy túc hoả, e rằng không phải nghĩa của Phú.)
Là lấy Âm Dương hãn trắc, chí vật nan cùng. Đại để tam đông ít nóng, mùa hạ dương nhiều. Họa phúc hữu nhược kỳ tường, thuật sĩ hi kỳ bát cửu.
(Đoạn văn trên nói Đông nhiệt Hạ sương, băng Thử hỏa Quy, không phải là âm dương thường lý, loài vật cảm xúc lẫn nhau, cho nên nói Hãn trắc nan cùng. Chỗ này phản chiếu phá tan đoạn văn ở trên, nói mùa có đông phùng viêm nhiệt, đại để là ba tháng mùa đông ngày tất thiếu vậy; hạ thảo tao sương, đại để mùa hạ dương tất nhiều vậy. Hàn thử đã có thường kỳ, âm dương có thể lén nhìn áo diệu, hoạ phúc lúc này lấy lý suy, hiển cát tường lấy loài đáp ứng. Thuật sĩ chuyên môn luận tam mệnh, ngũ hành, hành niên tuế vận, gặp vận vượng tướng đắc vị là Thái (tốt), thoái vận hưu tù thất vị là Phủ (xấu). Chỉ nói thông thường, khát khao có thể đạt đến được 8, 9 vậy. Nhân mệnh ứng hành niên, tuế vận, họa phúc, nếu như cát tường thay đổi, đếm vật khó tận, ép buộc thuật sĩ, trong 10 phần, chỗ này lý cũng khó hi vọng đạt đến 8,9. Bởi vì thiên địa không có bảo toàn công lý, huống chi ở người chứ? Cũng thông vậy. )
Hoặc nếu sinh phùng đất hưu bại, trẻ tuổi cô cùng; về già gặp đất kiến vượng, lâm tuổi dừng lại. Nếu là đầu hung sau cát, lấy nguyên trọc mà lưu thanh; đầu cát cuối hung, loại căn ngọt mà đời sau đắng.
(Thân tuy theo vận, tất giả vận để giúp thân, thế phải đúng thời, cũng giả thời mà thừa thế. Sinh phùng tuế cường, vận phù hợp ở xứ đất vượng; về già gặp năm suy, vận đúng thích hợp ở đất vây khốn. Chính là tùy theo tiêu tức phù hợp, giống như hưu vượng. Tuổi trẻ ngưng diệt, mà về già hưng long, gọi là Nguyên trọc lưu thanh vậy. Tuổi trẻ kiến vượng mà về già không nơi nương tựa, gọi là Căn ngọt mà đời sau đắng là vậy. Nếu là đo lường vận khí, nghiên cứu kĩ căn nguyên, trước xét căn cơ dầy mỏng, kiêm hiểu vận hạn thủy chung. Tuy nói bách phát bách trúng, cũng có thể hi vọng được 8,9 phần. Đại để nhân mệnh, lập năm là vua. Kỳ Thai, tháng, ngày, giờ, theo thứ tự trở xuống. Cho nên viết, lấy tứ trụ là Quân phụ (vua cha), là chủ tể cát hung, mà lập kỳ Niên (năm) vậy. Hiểu bản khí vận, suy nền tảng thực hư, mà thủ kỳ Nguyệt (tháng). Xem điềm an nguy, xét căn ngọt đắng, mà thủ kỳ Nhật (ngày). Định gốc quý tiện, quyết kỳ sinh tử, mà thủ kỳ Thời (giờ). Mới phân ấu ấm (phúc ấm lúc trẻ), nghiên cứu lập tiền, mà thủ kỳ Thai (Thai nguyên). Nguyệt quản Sơ chủ (đầu), Nhật quản Trung chủ (giữa), Thời quản Mạt chủ (cuối), Niên là tổng quản. Cần phải gộp đủ đầu cuối, tương ứng trước sau, thì phú quý lưỡng toàn, tài lộc song hiển. Không có khác đầu cát cuối hung, đầu hung cuối cát cậy, nhưng mà không dễ có được vậy. Hoặc chỉ có giữa cuối hưng long, cũng có thể trở thành thực mệnh. )
Quan hồ manh triệu, Sát dĩ kỳ nguyên, Căn tại Miêu tiên, Thực tòng Hoa hậu.
(Thuyết đàm mệnh, lấy Thai là rễ, lấy tháng là mầm, lấy ngày là hoa, lấy giờ là quả. Nghiên cứu rễ có thể biết mầm, thấy hoa sau đó biết quả, là thánh nhân xem lấy điềm báo trước, thấy ở lúc chưa manh nha (phát sinh), tức là xét căn nguyên, thì biết giống nòi vậy. Từ viết: Muốn biết cát hung ở bên trong vận, trước tiên xem căn nguyên thắng bại. Căn nguyên có quý, thì vận lâm quý là tất quý; căn nguyên có tài, thì vận lâm tài mà phát tài; căn nguyên có tai, thì vận lâm tai là sinh tai. Lời nói này cũng hiểu thông.)
Thai sinh nguyên mệnh, tam thú định tổ tông; Luật Lữ Cung Thương, Ngũ Hổ độn luận kỳ thành bại.
(Chú: Ống luật Lữ: làm bằng trúc, dùng để hiệu chỉnh âm thanh cao thấp trong âm nhạc, sau dùng từ 'Luật Lữ' để gọi chung về âm luật)
(Thú có 36 vị, chi xếp 12 thần. Thứ tự mà phân bố, 1 thần 3 thú. Người Tý có Chuột Dơi Chim, người Sửu có Trâu Cua Cá Sấu, người Dần có Hổ Hồ ly Báo, người Mão có Thỏ Mèo Chồn, người Thìn có Rồng Thuồng luồng Cá, người Tị có Rắn Lươn Giun, người Ngọ có Ngựa Hươu Nai, người Mùi có Dê Chim Ưng Nhạn, người Thân có Khỉ Vượn Tinh tinh, người Dậu có Gà Quạ Trĩ, người Tuất có Chó Sói Sài, người Hợi có Heo Thỉ Thê (giống như heo rừng)《 Ngưng Trùng Tử nói: Tượng thần tức là Thiên Lục, chủ đại phú quý; Không phải Tượng thần, là Thiên Vân không lộc. Cụ thể lấy hình thần, đoán tính khí. Thai sinh nguyên mệnh, như nói người sinh Giáp Tý, sinh tháng Quý Dậu, Thai nhập Giáp Tý, là đúng nguyên mệnh. Lại như người sinh Ất Sửu kim, tháng sinh Kỷ Mão, Thai phùng Canh Ngọ thổ, là thổ sinh kim. Hai thuyết hợp lại xem, ý không xa lắm. Hoặc viết: Lấy năm thủ tháng, lấy tháng thủ Thai, xem 3 chỗ được loài, gọi là Tam Thú. Có hay không có Thôn đạm thương hình, thì có thể định xuất xứ tông môn.
Dương lục là Luật, Âm lục là Lữ, ngũ âm gọi chung là Luật Lữ. Luật Lữ hợp nhau, phân chi định can, ngũ hành hợp là ngũ âm, là do Giáp Kỷ Cung thổ độn khởi Bính Dần, Ất Canh Thương kim độn khởi Mậu Dần, Bính Tân Vũ thủy độn khởi Canh Dần, Đinh Nhâm Giác mộc độn khởi Nhâm Dần, Mậu Quý Chuỷ hỏa độn khởi Giáp Dần. Ngũ âm (là năm bậc âm giai cổ xưa: Cung, Thương, Giác, Chuỷ, Vũ, cũng gọi là Hợp, Tứ, Ất, Xích, Công) khởi từ Dần, Dần là đầu 12 tháng, đứng đầu nhị lục thì chi thủ dã. Thành bại cát hung con người, là bắt đầu từ chỗ này. )
Không hợp có hợp, hậu học khó biết. Được một phân ba, tiền hiền không ghi.
(Đạo lập ở 2, thành ở 3, biến ở 5, mà số thiên địa, xếp đủ 10 vậy, là số chẵn mà thôi. Không hợp có hợp, như Giáp và Kỷ hợp, trụ không thấy Kỷ mà gặp Ngọ, bởi vì trong Ngọ có Kỷ lộc. Dần và Hợi hợp, trụ không thấy Hợi mà gặp Nhâm, bởi vì trong Hợi có Nhâm lộc. Lại như, Dần Ngọ Tuất hợp, trụ không thấy Dần mà gặp Giáp, bởi vì trong Dần có Giáp lộc. Được một phân ba, như Giáp gặp Kỷ là nhất hợp, gặp Ngọ là nhị hợp, gặp Hợi là tam hợp, chỗ này chính là được một lộc mà phân ba lộc. Cùng ở trước có nói Kiến bất kiến chi hình, trừu bất trừu chi tự, lý là quán xuyên nhau vậy. Lý Hư Trung luận can chi hợp toàn cách: 5 vị Niên, Nguyệt, Nhật, Thời, Thai, có thể hợp toàn can chi, nói Tý thì ở Sửu, nói Dần thì ở Hợi, nói Giáp thì ở Kỷ, nói Ất thì ở Canh. 5 vị Can Lộc, như mang Giáp Ất Bính Đinh Mậu, tự nhiên khởi hợp Kỷ Canh Tân Nhâm Quý. 12 chi nếu mang Dần Mão Thìn Tị Ngọ, tự nhiên khởi hợp Mùi Thân Dậu Tuất Hợi, hoặc ở Tý Sửu Mùi có thêm Lộc Mã, thì thập can thập nhị chi đều hợp đủ vậy. Từ viết: Không hợp có hợp tức là các loại như Hình hợp, Sửu Tý diêu Tị cách, được một, đã thấy có Dần hình Tị, Sửu phá Tị, mà Bính Mậu bị hình phá mà xuất ra, thì liền phân ra ba mà được, là tam hợp Tị Dậu Sửu vậy. Cổ dụng viết: Hổ sinh bôn Tị Trư Hầu tẩu, Dương kích Trư Xà tự nhiên vinh. Giải thích như vậy cũng hiểu thông. )
Niên tuy phùng ở Quan đái, còn có dư tai; đầu vận đến ở đất suy, vẫn mở ra tiên phúc.
(Niên, là Thái tuế vậy. Vận, là đại vận vậy. Niên tuy phùng ở Quan đái, vẫn còn dư tai gặp bạo bại; Vận tuy đến ở đất suy, vẫn còn mang tiên phúc quan vượng. Chỗ này nguyên do hành vận có thuyết 5 năm trước sau, nghĩa văn hai câu qua lại là có thấy lẫn nhau. )
Đại đoạn Thiên Nguyên suy nhược, cung cát chưa đủ lấy là vinh, Trung Hạ hưng long, quẻ hung không thể thành kỳ xấu.
(Thiên Nguyên, là thập can vậy. Can lấy sinh vượng là vinh, nếu suy bệnh tử mộ tuyệt, thì thiên can suy nhược, dù chỗ lâm cung phần có cát. Như được loại Tài Quan, Tướng tinh, Thiên Ất, cũng chưa đủ lấy là vinh.Trung, là địa chi vậy. Hạ, là nạp âm vậy. Trung Hạ đều lâm đất ngũ hành hưng vượng, dù bát quái phân định là hung, cũng không thể dẫn đến tai hoạ. Từ viết: Phàm mệnh, Thiên Nguyên lâm đất Tài Quan, mà sinh ra không đắc thời, bản khí suy nhược, ngũ hành trên dưới, hưu vượng lại không cứu nhau, dù cung gặp Lộc Mã là cát, cũng không đủ lấy là vinh. Như lấy Canh Tân sinh ở mùa xuân, vị trí khác có hỏa khắc kim, kim thấy Dần Mão Giáp Ất là Tài, bởi vì mộc gặp hoả vượng hại kim, mà kim lại không đắc lệnh, tuy cung thuộc Tài cát, mà lại phát hung họa là vậy. Trung, là Nhân nguyên. Hạ, là chi nguyên. Như Đinh lấy Nhâm là Quan Ấn, Trung Hạ có Lộc Mã kiến vượng thành khánh, tuy hỏa lâm tuyệt địa, trung hạ lại nhận quý. Thành giám viết: Lộc tuy tuyệt mà kiến quý. Đào Chu nói: Tuyệt lộc vong Tài, không là điềm hung vậy. Hoặc lấy nhất cát tam sinh thuộc Cửu cung, ngũ quỷ tuyệt mệnh thuộc Bát quái. Cũng hiểu. )
Nếu gặp tôn hung ti cát, cứu cũng vô công; tôn cát ti hung, phùng tai tự khỏi. Lộc có tam hội, Tai có ngũ kỳ.
(Lập năm là Tôn, mượn Thai, Nguyệt, Nhật, Thời lấy thứ. Đại vận là tôn, mượn thời kỳ 6 tuổi, tiểu vận làm thứ. Nếu gặp bản mệnh cùng đại vận đất đức hợp ở kiến vượng, kỳ tuế vận, nhật, thời hung mà không thể là hung. Đại vận cùng bản mệnh tranh chiến ở đất tử tù, kỳ tuế vận nhật thời, cát mà không đủ là cứu. Cho nên viết vậy. Lộc có tam hội, là trường sinh, đế vượng, khố vậy, là đất rất cát. Tai có ngũ kỳ, là suy, bệnh, tử, bại, tuyệt, là đất rất hung. Bởi vì nói Lộc là đối xứng với Tai, lộc không phải là can lộc, nên linh hoạt mà xem. Học giả ngày nay, cứ đưa ra lấy tam hợp, mà lấy kim phùng Tị Dậu Sửu, mộc cư Hợi Mão Mùi, hỏa gặp Dần Ngọ Tuất, thủy gặp Thân Tý Thìn, thì cho là lộc có tam hội, không phải vậy. Từ viết: Lấy nội ngoại tam nguyên trong bát tự, có đắc lực nhất là tôn, tức là dụng thần vậy. Dụng thần không thể tổn thương, như có tổn thương, thì cho dù cát ở vị trí khác, cũng không thể cứu. Nếu năm tháng ngày giờ, nội ngoại tam nguyên tuy có khắc chiến, nhưng không tổn ở tôn, tức là phùng tai tự khỏi vậy. Lại cấp thiết chỗ tiêu tức tổn thần, chủ cát hung ở đâu, hại mệnh thì thân tai, hại thê thì thê tai, hại quan thì quan mất. Nói có lý, nhưng chữ Tôn Ti ít hiểu. )
Hung nhiều cát ít, loại như hào đầu Đại Quá; phúc thiển họa thâm, như hào 5 Đồng Nhân.
(Mệnh hung nhiều cát ít, là hưu tù vô khí, cho nên không hợp ở chỗ dụng. Có loại hào đầu Đại Quá, là nói Hào từ, hào sơ lục, rõ ràng là mượn dùng, không có. Lục âm nhu, mới không có Quá Nhân, hào đầu ở dưới, không phải lúc đầy hứa hẹn, có thể ở ẩn mà trốn tránh, đạo cảnh giác người cẩn thận vậy. Phu Tử viết: Thận, là tư thuật vậy, ngày xưa, không có chỗ nào mất vậy. Chính là ý này vậy. Mệnh phúc thiển họa thâm, là lấy ngũ hành tương khắc mà vô khí, cũng không nên mưu vọng tiến dụng, thí dụ như hào 5 ở trong quẻ Đồng Nhân nói: Hào Đồng Nhân khóc trước, mà sau cười, đại sư gặp nhau khắc. 《 Tượng 》 viết: Trước Đồng Nhân, lấy thẳng giữa vậy. Có thể thấy đường thẳng khó đi, ý là cảnh giới con người lấy từ khắc vậy. )
Nghe hỉ không hỉ, là Lục Giáp Khuy (thiếu) Doanh (đầy); lúc lo không lo, dựa vào ngũ hành cứu trợ.
(Nghe hỉ, là nói lấy đầy. Doanh, là ích vậy. Không hỉ, là nói lấy thiếu. Khuy, là tổn vậy. Đạo Tổn Ích, là từ Lục Giáp mà suy, hoặc lấy Không Vong là thần thiên địa hư thoát. Mệnh lục dương sợ ở cung dương, mệnh lục âm sợ ở cung âm, tuế vận hành niên gặp Lộc Mã Quý nhân, mà ở Không Vong, ngũ hành khuy doanh chế lẫn nhau, gọi là nghe hỉ không hỉ vậy. Lúc lo không lo, là ngũ hành ở xứ hưu phế phùng sinh, như mộc được Giáp Thân Quý Tị vậy. Giả như người Mậu Thân được Đinh Dậu, hung bạo đánh người tự hình. Đinh Dậu là hỏa tử, hóa hoả là thổ, đạo Tử truyền Mẫu, người Giáp Dần đến vận Thân, xung hình phản ngâm, Lộc Mã đều tuyệt, là chỗ chế vượng kim, độn thấy Nhâm Thân là can cứu. Thần thuật nói: Tuyệt xứ phùng phụ mẫu, biến tai thành phúc là vậy. Tôi thấy ngũ hành Lục Giáp, nói hoặc nguyên mệnh bát tự có khuy, có doanh, có cứu, có trợ, hoặc hành vận lưu niên có khuy, có doanh, có cứu, có trợ, không thể chấp định. Khuy Doanh, là nói hoặc cát hoặc hung vậy. Cứu trợ, là nói chế hung phù cát vậy.)
Bát Cô lâm ở Ngũ Mộ, Tuất Mùi đông hành; Lục Hư ở dưới Không Vong, tự Càn nam thủ.
(Trong tuần Giáp Tý, Tuất Hợi là Không Vong, đối xung là Lục Hư, là Thìn Tị vậy. Lấy ví dụ Tuất Hợi là vị trí Càn kim, ở cực Tây góc Bắc, Giáp Tuất Giáp Thân, tự thủ cung Càn, cho nên Dần Thân Tị Hợi đất Tứ Cô, Thìn Tuất Sửu Mùi là đất Ngũ Mộ, hướng Tuất Mùi mà đông hành, thuận Không Vong mà nghịch chuyển. Hoặc lấy Bát Cô, trừ Thìn Tuất Sửu Mùi là ngũ hành mộ, còn lại thần Bát Âm, Cô Hư, Cô lâm ở mộ. Như người Thân Dậu, Cô Thần ở Hợi, còn Quả Tú ở Mùi. Ngũ hành Mộ, gửi ở trong 4 khí, khí đều theo từ Nguyệt kiến mà ra. Tuất và Mùi hành đông, là mộ của hỏa mộc, mộc sinh từ Hợi, hỏa khởi từ Dần, khí hỏa mộc, đông hành đều thủ từ Dần, mà cuối cùng tàng ở Tuất Mùi mộ. Như người sinh Ất Sửu, lấy Hợi là Lục Âm chính Không Vong, Hợi xung Tị là Lục Hư, Hợi là quẻ Càn, Tị là cung Tốn. Tị là thần thủ nam phương, cho nên nói Lục Hư ở dưới Không Vong. Cô đã đông hành, Hư là tây hồi, cả hai thường đối nhau. Chỗ này tổng luận tên thần sát ở trong 12 chi, thuận đạo xoay vòng, Cô Hư Không Vong Ngũ Mộ, là tối yếu trong nhân mệnh vậy.)
Thiên Nguyên nhất khí, định hầu bá thiên vinh; Chi làm Nhân nguyên, vận thương đồ nhi được mất.
(Lấy Can là Lộc, cho nên Thiên Nguyên thanh tú, cát tướng gia lâm, người gặp là quý vậy. Lấy chi là Mệnh, cho nên chi nguyên thuần túy, tứ trụ tỉ hòa, người gặp là phú vậy. Chỗ này là thiên địa phân chia, can chi phân biệt vậy. Thiên Nguyên nhất khí, không phải như nhau, nay chỗ đàm mệnh, lấy tượng thiên can, cho nên nói Nhất khí. Là nói chỗ Thiên can lộc vậy. Lộc cần kèm theo Thiên Đức Quan Ấn Quý Thực, ngũ hành trong tứ trụ, kiêm đắc khí sinh vượng là rất quý. Xưa nhà Thương, tường lấy Nhân nguyên. Định tài vật được mất, phải xem có khí, vô khí, phải xét tiến thần, thoái thần, cho nên đoạn văn dưới nói: Tài mệnh hữu khí. Tài tuyệt mệnh suy. Còn nói đối với định vận, định là quyết định, vận là lưu chuyển, nghĩa đều có chỗ lấy vậy. )
Nếu xem Tài mệnh hữu khí, phùng bối lộc mà không bần; nếu cũng Tài tuyệt mệnh suy, dẫu có Kiến Lộc mà không phú.
(Sinh mệnh con người lấy Tài mệnh làm chủ, ngũ hành chỗ khắc, gọi là TÀI. Hữu khí, ;à nói Tài và mệnh đều được ở đất ngũ hành sinh vượng, tuy tứ trụ bối lộc, khiến cho không có Quan, cũng không đến nỗi bần tiện. Nếu mệnh và Tài đều vô khí, tuy được tháng Kiến Lộc, có khiến cho tiểu quan, cũng không thể dến chỗ phú quý. Giả như Canh Dần mộc khắc Bính Tuất thổ là Tài, thổ vượng ở Tuất, thân mệnh nhị mộc đến đông nam, Tuất tuy bối Thân Canh Lộc, vì Tài mệnh có khí, cho nên không bần. Lại như người sinh Giáp Thìn hoả, được Bính Dần hỏa, lấy kim là Tài, tuyệt ở Dần, Thìn thổ đến Dần là mệnh quỷ, kiêm thông Không Vong, là Tài tuyệt mệnh suy, tuy nguyệt kiến tọa Lộc, vì Tài mệnh vô khí, cho nên không phú. Trước có nói lấy can làm lộc, hướng bối định kỳ bần phú, bởi vì chỉ 2 cung Tài Mệnh, đều nên vượng địa. Không những bát tự, hành vận cũng vậy. Từ nói: Vì Tài Mệnh hữu khí, như Giáp Ất kiến tháng Tị Ngọ, Kiến Lộc bất phú, như Giáp Ất sinh tháng Dần Mão. Nên hợp lại xem. )
Nếu là Thân vượng Quỷ tuyệt. Tuy phá mệnh mà sống thọ; Quỷ vượng Thân suy, phùng kiến mệnh mà yểu thọ.
(Phá mệnh sống thọ, là lấy bản mệnh vượng cung phùng Quỷ tuyệt vậy. Như hỏa ở cung Tị gặp thủy, mộc cư đất Dần phùng kim, thổ hướng đất Thân gặp mộc, kim quy về Hợi phùng hỏa. Phùng kiến mệnh mà yểu thọ, là lấy bản mệnh ở đất suy mà gặp Quỷ vượng vậy. Vì thổ đến trong Dần thấy mộc, hỏa quy về đất Hợi phùng thủy, kim ở đất Tị gặp hỏa, hỏa cư ở Thân gặp kim, đều thủ lấy nạp âm. Lý ngũ hành thụ chế là yểu, chế vật là thọ. Xưa nói: Kiến mệnh chủ thọ dài, phá mệnh chủ yểu thương. Cho nên Trúc Luân Kinh nói: Kiến mệnh chưa hẳn thọ dài, phá mệnh chưa hẳn yểu thọ. Chỗ này là do Lạc Lục Tử tiêu tức vậy. Thiên Nguyên luận quý, Nhân nguyên luận phú, Tài Mệnh luận bần phú, Thân Quỷ luận thọ yểu, đều chỉ ra một lần mà nói vậy. )
Bối Lộc trục Mã, thủ đường cùng mà thê lương; Lộc Mã đồng hương, không Tam Thai cũng Bát Tọa.
( Chú thích: Tam Thai 三台 sao Tam-thai. Sách thiên văn nói sao ấy như ngôi Tam-công 三公, cho nên trong thư từ tôn ai cũng gọi là thai. Như gọi quan trên là hiến thai 憲台, gọi quan phủ huyện là phụ thai 父台, gọi các người trên là thai tiền 台前 đều là theo cái nghĩa đó; Bát toạ cũng vậy, ý chỉ quan lớn)
(Lộc, là tước lộc vậy. Mã, là xe ngựa vậy. Nhân mệnh coi trọng Lộc Mã, cho nên trước có nói, Lộc Mã đều có thể dẫn đến phú quý. Như Lộc bối (quay lưng) mà đi, Mã trục (xua đuổi) mà tán, cả hai đều mất, cho nên lấy đường cùng mà thê lương. Bối, như âm dương nghịch nhau, không phải cái gọi là Hướng vậy. Trục, như rượt đuổi tan rã, không phải cái gọi là Truy tìm vậy. Như người Quý Hợi gặp tháng giêng Giáp Dần, Quý lộc ở Tý, lấy Dần là bối; Lộc Mã ở Tị, lấy Dần hình; trước vì bị hình mà đuổi ngựa đi, sau vì bối mà không thể cập lộc, Mã ở phía trước, Lộc ở phía sau, đuổi ngựa về phía trước, lộc lại không đến, chờ lộc ở phía sau, ngựa lại xa dần, chỗ này đúng là xung Lộc cản Mã trái ngược với Lộc Mã đồng hương. Dụng nhật can độn Lộc, can giờ độn Mã, vốn tìm Ngũ Tý độn, thì có thể biết. Giả như người Canh Ngọ, được ngày Nhâm Thìn, giờ Đinh Mùi, thì Đinh Nhâm lấy Canh Tý độn đến Mậu Thân, bởi vì Canh lộc Ngọ mã cùng ở trên Thân, cùng bản mệnh gặp nhau càng tốt. Lại như người Giáp Thân, tháng Đinh Sửu, ngày Kỷ Hợi, giờ Bính Dần, giờ sinh ở trên Đế Tọa, hội cùng Lộc Mã kiêm Giáp Thân, Kỷ Hợi, Bính Dần đều nhận ngũ hành thanh vượng sinh khí, cho nên ứng gặp về già có phi thường, cho nên vị trí đến Tam Công, thọ hơn 70 tuổi. Từ nói: Lấy Lộc là Quan, Mã là Tài, kiến Thương quan là Bối Lộc, kiến Tỉ Kiếp là Trục Mã. Như người Giáp sinh mùa xuân, mùa hạ, Thiên Nguyên lại mang Bính Đinh, Giáp Ất, hoặc Hợi Mão Mùi đồng hương. Là các ngày Nhâm Ngọ, Quý Tị, ví dụ trụ có Đinh Kỷ Bính Tuất quy phùng Sửu Tị, hợp lại cùng xem. )
Quan sùng vị hiển, định biết đất giáp lộc. Tiểu Doanh đại khuy, sợ e rằng ở đất Kiếp tài.
(Giáp lộc tức Củng lộc, như Quý Sửu được Quý Hợi vậy. Kiếp, là Kiếp Sát, như Đinh Sửu gặp năm Bính Dần, thủy lấy hoả khắc là Tài, Bính Dần là hoả tự sinh, có thể gọi là Tiểu doanh. Người Sửu lấy Cô Kiếp ở Dần, Sửu thổ bị Dần mộc chế, là Tài hóa Quỷ, vì vậy gọi là Đại Khuy. Tam mệnh lấy Tài vượng là tốt, người lấy có Tài là phúc. Nếu gặp Kiếp địa, cho dù Lộc mệnh có 1, 2 chỗ tốt, cũng khó tránh lỗi nặng. Từ luận: Giáp lộc, như ngày Quý Sửu giờ Quý Hợi, không thể trên bản lộc là thủ tuế hợp hóa hại nhau, càng không thể khắc phá thiên can, xung động địa chi, là giáp quý không được, quý khí chạy mất, cho nên đất phúc tụ, không thể tổn thương; đất họa tụ, không thể không bại. Ngũ can dương thấy ngũ can âm là Kiếp tài, ngũ can âm thấy ngũ can dương là Bại tài. Kiếp hung ở bại, giải thích rất hay. )
Tháng sinh mang Lộc, nhập thế tôn cư hiển hách; trọng phạm Kỳ Nghi, kín đáo ôm khí xuất bầy.
(Vương Đình Quang giải thích: Tháng sinh mang Lộc, lấy tháng sinh là nguyên vận, mang Thiên Lộc khí sinh vượng, thuận hành vận, chủ cả đời ôn hậu, là phúc nhiều nhất. Đưa ra tháng sinh và ngày sinh, giờ sinh thì có thể biết vậy, ngũ hành tứ trụ cùng mang lộc lẫn nhau, kiêm nhận khí sinh vượng là quý.
Oánh Hòa Thượng giải thích: Mệnh mộc lộc nguyên cùng tháng sinh cùng tìm ngày sử dụng. Như người Canh Tý, tháng Giáp Thân, nếu được ngày Ất Canh, là tiện dụng Bính Đinh chống đỡ Giáp Thân vậy.
Từ Tử Bình giải: Người Giáp Ất, sinh mùa thu; người Bính Đinh, sinh mùa đông; tức là chính khí Quan tinh, tháng sinh mang, thì khí phụ tử là cận lộc quý, lại cần bên trong ngày sinh, thiên nguyên tự vượng, giờ sinh không ở hưu phế, hành niên lại ở đất lộc, là tháng sinh mang lộc.
Tôi thấy: Ngày Mậu Kỷ phùng tháng Ất Tị, ngày Nhâm gặp tháng Kỷ Hợi, ngày Quý phùng tháng Mậu Tý, can chi mang Quan lộc, hoặc chỗ năm ngày giờ tọa chi, được tọa can tháng, ví dụ lấy ngày Nhâm Dần gặp tháng Giáp Thìn, ngày Tân Dậu gặp tháng Tân Tị, vào làm quan Định tôn cư hiển hách. Trọng phạm Kỳ Nghi, theo Vương Đình Quang giải thích: Ất Bính Đinh là Tam Kỳ, Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý là Lục Nghi, thập can dụng 9, mà độn tới Giáp thì gọi là Nghi. Như người Ất Tị, gặp tháng Tân Tị, ngày Tân là Nghi, Ất là Kỳ. Ất lấy Tân Tị là sinh thành Quan, lại tọa Quan lộc, trường sinh, Học Đường, 2 Tị chính là Trọng phạm Kỳ Nghi. Kỳ Nghi, là âm dương thiên địa ngẫu hợp, khí anh tú vậy. Oánh Hòa Thượng thì lấy Giáp Mậu Canh Ất Bính Đinh, làm phương pháp Thiên Địa Nhị Nghi. Lý Đồng thì lấy Tý gia Dần, đếm thuận đến năm tháng thấy bản mệnh. Tôi thì xem Độn Giáp luận Tam Kỳ Lục Nghi, Vương Đình Quang giải thích là đúng. Từ đây trờ lên là luận căn cơ quý mệnh; từ đây trở xuống, là nói trong vận hội ngộ. Ở dưới có nói rõ )
Âm nam dương nữ, thời xem năm xuất nhập; âm nữ dương nam, lại xem Tuế Nguyên thần.
(Phân biệt nam nữ, nam tôn nữ ti. Dương vị bản nam, âm vị bản nữ, nay nói là âm nam dương nữ, là mất thứ tự vậy. Đã mất thứ tự, thì vận là có thuận nghịch. Năm đại vận xuất nhập, ứng gọi điều bất trắc. Dương nam âm nữ, đều đắc kỳ nghi. Năm đại vận thiên biến, lại xem loại Nguyên Thần sát, cho nên là nói cát hung, sinh ở động là vậy. Hành vận là tối yếu của tam mệnh, Từ Tử Bình giải thích chỗ này rất rõ. Nguyên Thần, là thần lúc sinh vốn là có cho Quan Ấn. Trước có nói năm xuất nhập, chỗ này là luận Tuế Nguyên Thần, lý không có hai. Về phần luận tiết khí thiển thâm (nông sâu), Tài Quan hướng bối, chỗ tiền nhân đều không có truyền vậy. )
Cùng tương phùng sinh địa, nêu thoái thân mà ẩn tránh. Hung hội cát hội, phục ngâm phản ngâm, Âm thác Dương sai, thiên xung địa kích.
(Chỗ này nói ở trong vận chỗ gặp cát hung, họa phúc, sinh địa tương phùng. Oánh Hòa Thượng thì lấy bản niên trường sinh bị gặp Quỷ vượng, như kim phùng Ất Tị hỏa, thổ gặp Canh Thân mộc, hỏa thấy Giáp Dần thủy, mộc phùng Tân Hợi kim. Vương Đình Quang thì lấy đạo ngũ hành lần lượt có cha con, cha khoẻ thì con nhỏ, con cường thì cha suy, con lại cùng xứ, là con đã đến vậy, cha đã thành công, tự nên thoái lui, là biết nó sinh ta là Hưu, là vị trí con thay cha vậy.
《 Dịch 》nói: Chấn là trưởng nam dụng sự, còn Càn là cha lui về Tây Bắc. Cũng là lý này. Từ Tử Bình thì lấy người sinh Canh Tân, đến vận Thân Dậu, lấy hỏa là Quan lộc, hỏa đến Thân Dậu là bệnh tử; lấy mộc là Tài Bạch, mộc đến Thân Dậu là tử tuyệt; Quan Tài đều không có, tức là nói Kiến Lộc không phú vậy. Sợ không phải là nghĩa câu phú. Hành niên tuế vận Lộc Mã, 5 xứ đều ở đất sinh vượng, cộng lại đều phù nguyên mệnh của ta, gọi là Cát hội; cộng lại mà khắc nguyên mệnh của ta, gọi là Hung hội. Phục ngâm, là đại vận cùng nguyên mệnh giống nhau, Phản ngâm, là đại vận cùng nguyên mệnh trái nghịch nhau. Lấy âm gặp âm viết làThác, lấy dương gặp Dương viết là Sai. Nhân mệnh có âm dương bác tạp, vận người có âm dương giao soa, nguyên mệnh cùng vận ở đông nam, mà gặp Thái Tuế ở tây bắc, gọi là Thiên xung. Nguyên mệnh cùng vận ở tây bắc, mà gặp Thái Tuế ở đông nam, gọi là Địa kích. Cát hội Hung hội, là nói vận gặp phục ngâm phản ngâm, âm thác dương sai, thiên xung địa kích, trong đó cũng có cát hội, hung hội vị tất đều là hung vậy. Như mệnh Giáp Tý kim, phục ngâm, Canh Tý thổ là cát, Mậu Tý hỏa là hung. Phản ngâm, Mậu Ngọ hỏa là hung, Canh Ngọ thổ là cát. Tây bắc xung đông nam, chủ động thay đổi xuất nhập, là trong xung ngoài vậy. Đông nam xung tây bắc, tuy xung mà không động, là ngoài xung trong vậy. Gặp chỗ này, đều chủ bất ninh, trong đó cát hung cùng tồn tại. Âm Dương thác sai, thì là thuần âm thuần dương, không sinh không thành, chỗ lấy nhiều Kỳ (lẻ) mà không có Ngẫu (chẵn). Hoặc viết: Thiên xung địa kích, chính là thiên can địa chi, đại vận cùng nguyên mệnh xung kích nhau, không phải chuyên chỉ đất ngũ hành âm dương tuyệt diệt vậy. Tuế vận gặp chỗ này, lại thêm đến phản, phục ngâm, thì có thể biết là hội hung. Tứ trụ bao gồm cả trên, dẫu quý mà không thọ. )
Hoặc phùng Tứ Sát, Ngũ Quỷ, Lục Hại, Thất Thương, Địa Võng, Thiên La, Tam nguyên Cửu cung, phúc đạt thành khánh, họa cũng nguy nghi, phù này cấp tốc, ức là trì trệ.
(Chỗ này nói hành vận chỗ gặp đúng thần vậy. Trước Mệnh 4 thần viết là Tứ Sát, chính là Dần Thân Tị Hợi tứ xung Kiếp Sát vậy. Trước Mệnh 5 thần viết là Ngũ Quỷ, chính là người Tý thấy Thìn, người Hợi thấy Mão vậy. Hoặc chỉ Tứ Sát là Thìn Tuất Sửu Mùi, Ngũ Quỷ là ngũ hành gặp khắc. Lục Hại, ví dụ Dần Tị. Thất Thương, loại thần Vong Sát vậy. Hoặc lấy Nhất Cát, Nhị Nghi, Tam Sinh, Tứ Ngao, Ngũ Quỷ, Lục Hại, Thất Thương, Bát Nan, Cửu Ách, bên trong các loại thần sát đều là tên Tam Nguyên Cửu Cung, tuế vận gặp, cho nên đa số là hung. Nếu nguyên mệnh tam nguyên cửu cung, ngũ hành sinh vượng là đạt phúc, ở trên có lấy thành cát khánh, trước lấy ngũ hành là thần sát vậy. Nếu tam nguyên cửu cung, ngũ hành tứ trụ, ở đất suy bại, tuế vận lại gặp đúng nhiều hung, chỗ nói là Họa cũng nguy nghi vậy! Sát phù chính là cấp tốc thành tai, phúc ức chính là khánh hỉ trì trệ. Tôi lấy hai câu cùng kiêm nói họa phúc, phù họa thì cấp tốc, ức phúc thì chậm, phù phúc thì cấp tốc, ức họa thì chậm. Từ nói: Nguyên mệnh phạm Thìn Tuất Sửu Mùi. Đại vận lại hành đến chỗ trên, gọi là Tứ Sát. Đại vận can là Quỷ chế, Tài khắc Quan Ấn, cùng Thái Tuế đồng gọi là Ngũ Quỷ. Người sinh Sửu Mùi, trong trụ vốn có Sửu Mùi, đại vận thêm ở Thìn Tuất Sửu Mùi, lại gặp Thái Tuế ở Tý Ngọ Mão Dậu, gọi là Lục Hại. Trong vận gặp Thất Sát; gọi là Thất Thương, như người Giáp Ất, dụng Canh Tân là Quan, vận ở nam phương, hoặc phùng Dần Ngọ Tuất Tị và Mùi, là Thái tuế vậy. Tứ Sát khinh, Ngũ Quỷ trọng; Lục Hại khinh, Thất Thương trọng; vận phùng thì nhẹ, tuế gặp thì nặng. Địa Võng, Thiên La, như người Tuất không được thấy Hợi, người Hợi không được thấy Tuất, gọi là Thiên La; người Thìn không thấy được Tị, người Tị không thấy được Thìn, gọi là chân Địa Võng. Trong đó lại phân ra Hợi kiến Tuất, Thìn kiến Tị, là càng nặng, nếu gặp, tai bệnh liên miên. Đại phàm suy đoán vận, phải xem Thái tuế năm sinh cùng vận sinh khắc, sinh khắc đã định, sau đó tham khảo các loại thần sát, thì cát hung không có không nghiệm vậy. )
Trải qua quý địa mà đợi thời, gặp Tỉ kiên mà cạnh tranh. Nếu tới nhân Bì Mã liệt, vẫn còn nhờ đất Tài vượng.
(Mạnh Tử nói: Tuy có căn cơ, không bằng đợi thời. Nếu vận nhập đất quý thần, phù hợp số đợi thời, thì có phúc khánh, tối kỵ Tỉ kiên vậy. Như Tỉ kiên cùng hành vận, tất có cạnh tranh, nhược ẩn cường, nói lên xuống ở thần sát cát hung; nếu Lộc Mã khí suy, nhưng được Lộc tài, Mệnh tài, vượng tướng, cũng có thể phù trì. Hoặc viết: Tỉ kiên cạnh tranh, như 2 Canh đoạt 1 Đinh, 2 Bính ăn 1 Mậu, bửa chia phúc khí, như vậy thì thị phi xen lẫn nhau. Nhân Bì Mã liệt, Bản mệnh viết: Nhân nguyên kiêm Dịch Mã, đều ở đất ngũ hành suy bại vô khí, không vì tai, lấy Tài vượng. Như mệnh Mậu Ngọ hỏa, Dịch Mã ở Thân, trong Thân có kim vượng hỏa suy vậy.
Từ giải thích: Trải qua quý địa mà đợi thời, như người sinh Nhâm Thìn, Quý Tị thuỷ, dụng thổ là Quan lộc, dụng hỏa là Tài bạch, mà tháng sinh không cư ở mùa hạ, không ở tứ quý, tuy trải qua quý địa, chủ yếu vẫn đợi bốn mùa, vốn có vốn không vậy. Gặp Tỉ kiên mà cạnh tranh, như Nhâm Thìn, Quý Tị thuỷ, lại ở tháng mùa hạ, tứ quý, được thời Quan lộc, đại vận lại ở ranh giới hỏa thổ, lại gặp Thái tuế là năm Nhâm Quý. Hợi Tý Sửu cũng vậy. Hoặc là xung hình, hoặc là phá hại, chủ chết yểu. Nhân bì, là nhân nguyên suy kiệt vậy. Mã liệt, là chỗ hợp thần Mã suy nhược vậy. Như người sinh Giáp Ngọ, vận hành tây phương, Ngọ là nhân nguyên thuộc hỏa, hỏa đến tây phương là tử tuyệt, gọi là Nhân Bì vậy. Giáp lấy Kỷ là Tài, trong Ngọ có Kỷ thổ, Kỷ đến tây phương, cũng tự suy bại, gọi là Mã Liệt vậy. Ngọ tuy kiệt sức, vẫn dựa vào tây phương kim vượng là Tài, thu kim chứa Nhâm Quý, cũng có thể cùng Kỷ phá Quỷ sinh Tài, thuyết này là phù hợp. )
Hoặc là Tài vượng Lộc suy, kiến Mã sao trốn Yểm xung, tuế lâm trên không là tai, là do năm đăng nên nhận phúc.
(Khắc gọi là Tài, Ngụ gọi là Lộc, Cưỡi gọi là Mã. Mã vốn là phù thân, Lộc là nguồn dưỡng mệnh. Lộc lâm quý và Thiên Quan, Mã vận Tài mà nhận phúc. Lộc Tài Dịch Mã đều kiêm đủ, thì phú quý lưỡng toàn; có thiên là thứ. Hoặc Thiên Lộc tuy suy, mà Thân Tài vẫn vượng, kiêm gặp Dịch Mã đến cưỡi, dẫu cho yểm phục tuế vận xung kích, vẫn không là tai hoạ. Huống chi phía sau tuế vận, lại ở ngũ hành sinh vượng, hội hợp xứ phong đăng, cho nên hợp nhận nhiều phúc vậy. Yểm là Phục ngâm, Xung là Phản ngâm vậy. Giả như sinh Quý Hợi, gặp tuế Ất Tị, gặp lộc, thủy tuy tuyệt ở Tị, mà người lấy thủy khắc hỏa là Tài, hỏa vượng ở Tị, kiêm Tị cưỡi trên Mã, tuy Tị Hợi tương xung, lâm trên phản ngâm, lấy thân Tài vượng, không là tai hoạ. Nếu tuế vận không đến tương xung, ở đất tam hợp, lục hợp, ngũ hành sinh vượng, lại phùng đối diện gặp Mã, có thể nói được mùa niên tuế, cho nên thủ nhận được phúc. Từ viết: Chổ này cùng ý trước như nhau, mà khác lý vậy. Như người Bính Ngọ, vận đến tây phương, tuy Tài vượng mà Lộc suy, hạ nguyên kiến Mã là trợ, hàm nói ở trong có Tân hợp Bính, thì không sợ yểm xung, chỗ này cùng trung hạ cùng hưng long là không có khác biệt. Trước có nói Tài vận yểm xung, vật tụ không kỵ, chỗ này luận vị trí Tuế lâm Vận, cũng không thể liền nói hung hoạ. Đại Tuế là chủ của tạo hóa, đứng đầu trăm sát, đến lâm là vận, nhiều hung ít cát. Nếu trong ngoài tam nguyên, ngũ hành Quan Ấn hữu dụng, cũng có thể lấy lợi kiến đại nhân mà thành hội cát. Tài bạch hữu dụng, cũng có thể vì chỗ tài bạch mà người phát tài. Còn như ngày sinh là Tị Ngọ, đại vận là Canh Ngọ, tuế là Canh Ngọ, chỗ này là nói tuế vận cùng lâm, cũng là hội cát. Năm sau giao Tân Mùi, kỳ khí không khác, Quan Ấn Tài bạch hữu dụng, nhận phúc là không sai vậy. )
Đại cát sinh phùng tiểu cát, lại thọ lâu dài; Thiên Cương vận đến Thiên Khôi, ký sinh thêm thọ.
(Sửu là Đại cát, Mùi là Tiểu cát, như người sinh ngày Quý Mùi, hành Sửu vận, hoặc người sinh ngày Đinh Sửu, hành Mùi vận, không được nói là phản ngâm, đều nói là sinh khí. Quý thụ khí ở Tị mà thành hình ở Mùi, Đinh thụ khí ở Hợi mà thành hình ở Sửu, cho nên viết là Sinh phùng, như Lục Nhâm phát dụng, Đinh khóa ở Mùi, Quý ở Sửu, cũng là ý này vậy. Sửu Mùi là hội gặp âm dương, chỗ lâm của Thiên Ất quý thần, Chủ cùng Bản gặp thì có thọ dài. Thìn là Thiên Cương, Tuất là Thiên Khôi, như người sinh Canh Tuất, hành vận Thìn, hoặc người sinh Giáp Thìn, hành vận Tuất, không gọi là phản ngâm, Canh thụ khí ở Dần, mà thành hình ở Thìn, Giáp thụ khí ở Thân, mà thành hình ở Tuất, đều là sinh khí.
《 Quỷ Cốc Tử 》 nói: Cương trong có Ất, Khôi trong có Tân là vậy. Trước có nói Sinh phùng, sau nói nghĩa ký sinh, không khác biệt vậy.
Hoặc viết: thử hậu bát tuần, tái minh phản ngâm cát hung, vô cố tất chi nghĩa, giả như mệnh nam Ất Sửu kim, sinh ở tháng 6, độn thấy Quý Mùi mộc, tuy bản mệnh cùng tháng sinh tương khắc, hợp chủ yểu thương, Ất Sửu nạp âm lại là kim khắc Quý Mùi nạp âm mộc, lại thọ lâu.
Ca nói: Liền đem tháng sinh dụng là Thân, trở lại lấy nạp âm làm mệnh. Thân suy khắc mệnh là đoản thọ, mệnh lại khắc thân là trường thọ vậy. Giả sử nam mệnh Mậu Thìn dương, sinh ở tháng 3, tính 5 tuổi khởi vận. Thuận hành 56, vận đến Nhâm Tuất nạp âm là thủy, đến sinh Mậu Thìn mộc, tháng 3 Thiên Nguyệt Đức lại đều ở Nhâm, vừa ở trên Tuất vừa sinh mộc, cho nên viết Ký sinh thêm thọ. Oánh Hòa Thượng viết: 4 tiết dưới đây, cùng dụng chân Ấn, mới được nói rõ. Ất Sửu kim Ấn, Quý Mùi mộc Ấn, Nhâm Thìn thủy Ấn, Giáp Tuất hỏa Ấn, Mậu Thìn thổ Ấn. Trường sinh thêm thọ, riêng Ký và Phản, trừ 5 can này, nhưng không có biết vậy. Bởi vì trong Sửu có Ất mộc, trong Mùi có Quý thủy, Quý thủy sinh Ất mộc, tăng trưởng Lộc nguyên, lại thọ kéo dài, hẳn là vậy. Trong Tuất có Giáp, trong Thìn có Nhâm, Nhâm thủy sinh Giáp mộc, nối tiếp Bính hỏa, cho nên viết vận Thiên Cương đến Thiên Khôi, Ký sinh thêm thọ. Chủ yếu Thập can là Lộc, định nhân mệnh thọ vậy. )
Theo Khôi chống đỡ sao Thương Long, Tài tự Thiên lai; Thái xung lâm đất Ngang trụ, nhân nguyên có hại.
(Dậu là đất Ngang trụ, theo Khôi Cương vậy. Mão viết là sao Thương Long, là đại xung vậy. Chi nguyên thủ Tài, nay nói là Thiên lai, bởi vì trên Dậu có Tân, trong Mão có Ất, Tân kim chế Ất mộc, cho nên nói Tài tự thiên lai. Lấy Dậu kim khắc Mão mộc, Ất mộc sợ chỗ Tân kim, Lộc đã bị thương, nhân nguyên bị khắc, nếu như người Dậu gặp Mão là cát, người Mão gặp Dậu là hung. Vị liệt tôn ti, là đoán cương nhu vậy. Từ viết: Thương Long thuộc Thìn, người sinh Dậu gặp Thìn, là trong Dậu có Tân kim, khắc Ất mộc ở trong Thìn là Tài, dụng bên trong Thiên nguyên là Tài vậy. Người Mão đến vận Dậu, kim khắc mộc mà lại tương hình, chi làm nhân nguyên, cho nên viết có hại. Hại, là Thất Sát không phạm hình xung khắc chế, cũng là thiên âm thiên dương vậy. )
Kim Lộc cùng ở chính thủ, Canh trọng Tân khinh; người mộc khốn ở đất kim, Dần thâm Mão thiển.
(Âm cực sinh dương, Dương cực sinh âm, lý âm dương tự nhiên vậy. Dương kim sinh ở Tị, mà tử ở Tý, tuyệt ở Dần; Âm kim sinh ở Tý, mà tử ở Tị, tuyệt ở Mão. Chính tử chính sinh gọi là Trọng, thiên sinh thiên tử gọi làKhinh. Thứ là lấy Dương mộc sinh ở Hợi tuyệt ở Thân, Âm mộc sinh ở Ngọ tuyệt ở Dậu. Dương mộc thì Thân thâm còn Dậu thiển, Âm mộc thì Thân thiển mà Dậu thâm. Bởi vì Dần Mão chỉ tình của bầy mộc, Canh Tân đều thuộc bầy kim, Thân là là đất thủy sinh, mộc viết là Khốn; Dần là cung sinh hỏa, này nói là Cùng vậy. Có nói: Bính Tân có hợp, cho nên Tân khinh; Ất Canh có hợp, cho nên Mão thiển. )
Diệu ở chỗ biết thông biến, nói thiếu do thần; thầy mù mờ mịt với âm thanh cung đàn, Luật Lữ hiếm khó mà hài hoà vậy.
(Phàm vận mệnh, cát hung họa phúc, như chỗ nói ở trên, phú nói rất sơ lược. Diệu là ở biết kỳ thông biến, chữ thơ phú tuy thiếu, mà diệu lý ứng như thần, nếu như không thể thông biến, ví như thầy mù mờ mịt với âm thanh cung đàn, luật lữ hiếm khó hài hòa vậy. )
Canh Tân lâm với Giáp Ất, Quân tử cho phép cầu quan; người bắc vận ở nam phương, mậu dịch nhận kỳ hậu lợi.
(Kim mộc có lý hợp nhau, thủy hỏa có đạo ký tế (cứu nhau), cho nên đặc biệt đưa ra mà nói: Canh Tân lâm với Giáp Ất, thì còn lại 8 can có thể biết vậy. Người Bắc vận ở Nam phương, thì có thể biết ở đông tây vậy. Nói Quân tử kiến tiểu nhân thì không phải, nói người bắc cần phương Hợi Tý là đúng. Giáp lấy Tân là Quan, Ất lấy Canh là Quan, như tuế vận Canh Tân, đến lâm người Giáp Ất, cho nên viết: Quân tử có thể cầu Quan, ở tiểu nhân lại lấy là Quỷ vậy. Hợi Tý thuỷ ở bắc phương, Tị Ngọ hoả ở nam phương, lấy thủy hành vận đến hỏa, ta khắc là Tài, cho nên mua bán sẽ nhận được nhiều lợi. Hoặc nói vị trí Nhâm Quý, quẻ thuộc Khảm, vị trí Bính Đinh, thuộc quẻ Ly, thủy quy hỏa địa, vận đến đất Tài. Không biết Nhâm Quý là Lộc, Tị Ngọ là Mệnh, can chi không nhập nhau, như Nhâm Quý được Bính Đinh, chỉ có thể nói Lộc Tài mà thôi, không thể nói là mua bán làm ăn vậy. Đàm mệnh phải cần nên phân ra Lộc Mệnh Thân. )
Thấy sáng vui mà chiều khóc, là thịnh hỏa viêm dương; xem họa phúc xa chậm, nguyên nhân nhiều là do thủy thổ.
(Chỗ này luận tính chất ngũ hành, minh họa phúc nhanh hay chậm vậy. Tính hỏa hung bạo mà nhiều tổn thương, cho nên khoan mộc mà khói bay, đẽo đá mà phát sáng, sáng vui chiều khóc, nay đúng mai sai, hỏa do củi truyền, không biết cực điểm vậy. Thủy thổ là vật, tính chất nhu hòa, đầu mối dẫn đến họa phúc, có ý trì hoãn, bởi là Trí và Tín vậy. Hỏa mộc tính nhạy bén, dễ phát dễ ngừng; thủy thổ tính chậm, khó thành khó bại. )
Kim mộc không thể thành khí, nghe vui buồn khó lấy danh, giống như mộc thịnh mà hoa nhiều hình, mây dày mà không mưa.
(Nói kim là vẫn còn mộc, kim đắc dụng mà mộc lại thành, là lấy cương giúp nhu vậy. Nói mộc là vẫn còn kim, mộc thành vật dụng mà kim đắc ý, nhân tất là có dũng vậy. Nếu có kim không có mộc, dũng mà vô lễ thì loạn; có mộc không có kim, Canh Tân suy mà ít có nghĩa. Kim, là khí ở tây phương vậy, chủ bi thương; Mộc, vật ở đông phương vậy, chủ vui vẻ. Vui mà không dâm, là mộc gặp kim vậy; bi thương mà không có hại, là kim được mộc vậy. Phàm chỗ này đều là mệnh đại nhân vậy. Nếu hiểu quay về trong thủy hỏa, dụng ở giữa kim mộc, là do vui buồn không thể động tâm, là người phương ngoài khó có danh tiếng. Nếu như thiên âm hoặc thiên dương, giống như mộc thịnh hoa dầy, thiên dương gọi là tháng nóng; Mây dày không mưa, nói thấy thiên âm (ẩm thấp). Nhân mệnh cần âm dương hài hoà, thì là ứng mệnh cách. Lại viết: Kim không thể thành khí, nhờ hỏa để nung luyện; mộc không thể thành công, nhờ kim để đẹo gọt. Cho nên vui tất lấy bi ai làm chủ, ích tất lấy tổn là ưu tiên. Mộc thịnh hoa phồn, nở mà không có quả; mây dày mà không mưa, mờ mà khó sáng. Giữa cả hai đều khó đo lường, dự tính là sinh vậy. Cho nên vượng mà không thể không có chế, suy mà không thể không có sinh, được xứ trung hòa, trở về thuần túy. )
Thừa hiên y miện, kim hỏa nhiều ở đâu, vị liệt thấp hèn, âm dương bất định.
(Trước có luận thủy hỏa cứu lấy nhau mà thành khánh hỉ, thứ là luận kim mộc mà thành đất quan, là mới biết quý thăng, hỏa quý giáng, mộc phải cứu nhu thành cương, kim phải tổn cương ích nhu, thì dụng thành hỉ khánh. Trong đó chỉ có kim cương hỏa cường, không thể không biết vậy. Kim là vật rất cứng, không phải hoả thịnh thì không thể hoá cách; hỏa là vật rất hung bạo, không phải kim thì không lấy hiển dụng nhiều. Kim hỏa quân đình, mới là tượng đúc ấn, cho nên phú nói: Thừa hiên y miện, đây là khí phách quân tử vậy, cần có kim hỏa phải quân bình nhau. Nếu hỏa nhiều kim ít, kim nhiều hỏa ít, đều là mệnh hung bạo. Kim vượng ở tây phương, hỏa vượng ở nam phương, đều là kỳ thế, thì là hình tự hình, mệnh như vậy, tuy ngày giờ hữu dụng, cuối cùng cũng trở về vị trí thấp hèn mà thôi, là do âm dương không thể phân định vậy. Kim, là âm vậy. Hỏa, là dương vậy. Âm dương đã cùng nhau thiên lệch, thì quý tiện cao thấp, không có chỗ định đúng. Huống chi có kim mà không có hỏa, có hỏa mà không có kim, là hung đồ, cũng có thể biết vậy. Hoặc viết: Tứ trụ nhân mệnh, ngũ hành kim hỏa nhiều là không đủ quý. Lấy kim cương không thể thuận vật, hỏa hung bạo mà khó sinh ích, là khí bất thường, cho nên đạo quân tử tươi đẹpp, Người Canh gặp Bính, người Tân gặp Đinh, là thuần âm thuần dương, là khắc là quỷ, là âm dương bất định, tuy có xuất thân, địa vị cũng thấp kém, không thể đại hiển. Cũng dễ thông. )
Cho nên Long ngâm Hổ khiếu, phong vũ trợ kỳ cát hung; thế hỏa hưng long, cho nên trước khói sau sáng.
(Đoạn văn trên là nói ngũ hành tương khắc, hoặc không thành khí, hợp quý không quý, chỗ này lại nói tính chất tương khắc tương sinh, cho nên lấy ví dụ Long Hổ khói sáng. Nếu ngũ hành đều được chỗ, thì giống như Rồng được mưa giáng, Hổ gầm gió sinh. Lại như hỏa vượng, trước là có khói, sau là có sáng. Hoặc lấy hai câu Long ngâm Hổ khiếu, là nói người có năm cát mà tuế vận cũng cát. Nếu đầu hung sau cát là nhất định không phải. Thí dụ như bắt đầu hỏa, trước có khói sau đó sáng vậy. Bởi vì khói sinh ở hỏa mà có thể lửa sáng. Nghĩa là khí đã có khí không thông, sao không nói hỏa ở bên ngoài mà khói ở bên trong, khói đạt mà sinh sau, không giống như con người đầu hung sau cát. Từ giải: Long ngâm Hổ khiếu, nên lấy Mậu Thìn, Giáp Dần, nghĩa rất rõ ràng, không phải, nếu gặp Dần và Thìn cũng là phù hợp, trước khói sau sáng, rõ ràng khí âm dương thuận, có thứ tự, cùng khí là cũng không có khác. Câu cuối không phải nghĩa của phú. )
Từng thấy trong hung có cát, cát là trước hung; trong cát có hung. Hung là điềm cát.
《 Đoạn văn ở trên, nói đem cát hung là dựa vào ẩn phục. Như luận ở trước, Theo Khôi chống đỡ sao Thương Long, Tài tự thiên lai, là cát vậy. Là Tân trong Dậu khắc Ất mộc trong Thìn là Tài, Thìn là đất thủy, ẩn phục có thể đoạt Tân kim Quan, luận Tài nhưng không khuyết, mà mất quan là hung. Đại xung lâm đất Ngang trụ, Nhân nguyên có hại, là hung vậy. Nhưng mộc dụng kim là Quan, Dậu thì không nghịch Quan lộc, là trong hung lại cát. Ý câu phú bắt đầu nói tới vận, thứ là nói ngũ hành, ở sau sẽ nói rõ. Lại như người hỏa, hành vận thủy, thì là Thất Sát, là hung vậy. Hoặc dụng thủy là Quan, là cát vậy. Thủy hành Tị Ngọ vận nam phương, nhận lợi là Tài, cát vậy. Ở dưới lại có Mậu Kỷ Thất Sát, hung vậy. Rất nhiều như thế, người phải học chuyên sâu biến thông, là nói lấy căn bản tối trọng hàng đầu.
Đàm Oánh viết: Tượng cát hung, bởi vì họa phúc vẫn lẫn với nhau, là thường lý âm dương vậy. Bởi thế đời có người cát hung ở cát, người hung cát ở hung, chỗ quân tử không nói vậy, đạo cũng bình thường mà thôi. Hung nếu thắng cát, cát ẩn trong hung; cát nếu thắng hung, hung tàng trong cát. Bác tạp sinh ở Thuần túy, trung hòa xuất phát từ chiến tranh, cho nên trong cát có hung, hung là điềm cát. )
Họa tuần hướng mạt, nói phúc có thể Nghênh suy; Tài nhập đất suy, luận tai nghi kỳ nghịch khóa. Nam nghênh nữ tống, phủ thái giao cư; âm dương nhị khí, nghịch thuận chiết trừ.
(Chỗ này nói tai họa cát hung, do ở hành vận. Họa tuần hướng mạt: Như thấy 10 năm hung vận, cuối đầy mà trước giao cát vận, nếu lúc sinh năm tháng khí thâm, hoặc hành niên thái tuế phù trợ, hướng Lộc lâm Tài, lại không cần đợi giao vận, chỉ ở chỗ hướng cuối, thì có thể nghênh đón mà suy. Tài nhập đất suy: Nhân mệnh trải qua phúc địa, phương giao vận bối Lộc Tài tuyệt, nhưng không thể liền nói hung ngôn, là luận tai ở nghịch khóa vậy. Nam nghênh nữ tống, là dương nam âm nữ, vận thuận hành vậy. Một vận 10 năm, lại phân trước sau 5 năm, phàm nhập cát vận, được tiết khí sâu, là nam đón, 5 năm trước phát phúc, nữ đưa, 5 năm sau phát phúc. Hoặc viết: Nam tường đại vận, nhập năm đầu, đón tai phúc ở đâu, cho nên nói là Nghênh. Nữ tường đại vận, năm sắp xuất hiện, đưa tai phúc ở đâu, cho nên nói là Tống. Nam Nghênh nữ Tống, Phủ Thái giao cư, xem làm một nghĩa. Đón cát đưa hung, đón hung đưa cát, là Phủ Thái giao cư vậy. Âm nam dương nữ, dương nam âm nữ, dựa theo hành vận nghịch thuận chiết trừ, tức là trước chiết trừ 3 tuổi = 1 năm vậy, xem trên vận mới hay cũ có cát hung chỗ nào, nói lấy số vận.
Đàm Oánh viết: Chỗ này là luận hành vận, đều chỉ trường sinh, thứ là ở đất suy, như kim sinh ở Tị mà suy ở Tuất, nam đến Tuất thuận hành ở tử tù hưu phế, nữ nghịch hành ở đế vượng, lâm quan; nam đến Tị thuận vượng ở đất Thân Dậu, nữ khốn nghịch ở đất Dần Mão, cho nên nói Họa tuần hướng mạt. Hai khí Âm Dương, là nói Tiểu Vận, là khí năm vậy. Đại vận là khí tháng vậy. Nhật can là vận, tháng là khí. Tiểu vận thì sau khi giao từ ngày sinh; Đại vận thì luận khí mà chuyển, hai khí vận hành, từ mệnh của ta vậy. Cho nên viết Hai khí âm dương ... )
Bói bên trong kim mộc, hiển lộ ở chỗ ranh giới phương; Tiêu kỳ giữa nam bắc, sợ bất lợi ở qua lại. Trong một tuần, ở trong năm mà hỏi can. Trong một Tuế, tìm trong tháng mà hỏi ngày. Hướng 3 tránh 5, chỉ phương diện lấy cùng thông; đo lường cát hung, nói trong Tuế tốt xấu.
(Chỗ này nói vận hành đông tây nam bắc, đất kim mộc thủy hỏa, có lợi, bất lợi, kiêm nói cả trong Tuế tốt xấu vậy. Vương thị viết: Mộc hỏa kim thủy là khí bốn phương chuyên nhất, tất cả phương đều chuyên chỗ ranh giới vậy. Như xuân Tân Mão, hạ Mậu Ngọ, thu Quý Dậu, đông Bính Tý, bốn phương đều tự ôm khí vượng, mà không thể xâm phạm nhau. Cho nên khí ngũ hành vượng, thủ trọng một thần, gọi là Bạch Hổ Sát. Như mộc đông phương, đến tây phương phùng kim: Hoả nam phương, đến bắc địa gặp thủy, chỗ nói là Sát kỵ tứ trọng, cấm vật lạc đường, viết là Quân là Phụ, không thể cùng mất; lấy kỳ tương khắc, đến tất bất lợi. Nếu ngũ hành suy tuyệt vô khí, phùng qua lại tương xung, thì lại hỗ tương nhau thành phúc. Như Ất Hợi hỏa được Quý Tị thủy, hỏa đến Tị là vượng, thủy đến Hợi là vượng, hỗ hoán phùng vượng, sao qua lại tổn thương? Nhâm Dần kim, là Thần không cường; Canh Thân mộc, chuyện Quân không hung, độc chiếm một góc, sao có tạo hóa? Bởi vì lộc vượng tự hưởng quý, là do hoạn nạn muốn được cứu trợ vậy.
Trong một tuần, ở trong năm mà hỏi can, là nói lấy can năm, thì lền biết chỗ Giáp ngụ, vì vậy sinh ra cùng trong tuần vậy. Trong một Tuế, tìm trong tháng mà hỏi ngày, trong một Tuế là có khác nhau, là mệnh âm dương nam nữ vậy. Tìm ở trong tháng mà hỏi ngày, muốn biết số ngày tiết khí, là phép để định mấy Tuế là hành đại vận vậy. Là hành vận vậy.
Nên theo hướng Tam Nguyên sinh khí, tránh Ngũ Quỷ tuyệt lộ. Là chỉ phương diện sắp xếp, âm dương cùng thông, xem Lộc Mã hướng bối, đại vận thịnh suy, từ chỗ này để xét cát hung. Không chỉ chiếu cố ở đó, còn có thể nói tốt xấu ở trong Tuế. Hoặc lấy Sinh khí, Phúc đức, Thiên y là Hướng 3; Tuyệt thể, Du hồn, Ngũ quỷ, Tuyệt mệnh, Bản cung là tránh 5.
Từ viết: Bói, chỉ lấy Khứ thanh, xem bói chỗ lúc sinh ở năm tháng. Như mộc dụng kim là Quan, ở vận nam dương mệnh, xuất ở Mùi nhập ở Thân; Vận nam âm mệnh, xuất ở Hợi nhập ở Tuất, là hướng lộc lâm Tài, gặp ở ranh giới kim mộc. Như kim dụng mộc là Tài, vận nam dương mệnh, xuất ở Sửu nhập ở Dần; vận nam âm mệnh, xuất ở Tị nhập ở Thìn, là hướng lộc lâm Tài, ở trong chỗ phương mộc hỏa. Lại thêm Thái Tuế, Nguyệt lệnh, nói khí hậu cùng phù. Tiêu, còn có nghĩa là tiêu chuẩn. Chính là nền tàng mệnh vậy. Nam, hướng về sáng tỏ mà đi vậy. Bắc, là hướng về bắc mà đến vậy. Chỗ này là nói vận khí xuất nhập động tĩnh, hoặc cát, hoặc hung, không thể bác tạp. Hoặc gặp năm giao vận, không thể xem thường. Trong một tuần, ở trong năm hỏi can, là trong tháng tìm ngày vậy. Trong một Tuế, tìm trong tháng hỏi ngày, là trong năm tìm tháng vậy. Hướng 3, Tránh 5, là trong Tuế tìm chỗ phương cát lợi vậy. Phàm tọa lấy tiến thoái, hướng cát tị hung, không có cái nào lớn hơn chỗ này vậy. Một tuần, là 10 ngày vậy; trong năm, là ngày sinh vậy. Phàm ở trong một tháng, ở trong một tuần, lấy Thiên nguyên ngày sinh phối hợp mà nói, thì biết trong ngày tốt xấu, lập định ngày sinh làm chủ vậy. Trong một Tuế, thủ nguyệt lệnh lấy sinh khắc phối hợp mà nói, thì biết trong tháng tốt hay xấu vậy. Còn như người sinh đắc địa, cần lấy Thái Tuế là tôn trưởng, là trong một Tuế tìm tháng sinh mang Lộc, hoặc Quan Ấn, vốn có hay không có, là tháng mà hỏi ngày, chính là tổng pháp xem mệnh vậy. )
Nhâm Quý là sinh thu mà đông vượng, Hợi Tý là cùng đường; Giáp Ất là hạ tử mà xuân vinh, Dần Mão cùng một suy đoán.
(Chỗ này nói nhân mệnh có sinh vượng, tử tuyệt, mà chỗ gặp ở hành vận, có nên cùng không nên, chỉ hiểu nói về ngũ hành vậy. Canh là chủ bầy kim, cho nên cư Thân mà sinh thủy, thủy quy về Hợi Tý, mùa đông là vượng. Nhâm là gốc tụ thủy, cho nên cư Hợi mà sinh mộc, mộc quy về Dần Mão, mùa xuân là vượng. Giáp là chủ bầy mộc, cho nên cư ở Dần mà sinh hỏa, hỏa quy về Tị Ngọ, mùa hạ là vượng. Mậu là chủ bầy thổ, cho nên cư ở Tị mà sinh kim, kim quy về Thân Dậu, mùa thu là vượng. Nhâm Quý, Hợi Tý là một loại thủy vậy, thủy sinh ở Thân mà vượng ở Tý; Giáp Ất, Dần Mão là một loại mộc vậy, mộc vượng ở Mão mà tử ở Ngọ, cho nên Nhâm Quý sinh ở thu mà vượng ở đông, Giáp Ất hạ tử mà xuân vinh. )
Bính Dần Đinh Mão, mùa thu nên để bảo trì; Kỷ Tị, Mậu Thìn, độ ở cung Càn mà thoát ách.
(Chỗ này chỉ nói nạp âm vậy. Bính Dần, Đinh Mão, là Lô Trung hỏa, khí hỏa vượng vậy. Đến mùa thu nên bảo trì, vì hỏa đến mùa thu là tử, huống chi hỏa khác chứ? Kỷ Tị, Mậu Thìn, là Đại Lâm mộc, mộc thịnh vậy. Độ cung Can mà thoát ách, vì mộc đến Hợi là sinh vậy, huống chi mộc khác chứ? Còn Bính Dần, Đinh Mão, loại hỏa, hỏa vừa khắc kim, mùa thu bảo trì, sao vậy? Là nói thủy sinh ở mùa thu vậy. Kỷ Tị, Mậu Thìn, là loại mộc, thủy vừa sinh ở Hợi, cung Càn thoát ách, là sao chứ? Là nói Hợi ở cung Càn kim vậy. Hiểu đạo ngũ hành hưu vượng, lý tạo hóa tự nhiên, hoặc nguyên mệnh, hoặc hành vận, hoặc lưu tuế, đều nân cẩn thận dùng. )
Gặp bệnh lo bệnh, phùng sinh được sinh. Vượng tướng tranh vanh, hưu tù diệt tuyệt. Luận gia quyến, lo kỳ tử tuyệt.
(Gặp bệnh lo bệnh, là nói lấy hưu tù diệt tuyệt. Phùng sinh được sinh, nghĩa là lấy vượng tướng tranh vanh. Gặp bệnh lo bệnh, là nói bệnh trong ngũ hành gặp Quỷ vậy. Mộc gặp Tân Tị kim, hỏa gặp Giáp Thân thủy, thổ gặp Canh Dần mộc, kim phùng Ất Hợi hỏa, loại như vậy, gọi là Hưu tù diệt tuyệt. Phùng sinh được sinh, là ngũ hành xứ sinh gặp sinh vậy, như mộc lâm Quý Hợi thủy, hỏa gặp Canh Dần mộc, thủy gặp Nhâm Thân kim, kim gặp Đinh Tị thổ, loại như vậy, gọi là Vượng tướng tranh vanh. Hoặc gặp ở lúc sinh, hoặc gặp ở tuế vận, lại xem đầu cuối, tùy theo tiêu tức phù hợp. Ngũ hành sinh ta là Phụ Mẫu, ta sinh là Tử Tôn; khắc ta là Quan Quỷ, ta khắc là Thê Tài, tỉ hòa là Huynh đệ, kỵ ở đất Không Vong Tử Tuyệt, lo sợ ở đất hưu tù suy bại, nói là tùy theo chỗ gia quyến thân thuộc gặp. Chỗ này là tổng luận chính hành, sinh ở giữa trời đất, ngụ ở bên trong 12 chi, có trường sinh, mộc dục, quan đái, lâm quan, đế vượng, suy, bệnh, tử, mộ, tuyệt, thai, dưỡng, trong đó có tứ cát, tứ hung, tứ bình vậy. )
Mộ ở trong Quỷ, là rất nguy hiểm; Túc hạ lâm Tang, có thể thấy trước mắt.
(Mộ ở trong Quỷ, là chính hành trên đường Mộ Quỷ, như kim sợ Kỷ Sửu hỏa, mộc phòng Ất Mùi kim, thủy sầu Bính Thìn thổ. Thổ kỵ Mậu Thìn mộc, hỏa sợ Nhâm Tuất thủy, cách như vậy, hoặc là hành ở tuế vận, chủ rất hiểm nguy. Túc hạ lâm Tang, lấy trước mệnh 2 thần là Tang Môn, như người Tân Hợi thấy Kỷ Sửu, đã nhập mộ lại còn lâm Tang Môn, chính là Túc Hạ đều là họa. Có thể thấy trước mắt, là nói gặp hung đến nhanh vậy. Nếu Thái Tuế, các chư sát, lâm đại tiểu vận, lo sợ tai họa bất trắc, phòng có tượng tang phục bên ngoài. )
Dựa theo Ấm xét dương họa, Tuế tinh chớ phạm ở Cô Thần; là Dương xem lấy Ấm tai, Thiên niên kỵ phùng ở Quả Tú.
(Người Dần Mão Thìn, Tị là Cô Thần, Sửu là Quả Tú. Vị trí Dần Thìn là dương, vị trí Sửu Tị là âm, cho nên viết Dựa theo Âm xét dương họa. Tuế tinh chớ phạm ở Cô Thần, như người Tị Ngọ Mùi, lấy Thân là Cô Thần, Thìn là Quả Tú, vị trí Mùi Tị là âm, vị trí Thân Thìn là dương, cho nên viết là Dương xem lấy Âm tai. Thiên niên kỵ phùng ở Quả Tú, Thiên Niên, là Tiểu vận vậy. Tuế tinh, là Thái Tuế vậy. Dương lấy Cô Thần làm trọng, âm lấy Quả Tú làm trọng. Từ viết: Âm lấy dương là Đối, dương lấy âm là Ngẫu, nói dương là không hẳn không có âm, nói âm là không hẳn không có dương, cho nên dựa vào âm có thể xét dương, là dương có thể xem âm. Tuế tinh, là Thái Tuế vậy, không thể ở trên Cô Thần. Giả như người Dần Mão Thìn, gặp Thái Tuế ở Tị, người Dần là Câu Giảo, người Mão là Tang Diếu, người Thìn gọi là Khống Thần Sát, lại còn gọi là Yêu thần, chủ trở ngại bế tắc. Thiên Niên cũng là Thái Tuế, không thể ở trên Quả Tú, như người Dần Mão Thìn, gặp Thái Tuế ở Sửu, người Thìn là Câu Giảo, người Mão là Tang Điếu, người Dần gọi là Khuy Thần Sát, còn gọi là Bách Thần Sát, chủ người trộm cướp, cưỡng bức, hãm hại. Hoặc kỳ tam nguyên khắc ta, tuế vận bất hòa, là năm ngũ hành làm hại Lộc Mã, thì là hung rất nặng. )
Trước luận nhị khí, thứ khóa duyên sinh. Phụ bệnh suy kỳ Tử lộc, Thê tai khóa lấy phu niên.
(Ngũ hành tương sinh gọi là phụ tử, kỳ là khí truyền thụ, là loại Thanh Xích vậy. Âm Dương tương chế như là Phu Thê, kỳ là thần giao hợp, là các loại can chi vậy. Giả như kim là bệnh, chắc chắn là sợ hỏa, cấp tốc cầu thủy để cứu, là do lấy kim sinh thủy là Tử, có thể khắc hỏa vậy. Lại như kim là tai, sợ gặp hỏa vậy, lại xem hỏa hưu vượng như thế nào, chỗ này là 2 phép cứu giải, rất là thiết yếu.
Từ viết: Nhị khí, là âm dương vậy. Duyên sinh, là vận mệnh vậy. Trước là phân biệt âm dương, sau là xem vận mệnh. Hai câu Phụ bệnh, là tượng rõ âm dương tiến thoái vậy. Giả như người Canh Thìn, sinh tháng 10, Canh kim bệnh ở Hợi, là Phụ bệnh vậy. Canh sinh Nhâm là Tử, Nhâm lộc ở Hợi, là Tử có lộc vậy. Canh lấy Ất làm thê, đại vận đến Tị, Ất mộc bệnh ở Tị, là Thê tai vậy. Như người sinh ngày Nhâm Quý, lấy Canh Tân làm Phụ, hành vận Hợi Tý, kim bệnh tử ở Hợi Tý, chủ Phụ Mẫu có tai họa, hoặc có đại tang. Người sinh ngày Bính Đinh, lấy Canh Tân làm thê, hành vận Dần Mão, kim tuyệt ở Dần Mão, chủ thê tai hoặc tang vợ. Lại như người Bính Dần, đại vận đến Mậu Thân, hỏa tuy bệnh, mà Bính Dần là cha Mậu Thân, thổ đến Thân là trường sinh, tử lộc ký sinh, là cha nhận phúc ấm Tử lộc (Tử là con, Phu là cha, Thê là vợ), tuy bệnh cũng không đến chết. Như người Đinh Mão hỏa, hành vận đến Giáp Ngọ kim, hỏa khắc kim là Thê, kim đến Ngọ là bại, gọi là Thê tai. Đinh Mão hỏa vượng ở Ngọ, lại phùng Thiên Lộc, kim hỏa tương đắc, âm dương tương hợp, tuy ngũ hành thê tai, lấy năm Phu vượng mà không là hung. Bởi vì Phụ Tử là một thể tương quan, phu thê là hai thể đồng cư, là người cốt nhục thân nhất vậy. Cho nên xem mệnh Phu Tử, gặp hung thần ác sát, lúc hình thương phụ mẫu thê tử, thì cha bệnh tất nặng, vợ họa tất trọng. )
Tam cung nguyên cát, họa phùng có thể kéo dài; đầu cuối đều hung, tai họa đến rất nhanh.
(Tam cung, chính là tam nguyên Lộc, Mệnh, Thân cung trường sinh. Tứ trụ cư ngụ là Cung, phùng Lộc Mã Quý nhân, ngũ hành sinh vượng, gọi là Nguyên cát. Tuy hành niên tuế vận phùng hung thần ác sát, sẽ gặp họa, cũng trì hoãn mà không đến nỗi chết yểu. Tam nguyên ngũ hành vô khí, lại thêm tuế vận hung thần ác sát lâm đến, là đầu cuối đều hung, họa đến, rất nhanh mà không thể cứu. Từ viết: Trước luận âm dương thủy chung, chỗ này nói nhân mệnh cát hung. Như Thiên nguyên, Nhân nguyên, Chi nguyên trong mệnh, trong ngoài năm tháng giờ, gặp quý lộc không không cư nơi hưu bại, là căn cơ chủ bản, tam nguyên vốn là cát. Nếu gặp hành niên thái tuế vận mệnh ở đất trái nghịch nguy hiểm, nhưng cũng có thể suy họa đến chậm vậy. Nếu trong ngoài tam nguyên, tuy có Lộc Mã quý khí, nhưng trong bát tự xung hình phá hại, không chỉ có quý mà không quý, cuối cùng là là hung mệnh. Như gặp cát vận, thì đề phòng vì phúc sinh họa; gặp vận hung, thì họa bỗng đến rất nhanh. Cả hai nghĩa giải thích là đồng nhất vậy. )
Trạch Mộ thụ Sát, lạc lương trần lấy thân ngâm; Tang Điếu lâm Nhân, biến cung thương làm lộ giới.
(Trước mệnh 5 thần là Trạch, sau mệnh 5 Thần là Mộ. Sát, là Kiếp Sát, Tai Sát, Tuế Sát vậy. Trước mệnh 2 thần là Tang Môn, sau mệnh 2 thần là Điếu Khách. Nhân, là Nhân nguyên vậy. Cổ thiện ca, có âm thanh nhiễu lương; Thiện xướng, là hợp ca khúc Cung Thương (hai trong ngũ âm của nhạc cổ điển Trung Quốc). Ngày nay dịch lấy là Thân ngâm sầu thán, biến thành lộ giới bài ca đưa tang, cho nên gọi là Tang Điếu lâm môn, Trạch Mộ thụ Sát vậy. Hoặc là kỳ Thái Tuế, Hung Sát cùng đến, Đại, Tiểu vận hạn hình xung, tất dẫn đến hung họa, cần phải chuẩn bị dự phòng. Hoặc hai vị trí Trạch Mộ, nếu gặp 6 tuổi hàng năm, Tang Môn, Điếu Khách, Hoàng Phan, Báo Vĩ, Thái Âm, Đại Hao, Tướng Quân các chư ác sát nhập Trạch, một là chủ thân ngâm, hai là chủ đau khổ, ba là chủ phân ly, bốn là chủ tang chế, chỗ này là Tứ thanh nhập Trạch. Hoặc nói, khó miễn di cư tị nạn. Chỗ này là nói chỗ gặp Lưu niên hung sát vậy, nhân mệnh vốn có thì càng nặng. )
Can suy lưỡng trọng, đề phòng tai họa ở giữa đầu mặt; Chi chiết tam khinh, cẩn thận họa ở bên trong tứ chi; Hạ nguyên nhất khí, chu cư khứ trụ chi kỳ.
(Can suy lưỡng trọng, can là Thiên nguyên, vốn thủ lấy tượng. Gặp Đức kiến quý, là cát; phùng Sát gặp Quỷ, là hung. Thiên nguyên cả hai đều gặp thụ khắc, như sinh Giáp Tý, được tháng Canh Ngọ, lại thêm ngày Canh Ngọ, gọi là Lưỡng trọng, là do can không thắng trọng khắc vậy, đề phòng tai họa ở giữa đầu mặt lưng ngực. Chi chiết tam khinh, chi giống như đoạn tứ chi con người, ở mệnh chủ, mang tam hợp, lục hợp là cát; phùng tứ xung, tam hình là hung. Chi thần tam hình phùng thương, như người Tân Dậu, gặp tháng Canh Dần, ngày Đinh Tị, giờ Mậu Thân, nói là Khinh, là do hình không đến với bản mệnh vậy; cẩn thận họa ở tạng bụng, bên trong tứ chi, hoặc lấy tam hợp phùng thương, cũng thông.
Hạ nguyên nhất khí, là nói nạp âm vậy. Chủ tể ngũ hành, từng can kiền chi thiên biến mà thành cát hung, tai họa bất kể tứ chi đầu mặt, cho nên nói Chu cư khứ trụ chi kỳ. Nói can suy lưỡng trọng, huống chi là tam? Chi chiết tam khinh, huống chi là hai? Ở chỗ này là phân biệt khinh trọng vậy. Hoặc nói, chỗ này là luận thập can, phùng đại vận gặp ở trên can năm này, phản khắc Thái tuế, can khắc danh là Quỷ lâm đầu, mang tật ở đầu mặt. Thập nhị chi thần, nếu thân mệnh phùng sinh tử, vượng ngũ quỷ, phải có tật ở lưng chân tứ chi, so với ở can là khinh vậy. Lại nói khí vận 《 Đào Ẩn cư ca 》 viết: Giáp Kỷ 5 tuổi Ất Canh 4, Bính Tân 3 tuổi Đinh Nhâm 2, Mậu Quý phải suy từ một tuổi. Lại có nạp âm khí hành vận, tương sinh là phúc đức tương khắc là hung, ngũ hành cung thuận đều như ý. Người Kim gặp kim phạm hung họa, người mộc kiến mộc mưu cầu toại ý, người thủy gặp thủy chủ diêu động, khí vận thuận nghịch cần phải nhớ. Giả sử nam mệnh Quý Dậu, sinh tháng 3, tháng 3 là Bính Thìn, thì theo Bính Thìn khởi 3 tuổi, Đinh Tị thổ là 2 tuổi, chỗ này 5 tuổi nạp âm là thổ, chớ không có hình khắc. Trụ Mậu Ngọ 1 tuổi, trụ Kỷ Mùi 5 tuổi, chỗ 6 tuổi này nạp âm là hỏa, kim gặp hỏa là hung. Trụ Canh Thân 4 tuổi, Tân Dậu 3 tuổi, chỗ này 7 tuổi nạp âm là mộc, từ 12 đến 18 tuổi, chủ mưu cầu toại ý. Còn lại dựa theo chỗ này thứ tự mà đếm xoay vòng. Hoặc là một cung trụ 5 tuổi, hoặc là trụ một tuổi, cho nên nói là Khứ trụ chi kỳ. Trụ đại vận ở đất vượngg, nếu như có khí tương chế, thì không thể là hại.
Nhân và bất nhân, lo tổn thương phạt ở Mậu Kỷ, về phần Tẩm thực thị vệ. Vật có quỷ vật, người có người quỷ, gặp là tai, khử là phúc.
(Giáp Ất mộc ngũ thường là Nhân, kim trái lại là nói Bất nhân, lấy kỳ khắc Mậu Kỷ là hung vậy. Như Giáp kiến Mậu, Ất kiến Kỷ, dụng âm thiên dương, là khắc là phạt, là cô là bối, thì ngũ hành là Bất nhân vậy. Nếu Giáp kiến Kỷ, Ất kiến Mậu, cương nhu đón nhau, cả hai được chỗ, không có thể nói là bất nhân vậy. Trong bài Phú đưa ra ví dụ Giáp Ất Mậu Kỷ, còn lại các ngũ hành khác dựa theo mà tìm. Ngũ hành biến hóa, cùng nhân sự là tương thông. Về phần Tẩm thực thị vệ, đều không ngoài ở chữ Nhân mà thôi. Ngũ hành, ta khắc gọi là Tài, khắc ta gọi là Quỷ. Ví dụ như người Tân Mão, gặp Đinh Dậu, Tân lộc ở Dậu, phùng Đinh là Quỷ của Tân, gọi là Lộc đầu phùng Quỷ, vật có quỷ vật. Mệnh thuộc mộc, Dậu thuộc kim, kim đến khắc mộc, gọi là Nhân nguyên thụ khắc, người có người quỷ. Trong cách cục có loại này, vận phùng thì thành tai, khử thì thành phúc.
Hoặc viết: Quân tử sáng dậy tối nghĩ, thường nên giữ gìn sức khỏe, hoặc ăn uống không điều độ, động chuyển sinh tai, thế là trong hợp phùng quỷ, trong cát tàng hung. Tuy hoặc là chỗ làm nhân tình, cũng được chỗ âm dương chủ trì vậy. Tẩm thực, là nói điều dưỡng cấp thiết vậy. Thị vệ, là nói trái phải rất gần vậy. Cả hai chỗ này, rất không thể xem thường. Lấy trong vật có quỷ vật, trong người có người quỷ, thay đổi cát hung, từ gần đến xa, rất là nhanh vậy. Ví như Mậu kiến Giáp là Bất nhân, hoặc trong năm tháng giờ thấy Canh Tân thì là Nhân. Nói Mậu Thực Canh, Canh lại chế Giáp, hoặc thấy Kỷ cũng là Nhân, nói Kỷ hợp Giáp, có thể Giáp là Thị vệ vậy. Mậu phùng Giáp mộc bất nhân là tai, có Canh Kỷ là Tẩm thực thị vệ, là dụng khử thành phúc. )
Tựu trung Lỏa hình hiệp Sát, phách vãng phong đô; chỗ phạm có thương, hồn quy đại lĩnh.
(Tựu trung, đoạn văn trên là nói Quỷ Vật và người. Chỗ gặp Tựu trung là rất quan trọng, đất ngũ hành mộc dục, gọi là Lỏa Hình, như bản âm mộc dục, đại vận phùng là tai. Người thủy thổ vận ở Dậu; người mộc vận ở Tý; người hỏa vận ở Mão; người kim vận ở Ngọ, Quỷ Cốc Tử gọi là Ba lãng hạn. Hợp Sát, là Nguyên thần Thất Sát vậy, như người vận ở trên mộc dục, hợp cùng Thái Tuế, là tai. Hoặc lúc sinh năm giờ vốn có chổ thần phạm, thì là Hồn quy đại lĩnh, phách vãng phong đô, danh này là rất hung vậy. Hoặc nói: Hợp Sát, là Củng Thất Sát vậy. Lỏa hình kiến Sát, rất là không cát. Ngọ là Tân Sát, Dậu là Ất Sát, Tý là Đinh Sát, Mão là Kỷ Sát. Giả như ngày Tân Tị, giờ Ất Mùi, là Lỏa Hình hiệp Sát. Còn lại loại suy theo chỗ này. Hoặc lấy người Giáp Tý kim, gặp Tuế là Mậu Ngọ, kim lỏa hình ở Ngọ, lại thêm Mậu Ngọ hỏa vượng, kẹp theo tự hình, phản ngâm Tai Sát, phá mệnh Giáp Tý. Như vậy, thì gọi là Chỗ phạm có thương. )
Hoặc chính là Hành lai xuất nhập, phạm chống phương hung, giá thú tu doanh, lộ đăng hoàng hắc.
(Hành lai xuất nhập, là hành động vậy. Giá thú tu doanh, chính là thì hành động tác lớn vậy. Cát hung hối lận sinh ở động, cho nên quân tử cẩn thận chỗ này. Lạc Lục Tử ghi nhớ đàm luận ngũ hành tam mệnh, lại nói chỗ phương xuất nhập, nên tránh Tứ Ma, Ngũ Quỷ, Lục Hại, Thất Thương, Bát Nan, Cửu Ách là phương hung. Nhất đức, nhị sinh là phương cát. Thủ xem từng năm thần sát Thái Tuế, hành hoàng đạo là cát, hắc đạo là hung vậy. Hoặc viết: Chỗ này là luận vận khí con người, từ nguyên vận mà hành đến xuất nhập đất cát hung, gặp ngũ hành tương khắc tương sinh, lý là có Giá thú tu doanh. Ngũ hành, ta khắc gọi là Thê, Thê ở đất ngũ hành sinh vượng thì có thể cưới, cưới thì được trợ giúp. Khắc ta gọi là Phu, Phu ở đất ngũ hành sinh vượng, thì có thể cưới, cưới thì thành phúc. Nói xuất ở Phu Phụ, nghĩa là có thành giá thú vậy. Tu doanh, là nói ngũ hành tuy có chính tính, giữa cả hai có thay đổi bất thường, là lấy quân tử tu đức, Doanh sinh, là đợi thời mà lấy. Lộ đăng hoàng hắc, là chỉ nguyên vận ở trên tháng, hành 10 năm Hắc đạo; thuận hành đến trừ mãn, thượng hành Hoàng đạo. Như vận đến Hoàng đạo, phàm sự đều lợi; vận đến Hắc đạo, phàm sự đều bế tắc. Phàm người phải làm động tác, tiến thoái hướng bối, nếu không vốn ở âm dương, thể hợp vận khí, cát hung đều không thể tránh khỏi. )
Tai phúc ở bên trong vị trí Tuế niên, phát giác kích dương ở ngày giờ. Ngũ thần tương khắc, tam sinh định mệnh. Mỗi khi thấy Quý nhân Thực Lộc, không ngoài ở đất Lộc Mã; đất nguyên trọc phục ngâm, cung phiền muộn ngưng nghĩ .
(Phàm nói cát hung ở trong Tuế, chuyên nói xem ngày giờ cùng Thái Tuế sinh khắc, hình xung. Ngày sinh là Thê, giờ sinh là Tử. Ngày giờ cùng Thái Tuế hòa hợp, cập Tài vật hữu dụng không có phá nhiều, dựa theo sự vật mà nói.
Như Thái Tuế cùng ngày giờ hình khắc nhau, hoặc lục hợp tam hợp trong có Nguyên thần, Thất Sát, là hung. Cũng xem loại mà nói. Hoặc viết: Tuế niên, là nói chỉ Thái Tuế hành niên. Phàm nhân mệnh gặp lưu niên Tuế quân, hung thì là tai, cát thì là phúc, đều do ngũ hành kích dương trong ngày giờ, trở về ở vị trí Tuế. Ngũ thần, là ngũ hành vậy. Tam sinh, là Tam Nguyên vậy. Phàm xem nhân mệnh, phải thâm cứu căn cơ, dụng tam nguyên định cung, lấy ngũ hành phối hợp. Phép này lấy ngày giờ, Lộc Mã nguyên cầu 5 vị, hoặc tương sinh ở bản mệnh kiến đất vượng, hoặc bác khắc ở lúc sinh đất tuyệt diệt. Về phần vận hạn gia lâm, tất có điềm cát hung. Phàm gặp ngũ hành mà tạo hóa diệt Tuyệt, Không Vong, lại gặp vận hạn hình xung, ác tinh giao nhau, chủ nhiều lo mà ít vui, tất sẽ chết yểu, Trù trướng thân ngâm, cho nên gọi là đất Hưu cung. Hoặc chỉ Trù trướng là tên Sát, người Tý thấy Hợi, người Mão thấy Dần, người Ngọ thấy Tị, người Dậu thấy Thân. Ngũ Thần, là chỉ Tuyệt thể, Du hồn, Ngũ quỷ, Tuyệt mệnh, Bản cung. Tam sinh là Sinh khí, Thiên Y, Phúc Đức. Chỗ này trở lên là phép nói Xuất Nhập, Giá Thú, Tu Doanh, không phải nói Tam Mệnh. Nói sử dụng bên trong vị trí ngũ hành Thái Tuế, xem họa phúc, cũng cần chọn ngày cát giờ cát, là có thể dụng sự. Nòi cũng hiểu. )
Cuồng bạo khởi ở Câu Giảo, họa bại phát ở Nguyên Vong. Trạch Mộ đồng xứ, e rằng ít vui mà nhiều buồn lo; vạn lý hồi hoàn, chính là đất tam quy.
(Thần Sát, tinh khí ngũ hànhcủa trời đất vậy, đều có chỗ cát hung. Đàm mệnh trước tiên suy ngũ hành Cách Cục hưu vượng, sau đó xét lấy Thần Sát, xem loại việc. Mệnh dương lấy trước 3 thần là Câu, sau 3 thần là Giảo; mệnh âm lấy trước 3 thần là Giảo, sau 3 thần là Câu. Hoặc giao lâm vận hạn, chính là Chiêu tai cuồng hoành. Nguyên thần, Vong Thần, là tên 2 Sát. Lúc sinh lại gặp hung sát, tuế vận hình tinh, đa số liên thông vì việc nước, vô cớ vướng vinh; lấy thêm Trạch Mộ đồng xứ ở trên Câu Giảo, Nguyên Vong, càng hung. Thí dụ sinh Quý Hợi, trước 5 thần thấy Mậu Thìn, là thủy mộ, lưu niên tuế vận nếu lại mang Sát, ở trong cùng xứ, gọi là Trạch Mộ đồng xứ vậy. Tam Quy, là Thìn Tuất Sửu Mùi, hay gọi là Tam Khâu, hoặc là Ngũ Mộ. Vạn vật quy căn phục mệnh, phản bản hoàn nguyên. Phàm 4 thần này, lấy ứng tượng trở về, hoặc lấy tam nguyên, ngũ hành đất quy túc là Tam Quy. Như người Giáp Tý, gặp năm Hợi, là mộc nhất quy về lộc; gặp tháng Thân, là nhị quy thủy mệnh; vận Tị, là tam quy thân kim, đều chỉ vị trí tam nguyên bản âm trường sinh mà nói. Tuy thân khách vạn lý trường đồ, lý là có lấy trở về vậy. Từ viết: Câu Giảo không thể ở trên nguyên mệnh, ngày giờ nhị vận, hoặc thêm hợp cùng Nguyên thần, Thất Sát, càng hung. Trạch Mộ, như sinh Mậu Tý, gặp Thái tuế Tân Mùi, cũng cần trên ngày Mùi Tý có ngày giờ hoặc đại vận đồng cung là nặng, chủ bất lợi người âm, tiểu khẩu gia trạch. Chỗ này nói đại vận ở giữa 12 thần, thuận nghịch hồi hoàn, ở tam nguyên bản lộc bản tài đất quy túc, gặp chỗ này, an vui hưởng phúc. )
Tứ Sát phụ, đa số sinh nam Ngũ Quỷ; đường Lục Hại, mệnh có chuyện Thất Thương.
(Chỗ này chuyên luận cốt nhục. Tứ Sát, là nói chỉ kiếp tai thiên địa. Hoặc lấy Tứ Âm Sát là Thìn Tuất Sửu Mùi. Ngũ Quỷ, là người Tý thấy Thìn, Sửu thấy Mão, Dần kiến Dần, Mão kiến Sửu, Thìn kiến Tý, Tị kiến Hợi, Ngọ kiến Tuất, Mùi kiến Dậu, Thân kiến Thân, Dậu kiến Mùi, Tuất kiến Ngọ, Hợi kiến Tị vậy. Tam nguyên thụ thương ở năm, dưỡng tử hính là nam Ngũ Quỷ, phản chế thụ khắc, không hòa thuận vậy. Lục Hại, như Tý xuyên Mùi vậy. Thập nhị chi bất thuận, mệnh gặp 1, 2 lục hại. Hoặc triển chuyển hung sát cùng xung, người như vậy, mệnh có quyết sự Thất Thương vậy. Thất thương, là hại lục thân cùng bản thân vậy. Hoặc lấy Tứ Sát, chuyên chỉ Tứ Kiếp. Ngũ hành sinh ở Tứ Mạnh. Sinh, là cha vạn vật, ngũ hành khắc ta là Quỷ, chỗ người gặp Sinh Bại Vượng Tử Tuyệt là Ngũ Biến vậy. Thí dụ Giáp Thân thủy tự sinh, là Kiếp Sát cha người mộc, còn sinh Canh Thân mộc là con, Giáp là cha Canh, đến Thân là tuyệt, phùng Canh là Quỷ, cộng thêm Đinh Hợi, là vì lục hại Giáp Thân, như vậy, thì mệnh có chuyện Thất Thương vậy. Thất Thương, cũng là tên thần sát. Xem phú trước có nói hoặc phùng Tứ Sát, Ngũ Quỷ, Lục Hại, Thất Thương là thấy rõ.)
Gia quyến đồng tình thủy hỏa, tương phùng ở đất mộc dục. Trong đường cốt nhục phân ly, Cô túc càng sợ ở Cách Giác.
(Chỗ này nói hợp đoạn văn ở trên vậy. Nhưng Mộc dục là vị trí thứ hai của cung Trường sinh, là Tý Ngọ Mão Dậu vậy. Cô Thần, Quả Tú, đã luận ở trước. Cách Giác, là Dần Thân Tị Hợi vậy. Nhân mệnh có gặp Mộc dục tương khắc, lại có Cô thần, Quả tú lâm ở vị trí Cách Giác, như ngày Mão giờ Sửu, ngày Sửu giờ Mão vậy. Sửu, là khí ở bắc phương; Mão, là thần đông phương, là vật khác nhau, Gia quyến đồng tình thủy hỏa, là nói không tương hợp vậy. Phân ly, thì càng nặng vậy. )
Cần phải hiểu Thần Sát, đo lường khinh trọng. Thân khắc Sát là nhẹ, Sát khắc thân là càng nặng.
(Chỗ ngũ hành điều khiển, là mệnh vậy. Luận mệnh, tất trước tiên phải lấy cách cục ngũ hành tứ trụ, thứ là luận thần sát cát hung, mà có thể đo lường họa phúc nặng nhẹ. Trước tiên luận ngũ hành, thấy căn cơ dầy mỏng, phân chia cách cục cao thấp, cả hai cùng khảo sát, để không sai lầm. Ở trên có nói các tên Thần Sát như Câu Giảo, Nguyên Vong, Cô Thần, Quả Tú, Cách Giác, Mộc Dục, Trạch Mộ, Tang Điếu, Phục Ngâm, Phản Ngâm, Tam Quy, Tứ Sát, Ngũ Quỷ, Lục Hại, Thất Thương vậy. Lộc Mã Tài Quan, Ấn thụ Thực thần, là ngũ hành sinh khắc chính lý, không thể lấy là tên thần sát. Thân, là nói chỉ can Tuế, hoặc lấy Tuế ở nạp âm mà nói. Cát hung thần sát, hoặc được ở giữa ngày giờ, hoặc phùng ở bên trong Tuế Vận; nhưng lấy Sát khắc thân là trọng, thân khắc Sát là khinh. Lại phải theo ngũ hành, cách cục tứ trụ, suy xét kỳ Tiêu Tức. )
Về phần vòng tròn Bát Quái, căn cứ di văn ở Hà Lạc . Lược chi định vi nhất đoan, nghiên cứu trở thành vạn đầu mối.
(《 Lạc Lục Tử 》 nói: Ngũ hànhTam mệnh, không ở ngoài Cửu cung Bát Quái, vòng tròn suy cứu, thì có rất nhiều đạo lý xuất ra từ chỗ này. Ở đây không giả thuyết, là vì di văn 《 Hà Lạc 》 mà thành vậy. Thủy xuất nhất đoan, 《 Dịch 》 là có Thái Cực vậy. Trở thành vạn đầu mối, biến thành 64 quẻ, 384 hào, cát hung hối lận, không chỉ có vạn đầu mối mà thôi. Nhất đoan vạn tự, tại học giả lược chi cứu chi. Hoặc viết: Lược chi định vi nhất đoan, tức là Nguyên Nhất Khí hề Tiên thiên vậy; nghiên cứu phiên thành vạn đầu mối, tức là chỗ nói ở trong bài phú về Ngũ hành, Tam nguyên, Vận khí, Hành niên, Lộc Mã, Quý Đức các chư thần sát cát hung vậy. )
Nếu gặp Phàn An Tiễn Lộc, phùng thì Bội Ấn thừa hiên; Mã liệt Tài vi, gặp thì lưu mà không phản.
(Sổ khởi đầu là 1 mà hết là ở 9. Là Cửu vậy. Nghiên cứu số cùng là hết, mà cực ở 9. Cửu, là cửu dương thái quá, là số cùng cực sinh hóa vậy. Lý lẽ quý tiện thành bại con người, ai cũng từ ở số mà thôi.
Thí dụ sinh năm Quý Dậu, tháng Nhâm Tuất, ngày Đinh Hợi, giờ Canh Tý, tọa thiên can lộc, trong tháng, ngày, giờ nạp âm là thủy thổ, được thành số tam dương sinh vượng; sinh âm, mệnh tam thần hội ở trên Lộc Mã Phàn An, vậy mệnh này, tất dấn thân ở quý hiển, cho nên nói viết Nếu gặp Phàn An Tiễn Lộc. Như sinh năm Ất Dậu, tháng Đinh Hợi, ngày Kỷ Mão, giờ Đinh Hợi, tháng Hợi tuy cưỡi thủy Mã, gặp Đinh Hợi thổ khắc là Quỷ, ngày Mão tuy tọa Thiên Lộc, lấy thủy thổ đều tử ở Mão, mà gặp Thân Quỷ xung phá bản mệnh, chỗ nói Lộc Mã, trái là là lấy Quỷ tai vậy. Lộc Mã đã mất, tất dự vào Thân Tài để giúp, mà thủy lấy hỏa Tài tự tuyệt ở Hợi, tháng ngày giờ sinh, đều lâm đất tam tài tử tuyệt, chỗ này là số ngũ hành cùng tận vậy. Tuy có Lộc Mã Thân Tài, là chỗ quỷ vật đoạt hết, dẫu có được vận, lấy chung số cùng tận hưu bại, phiêu đãng không nơi trở về, cho nên viết là Mã liệt Tài vi. Hoặc viết: Trước Mã 1 thần là Phàn An, sau Mã một thần là Tiên Sách. Phàn An có vị trí, cùng Thiên nguyên mang hợp, người được quý vậy. Cần phải lâm thêm cát tướng, tuế vận phù thân, lại ở cung vượng tướng, mới có thể nói phúc. Dịch Mã vi liệt, Tài mệnh hưu tù, thì chỉ là đường oán than lao khổ, cuối cùng không có lập thành. Chỗ này lấy lâm tứ trụ, định chủ Phiêu bồng. )
Chiếm trừ vọng bái, Giáp Ngọ lầy 4,8 là kỳ; khẩu thiệt văn thư, Kỷ Hợi cẩn thận 32. Thiện Ác bạn nhau, diêu động thiên di; Giáp Sát Trì Khâu, thân nhân khóc tiễn.
(Chỗ này luận hành niên đại tiểu vận, đều từ ở số, số có chẵn lẽ biến hóa, cát hung sinh từ chỗ này vậy. Người sinh Giáp Ngọ, 32, tiểu vận Đinh Dậu, kim thêm đất vượng, Thái tuế Ất Sửu, bản âm đúng khố, lại phùng Dịch Mã nhập Trạch, Thiên Ất gia lâm, cho nên nói Chiếm trừ vọng bái là hỉ. Người sinh Kỷ Hợi, 32, tiểu vận Đinh Dậu ở Điếu Khách, Thái tuế Canh Ngọ ở đất tử, vẫn là cung Lục Ách, tam nguyên thụ khắc, cho nên có họa Khẩu thiệt văn thư. Lại như tuế vận giao cung, nên cần hội ý; Cát hung bạn nhau, họa phúc giao công, không có bất nhân thiên biến mà hưng, cho nên nói Thiện Ác bạn nhau. Diêu động thiên di, là cát hung hối lận sinh ở động vậy.
Thìn Tuất Sửu Mùi, gọi là Tứ Sát, cũng là nói đất Tam Khâu, đều lấy ngũ hành Ngũ mộ. Giả như Kỷ Tị mệnh mộc, được sinh ngày Ất Mùi, đây chính là Bản gia Tam Khâu, lại lấy thêm Dương Nhận, cho nên viết Giáp Sát trì Khâu, rất là nguy hiểm. Tự hành đến xuất nhập, là chỉ Giáp Sát trì Khâu. Chỗ đoạn văn này, cũng được địa lý âm dương , ví dụ Tam nguyên Cửu cung, dụng lưu niên Thái Tuế, quyết kỳ họa phúc, cũng là lý lẽ Tam Mệnh mà nay thuật không đủ. )
Kiêm phải hiểu kỳ thao chấp, quan kỳ bỉnh trì. Luận kỳ cốt trạng dày mỏng, thành khí nhờ ở tâm nguyên. Mộc khí thịnh mà Nhân thịnh, Canh Tân suy mà ít Nghĩa.
(Chỗ này nói tuy dụng ngũ hành định mệnh, thấy quý tiện họa phúc, lo có người hết sức đặc biệt kiệt xuất, giống như Băng Thử Hỏa Quy, khó mà đo lường, thì tam nguyên ngũ hành, không đủ để nói hết vậy. Kiêm phải tường kỳ thao chấp bỉnh trì, cốt trạng tâm nguyên, tắc thị kỳ sở dĩ, quan kỳ sở do, sát kỳ sở an, tâm thuật chế hành, lưỡng đắc chi hĩ; tướng mạo đức hạnh, nhìn qua lại nhau vậy. Nhân yên sấu tai? Nhân yên sấu tai! Phép này Lạc Lục Tử xem con người, là có hợp ở cách luận của tôi vậy. Ma Y có tâm vô tướng, tướng theo tâm sinh; có tướng vô tâm, tâm theo tướng diệt, cũng là nghĩa này. Giáp Ất mộc chủ Nhân, Bính Đinh hỏa chủ Lễ, Mậu Kỷ thổ chủ Tín, Canh Tân kim chủ Nghĩa, Nhâm Quý thủy chủ Trí. Mộc thịnh thì Nhân thịnh, kim suy thì Nghĩa ít, còn lại đều tượng sự biết khí, biết đến chiếm sự, chỗ này lấy ngũ hành phối ngũ thường, định khí lượng con người vậy. )
Ác diệu gia mà có hỉ, Nghĩ kỳ đại khí; phúc tinh lâm mà họa phát, Dĩ biểu người hung.
(Tu ở thân, đức mới chân, cho nên viết, Trung hiếu Nhân Nghĩa, là thuận đức vậy. Tuy lâm chư sát, lại là Quyền tinh; phú quý mà kiêu, tự rước sai lầm. Cho nên viết, bội ngạo vô lễ, là nghịch đức vậy. Thiện không mất thiện báo, làm ác tự rước họa. Chỗ này Lạc Lục Tử cảnh giới vậy. Nghĩ, biểu thì hai chữ rất có ý nghĩa. Ác diệu nên gia họa, trái lại là có hỉ, quân tử không thể không có đại khí vậy. Bởi vì người có đủ nhận thức rộng lớn, trung hiếu nhân nghĩa, cẩn thận lễ phép, họa làm sao mà có? Cho nên viết là Nghĩ. Phúc tinh lâm nên hỉ trái lại là có họa, là mệnh tiểu nhân là làm ngông cuồng vậy. Bất trung bất hiếu, bất nhân bất nghĩa, bội nghịch vô lễ, họa sao mà tránh? Cho nên viết Dĩ Biểu. 《 Ngữ 》 viết: Hung nhân hung kỳ cát, cát nhân cát kỳ hung, là chỗ này vậy. Chỗ này nhận đoạn văn ở trên Thao chấp bỉnh trì, cốt trạng tâm nguyên, là nói: Quân tử, kiến Tiểu nhân vậy. )
Xứ định cầu động, khắc không hết mà khó chuyển; cư an hỏi nguy, có trong hung mà nói cát.
(Chỗ này Lạc Lục Tử dạy người đạo lý cầu danh mưu động, xu cát tị hung vậy. Thiên mệnh ở đức, cũng phải luận khắc ta, khắc nó. Ta khắc nó thì thành Quyền, bị nó khắc thì thành Quỷ. Là khắc là Tài, không khắc không thực. Chỗ nói xứ định cầu động, khắc không hết là khó chuyển, hành niên tuế vận ngũ hành, đến khắc bản mệnh là Quan, không thể di động, nên yên tĩnh mà đợi. Lại như kẻ sĩ hỏi công danh, không xung không khắc, thò khó lấy phát việt. Cư an hỏi nguy, có trong hung mà nói cát. Quân tử cư thì xem tượng mà ngắm từ, động thì xem biến là ngắm xem, là lấy từ ngày có cát không có bất lợi. Mà bắt đầu cát hung họa phúc vậy, không phải thánh nhân, ai có thể suy xét được trước lúc chưa nảy sinh chứ? Nếu có thể xu cát tị hung, cư an lo nguy, cũng để mà không có sai lầm vậy. )
Quý mà vong tiện, tai tự sinh Xa; mê mà không phản, họa theo hoặc khởi.
(Quân tử thấy mệnh trời, mà không dám cầu phúc ở trời; Tiểu nhân vô lễ với mệnh trời, mà không biết ở lúc phúc ở bản thân. Quý mà vong tiện, mê mà không phản, không thể cư an hỏi nguy, mà chuyển chỗ định cầu động, là lấy tai tự sinh Xa, họa tòng hoặc khởi, đến nỗi vong thân bại gia mà không hối lỗi, cũng không không khốn khổ chăng? Xa, là tranh chấp cùng cực, hoặc là đam mê tửu sắc. )
Thù thường dịch cựu, xứ biến là manh nha; phúc thiện họa dâm, khác điềm cát hung.
(Động Tĩnh là then chốt của lợi hại, có lo là cánh cửa họa phúc. Nói không thể không cẩn thận, then chốt không thể không khảo sát. Tiểu nhân không biết thiên mệnh, không thủ thường đạo, con thường mạng sống của mình, thì họa dâm bắt đầu từ chỗ này vậy. Quân tử đắc thời mà động, thất thời mà thủ, thế thiên hành đạo, lo ở khinh động, thì phúc thiện từ chỗ này mà sinh vậy. 《 Dịch 》 viết: Cát hung hối lận, là sinh ở động vậy. Lại viết: Cát hung, là tượng được mất vậy. Nhà tích thiện, tất có dư khánh; nhà không tích thiện, tất có dư tai. Lại viết: Biết đạo tiến thoái tồn vong, duy chỉ có Thánh nhân ư? Chỗ này Lạc Lục Tử đại giới ở bài cuối cùng vậy. )
Về phần Công Minh, Quý chủ, đoạn văn trên vẫn còn chưa nhận thức đủ; Cảnh Thuần, Trọng Thư, kỳ diệu là không ghi hình đối chiếu.
(Quản Công Minh, Tư Mã quý chủ, Quách Cảnh Thuần, Đổng Trọng Thư, đây là Tứ hiền tài, tham thiên áo diệu con người, nguyên lý tính mệnh, tượng số cùng âm dương, biết quá khứ tương lai cát hung, đoạn văn trên không nhận thức biến hóa, kỳ diệu là không ghi hình đối chiếu, lời nói tạo hóa thâm ẩn, không dễ độ lượng. Lạc Lục Tử không nói danh tính, không biết người thời nào. Xem câu phú, tự nói ra từ Lan Dã, lại xưng cùng với Quách Cảnh Thuần, nghi ngờ người thời Lục Triều (Ngô, Đông Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần kế tiếp nhau đều đóng đô ở Kiến Khang, tức Nam Kinh, Trung Quốc ngày nay), gần thời kỳ nhà Lương Chiêu Minh. Chỗ ở Chiêu Minh, là Lăng Lan Dã vậy. Hoặc là nói thời Chu Linh Vương Thái tử thời nhà Tấn, là vu khống. )
Nói rõ thời vua đã qua, cái gương tiền hiền, hoặc chỉ lấy nhà Trần bàn bạc, hoặc ước chữ mà thiết lý, còn lại nhiều hoặc ít, hai nghĩa khó tinh. Nay tham tường được mất, tu bổ biếu tặng, là cái gương quy tâm, treo vĩnh viển nơi trong sạch, xa rơi nơi nhung lụa, ngàn hi vọng được một.
(Phàm luận ngũ hành, không rời khỏi đạo vậy, là không xa rời thế sự vậy, cũng không xa tời người và vật vậy. Hoặc ước chữ mà thiết lý, hoặc chỉ lấy nhà Trần bàn bạc, ở trong Thần Sát giao tham, cát hung hỗ thể, là biết thông đạo ngũ hành, nhớ vật khó cùng, trong lúc truyền bá, sao nói ít tu bổ? Lạc Lúc Tử cuối cùng nói chỗ này, là nói làm phú, tường di văn Thánh xưa, gươg soi tiền hiền được mất, chữ nhiều mà nói đơn giản, đạo diệu mà nghĩa thâm, hiển nhân tàng dụng, là Kim chỉ nam của ngũ hành tam mệnh vậy. Hậu học tính toán chỗ này mà phát minh, làm cho người điếc thông, mù thành sáng, trải qua trăm đời mà vô tận, tính thống nhất không đổi. Xem đầu đến cuối, luận thông thần hợp biến, tung hoành ngang dọc, đều không chìm ở thuật của ông ấy; nói lời cảnh giới, có nhiều phù hợp với đạo. Nếu Lạc Lục Tử, chẳng lẽ không phải kẻ sĩ viên thành, cao thượng lưu truyền vậy ư? )
Thông Huyền Tử biên soạn
Lạc Lục Tử chú giải Phú
Kim phùng Dần Ngọ Tuất phương cát,
Bính Mậu Tị Ngọ hỉ khánh đức.
Giáp Ất Dần Mão là Tài thần,
Nhâm Quý Nhuận Hạ là thương khắc.
(Canh dụng Đinh là Quan, Tân dụng Bính là Quan, hỉ Bính Đinh, thích Dần Ngọ Tuất. Lợi Tị Ngọ Mùi đất hỏa vượng, là hướng lộc lâm quan. Tân Tị, Canh Ngọ là quý. Giả như Canh Thân Tân Dậu, Canh Ngọ Tân Mùi, Canh Dần Tân Mão, Canh Tý Tân Sửu, Canh Thìn Tân Tị, Canh Tuất Tân Hợi, đây là 12 cung mệnh. Kim lại lấy hỏa là Quan, mộc là Tài. Hỏa đến Thân Dậu Hợi Tý Sửu vô khí, mộc đến Thân Dậu Tuất Tý Sửu khí suy, là Tài mệnh vô khí, mệnh bần tiện vậy. Nếu tháng ngày giờ sinh gặp vượng tướng, tọa đất Ngọ Tị Dần Mùi, có thể là quý mệnh. Nếu không gặp hỏa, thì không phải là quý mệnh. Thấy Nhâm Quý Hợi Tý thủy, là bối Quan bối Lộc, không thành khánh hỉ vậy. Được đủ Dần Ngọ Tuất, là Quan thần nhập cục. Thiên nguyên đủ Mậu Quý, là hóa hỏa Quan cục. Địa chi đủ Tị Ngọ, là Ám Quan cục. Lại thêm gặp mộc thần phụ trợ, là hợp với Thượng cục. Trụ có Nhâm Quý Hợi Thân Tý Thìn thủy, hỉ gặp Mậu Kỷ, khắc thủy là cứu, lại là Ấn quý. Kiến Giáp Ất Dần Mão Hợi là Tài, gọi là Tài khố. Không có hình hại, Tài khố thụ thực, có thể đoán lấy phát tài. Bối Lộc không phùng đất Quan Ấn quý, chỉ gặp mộc vượng, là mệnh kinh thương phát tài. )
Nhâm Quý tứ quý Tị Ngọ vinh,
Mậu Kỷ vinh Quan Tài Bính Đinh.
Giáp Ất Khúc Trực đều hung địa,
Canh Tân Ấn hiển phụ Long Lân.
(Nhâm Quý, là chân thủy vậy, hỉ Mậu Kỷ Thìn Tuất Sửu Mùi Tị Ngọ là phương cát. Vì Nhâm dụng Kỷ là Quan, Quý dụng Mậu là Quan, Tị Ngọ là đất Quan lộc. Tứ vị thổ, đều là đất nguyên tự vượng. Thượng tuần tháng 4, tháng 5, trung thượng tuần tháng 6, cùng hạ tuần tháng 3, sinh Quan hữu khí là có thể thành khánh. Thủy lấy thổ là Quan vị, nếu gặp Giáp Ất Hợi Mão Mùi Dần mộc là phá Quan. Khắc hại nhẹ, thì quan thấp danh ít; khắc hại nặng, thì không được quan. Được Canh Tân kim thần vượng tướng, có thể cứu trợ, trái lại là chủ quý. )
Hỏa hỉ cung Thìn Thân Hợi Tý,
Nhâm Quý quan vượng thổ cô cùng.
Mậu Kỷ thoái thần Giáp Ất tiến,
Kim tài vinh hiển lộc hưng long.
(Hỏa thấy Nhâm Quý, vì Bính dụng Quý là Quan, Đinh dụng Nhâm là Quan, là chân đạo tạo hóa ký tế. Kiến Hợi Tý là Chính Quan vị, Đinh Hợi Bính Tý là Quý thần, Thìn Thân Hợi Tý là lấy quý. Phùng thổ là Lục Hại, không có cứu thì bần. Lại phùng Giáp Ất vượng tướng là có cứu, Canh Tân Tị Dậu Sửu là mệnh tài lộc vậy. )
Thổ gặp Dần Mão Mùi Hợi cục,
Giáp Ất vinh quan kim phá lộc.
Canh Tân bối Lộc thích Bính Đinh,
Nhâm Quý trong Thìn hưởng phúc bền.
(Mậu Kỷ gặp Hợi Mão Mùi là quý. Mậu tìm Ngọc Thỏ (Mão) Kỷ Trư đầu (Hợi) là quý mệnh. Lại phùng đất vượng lộc vượng quan, gặp Canh Tân Tị Dậu Sửu Thân Tuất, thì phá lộc không quý. Tháng 4, tháng 8 càng nặng. Được Bính Đinh là cứu thần. Lại như Mậu kiến Bính, Kỷ kiến Đinh không thể không cứu, gọi là thiên Âm thiên Dương. Nếu Mậu kiến Đinh, Kỷ kiến Bính, mới là Cứu thần. Hoặc sinh tháng 7, tháng 8, hỏa tử tù vô khí, là không thể cứu. Kiến Hợi Tý Thìn là Tài khố, chủ phát tài. Thiếu mộc một Quan, ví dụ cũng có thể thấy. Hỉ Tị Dậu Sửu Thân Tân Canh, ghét Bính Đinh Viêm thượng hỏa cục. Thích Nhâm Quý Hợi Tý là Ấn cứu trợ, Mậu Kỷ Thìn Tuất Sửu Mùi là Tài. )
Người hiền đạt hiểu rõ quyết này,
Người ngu muội đam mê chuyển thịnh.
(Phàm luận mệnh, trước rõ thiên can, sau luận địa chi, cùng nạp âm là Cửu cung Tam Nguyên. Phân ra làm Tam tài Thiên, Địa, Nhân. Luận ngũ hành tứ trụ, gặp nhất âm nhất dương gọi là Đạo, thiên âm thiên dương gọi là Tật. )
Mậu Kỷ Giáp Ất mộc cách đình,
Sinh vượng Quan quý Đế vương lâm.
(Mậu Kỷ nếu phùng can chi khí mộc vượng tướng, hoặc kiến Kỷ Hợi, Quý Hợi là chân Quan tinh trường sinh. Chủ địa vị cực phẩm, lại sinh tháng vượng, không có hình xung, là phú quý song toàn. Là nói xem khinh trọng. )
Nhâm Quý Mậu Kỷ thổ phương vượng ,
Đại tài phân thuận tường Thượng cách.
(Nhâm Quý kiến Mậu Kỷ Thìn Tuất Sửu Mùi thổ, sinh tháng Tị Ngọ, thổ vượng tướng là quý. )
Canh Tân đông chí Nhất Dương sinh,
Bính Đinh sinh khí phúc như lâm.
(Người sinh Canh Tân, sau tiết Đông Chí sinh Nhất Dương, có hỏa ấm áp. Mộc dần dần đến vượng, có thể sinh Bính Đinh hỏa, là Quan là Lộc. )
Bính đến Hạ chí Nhất Âm trường,
Hợi Tý Nhâm Quý đất Thiên Quan.
(Chỗ này nói rõ thủy hỏa có tượng ký tế thành công. Như mùa Hạ khí mỏng thì sớm phát. Hạ chí Nhất Âm trường, thủy dần dần vượng, cho nên Quan Lộc sinh vượng vậy. )
Người sinh Lục Giáp ở tháng Dần,
Kiến Lộc bất phú không khác biệt.
(Người sinh Lục Giáp, tháng giêng kiến Bính Dần là tháng sinh mang Lộc. Là khắc thê tuyệt tự, mệnh bần tiện. Giáp lấy Kỷ làm vợ, dụng Tân là Quan tinh làm con, đều tuyệt ở Dần. Gọi là đất Kim tuyệt Thổ tù, Lộc Mã thê tử đều tuyệt, không thành quý khí. Nếu dụng Bính Dần là Thực thần có khí, phải là người Giáp kiến Canh Thân, người Ất Tân hoặc Dậu Tuất, nhưng ở Thất Sát, đất Quỷ vượng, gặp Dần sinh hỏa, Quỷ hàng phục hóa Quan là quý.)
Người Ất nhiều Tân sinh tháng Dậu,
Quỷ vượng thân suy mang tật xâm.
(Người Ất kiến Tân, là can đầu kiến Quỷ, danh là Thất Sát. Người Ất kiến Dậu, thân cư đất Bạch Hổ vô khí, lại gặp Thất Sát khắc thân, sao không mang bệnh tật? Người Giáp kiến Canh cũng như vậy, nếu người không mang bệnh tật, thì yểu thọ. )
Từ Quán Học Đường chủ khoa danh,
Nếu không Quan quý định hư danh.
(Mệnh phùng Từ Quán Học Đường, Từ Quán là đất Quan Lộc trường sinh, Học Đường là đất Bản Chủ trường sinh. Có Quan quý, có khoa danh, lấy quý mệnh xem. Không có Quan quý, là người hư danh. Trước nói có Ấn, là Giáp kiến Quý Hợi Tý vậy. )
Khôi tinh nếu cũng phùng Quan vị,
Định là Thần đồng phúc ẩn quý.
(Khôi tinh, là trong tuần 10 ngày Giáp Thìn đến Quý Sửu vậy. Nếu bản mệnh gặp vị trí Quan tinh, phùng Quan quý Học Đường, thì ứng với khoa Thần đồng. Thí dụ người Quý Sửu, kiến Mậu Thân, là cùng ở trong một tuần Giáp Thìn vậy. )
Lâm quan phùng xứ người tôn kính,
Thiên Mã Tài khố là quý mệnh.
(Mệnh phùng lâm quan, nhiều người kính trọng, Thiên Mã là luận Thê Tài. Như Giáp kiến Kỷ là vợ, là Tài, Thìn là Tài khố, có thể xem là mệnh phát tài hiển đạt. Nếu Thê Tài lâm 2 vận vượng tướng, hoặc gặp tiếp ở Thái Tuế, đa số chủ việc hôn nhân, xuất nhập, tu tạo. Giả như người Giáp Ngọ, Kỷ thổ là vợ, là Mã, đến vận Thân Dậu Tuất. Ngọ là Nhân nguyên, đến tây phương đất hỏa tuyệt tử, Kỷ thổ tự bại, có kim vượng. Thổ là Tài Lộc, Nhân nguyên Tài đều vô khí. Lại như sinh Bính Ngọ, vận đến tây phương, Bính kiến Quý là Quan, Quý thủy bại ở tây phương, là Quan suy. Bính lấy Tân là Mã, là Tài, Dậu Tuất có Tân kim, kim là Tài của Bính, Tân vượng là Mã. Đến Dậu kiến Mã, sợ xung bản mệnh, yểm tàng không xung , cũng đoán là mệnh phát tài. )
Mệnh phạm quý địa đắc hanh thông,
Mệnh suy gặp vượng không đón phúc.
(Mệnh tọa quý địa, hành hướng Lộc, hướng Tài vận, có thể nói là vinh hiển. Nguyên mệnh phùng Quan quý vượng tướng, vận tuy hung, vị tất là họa. Như người sinh Nhâm Quý, hành vận Tị Ngọ Mùi, là phát. Người Bắc đến vận Nam phương, mậu dịch nhận lấy lợi dầy. Mệnh gặp hưu tù, không có Quan quý, vận hành quý địa, không thể thành khánh hỷ. Mệnh vượng vốn có Quan tinh ở mệnh, vận cũng bối lộc, Thái tuế xung hại, có Quan thì dừng quan. Hành vận Chủ Bản trường sinh, cũng bãi quan mất chức. Cùng sinh địa hưu tù là như nhau. Như người Giáp Ất kiến Hợi, vì đất Quan bệnh, cho nên nói hưu tù. Sinh địa tương phùng, cũng nói Quan tinh bệnh tuyệt, người làm quan, nên lui thân né tránh. Nếu nhị vận Thái tuế cùng lâm, Tang Điếu, Khâu Mộ, Giáp Sát, chủ khóc thanh. Lỏa Hình giáp Sát tự chủ, ô hô! ).
Bát Cô Ngũ Mộ là Tăng đạo,
Phá tổ đồng bồng cô độc nhân.
(Giả như trong tuần Giáp Tý, Tuất Hợi là Không Vong, là Lục Hư, can thuộc Hợi Tuất. Tuất nam hành 3 vị là Mùi, Mùi đông hành 3 vị là Thìn, Thìn bắc hành 3 vị là Sửu, Sửu tây hành 3 vị là Tuất, 4 vị trí Thìn Tuất Sửu Mùi, là Cô Quả Ngũ Mộ, đa số là người phá tổ cô độc phiêu bồng, là mệnh Cửu Lưu. Tam nguyên khắc hại, là mệnh cô độc. Khắc hại nếu nhẹ, hợp nhập bỏ mệnh. Như gặp chân Cô Thần, là mệnh khắc thê hại tử. Thông Huyền Tử giải thích, chân bản không phải của Lạc Lục Tử, là tự soạn tập, cùng Từ Tử Bình là giống nhau. )
Minh Thông phú
Đông Hải Từ Tử Bình Dịch thủy soạn, Vạn Dục Ngô giải thích
Thái cực phán thành thiên địa, Nhất Khí phân làm âm dương, lưu truyền ngũ hành, hóa sinh vạn vật. Làm người nhận mệnh, thuận theo bần phú quý tiện, thuật sĩ biết cơ, định cát hung họa phúc vậy.
(Chỗ này là nguyên thủy tạo hóa. )
Phàm xem mệnh, lấy nhật can làm chủ. Thống quản tam nguyên, mà phối hợp can chi bát tự.
(Trời có bốn mùa, tạo hóa vạn vật. Nhà có tứ trụ, đều lập quy mô. Mệnh có tứ trụ, chú định vinh khô. Luận, chuyên lấy Thiên nguyên nhật thần làm chủ mệnh, chi là Địa nguyên lộc. Chỗ tàng trong chi, là Nhân nguyên thọ. Bát tự tức là thiên can, địa chi tứ trụ tổng cộng là 8 chữ (gọi là bát tự) vậy.
《 Kế Thiện thiên 》 nói: Tứ trụ bài định, thứ phân Tam Tài, chuyên lấy Thiên nguyên nhật can, là phối hợp can chi bát tự vậy. )
Luận vận, là thủ lấy chi tháng. Phân bốn mùa, mà đề khởi ngũ hành Tiêu Tức.
(Đại vận lấy chi tháng khởi, cho nên tháng là Đề cương. Cem tiết khí chi tháng thiển thâm, bốn mùa gặp tiết gì. Như: Xuân mộc Hạ hỏa, Thu kim Đông thủy, tứ quý thổ. Sơ khí trung khí, tiêu trưởng khác nhau. Chỗ hành vận, hoặc thuận hoặc nghịch, hoặc vượng hoặc suy. Cùng bát tự hoặc trợ, hoặc tiết, hoặc khắc hoặc sinh giả, vốn ở chỗ này. Trước tiên nói nhật can, thứ là nói chi tháng, lấy chỗ trọng yếu của con người vậy. )
Hướng Quan vượng lấy thành công, nhập cách cục mà lấy quý, Quan Ấn Tài Thực là cát. Ổn định thành toại là cát, Sát Thương Kiêu Bại là hung, chuyển dụng là phúc.
(Ngũ hành lâm quan, đế vượng, ở tứ trụ là đất bản cung thành công. Nhập cách cục thì quý, phá cách cục thì tiện. Như Quan Ấn, Tài Thực, vốn là cát thần. Cần không bị thương khắc, xung hình, phá bại, thì là ổn định thành toại là cát, là nhập cách vậy. Sát Thương, Kiêu Bại, vốn là hung sát, nếu có chế phục, khử lưu hợp hóa, gọi là chuyển dụng thành phúc, cũng là nhập cách vậy. Xem ở dưới thủ dụng loại cách cục, hỉ kỵ tự có thể thấy vậy. Tứ cát, tứ hung, là trọng yếu nhất của cách cục, cho nên lấy để nói. Phú nói: "Nhật chủ tối nghi kiện vượng, dụng thần bất khả tổn thương" là vậy. )
Toàn bị tàng súc ở Thìn Tuất Sửu Mùi, trường sinh trấn cư ở Dần Thân Tị Hợi. Tý Ngọ thì thành bại nghịch nhau, Mão Dậu là nơi giao nhau xuất nhập.
(Chỗ này nói 12 chi, bao tàng thập can, đều có sinh tử thành bại, xuất nhập qua lại.
《Độc Bộ 》 nói: Thìn Tuất Sửu Mùi, là cục Tứ Khố; Dần Thân Tị Hợi, là cục Tứ Sinh; Tý Ngọ Mão Dậu, là cục Tứ Bại.
《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Tài Quan Ấn thụ có đủ, ẩn tàng tích lũy ở trong tứ quý; Quan tinh Tài khí trường sinh, là trấn cư ở Dần Thân Tị Hợi vậy. Hoặc lấy Tý Ngọ là trụ gốc của trời đất, Mão Dậu là cánh cửa ra vào của Nhật Nguyệt vậy. )
Can chi có Bất kiến chi Hình, là trong không thủ có. Tiết khí tồn có dư số, hỗn xứ cầu phân.
(Chỗ này nói chung cái vi diệu của tạo hóa. Can chi Bất kiến chi Hình, tiết khí có tồn dư số, tức là nói trong 12 chi chỗ bao tàng nhân nguyên. Là trong không thủ có, hỗn xứ cầu phân, như các loại cách Diêu Tị Củng Giáp. Là lấy thiên can mà thủ vật ở địa chi, tại sao không phải trong không mà thủ có? Như Tý sơ tam đáo, phân thuộc Nhâm thủy; Sửu sơ tam khắc, phân thuộc Quý thủy; Dần sơ tam khắc, phân thuộc Cấn thổ. Là do tiết khí tàng ở một chữ, đều có chỗ chủ, tại sao không phải hỗn xứ mà cầu phân?
《 Phú 》 nói: Không hợp có hợp, hậu học khó biết; được một phân ba, tiền hiền không ghi.
《 Kế Thiện thiên 》 nói: "Kiến bất kiến chi Hình, vô thời không có" là vậy. )
Thiện Ác tương giao, lại hỉ hóa Ác sùng Thiện. Cát hung hỗn tạp, rất sợ hại cát thêm hung.
(Dưới đây chuyên nói phép xem mệnh, đoạn văn trên vốn có thủ cầu phân mà nói. Như ngày Giáp thấy Bính Đinh bối lộc, là ác là hung. Kiến Mậu Kỷ Tài tinh, là thiện là cát. Mà Bính Đinh hóa mộc trợ Tài, là dụng hóa Ác sùng Thiện. Sợ Ất mộc khắc hại Tài tinh, là nói hại cát thêm hung. Xem ở dưới nói Tài Ấn giao soa, hỉ Quan Sát hóa. Quan Sát hỗn tạp, hỉ Ấn thụ hóa. Không có Ấn hỉ Tài Mã hóa. Không có Tài Ấn, hỉ Dương Nhận hợp, hoặc có Thực thần Thương quan chế. Lại như chế Sát thụ phá, Sát chế không được. Ấn hóa kiến Tài, đều là loại phá hóa thành hung. )
Là do đắc cục triều nguyên, không phú thì quý. Phạm viên phá cục, không yểu thì bần.
(Cục, là cung tam hợp, tứ duy chính cục. Như Hợi Mão Mùi mộc cục, Thìn Tuất Sửu Mùi thổ cục. Như Giáp Ất kiến Hợi Mão Mùi là Bản cục, Bính Đinh kiến Hợi Mão Mùi là Ấn cục. Mậu Kỷ kiến Hợi Mão Mùi là Quan cục, Canh Tân kiến Hợi Mão Mùi là Tài cục, Nhâm Quý kiến Hợi Mão Mùi là Thương cục. Nguyên, tức là Bản nguyên, Viên miếu. Như cung Tý triều nguyên Quý, Sửu Mùi triều nguyên Kỷ thổ. Phàm gặp Nguyên Viên, hoặc dụng là mệnh nguyên thì thọ; là Quan Ấn thì quý; là Tài thì phú; là bối Lộc sinh Tài ích phú. Nếu được một, không có xung khắc phá bại, thì công danh phú quý. Trái lại thì không có. Phạm Viên, như Tý Quý, kỵ Sửu Mùi khắc phá, Ngọ xung phá, Mão hình phá. Một Tý hai Ngọ, phá hết một nửa, được nửa phúc. Phá cục, như Thân Tý Thìn kỵ Dần Ngọ Tuất xung phá, là đại hung. Nếu dụng tinh hư, thành Phi Thiên Lộc Mã cách, lại quý. Còn lại phỏng theo chỗ này mà suy. )
Được mất đều kiêm, tiến thoái vẫn phục.
(Được hướng phạm phá, chỗ này tạo hóa có được có mất, có tiến có thoái. Chỗ này được là so với mất, cường tiến thì nhược thoái, trung gian đều có kiêm vẫn phục, biến hóa khó lường, không có tinh tường khảo sát biện luận khó mà phân vậy. Như Giáp triều Viên ở Dần, kỵ Thân xung phá, nếu có 2 Dần 1 Thân, 2 Giáp 1 Canh, cũng không có hại, lấy Giáp có lực mà tiến vậy. Như: Dần bị Thân xung, có Hợi có thể cứu, chữ Hợi kiên thịnh, là phúc thập toàn. Hợi hoặc bị Mậu khắc, Tị xung thì bại. Nếu chữ Hợi nhiều, không sợ, cũng cường mà tiến vậy. Tiến thoái dựa vào nhau, một thành một bại, chỉ xem tuế vận trợ khởi bên nào, có thể biết là phúc hay là họa. )
Thần Sát tương bán, khinh trọng giác lượng.
(Thần Sát. Phàm đều là Tài Quan, Ấn Thực, Thương Sát, Nhận Bại. Trung gian hỉ kỵ khác nhau, yêu ghét khác nhau, như ở dưới có chỗ luận nhiều cách là vậy. Phải đo lường nặng nhẹ, lúc nào nắm thời mà trọng là dụng, lúc nào thất lệnh mà khinh là không dụng. Trọng thì lưu, khinh thì khử đi. Lý chỗ này cùng hai câu nói trên cùng dùng chung, nên tính toán nói rõ như vậy. Khảo sát 《 Lạc Lục Tử phú 》, cần phải hiểu thần sát, đo lường khinh trọng. Thân khắc Sát là nhẹ, Sát khắc thân là rất nặng. Là chỉ các loại thần sát cát hung vậy. Từ Tử Bình chuyên lấy Quan Ấn, Lộc Mã, giải thích danh tính quý tiện. Như Giáp Thân, Bính Dần, Ất Mão, Tân Tị, Ất dụng Canh là Quan, Tân là Sát. Canh Quan ở Thân, gặp Dần xung khử, Bính hợp Tân Sát, Ất mộc sinh vượng, cho nên quý. Như Giáp Dần, Đinh Mão, Quý Sửu, Đinh Tị, là Thân khắc Sát, thân nhược Tài vượng, lực không thể đảm nhận được Tài Quan, cho nên yểu. Ất Sửu, Tân Tị, Đinh Tị, Kỷ Dậu, thân vượng Tài cũng vượng, có thể đảm nhận được Tài cho nên rất giàu có. Như Giáp Tý, Tân Mùi, Ất Mão, Giáp Thân, Ất nhật dụng Canh là Quan, lấy Tân là Sát, Canh ở bên trong Thân, sinh tháng 6, Quan vượng Sát suy, chỗ này là Chính Quan đắc vị, Thất Sát thất vị, lại hỉ thân vượng, biến Quỷ thành Quan, cho nên quý. Như Tân Sửu, Canh Dần, Ất Tị, Giáp Thân, là Quan suy Sát thịnh, Ất mộc vô lực, hóa Quan thành Sát, cả đời nát rượu mà lạc phách, đến vận Ất Dậu năm thứ 5, ngày 19 tháng 8 năm Bính Thân chết.)
Bên trong có Tạp khí Tài Quan tương kiêm, Thiên Chính lưỡng Ấn, đồng cung Lộc Mã, hiệu là Nội ngoại Tam Kỳ.
(Chỗ này chính là chỉ Thần Sát tương bán, chính là trong bát tự có Tài có Quan, có Thiên Chính nhị Ấn, hoặc là đồng cung, hoặc ở vị trí khác, hoặc là bao tàng, hoặc là thấu xuất, tương bán kho luận cát hung, phải dùng đo lường khinh hay trọng. Cho nên viết, Trong có Tam Kỳ.
Ca viết:
Dần Ngọ Tuất Dậu là Tam Kỳ,
Thỏ Xà theo Hầu không thể đổi.
Trong Tị Dậu Sửu diệu phùng Tý ,
Mã Hầu kiến Trư sáng rực rỡ.
Thìn Tị phùng Tý tức là kỳ,
Ngọ Hợi kiến Dần là giữ quý.
Trư đến cản Thỏ Mã lấy vui,
Dần Dậu kiến Tị phù hợp hỉ.
Trư đuổi Mã mà Xà hậu viện,
Thủy Thử Mùi người hỏa Quy trì.(Chỗ này giống như Âm Thử trên băng, Thần Quy túc hoả vậy. Xem ở Tiêu Tức phú).
( Chú thích: Trư là Heo Hợi, Mã là Ngựa Ngọ, Hầu Khỉ là Thân, Thỏ là Mèo Mão, Xà là Rắn Tị, Quy là Rùa, Thử là Tý).
Lại viết:
Thần lộc bay đến liền cưỡi Mã,
Tiền bạc quan chức đều phù hợp.
Trong vượng lại được bản nguyên trợ,
Thượng cách vinh hoa đệ nhất kỳ.
Như: Kỷ Sửu, Đinh Mão, Nhâm ngọ, Quý Mão, Nhâm dụng Kỷ là Quan, Đinh là Tài, Đinh Kỷ quy lộc ở Ngọ, là cách này vậy, cho nên là đại quý. )
Chân Quan lúc gặp mệnh cường, sớm được phong tước áo bào.
(Chỗ này là Nguyệt lệnh Chính Quan cách vậy. Bên dưới sẽ nói rõ cách cục. Như Mậu Thân, Giáp Dần, Kỷ Sửu, Bính Dần, là mệnh Tiến sĩ Ông Trọng Ích . )
Lương Mã nguyệt thừa thì kiện, mạt thiên ngân thanh chi chức.
(Chỗ này là Nguyệt lệnh Chính Tài cách vậy. Hai cách Tài Quan, Quan thì thủ quý, Tài thì thủ phú. Nay đều lấy quý nói, là từ nhật can lấy được can Tài ở trong tháng, không có nói chỗ xung khắc. Phúc cùng giống như Chính Quan.
Thơ nói:
Nhật can thích thủ Tài chi tháng,
Kim ngọc gia tàng xem gấp đôi.
Lại xem thiên can Tài là quý,
Phân chia tài bạc từ trời đến.
Là vậy.
Nguyệt Ấn phụ ngày không Tài khí, là chiêu hiền bảng vàng.
(Chỗ này Nguyệt lệnh là Chính Ấn cách vậy. 《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Nhật can sinh tháng không có Thiên Tài, chính là danh Ấn thụ. Lại nói: Sinh năm tháng giờ có Ấn thụ, kỵ kiến Tài tinh. Vận nhập đất Tài, lại nên thoái thân bãi chức. Ấn thụ sợ Tài, cần thiên can năm giờ không có Tài mới thủ. Lại nói, tháng Ấn khó được thập toàn. Như ngày Giáp tháng Hợi thấu ra chữ Quý, biến Thiên thành Chính mới là thập toàn, chủ gặp ân sủng được quý. Lại được Tài của tổ phụ, nhưng cũng khó tránh trước tiên gặp sỉ nhục, hoặc là trời sinh, lấy tiện đến quý, lấy bần đến phú, từ tỳ nữ làm phu nhân, lấy lại làm quan, lấy sĩ tốt bổ túc làm tướng, đều là chỗ đến Thiên Ấn vậy. Thiên Chính đều có, lại có họa nhỏ, hoặc trọng bái phụ mẫu, hoặc là tăng tục hỗn tạp, hoặc là làm con nuôi, hoặc thiên sinh chính dưỡng, hoặc chính sinh thiên dưỡng, lại kỵ Tỉ kiên tranh sủng chia ân, Dương Nhận nhiều hoặc hợp khử, hoặc Ấn nhỏ, gặp mà không ngộ, tuy hữu tiến cử, cũng không thể siêu quần xuất chúng.
《 Phú 》 nói: "Ấn vượng Quan sinh, tất đảm nhận chức cao" là vậy. )
Nhật lộc quy thời một Quan tinh, hào thanh vân đắc lộ.
(Chỗ này là Nhật quy Lộc thời cách vậy. Đại để Ấn thụ, đệ nhất tốt nhất phương hành vận Thương Quan Thực Thần, Tài phát. Kỵ Quan hình xung Dương Nhận. Bên trên là Chân Quan chân Tài chân Ấn chân Lộc, đều là thập can chính khí thiên địa âm dương, lý lẽ sinh khắc. Duy chỉ có được tháng không bị phá, thì đoạn văn trên là chuẩn. Có phá hư, nói theo khinh trọng. Giờ được phát phúc là khá muộn, nhưng đều là tự cứu, có thể sáng tạo mà lập nghiệp. Quy Lộc nhất cách, chỉ hỉ thấy ở trụ giờ (thời thượng), nếu chi tháng trọng kiến, danh là Kiến Lộc bất phú. Thấy chỉ có tháng, thời thượng lại hỉ Tài Thực kiến Quan, là luận cách khác. )
Nguyệt lệnh Thất Sát, mà Sát Thân đều cường, nên là Hắc đầu Tể tướng.
(Chỗ này là Nguyệt lệnh Thất Sát cách vậy. Đại để Nguyệt lệnh là Sát, cần Thân Sát đều cường, mới là đại quý. Nếu Thân cường Sát thiển, cần lấy Tài sinh. Sát cường Thân nhược, cần lấy Ấn trợ, hoặc Dương Nhận hợp, đều là quý mệnh. Nếu Ấn hợp cùng chế tinh công nhau, thân nhược tất yểu, nếu không là tàn tật. Như Quý Mão, Ất Mão, Kỷ Tị, Ất Sửu. Quý Mão, Đinh Tị, Nhâm Dần, Giáp Thìn. Nhâm Dần, Ất Tị, Canh Dần, Bính Tý, đều là thân cường Sát vượng có chế, cho nên đại quý. 《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Ngũ hành gặp chi tháng Thiên Quan, trong năm giờ cũng cần có chế phục, cho nên nghiên cứu phú này vậy. )
Thời thượng Thiên Tài, mà Tài Mệnh cùng vượng, phải ra Bạch ốc Công Khanh.
(Chỗ này là Thời thượng Thiên Tài cách vậy. Chỉ một vị là cát, thấy hợp là không có phúc, kỵ Tỉ kiên huynh đệ tranh đoạt, hình xung khắc hại. Như Bính Tuất, Mậu Tuất, Mậu Tý, Nhâm Tý, Mậu khắc Quý là Chính Tài, có nhiều chữ Tý, chữ Nhâm, là Thiên Tài thấu lộ. Lại như: Đinh Hợi, Mậu Thân, Nhâm Thân, Bính Ngọ, tuy năm có Đinh hỏa, hỉ có hợp chế, âm hỏa lại có thể đoạt quyền dương hỏa, cho nên quý. Hỉ Kỵ thiên nói: Thời thượng Thiên Tài, kỵ thấycung khác. Cho nên tu bổ 《 Phú 》 không có nghĩa vậy. )
Kiến Lộc tọa Lộc, hoặc Quy Lộc, gặp Tài Quan, Ấn thụ, phú quý lại thọ.
(Kiến Lộc là lấy tháng nói, Tọa Lộc là lấy ngày nói, Quy Lộc là lấy giờ nói. Chỗ 3 Lộc cách này bản thân kiện vượng, chỉ gặp Tài là phú, chỉ gặp Quan là quý, chỉ tiến Ấn là tú. Lấy kỳ can vượng, lại chủ mệnh thọ, an hưởng phúc lộc. Nếu đều có cả ba vị, cũng kỳ diệu. Như Đinh Hợi, Kỷ Dậu, Nhâm Ngọ, Tân Hợi, là Nhật lộc quy thời, trong Ngọ cũng có Quan tinh, lại gặp tháng Dậu, là hợp Ấn cách. )
Nguyệt Nhận, nhật Nhận cùng thời Nhận, phùng Quan Sát Vinh thần, công danh cái thế.
(Chỗ này là ba Nhận cách, cần Quan Sát, Ấn thụ chế hóa nhau. Vinh thần, là tên khác của Ấn thụ. Có Quan Sát không có Ấn, có Sát không có Quan, đều được. Có Ấn hóa Sát càng tốt, chỉ sợ hợp bán. Như có Quan không thể thấy Thương, có Ấn không thể thấy Tài, có Sát không thể thấy Thực Thương áp chế. Hoặc chế khử, hợp khử, đều không thành chính cách. Như Nhâm Thân, Nhâm Tý, Mậu Ngọ, Ất Mão, Nhật Nhận có Ất Mão chế phục. Như Bính Tuất, Quý Tị, Mậu Ngọ, Đinh Tị, Nhật Nhận có Ấn thụ biến hóa, cho nên đều tốt. )
Nguyệt lệnh chuyên chế Thất Sát, thân kiện ưng dương.
(《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Nếu đúng giờ có Thất Sát, thấy vị tất là hung. Tháng chế can cường, Sát trái lại là quyền Ấn. Tức là giải nghĩa này vậy. Có nói: Thời thượng Thiên Quan thông nguyệt khí, chủ vượng ưng dương. Cùng chỗ này không có khác. )
Vận Nguyên sinh phát Tam Tài, mệnh cường báo biến.
(Vận Nguyên là Nguyệt lệnh vậy. Tam Tài là Lộc Mệnh Thân vậy. Chỗ này là Nhật can bối Lộc, tức là Thương Thực cách vậy. Hỉ phùng Tài tinh, như ngày Giáp gặp tháng Tị Ngọ, cần can đầu thấu ra chữ Mậu, ngày giờ có Sửu Tuất Mùi. Nhật chủ kiện vượng, hành vận đông phương, tất nhiên đại phát tài lộc, tay trắng lập nghiệp. Lại nói: Trong tháng có Chính Lộc hội Tài nguyên, thân cường báo biến. Là giải nghĩa không khác nhau. )
Năm thấy Chính Lộc, Chính Ấn, Chính Tài không phá, tất nhận phương tổ ấm truyền lại.
(Xem trọng chỗ không có phá, có phá thì không luận chỗ này. Năm là Tổ tông, cho nên nói là nhận tổ ấm. )
Nhật tọa chân Quan, chân Quý, chân Ấn có thành, hiệu viết là Phúc thần trì thế.
(Trọng ở chỗ có thành, có thành tức là không có phá. Chân, tức là chính nghĩa. Nếu lấy thiên lệch, là chỗ nhờ mượn, không phải chân chính vậy. Như các ngày Bính Tý, Đinh Hợi, Tân Tị, Canh Ngọ, là Chân Quan. Các ngày Đinh Dậu, Quý Tị, Quý Mão, Đinh Hợi, là Chân Quý. Các ngày Giáp Tý, Ất Hợi, là Chân Ấn, trong trụ không có phá, có trợ là phúc. )
Thiên Tài ở trong tháng, mà không có bại không có Sát, phú xuất nhân gian.
(Chỗ này là Nguyệt Lệnh Thiên Tài cách, cùng Thời thượng Thiên Tài là giống nhau. Sợ Tỉ Kiếp tương khắc, Thất Sát tiết khí. )
Dưới ngày có Chính Mã, mà có trợ có sinh, danh dương thiên hạ.
(Là các ngày Giáp Ngọ, Mậu Tý. Các ngày Giáp Tuất, Ất Sửu là Thiên Mã. Cùng ngày tọa Chân Quý cách là đồng luận. Có trợ, là chi khác Tài. Có sinh, là chi khác Thực Thương. )
Thân thiển tọa Sát, vận hành đất thân vượng, phát tài phát phúc.
(Tọa Sát, là các ngày Giáp Thân, Ất Dậu. Trong trụ không có thổ là thân thanh. Hành vận Dần Mão, đại phát tài lộc. Cách này hỉ Ấn thụ, kỵ Chính Quan, Thực thần. Phạm thì không phải là thân thanh, là mệnh hạ đẳng vậy. )
Độc chủ lâm quan, vận đến đất chủ quý, gia chức gia phong.
(Độc chủ lâm quan, là các ngày Đinh Tị, Quý Hợi, lại gặp Quý nhân xung Quan tinh là quý. Tuế vận phùng lại Tị Hợi, bội tăng phong chức. Hoặc lấy ngày gặp Quan tinh, hành vận lại gặp đất Quan là giải trừ, cũng hiểu. )
Thực thần sinh vượng, không có Ấn thụ hình xung, là Mẫu thực Tử lộc.
(Là Thực thần cách vậy. Như Mậu Thìn, Đinh Tị, Nhâm Thìn, Giáp Thìn, quý mà còn thọ. Đinh Mùi, Bính Ngọ, Giáp Ngọ, Bính Dần, Thực thần hóa làm thoát cục, Đinh Thương Tân Quan, bay đến không được, cho nên là bần yểu. )
Chủ bản lâm quan, không có Quan tinh Sát bại, là Đệ tập Huynh ban.
(Là các ngày Đinh Tị, Quý Hợi, gặp tháng Dần Tuất vậy. Không có Quan Sát, Tỉ kiên, huynh đệ. Bản thân tự vượng, tất được để cao ban trưởng, hưng gia lập nghiệp. Là sao vậy? Đinh lộc ở Ngọ, Quý lộc ở Tý, Quý Hợi là đất thủy chính vượng, chính là lộc nhà Nhâm vậy. Đinh Tị là hỏa, đất lâm quan, chính là lộc nhà Bính vậy. Được cách này, nói Đinh Quý là đệ của Bính Nhâm, còn Tị Hợi là vị trí lộc của Bính Nhâm, cho nên viết Đệ tập Huynh ban. Tất vì huynh có triển vọng, là nhất ban cao huynh. Lại như: ngày Bính Ngọ, Nhâm Tý cũng vậy, thuần túy càng quý. Bác tạp, là không nhập cách. Nếu có huynh đệ Tỉ kiên, can chi bác tạp, là Huynh tinh điền thực, thì là hạ cách vậy. Hoặc Quan tinh điền thực, huynh đệ tỉ kiên tranh nhau, thân không có chỗ dựa, lại lấy hung đoán. Nếu Quan tinh không thực, chỉ lộ thiên can, tuy là phân tinh bửa lộc, cũng có thể lại thành. )
Đảo Thực bản cung lâm quan vượng, chính là danh thần Nhận Lộc.
(Như Canh Tý kiến Mậu Tý, năm tháng có Thiên Ấn, ở trên bản cung của ta, danh là Đảo Thực, là quân phụ của ta vậy. Là chỗ tọa Thiên Ấn, cùng nhật can đồng cung, lâm ở đất Quan vượng, thì thụ mệnh của ta, sinh phúc khí của ta. Là Thần nhận Lộc, nói gần xua ân sủng vậy. Như Canh Tý, Mậu Tý, Canh Tý, Bính Tý, là cách này vậy. )
Thai sinh nguyên mệnh không có Tài tinh, là Xích tử thừa ân sủng.
(Chỗ này là các ngày Canh Dần, Tân Mão, Giáp Thân, Ất Dậu. Đều là Thiên nguyên bản chủ, tự tọa tuyệt địa, là cung Thai sinh, tức là Bào Thai cách vậy. Kỳ sinh quá nhỏ, cho nên hỉ Ấn thụ, sợ Tài khắc. Chủ thiếu niên được mời ân chủ, đại khái cùng Ấn cách là đồng luận. Như Ất Dậu, Ất Dậu, Ất Dậu, Giáp Thân, là cách này vậy. Hỉ Kỵ Thiên nói: Ngũ hành tuyệt xứ, tức là Thai Nguyên, ngày sinh gặp, danh viết là Thụ khí. )
Năm tháng có Chính Quan, Thất Sát hỗn gọi là người hạ tiện. Ngày giờ độc cường chuyên chế, chức trọng quyền cao. Tháng giờ Thất Sát, Chính Quan tạp loạn thời bệnh giao xâm. Tuế Vận xung khai hợp khử, Quan thanh danh hiển. Do sợ chế quá, tối kỵ tranh cường.
(Hỉ Kỵ thiên nói: Tứ trụ thuần Sát có chế, định tôn cư nhất phẩm. Lược thấy một vị Chính Quan, Quan Sát hỗn tạp lại tiện. Loại có Khử Quan lưu Sát, cũng có Khử Sát lưu Quan. Lại nói: Tứ trụ Sát vượng vận thuần, thân vượng là Quan thanh quý. Lại nói: Nguyệt lệnh tuy gần Kiến Lộc, thiết kỵ hội Sát là hung. Quan tinh Thất Sát giao soa, lại có Hợp Sát là quý, là vậy. Hai cách này, đều có chỗ chủ. )
Năm tháng Chính Quan, lấy Quan làm chủ, sợ có Sát hỗn. Tháng giờ Thất Sát, lấy Sát làm chủ, sợ có Quan hỗn loạn.
(Ngày giờ độc cường, tuế vận chuyên chế, xung khai hợp khử, nghĩa đoạn văn cùng thấy lẫn nhau vậy. Chế quá thì Thất Sát không hiển, tranh cường thì khó lấy khử lưu, lý lẻ nên nói rõ kỹ càng. Như Nhâm Tý, Giáp Thìn, Kỷ Mão, Nhâm Thân, tháng là Chính Quan, dưới ngày có Mão là Thất Sát, được bên trong Thân có Canh kim, hợp Sát Ất mộc ở trong Mão, là quý. Lại như bát tự Trương Thị Lang: Ngày Ất lấy Canh là Chính Quan, Canh kim ở trong Thân, sinh gần tháng 7, Canh vượng Tân suy, tháng 6 Đinh hỏa vượng, là khử Sát lưu Quan, cho nên quý. Lại như: Bính Ngọ, Bính Thân, Giáp Dần, Đinh Mão, Bính Đinh tuy nhiều, không địch nguyệt lệnh Sát, lại hành vận Quan vượng, thân vượng biến quỷ thành Quan, co nên quý. )
Thiên Nguyên vô khí, lại cần Trung Hạ hưng long.
(Chỗ này là Ấn thụ cách vậy. Như Giáp Ất sinh ở mùa đông, là Thiên Nguyên vô khí, địa chi có Hợi Tý thủy sinh mộc, là loại hưng long. Lại như các ngày Đinh Hợi, Đinh Sửu, Đinh hỏa vô khí, lại có Nhâm Quý đến khắc, được Hợi Tý thành đảng, lại có thể sinh ra Giáp mộc, gọi là Địa chi hưng long. Hỉ thổ đến khắc là Tài, là được Tài trong Sửu, cũng là loại lợi. Cổ nhân luận Trung Hạ, là nói lấy ngày, giờ. Như nhật can Nguyệt lệnh vô khí, nếu chỗ tọa chi cùng giờ đắc địa, cũng là thành thực mệnh. Nếu vô khí, mà ngày giờ lại ở đất suy bại, thì cuối cùng có thể biết là thân ngả ngửa vậy. 《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Phàm thấy Thiên nguyên thái nhược, bên trong có chỗ yếu phục sinh, là vậy.)
Bản niên Thiên Quan, nên kỵ thủy chung khắc hại.
(Chỗ này là Tuế Đức cách vậy. Như ngày Giáp gặp Thái tuế Canh Thân, là trụ năm Thiên Quan, một danh gọi là Nguyên Thần, hoặc gọi là Cô Thần, là Sát tối trọng, cả đời không thể trừ khử, cho nên là Thủy chung khắc hại. Khắc hại, không phải chuyên chỉ Tổ phụ lục thân, bản thân cũng có ở trong đó vậy. Như Đinh Tị, Đinh Mùi, Tân Tị, Nhâm Thìn, hỉ một Nhâm hợp 2 Đinh là chế. Ất Mão, Bính Tý, Kỷ Mão, Đinh Mão, hỉ Đinh Bính hóa khử 3 Ất, đều chủ quý, nếu khắc hại cuối cùng là không thể tránh khỏi. Hoặc nói: Thất Sát nhiều căn, thiết kỵ thủy chung khắc hại. Cũng hiểu. )
Dương Nhận cực hỉ Thiên Quan, tiêu diệt họa loạn.
(Chỗ này là Dương Nhận cách vậy. Đại để Dương Nhận kỵ Tài, vì Nhận phá Tài, Tài sinh Sát, Sát khắc thân. Cùng hình xung tam hợp, lục hợp, hỉ Sát chế phục. Nếu Sát tự chế, lại lấy hung đoán. )
Kim Thần chỉ hợp chế phục, quét sạch gian hùng.
(Chỗ này là Kim Thần cách vậy. Đại để Kim Thần, không sợ quá chế, chỉ kỵ phá chế cùng thất chế. Tuế vận cũng vậy. Ngày Giáp Kỷ được 3 giờ này, duy chỉ ngày Giáp được là chính. )
Dương Đức Âm Quý, vượng thì vinh hiển, còn nhược có thể giữ danh.
(Dương Đức, là Thiên Nguyệt nhị Đức cùng Nhật Đức. Âm Quý, là Thiên Ất quý thần cùng Nhật Quý cách vậy. Nhược tuy không bằng cường, cũng tự có thể thủ. )
Thiên Cương Địa Khôi, suy thì bần hàn, còn cường thì tuyệt thế.
(Tức là Khôi Cương cách vậy. Hỉ cường ghét suy, kỵ Tài Quan, phải cùng tại chỗ. )
Quan khố Tài khố, xung khai thì vinh phong tước lộc, bế tắc thì bần cùng của cải.
(Chỗ này là Tạp khí Tài Quan cách vậy. Như Giáp thấy Sửu là Quan khố, thấy Thìn là Tài khố, thấy Mùi là Bản khố, thấy Tuất là Thực khố. Quan là thượng, Tài là thứ, thủy khố lại càng là thứ. Nếu khố ở trong năm tháng, quản sự rất sớm, thiếu niên khó phát. Hỉ ở dưới ở ngày cùng giờ, tuy phát về già, không mất là tạo hóa phú quý. Phải thấy xung hình phá hại, để mở khóa cục, sợ có tinh sao làm bế tắc. Như Đinh dụng Thìn là Quan khố, hoặc chữ Mậu lạm quyền, hoặc Mậu Thìn áp chế, là bế tắc vậy. Như vậy, thì Đinh không thể làm quan, trụ cần có Giáp Tuất hoặc gặp tuế, mới cát. )
Thương quan Chính Quan, thương tận thì độc nắm quyền cao, Bán tàn thì gặp khốn khó.
(Chỗ này là Thương Quan cách vậy. Bán tàn, là nói thương không tận. 《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Tứ trụ Thương quan, vận nhập Quan hương, tất phá là vậy. )
Tháng ngày Đảo xung Quan Lộc, không có Điền không có Bán, là Lộc Mã bay đến.
(Chỗ này là Phi Thiên Lộc Mã cách vậy. )
Thiên Địa chế hợp Sát thần, nhưng mà không mất, mà danh lợi sậu phát.
(Thiên Địa chế hợp Sát thần, chính là thiên can địa chi, hoặc là Thực thần chế Sát, hoặc là Dương Nhận hợp Sát. Nhưng chế hợp không nên thái quá, như 1 Sát 2 Thực 2 Dương Nhận, thì là quá mà mất vậy. Thân Sát lưỡng đình, chế hợp không thái quá, Sát là Hung thần, cho nên chủ mau phát.
《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Thiên Quan chế phục thái quá, chính là bần nho. Chế không thể quá vậy. )
Duy chỉ có Quan Ấn tối cần tương hội, Đức chính gia phong.
(Chỗ này là Quan Ấn cách vậy. Như ngày Giáp gặp Tân là Quan, lại có Quý là Ấn, hoặc địa chi có chữ Dậu Tý đều đúng. Quan Ấn ở thân, một khắc một sinh. Âm dương phối hợp, mà lại tự tương sinh chỗ này. Cho nên chủ là tướng, có tài giúp vua, là tướng có tài trí mưu lược. Là chủ tể chính trị hiền lương, bản thân phải cùng Quan Ấn ngang nhau, là địc vị cực phẩm vậy. Nếu không, tùy theo lực lượng thăng giáng, mà nói khinh trọng. )
Có Lộc Mã cực hỉ đồng cư, Quan có thể xưng chức.
(Chỗ này là Tài Quan cách vậy. Như ngày Giáp thấy các tháng Kỷ Sửu, Kỷ Dậu cùng Nhâm Ngọ, Quý Tị, là Lộc Mã đồng cư. Cùng ở trên Quan Ấn tương hội, đều là Tam Kỳ cách vậy. Lực bản thân cần phải vượng, hoặc gặp khí giờ có thể xưng cách này. Lộc thân cường nhược ngang nhau, luận hạ cách, thân nhược khó thọ. )
Ấn thụ phùng Sát thì phát, phùng hợp thì hối, phùng Tài thì tai. Phá hợp khử Tài cũng phát.
(Chỗ này là tổng luận Ấn thụ hỉ kỵ. Phùng Sát, gọi là Ấn dựa Sát sinh, công danh hiển đạt. Nếu gặp hợp khử Thiên Tài, khắc khử Chính Tài, đều là hối tai. Trong trụ nhật can kiện vượng, hoặc có Tỉ kiên phá hợp khử Tài, thì có thể song thu Ấn Sát, cũng chủ phát đạt, nhưng không thanh vậy. Thơ nói: Bỗng phùng Giáp Kỷ thêm kim cục, Bính hỏa tầm thường liền có than. Vận hành vượng hỏa đất sinh thân, công danh chỗ nào không ánh sáng. Là vậy.)
Kiến Lộc gặp Quan thì quý, gặp Tài thì phú. Gặp Ấn thì tú, Bại Tài phá Ấn không cát.
(Kiến Lộc là thân vượng. Cho nên dụng Quan, dụng Ấn, dụng Tài đều cát. Có Bại Tài, Dương Nhận, Tỉ kiên, thì thân thái vượng. Đều lấy đủ Kiếp Tài của ta, phân Quan của ta, đoạt Ấn của ta. Kiến Lộc càng hỉ Ấn cùng Tài, cho nên thấy Bại Tài phá Ấn, thì thiên khô không thành tạo hóa. Tài Ấn đều thấy hỗn tạp, không phú không tú, là mệnh không thành vậy. )
Quan Sát lưỡng đình, hỉ là tồn, tăng là khử.
(Võ có thể khử Chính lưu Thiên, hóa Quan thành Sát. Văn có thể khử Thiên lưu Chính, hóa Sát thành Quan. Vận phùng thân vượng tất gia phong. Tài Ấn giao soa, muốn kỳ tiến vậy, kỵ kỳ thoái vậy. Quý có thể thấy nghĩa quên lợi, thủ Ấn bỏ Tài. Phú thì thấy lợi quên nghĩa, thủ Tài bỏ Ấn. Tuế gặp mệnh cường mà tiến tước. Quan Sát không thể cùng dụng, Tài Ấn khó lấy giao lưu, cho nên hỉ tăng tồn bỏ, hoặc khử Sát lưu Quan, hoặc khử Quan lưu Sát, muốn kỵ tiến thoái, hoặc lấy Ấn bỏ Tài, hoặc lấy Tài bỏ Ấn, đều theo kỳ có lực mà trọng dụng. Văn võ phú quý, cũng nói suy giống nhau, vị tất ưu tiên. Tứ cách đều lấy thân vượng mệnh cường làm chủ, tuế vận sinh phù là vi diệu. Thông dung luận điều hòa. Thân cùng Tài vượng lực đình, được Quan Sát đến cũng có thể hóa Tài trợ Ấn, là phúc ích hậu. Thân nhược không có Quan Sát đến hóa, không chỉ không thắng Quan Sát. Mà Tài Ấn giao soa, thân chế không từ, không có nơi nương tựa, tất định bần tiện. )
Thập can Bối Lộc, hỉ kiến Tài phong. Bại phùng Tỉ kiên trục Mã. Quan Sát đều có, giống như Khử Sát lưu Quan. Ấn trợ thân cường, tất định thu công bái chức.
(Chỗ này nói Thương quan cách vậy. 《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Thập can Bối Lộc, năm giờ hỉ thấy Quan tinh. Vận đến Tỉ kiên, hào viết Bối Lộc trục Mã. Là vậy. )
Ngũ hành Thực thần, cho phép cưỡi Mã thịnh, họa sinh Chính Ấn Kiêu Thần. Quan Sát cùng đến, sai lầm dẫn đến phản hiền bại đức. Kiêu thần Ấn vượng, lập tức thấy phá bại thương thân.
(Chỗ này nói Thực thần cách vậy. Chỗ này vì câu trên nói Bối Lộc trục Mã, cùng cực đem Quan Sát mà chuyển thành phúc. Cho nên chương này nói vì Tài dẫn đến phú, bị Quan Sát trợ Ấn làm họa, trái lại là đại phá. Nghĩa thấy đoạn văn trên với nhau, không thể không khảo sát tường tận. Bởi vì Thực thần hỉ Tài sợ Kiêu. Quan Sát sinh Ấn, thì Kiêu càng vượng. Thương hỉ thấy Ấn, Thực sợ thấy Ấn, cho nên cùng nói. )
Ngày Mậu tháng Ngọ, chớ lấy Nhận xem. Năm giờ nhiều hỏa, chuyển làm Ấn thụ.
(Chỗ này là Dương Nhận cùng Ấn đồng cung, hỏa nhiều thì Ấn vượng, cho nên có thể chuyển nhược theo cường. Nhưng Nhận trợ thân cường, lại được Ấn trợ, thì văn chương cao thượng, có thể ẩn ác mà dương thiện. Nếu có chữ Kỷ thấu ra, vẫn lấy Nhận đoán. Ấn Nhận đều có, là người khó tránh tính độc. Có vận tốt lại thành công. Vận xấu Nhận đến, hoặc bị Tài xung khởi, cũng hung. Hỉ Chính Quan gặp chế là vi diệu. Như Quý Hợi, Mậu Ngọ, Mậu Ngọ, Mậu Ngọ, mệnh này chính hợp cách luận này. )
Ngày Bính tháng Sửu, không phải là Bối Lộc. Can chi kim vượng, lại lấy giúp Tài.
(Ngày Bính sinh gặp tháng Sửu, trong Sửu có Kỷ thổ, là Thương quan bối Lộc, chủ bần. Được can chi Canh Tân, kim khí vượng thịnh, thổ có thể sinh kim, lại lấy Tài đoán. Phải thấy ngày Bính, hoặc Dần Ngọ Tuất hỏa cục cũng vượng, có thể đảm nhận Tài. Chi giờ là Sửu, trong chi Tị Dậu hợp thấu ra Canh Tân, Bính hỏa sinh vượng, cũng hợp cách này. Như ngày Bính bản thân tự vượng, đơn thấy tháng Sửu, không có Canh Tân thấu lộ, cùng Tị Dậu Sửu cục, là chân Bối Lộc vậy. )
Quan tọa Nhận đầu chung bị hình, Quý áp tam hình phải chấp chính.
(Như ngày Giáp thấy tháng Tân Mão, cùng giờ Tân Mão, Quan không đắc lệnh, lại Đinh hỏa trong Mão thương khắc, tuế vận lại thấy, chắc chắn gặp hình. Nếu Quan Sát chế phục phù hợp, tuy lấy quý luận, gặp năm Nhận thì vẫn hung, là Dương Nhận đứng đầu phá hư tạo hóa vậy. Quý áp Tam Hình, là trong mệnh phạm tam hình, tuy hung, nếu được một vị Thiên Ất Quý nhân chính chiếu. Đắc thời sinh vượng, trái lại chủ nắm quyền hình chính, có thể chuyên chinh phạt. Quý nhân không sinh vượng, cũng có thể đoán đi theo chính trị. Là Quý thần, đứng đầu cát sát vậy. )
Đức Cái Thất Sát, tất là người an thiện. Hoa nghênh Lục Hợp, người sao không dâm đãng ?
(Đức tức là Thiên Nguyệt Đức, là thần từ thiện vậy. Thất Sát, là Cô Thần sát vậy. Đức Cái Thất Sát, chủ người có đạo đức, vì đạo đức mà sinh phú quý. Hoa, tức là Đào Hoa sát, là sát dâm đãng vậy. Lục Hợp, là sát đa tình sát vậy. Hoa nghênh Lục Hợp, chủ háo sắc ca kỹ. Lại như: Người sinh Mậu Ngọ, thấy loại Quý Sửu, là can chi giao hợp, là Cổn Lãng Đào Hoa. Tứ trụ có Tý Ngọ Mão Dậu, là Biến dã Đào Hoa, chủ nam không môi giới mà cưới, nữ không môi giới mà gả. )
Cô Quả song toàn mang Quan Ấn, đương ưng trụ trì; không thì chỉ là hành đạo.
(Nhị sát Cô thần, Quả Tú, rất sợ cùng thấy một lúc, chỉ có một vị thì không luận. Ở trên mang Quan Ấn, tuy là tăng đạo cũng quý, như không có, chỉ là tăng đạo bình thường mà thôi. Như Giáp Tuất, Mậu Thìn, Canh Thìn, Bính Tý; Giáp Tuất, Mậu Thìn, Canh Thìn, Đinh Sửu. Đều là mệnh trưởng lão thanh cao. )
Khống Yêu Cách giác, phùng sinh vượng tất làm con nuôi; tuyệt thì cuối cùng thủ quan sương.
(Khống thần, Yêu thần, là Cô Quả sát vậy. Giả như người Dần Mão Thìn, thấy Tị, người Thìn gọi là Khống Thần sát, còn gọi là Yêu Thần sát. Thấy Sửu, người Dần gọi là Khuy Thần sát, còn gọi là Truy Thần sát. Còn lại dựa theo chỗ này mà suy. Lại gặp Tuế Vận bất hòa, Tam Nguyên hình chiến, là rất hung. )
Thôn Đạm toàn bài, gia nhân tiêu tán; Không Vong biến kiến, thân thuộc ly thương.
(Thôn Đạm, là nhị sát Không Vong, là thần khắc hại Cô Quả vậy. Cần phải sắp xếp lần lượt thấy cả, mới như kinh đoán. Nếu Thực gặp Thôn Đạm, Tài Thực Quý Lộc các cách, thấy Không Vong thì càng không cát. )
Tài Ấn cùng tổn thương, đoán kỳ tất không có trên dưới. Quan Sát đều khử, biết thiếu mất cha mẹ.
(Hai tiết này là chuyên luận cốt nhục. )
Thuần Hao thuần Nhận giao soa, loại đoán Ngưu Dương. Thuần âm thuần dương bài khắc, xem đường Trư Cẩu.
(Đại Hao Dương Nhận, chính là thần sát hung nhất. Cô âm cô dương, là can chi không điều hòa. Hao, Nhận toàn bộ tụ giao đến trên tứ trụ, chủ rất hèn tiện, lấy đoán như loài Trâu Dê. Thiên can đều là một Thiên, địa chi xung hình phá hại, tất là người không có chính tính, luận lấy như loài Heo Chó. Nếu như năm tháng có các sát Dịch Mã Lục Hại, Hoa Cái Kiếp Sát, Vong Thần, thấy thiên âm thiên dương, càng hung. Như Giáp Tý, Canh Ngọ, Giáp Tý, Canh Ngọ, Giáp dụng Tân là Quan, thấu ra Canh Sát, lại không đắc lệnh. Giáp dụng Kỷ là Tài, phát lộc tháng Ngọ, Tý Ngọ đối xung, Tài lại không thành, đoán lấy kẻ bất nhân bất nghĩa. Như Giáp Ngọ, Giáp Tuất, Giáp Ngọ, Giáp Tý, cùng thấy 3 Giáp, dụng Quan thì Quan không hiển, Tài Ấn đều xung cùng không có chỗ dựa, là loại tham lam không ngán, không nhận lục thân, người nghịch lễ bạc tình vậy. )
Suy thụ chúng Kiêu, chính là con ở sống nhờ. Tuyệt phùng trọng Thực, nên làm nghề kẻ môi giới.
(Kiêu và Thực trái nhau, cho nên cùng đưa ra ví dụ, thân sợ nhất là suy tuyệt vậy. Suy mà phùng Kiêu, khó lấy Thiên Ấn; Tuyệt mà phùng Thực, khó lấy Thọ tinh; cho nên đều không cát. Làm con ở ăn bám, vì Kiêu khó được ôm Thực. Làm nghề môi giới, vì tuy được ăn mà ôm tiện. )
Nếu cũng thuần Quan, thuần Sát, thuần Mã, thuần Tài, thân vượng không tạp, thì Quan cư cực phẩm.
(Phàm xem mệnh, lấy thuần túy không tạp là thượng, thiên khô hỗn loạn là hạ. Lại như ngày Giáp, lấy Tân là Quan, trong trụ chỉ có loại Dậu, Tân, là dụng thuần Quan. Lấy Canh là Sát, trong trụ chỉ có chữ Thân, Canh, gọi là Thuần Sát. Lấy Chính Tài là Mã, trong trụ chỉ có chữ Sửu Mùi Kỷ. Lấy Thiên Tài là Tài, trong trụ chỉ có chữ Thìn Tuất Mậu, gọi là Thuần Mã, Thuần Tài. Gặp thân vượng, là đại phú quý cách. Được Kiến Lộc cách, xuất thân liền là giàu có. Dưới ngày là thứ, dưới giờ lại thứ hơn. Kiến Lộc gặp Chính Quan là bậc nhất, Chính Tài là thứ, duy chỉ có Sát thì thọ không dài. Nếu tháng Dương Nhận, Thuần Sát là đệ nhất, Tài cách thì đề phòng tai họa. Như Quý Mão, Ất Mão, Kỷ Tị, Ất Sửu, mệnh này chính là Thuần Sát có thể rất thiện, cũng quý hàng cực phẩm. Như Giáp Tuất, Đinh Mão, Kỷ Tị, Ất Hợi, Quan Sát hỗn tạp, dựa vào Giáp Kỷ hợp hóa là quý. Vì lực tạp hóa quá, không có kết cục. )
Toàn Ấn, toàn xung, toàn chế, toàn Thực, mệnh cường không có phá, thì Lộc nhận nghìn chung.
(Toàn Ấn, như ngày Giáp thấy Tý Quý Nhâm Hợi, hoặc Chính, hoặc Thiên, không có chỗ bác tạp. Toàn Xung, như địa chi thuần Hợi, thuần Tị, thuần Tý, thuần Ngọ, xung xuất Lộc Mã. Hoặc Dần Thân Tị Hợi, Tý Ngọ Mão Dậu, Thìn Tuất Sửu Mùi, đều đúng. Toàn Chế như ngày Giáp thấy các chữ Đinh hoặc Ngọ, thương tận Quan tinh, hư không sinh xuất thổ đến là Tài. Toàn Thực, như Giáp kiến Bính, trong trụ thuần chữ Dần, nhật chủ phải được sinh vượng, Chính Khố Lâm quan. Tháng ngày giờ, đều là quý nhân vậy. Như Kỷ Mùi, Ất Hợi, Bính Dần, Tân Mão, chỗ này toàn là Ấn bác tạp, lại có Tân Tài khắc hình, vận hành thân vượng thì quý hiển. Hành thân suy, thì hãm hình. Như Tân Hợi, Kỷ Hợi, Tân Hợi, Kỷ Hợi, tứ trụ thuần Hợi, xung xuất Bính Mậu ở trong Tị. Toàn xung là quý. )
Nhật can thái vượng vô y, nếu không là Tăng, chắc hẳn là Đạo. Thiên Nguyên suy nhược không có cứu trợ, nếu không làm ca kỹ, thì chắc là thầy mo.
(Chỗ này là nói thái quá cùng bất cập, đều là không cát vậy. Thái quá, là Tài Quan tử tuyệt, cho nên là cô đơn. Bất cập, là Tài Quan khó đảm nhận, cho nên chủ nghệ thuật. Thấy tạo hóa, quý ở trung hòa vậy. Nếu có chỗ dựa có chỗ phụ trợ, thì không thể luận như vậy. 《Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Trong trụ Quan tinh thái vượng, danh là Thiên Nguyên suy nhược. Nhật can vượng thậm vô y, nếu không là Tăng cũng là Đạo. )
Thân nhược có sinh tất phát, kỵ Tài Mã vì tổn thương nhau.
(Chỗ này nói thân nhược dụng Ấn kỵ Tài tổn thương Ấn, gọi là Tham Tài phôi Ấn, phải phân Tài Ấn khinh trọng mà nói. 《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Nhật can vô khí, giờ phùng Dương Nhận thì không hung. Là do Dương Nhận kiếp Tài, trong trụ Tài đa thân nhược, cho nên không kỵ Dương Nhận. Cần hợp lại luận. )
Thực thần phùng Kiêu thì yểu, hỉ Tài tinh là cứu sinh.
(Chỗ này nói Thực thần sợ Kiêu, cần có Tài chế Kiêu, là dụng thần có cứu, phải phân Tài khinh trọng mà nói. Ấn thì kỵ Tài, Thực thì cần Tài, nghĩa đều có chỗ dụng vậy. )
Ngày Giáp Tý gặp giờ Tý, không có Canh Tân Thân Dậu Sửu ngọ, gọi là Lộc Mã phi lai.
(Chỗ này gọi là Tý diêu Tị cách vậy. )
Giờ Canh Thân gặp ngày Mậu, không có Giáp Bính Mão Dần Ngọ Đinh, danh viết là Thực thần minh vượng.
(Chỗ này là Chuyên Thực hợp Lộc cách vậy. 《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Giờ Canh Thân gặp ngày Mậu, danh Chủng Thực can vượng; tháng phạm Giáp Bính Mão Dần, chỗ này chính là Ngộ nhi bất ngộ. Là vậy. )
Canh Nhâm Tý xung Ngọ Lộc, thiết kỵ Bính Đinh.
(Chỗ này là Chính xung Lộc Mã cách vậy. )
Tân Quý sửu hợp Tị cung, phải sợ Tý Tị.
(Chỗ này là Sửu diêu Tị cách vậy. 《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Ngày Tân Quý gặp nhiều đất Sửu, không hỉ Quan tinh. Năm giờ gặp 2 cung Tý Tị, là hư danh hư lợi vậy.)
Chỗ này đúng Bính Ngọ Đinh Tị, tối kỵ hình xung.
(Chỗ này là Đảo xung Lộc Mã cách vậy. )
Ví dụ như Nhâm Tý Quý Hợi, cũng đề phòng Điền Thực.
(Bên trên là Chính xung, Đảo xung, Diêu hợp, Thông dung, nghĩa các đoạn văn cùng thấy lẫn nhau. Đưa ra ví dụ Bính Đinh cùng Tị, kỵ Điền thực vậy. Ví dụ Tý, kỵ hình xung vậy. Như Bính Tý, Canh Dần, Bính Ngọ, Quý Tị; Canh Dần, Nhâm Ngọ, Bính Ngọ, Mậu Tuất, hai mệnh này đều hỉ có đủ Dần Ngọ Tuất. Như Tân Dậu, Quý Tị, Đinh Tị, Ất Tị; Quý Mão, Đinh Tị, Đinh Tị, Ất Tị, hai mệnh này hỉ có chữ Tị nhiều, bất luận có hợp, không có hợp, đều cát. Duy chỉ kỵ chữ Thìn hợp trói, thì không thể xung. Lại hỉ có đủ Tị Dậu Sửu, là Chính Xung cách vậy. 《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Nhược đưa tiễn nguyệt kiến Thương quan, như xứ hung vị tất là hung; bên trong có Chính Đảo Lộc phi, kỵ Quan tinh dcũng sợ hợp trói. Là vậy. )
Ngày Lục Tân mà không có chữ Ngọ, được giờ Mậu Tý, Tân hợp Bính Quan là quý.
(Chỗ này là Lục Âm triều Dương cách vậy. Như: Mậu Thìn, Tân Dậu, Tân Sửu, Mậu Tý; Mậu Thìn, Tân Dậu, Tân Dậu, Mậu Tý; Ất Sửu, Canh Thìn, Tân Dậu, Mậu Tý, là cách này vậy. 《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Ngày Lục Tân gặp giờ Mậu Tý, sợ vận Ngọ Mùi, hỉ tây phương" là vậy. )
Ngày Lục Quý mà không có can thổ, gặp giờ Giáp Dần, Dần hình Tị cách là quý nhất.
(Chỗ này là Hình Hợp cách vậy. Cách này chủ tính khí cương, mà xét thấy quá nhanh. Như: Ất Mùi, Giáp Thân, Quý Dậu, Giáp Dần, sợ Canh ở trong Thân tổn thương Giáp mộc, Dần Thân đối xung, cho nên tuy quý mà giảm nửa số, lợi dầy mà danh thấp. 《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Ngày Lục Quý gặp giờ Dần, năm tháng sợ hai phương Kỷ Mậu. Là vậy.)
Quý không có giờ Bính hỏa Mậu Kỷ Canh Thân, hợp một Kỷ Tài Quan.
(Chỗ này là Chuyên Ấn hợp Lộc cách vậy. Cùng xem giống như Chuyên Thực. )
Nhâm có Tý Ngọ Mão Dậu chính khí, trụ kiêm tứ quý thổ Lộc.
(Ngày Nhâm là chủ, vừa không có Quan Sát, nhưng được Tý Ngọ Mão Dậu là Tứ Chính. Có thể hợp xuất Thìn Tuất Sửu Mùi là Quan lộc, không cần đều hội tứ chính, nhưng có đủ 4 chữ là vi diệu. )
Giống như trên ngày Quý, thổ diệu chớ xâm. Có lợi hại đan xen, Quan cao thân bệnh. Gặp là đích xác Hình Huệ, chức trọng nhà bần.
(Ngày Quý làm chủ, lại kiêm thổ Lộc kiến Tý Ngọ Mão Dậu, cùng giống ngày Nhâm, là cát hung kèm theo nhau vậy. )
Giáp Khúc Trực, Bính Viêm thượng, Quan cao khắc thê mà bất phú. Mậu Tòng Cách, Canh Nhuận Hạ, chức trọng con thiếu mà tự mình bần.
(Giáp kiến Hợi Mão Mùi, viết là Khúc Trực. Bính kiến Dần Ngọ Tuất, viết là Viêm thượng. Mậu kiến Tị Dậu Sửu, viết là Tòng Cách. Canh kiến Thân Tý Thìn, viết là Nhuận hạ. Giáp Bính kiến mộc hỏa cục, là Thái vượng, có thể tam hợp xuất toã Quan cục, cho nên là Quan cao. Nhưng có Dương Nhận, Kiếp Tài cho nên khắc thê. Mậu Canh kiến kim thủy cục, là Thoát khí, có thể tam hợp xuất toã Quan cục, cho nên là Chức trọng. Nhưng trong trụ vốn không có Quan Sát, cho nên ít con. Cần phải biết 4 cách này, đều là Thiên đảng, cho nên phúc lộc bất toàn. )
Thân phạm đất hưu tù, cùng xung Quan Quý sao oán than.
(Như ngày Tân Hợi, đã không có Quan Sát, thân lại không vượng, sao không thương cảm? Không biết chữ Hợi nhiều, cũng có thể xung xuất Quan Ấn ở trong Tị là quý, cho nên viết sao khởi oán than? )
Chi tự chuyên Quan vượng, cùng đuổi Lộc tử vẫn quý.
(Chỗ này tức là các ngày Đinh Tị, Quý Hợi, Bính Ngọ, Nhâm Tý, tự tọa lâm quan, đế vượng. Chi thần nhiều có thể xung xuất Quan lộc đối cung. Cùng nghĩa văn ở trên là giống nhau. )
Âm mộc độc gặp giờ Tý, không có Quan tinh, Ất trấn chỗ này khoa tối quý.
(Chỗ này là Lục Ất Thử quý cách vậy. Nghĩa văn《 Hỉ Kỵ thiên 》giống nhau. Như Giáp Dần, Mậu Thìn, Ất Hợi, Bính Tý, tứ trụ không còn dao động cách khác, Bính Tý cũng không diêu động, an nhiên là quý. 《 Kinh 》 nói: "Có Thần không thể diêu động" là vậy. Như Giáp Dần, Quý Dậu, Ất Hợi, Bính Tý, nguyệt lệnh có Thiên Quan hại thân, nhờ ở dưới ngày có Ấn vượng, cũng không là mất y lộc. Như Tân Hợi, Giáp Ngọ, Ất Hợi, Bính Tý, mệnh này quý bị Ngọ phá, 2 Hợi là Tự Hình. Bản thân vừa ở Tử địa, lại thấy tự hình, cả hai đều không có chỗ dựa, cho nên chủ bần tiện. ))
Dương thủy điệp phùng Thìn vị, không có xung khắc, Nhâm Kỵ Long Bối là phi thường.
(Chỗ này là Nhâm Kỵ Long Bối cách vậy. Nghĩa văn《 Hỉ Kỵ thiên 》giống nhau. Như Nhâm Thìn, Giáp Thìn, Nhâm Thìn, Nhâm Dần, Nhâm dụng Kỷ là Chính Quan, Đinh là Chính Tài. Chữ Thìn nhiều, xung xuất Quan khố ở trong Tuất, hư hợp Tài Quan trong Ngọ, Dần Ngọ Tuất tam hợp hỏa cục. Người Nhâm gặp là quý. Như Nhâm Dần, Nhâm Dần, Nhâm Thìn, Nhâm Dần, người Nhâm thấy Bính hỏa sinh ở Dần, Tị là Tài Quan. Chữ Dần lại nhiều, hợp khởi Ngọ Tuất là Tài Quan, cho nên thắng lợi ở danh. )
Ngày Canh toàn phùng Nhuận Hạ, kỵ phương Nhâm Quý Tị Ngọ. Giờ gặp Tý Thân, kỳ phúc giảm nửa.
(Đây là Tỉnh Lan xoa cách vậy. Nghĩa văn《 Hỉ Kỵ thiên 》giống nhau. )
Hợp Quan, hợp Tài làm Công Khanh, phòng hưu tù khắc hại là nhục.
(Hợp Quan, như ngày Ất thấy Canh. Hợp Tài, như ngày Giáp thấy Kỷ. Là đạo Thập can biến hóa vậy. 《 Phú 》 nói: Hóa chân, là công danh cự khanh; Hóa giả, là cô nhi dị tính. Ất Canh hóa kim thấy thủy địa, thì hưu khốn; kiến hỏa địa, thì khắc hại. Phàm mang hợp hoặc độc vượng, không thể tự tựu. Hoặc trong hợp thấy xung phá, hoặc có một bên khắc phá, đều là hợp không thành. Hoặc hóa ở đất hưu tù tử tuyệt, trái với cùng hợp, tất nhiên là trì trệ bất lợi, gọi là Hóa giả vậy. Như Kỷ kiến Giáp, kiến Kỷ gọi là đắc địa, Kỷ là khố vượng vậy. Như Bính kiến Tân, kiến Tân Mão là thất địa, Bính hỏa bại ở Mão vậy. Mậu và Quý hợp, kiến Mậu Ngọ là đắc địa, Mậu Quý hóa hỏa, Ngọ là đất hỏa vượng kiên cố vậy. Cũng cần Quý thủy trước là đắc địa, phương hợp thoả đáng. Nếu thất địa là không đắc thời, thì tổn thọ. Bởi vì hóa là quý vượng, thân nhược không thể thắng, dù quý cũng mất. Bính lại cùng Tân hợp, kiến Tân Mùi dương hỏa, khí nhược ở Mùi, đa số là chết yểu, hoặc vì hại sắc. Trụ có Nhâm khắc Bính, hoặc Nhâm cư trên Thân là tự sinh, xung cung Dần đất hỏa sinh, chết yểu là không nghi ngờ. Cũng có Tham hợp vong Quan, như ngày Đinh thấy 2, 3 chữ Nhâm, Đinh chỉ đơn độc còn Nhâm nhiều, một thân không thể thắng nhiều, là kẻ sĩ ô hợp, không có chỗ vững chắc sao có thể thành công? Đinh có lực chỉ được nửa cát. Lại như, Giáp cùng Kỷ hợp, cung Giáp mộc không có thông khí, vị trí Kỷ thổ có chính nghĩa, tuy hợp mà mất chính, cũng luận giống như trên. Nếu Giáp Kỷ cả hai đều đắc vị, quý hiển cực cao. 《 Kinh 》 nói: Giáp Kỷ mộc thịnh ở đất thổ, phát dương nhân nghĩa phò minh quân. Bính Tân hợp, Bính vượng Tân sinh, chức trấn thủ uy quyền. Ất Canh nhập kim cục, kiêm mộc tự vượng, văn nhân vũ nghĩa song toàn. Mậu Quý được hỏa vượng, thêm thủy độc vượng, lễ luật trí dũng đều có. Đinh Nhâm thủy hỏa cùng ký tế, ngư thủy hòa đồng; âm dương can chi cùng tương hợp, quân thần khánh hội. Nghe Phượng hót ở đồi cao, tất ưng truyền ở chiến trường. Là vậy. Như Giáp Thìn, Mậu Thìn, Kỷ Tị, Tân Mùi, ngày Kỷ được Giáp là Chính Quan, tháng 3 thông khí, dẫn tới trên Mùi, là kiêm Chính Ấn, cho nên chủ nhất quán. Như Mậu Thân, Canh Thân, Quý Hợi, Mậu Ngọ, Quý sinh tháng 7, Ấn vượng đất Thiên Đức, hợp Mậu là Quan, dẫn tới giờ Ngọ đất hỏa vượng, lại có thể giúp Quan Mậu thổ, Quan cùng thân đều vượng, cho nên chủ đại quý. )
Củng Quý, củng Lộc là làm tướng, kỵ hình xung điền thực là hung.
(Chỗ này là Củng Quý, Củng Lộc cách vậy. Nghĩa văn《 Hỉ Kỵ thiên 》như nhau. Như Đinh Tị, Bính Ngọ, Giáp Dần, Giáp Tý, là Củng Sửu Quý. Như Nhâm Tý, Đinh Mùi, Đinh Tị, Đinh Mùi, chi năm có chữ Tý xung xuất chữ Ngọ, cho nên đại quý. Như Quý Mão, Canh Thân, Mậu Thìn, Mậu Ngọ, là Củng Tị Lộc. Như Tân Sửu, Tân Sửu, Giáp Dần, Giáp Tý, có chữ Sửu là Điền thực, lại lấy Tân là Chính Quan luận. Như Kỷ Mùi, Mậu Thìn,Mậu Dần, Mậu Ngọ, Quan Sát nhiều, chữ Dần xung Thân là xung khai, thì Củng không thành. Như Nhâm Thìn, Mậu Thân, Kỷ Mùi, Kỷ Tị, là cách này vậy, cho nên đại quý. )
Quan Ấn ám hợp thiên địa, quý có thể biết. Phúc Đức ẩn ở trong chi, Đức càng tụ.
(Quan Ấn ám hợp, tức là Thực thần ám hợp Chính Quan, Thiên Tài ám hợp Chính Ấn. Như Giáp dụng Tân là Quan, Bính thịnh có thể ám hợp Tân Mùi là Quan. Dụng Quý là Ấn; Mậu vượng vị trí ám hợp Quý Sửu là Ấn; thêm đắc địa chi có Tý hợp Sửu. Có Ngọ hợp Mùi mới đúng. Phúc Đức ẩn tàng, Phúc tức là Phúc tinh quý; Đức tức là Thiên Nguyệt Đức hoặc là chỉ Phúc Đức tú khí, hoặc là chỉ Thiên Ất Quý nhân, lấy tàng ở trong chi là vi diệu. Như Giáp Mậu Canh không thấy Sửu Mùi, nhưng được chữ Kỷ là đúng. Kiến Kỷ ở cung Sửu Mùi càng tốt. Trụ không có Mão Ất phá, lại sinh tháng tứ quý, Kỷ thổ đắc lệnh, chủ quý nhân kiến hỉ, tiền trình tôn hiển. Thê hiền cùng được Thê tài. Lại nói: Người Giáp thấy Sửu, hỉ tọa Dương Nhận, là Thiên Ất đương chức, kiến Mùi sinh ban đêm là đắc lực, là phúc thập toàn. Trái lại chỗ này, luận chỉ một nửa. Tứ trụ mang đủ Giáp Mậu Canh, được Ất Sửu là tụ quý, càng thêm phúc lực. Nếu 1 Canh, 1 Giáp, thấy chi thần có 3, 4 Sửu Mùi, là hội quý, cũng thêm phúc lực. Nếu Bản Chủ cùng Quý nhân đều sinh vượng, chỉ cần một chữ, phúc tự có đủ. Hỉ tam hợp, lục hợp, kỵ hưu tù, Không, phá. Thơ viết: Quý nhân Đế tọa kiến sinh thành, ở đất Quan vượng sớm thành danh. Nếu gặp hưu tù cùng phá chế; hư danh tung tích xa Tam Công. )
Ngũ hành chính quý, sợ chi thần hình xung khắc hại. Tứ trụ cát thần, hỉ đất Quan vượng sinh hợp.
(Ngũ hành chính quý, là Quan tinh chính khí. Như Giáp sinh tháng Dậu. Rất sợ Dậu hình Mão xung, Đinh khắc Tuất hại, tổn thương quý khí. Hoặc lấy Quý là quý thần, như Giáp kiến Sửu, trong Sửu có Tân, lại là Chính Quan của Giáp. Trụ có Mão Ất khắc phá Sửu quý, hỉ Tị Dậu tam hợp, Ất mộc xung khắc, Sửu không quý. Hoặc có Tý hợp Sửu cũng được. Khắc ngăn cách mộc, như có Ất Mão, Tý Mão tương hình, không thể khắc Sửu Mùi, là Thiên Ất quý. Tứ trụ cát thần, là Quan Ấn, Tài Thực, quý, loại tinh Phúc Đức là đúng. Nếu được một tinh lâm vị trí trường sinh, đế vượng, lâm quan, chính khố, tam hợp, lục hợp thì không có không phú quý. Thơ viết:Nhân mệnh sinh giờ được một cường, ngày giờ hoặc lâm đất Lộc Mã, cần xem trước sau hợp phù trợ, tất nhiên y cẩm nhập trung đường. 《 Hỉ Kỵ thiên 》 nói: Ngũ hành chính quý, kỵ cung hình xung phá hại; can chi tứ trụ, hỉ đất tam hợp, lục hợp. Lại nói: Địa chi, thiên can nhiều hợp. Cũng nói là Thực hợp vong Quan. Cả hai nghĩa cần hợp lại luận. )
Nếu cũng Mộc dục phùng Sát, hồn phách hướng Phong đô; Nguyên tái phạm Thương, hồn quy Nhạc phủ.
(Chỗ này là do hình xung khắc hại mà nói. Sợ Lỏa Hình phùng Sát, lấy sinh nhẹ, mà khắc thì nặng. Nguyên mệnh phạm, là lấy không cát. Tuế vận tái phạm, quyết chết không sai. Như nguyên phạm Quan Sát, khử không xứng thanh, trụ không có Thực thần giải cứu, tuế vận lại thấy thì chết. Nếu nguyên phạm phá Ấn, tái phạm lưu niên thì chết. Phàm dụng thần có tổn hại, đều như vậy. 4 câu này, bản văn của 《 Lạc Lục Tử 》. )
Sợ Sát phùng Sát thì yểu, lo Quan lạc Quan là vong.
(Chỗ này cũng từ ở trên mà trình bày vậy. Trong trụ vốn sợ Quan Sát, như Giáp kiến Canh Thân là Sát, tuế vận lại thấy, trụ không có cứu giải, là yểu. Năm Sát càng nặng. Có Ấn thì hóa, có Thực thì chế, có Nhận thì hợp, thân vượng thì đối địch, nếu hành vận Sát vượng, cũng yểu. Lại như, ngày Giáp thấy Thìn, là số cực dương, lại là Thiết Xà Quan. Nhâm thấy Sửu, Canh kiến Tuất, Bính kiến Mùi Thân, đều là Dương quan, viết là nặng. Ất kiến Thìn, Quý kiến Sửu, Tân kiến Tuất, Đinh kiến Mùi Thân, là Âm quan, hơi nhẹ. Tứ trụ phạm lưu niên lại phạm, vận hành hưu tù, là chết. Hoặc bị Thần Sát Quỷ tặc, hoặc viết danh Quan Sát rất nhiều, không nói thẳng là Dương quan Thất Sát vậy. Đã nói rõ ở trước phần luận 《 Thọ yểu cùng Tiểu Nhi Quan Sát 》. )
Dẫn hợp Quan Sát gặp thương thân, Trung Hạ diệt tuyệt là yểu thọ.
(Dẫn hợp Quan Sát, như Bính hỏa đã nhược, lại thấy Tân Mùi, Bính Tân đã hợp Bính đến Tân Quan. Vị trí Mùi, là Bính cực Dương Quan (chữ Quan ở đây là cửa quan, chứ không phải là Quan tinh), lại bị Nhâm đến khắc là chết. Hoặc là Tân Hợi Sát địa càng khẩn, lại phạm điều hung dữ. Như Bính Tuất, Đinh Dậu, Tân Dậu, Ất Mùi, năm Nhâm Thân chết vậy. Trung Hạ diệt tuyệt, như ngày Nhâm Tuất là tọa Tài, lại tọa Sát, chi ngày có là thọ. Hành vận Nhâm Thìn, Nhâm Quý thủy tụ ở Thìn, khắc phá hoả thổ ở trong Tuất, không còn có thể cứu là yểu. Danh này gọi là Đảo xung nguyên mệnh. Thổ vượng thì thủy vượng, bản thân thổ tự sụp đổ, sau mà có cứu ? Thủy vượng thì hỏa diệt, cho nên nói Trung Hạ tuyệt diệt. Trung Hạ, tức là Địa nguyên, Nhân nguyên. Là ranh giới Trung Hạ vậy. Còn lại cứ loại suy từ chỗ này. )
Thương quan kiến Quan, họa hoạn bách đoan. Trục Mã phùng Mã, lao khổ thiên bàn.
(Chỗ này nói độc phạm chỗ kỵ, cho nên không cát. Thương quan kiến Quan, duy chỉ có Tài tinh có thể giải độc Thương, khuyến khích Quan phẫn nộ, chuyển họa thành cát. Trục Mã phùng Mã, duy chỉ có Quan Sát có thể chế Kiếp Nhận, tuy lao khổ cũng có được tài. Nếu nhiều Tỉ kiên, là nó cường ta nhược, tuy là giảm hao, cũng có được tài. Không được quân bình, một chỉ có 3, 4 phần mà thôi. )
Tài phùng Dương Nhận lấy nhiều tổn thương, Ấn thấy Thê Tài mà không phá.
(Nghĩa chỗ này cũng giống đoạn văn ở trên. Phàm mệnh, tối kỵ Dương Nhận, Tài cách bị phá, Ấn cách bị đoạt, Quan cách xung nộ. Chỉ có hỉ Thất Sát chế. Âm Nhận lực là không ngại. Ấn thấy Thê Tài, là nói Tham Tài phôi Ấn vậy. Tuế vận lại thấy, chủ phá tài thương thê, hoặc vì vợ mà dẫn đến kiện tụng. Nếu nguyên mệnh không có Tài tinh, hoặc lực Tài tinh nhỏ, tuế vận thấy, là hơi nhẹ. Duy chỉ có Quan Sát tiến sinh khuyên giải, lại được tiến cử thành danh. )
Thực thần gặp ít, không Tài là yểu. Thân nhược có Tài, trọng phùng Chính Ấn, cũng hung. Chế Sát phùng Ấn, có xung thì phạt. Mệnh cường không có Quan, đơn phùng Thất Sát càng thắng.
(《 Hỉ Kỵ thiên》 nói: Trong trụ toàn gặp Thất Sát, thân nhược cực bần không có đất. Là nghĩa này vậy. )
Tam hình đối xung phát sinh hoành họa, Dương Nhận đối hợp không đến tai ương. Mộc dục tòng sinh không có nhà khách, hưu tù kiến Sát không chôn người.
(Mộc dục, hưu tù, đều là thân suy vậy. Tòng sinh thì phiếm, kiến Sát thì hại. )
Kiếp Tài dưới tháng chủ vô tài, hỉ Sát không có Ấn mà có thu hoạch.
(Sát có thể chế Nhận, Ấn có thể hóa Sát. Hóa thì không thể chế Nhận, cho nên hỉ Sát mà bỏ Ấn. )
Ám trung phá Ấn thân phá Ấn, hỉ Quan không Thực lấy gia phong.
(Tài có thể phá Ấn, Quan có thể sinh Ấn. Có Thực thì phá Quan sinh Tài, Ấn càng thụ thương, cho nên hỉ Quan mà bỏ Thực. )
Quan Sát hỗn tạp thì bệnh hoạn, huynh đệ quá nhiều thì phân tán. Hỉ Ấn không chế là có văn, hỉ chế không Ấn là có vũ. Chế Ấn đều có, lao lục khó thành.
(Ấn có thể hóa Sát, Thực có thể chế Sát. Là có hóa thì không nên chế. Có chế thì chớ hóa. Chế hóa quá nhiều, thì Sát vô khí, trái lại là không cát. Dương Nhận toàn dựa vào Sát chế, hoặc hóa làm Ấn thụ, như ngày Mậu tháng Ngọ. Là chế hóa chỉ dụng một, đều có thể có thành tựu. )
Lộc Mã bối trục là cơ hàn, Tài Ấn tương phá là trói túi. Hỉ Quan mang Sát thành quyền, thích Sát mang Quan là quý. Quan Sát đơn kiến, vụn vặt không thành.
(Bối trục Lộc Mã, Tài Ấn tương phá, tu nhiều Quan Sát, mới có thể chế Tỉ Kiếp mà sinh Tài, sinh Ấn thụ mà hóa Tài. Đơn kiến thì lực bạc nhược, sao mà toại ý? )
Kiêu Ấn hỗn tạp là lấy nhục, Tài Mã quá nhiều là cướp khí. Hỉ thân vượng mà thành phúc, kỵ vận nhược là sinh tai.
(Thiên Chính nhị Ấn hỗn tạp, Thiên Chính nhị Tài đều có. Nếu thân nhược không thể sinh song thành, cùng thụ Tài, trung gian phải phân Thiên Chính cường nhược. Nếu Thiên Ấn Thiên Tài cường, thân vượng vận cường, tất nhiên phát phúc. Chính Ấn Chính Tài cũng vậy. )
Quan Lộc khắc phá là yểu tử, Khố Mộ xung tán là không cơm. Kỵ trọng phá mà vô y, hỉ Tỉ kiên mà có cứu.
(Quan, là Quan tinh. Lộc, là Chính Lộc. Như Giáp kiến Tân Dần, lại kiến Canh Thân, cùng Tị cùng Ngọ, tuế vận lại thấy, là yểu. Nếu thân vượng, có Tỉ kiên, cũng có thể lấy vượng luận. Lại như, Giáp lấy Sửu là Quan khố, phải gặp chữ Mùi xung khai, dụng Mùi không thể thấy 2 Sửu. Có Sửu không thể thấy 2 Mùi. Lại kỵ Đinh Sửu, Đinh Mùi, Đinh làm tổn thương Tân Quan. Thấy Quý Mùi, Quý Sửu, Quý thủy có thể chế Đinh hỏa. Kỷ Sửu, Kỷ Mùi. Kỷ thổ có thể sinh Tân Quan. Kỷ là Tài của Giáp, Quý là Ấn của Giáp, Bính là Thực của Giáp, can chi sinh vượng không có phá là phú quý. Nếu thấy xung khắc, thì giảm nửa phần. Xung khắc quá nặng, trái lại là bần cùng.
Bên trên đưa lẫn lộn Tài Quan Ấn thụ, Thực thần Thương quan, Quan Sát Dương Nhận, Tỉ kiên Kiêu thần. Kỵ nhau cần nhau, chế nhau hợp nhau, nói qua lại, xem chỗ dụng thần như thế nào. Nhật can cường nhược như thế nào. Kinh nói: Nhật chủ tối cần kiện vượng, dụng thần không thể tổn thương. Vì vậy nói đơn giản mà vô tận vậy. )
Kiếp Tài Dương Nhận, thiết kỵ giờ gặp. Tuế vận cùng lâm, tai ương lập tức đến. Tuế xung Vận thì sụp, Vận khắc Tuế thì trốn tránh.
(Dưới chỗ này là chuyên luận Tuế Vận. Tuế, là chỗ Thiên đóng, Vận, là chỗ địa chi tải. Tuế Vận cả hai không thể xung kích nhau, nặng thì sụp đổ, nhẹ thì trốn tránh. Trong mệnh cần nhất là trung hòa, thì Thiên Địa hanh thái, phúc lộc tự đến. Thái tuế xung Vận, họa nặng; Vận khắc Thái tuế, thì họa nhẹ.
Khảo sát thuyết trong《 Uyên Nguyên, Uyên Hải 》, chỉ lấy Vận khắc Tuế là nặng, Tuế khắc Vận là nhẹ, tức nghĩa là ngày phạm Tuế quân vậy. Nghiệm xét mệnh của tôi, hành vận Đinh Tị, gặp lưu niên Quý Hợi, Quý hại Đinh Hợi xung Tị, là Tuế xung Vận vậy. Năm này gặp bãi quan tang mẹ, rước họa thê thảm, ví dụ xem rất lợi hại vậy. )
Âm khí hết mà Dương khí đoạn, không chết mà nhận than thở. Số cực dương mà truy âm mệnh, đợi bất trở gì?
(Giáp kiến Thìn, Bính kiến Mùi, Mậu kiến Sửu, Canh kiến Tuất, Nhâm kiến Sửu, là khí cực dương. Ất kiến Tuất, Đinh kiến Sửu Tị, Quý kiến Mùi, Tân kiến Thìn, là số cực âm. Tuế Vận thấy càng hung. Lại nói: Ất Thìn, Đinh Mùi, Kỷ Sửu, Tân Tuất, cũng là đến truy âm phù, trước đoán số dương, nếu chỉ lúc sinh, tứ trụ không có hại. Rất sợ sinh phạm, tuế vận lại thấy, lập tức chết. Lại nói: Âm can gặp cực dương, là Âm gặp Dương quan; can dương gặp ở cực âm, là Dương gặp Âm quan. Thân nhược lực yếu đều yểu; thân vượng được Tỉ kiên đảng trợ, thì vô hại. )
Ngũ hành có cứu, nên lo không lo; Bốn mùa phùng Không, nghe hỉ không hỉ.
(Là nói nhân mệnh gặp tuế vận là hung. Bên trên nói xung khắc, hết khí, là loại cực số, như ngũ hành có cứu, thì lúc lo mà không lo. Bốn mùa phùng Không, là lưu niên thái tuế gặp cát thần, lại gặp Không Vong, thì nói nghe hỉ mà không hỉ. Hoặc viết: Giáp sợ Canh, được Ất có thể cứu; xuân không có thổ, không sợ thổ làm hung, không hỉ thổ là phúc. 《 Kinh 》 nói: Canh Tân đến hại Giáp Ất, Bính Đinh thấy trước là không có nguy. Lại nói: Xuân không có thổ, hạ không có kim, thu không có mộc, đông không có hỏa là vậy. Bên dưới có luận 12 câu phụ nữ, để dẫn chuyên luận phụ nữ. Cho nên không ghi nữa. )
Là lấy âm dương hãn trắc, không thể một đường mà suy; quý tiện khó phân, phải cầm hai đầu mà đoán. Lược cứu di văn cổ thánh, ước lấy nghiên tường kim hiền. Nếu tuân theo phép này mà ngộ, giám mệnh để không mắc sai lầm.
(Chỗ này là tổng kết nghĩa của các cách ở trên. Bên trên chỉ ra nhiều cách, đều luận ở các quyển trước, cho nên khônng chú giải thêm. 《 Hỉ Kỵ thiên cùng Kế Thiện thiên 》, là theo bài phú biến hóa mà ra, người ngày nay nếu không có hai chương này, là không biết có phú này. Cho nên ghi lại vậy. )
Hỉ kỵ thiên
Tứ trụ bài định, Tam Tài thứ phân. Chuyên dĩ nhật thượng Thiên nguyên, phối hợp bát tự can chi, chi trung hữu kiến bất kiến chi hình, vô thời bất hữu.
Phàm xem mệnh, trước tiên xem tứ trụ năm tháng ngày giờ, thứ đến phân ra Thiên, Địa, Nhân tam nguyên. Can là Thiên nguyên, Chi là Địa nguyên. Lấy bên trong chỗ tàng của địa chi là Nhân nguyên. Năm là gốc căn bản, tháng là đề cương, ngày là mệnh chủ, giờ là phân dã. Cho nên lấy thiên nguyên nhật chủ phối hợp, lấy kỳ Quan quý, Tài Ấn, Quỷ bại, Thương tranh. Việc này luận can chi bát tự có thấy hay không thấy hiện ra. Tạo ra sinh, vượng, chế, khắc, suy, tuyệt, chỉ là do bên trong sở tàng ở địa chi mà tạo ra vậy, không có thì không có thời. Trong Tứ quý có mộ, tuyệt thuộc dư khí, ngũ hành hưu vượng mà phối hợp với sinh tử, hình xung khắc phá mà biến hóa vậy. Hoặc tam hợp, lục hợp là đất quý hiển, tuy có Lộc Mã, Thê tài , Tử tôn, Phụ mẫu, Huynh đệ, đều là thấy hay không thấy hiện ra, không có thời mà không có vậy.
Thần Sát tương bạn, khinh trọng giác lượng.
Thần là Quý nhân vậy. Sát là Thất Sát vậy. Nếu Thần Sát hỗn tạp, xem tiết khí nông hay sâu, hoặc có khứ Quan lưu Sát, hoặc có khứ Sát lưu Quan, tứ trụ hoặc tuế vận cũng cần biết nặng, nhẹ mà đo lường vậy.
Như là Giờ gặp Thất Sát, thấy chưa chắc là hung. Tháng chế can cường, Thất Sát trái lại thành quyền ấn.
Việc này là luận Thời thượng nhất vị quý cách, chỉ dụng một vị, phương có thể thành quý. Vị trí khác không cần thấy tiếp. Bắt đầu là thanh quý. Như năm tháng ở bên trên lại thấy tiếp thì trái lại là mệnh sớm bị gian khổ. Cần có nhật can sinh vượng, không sợ hình thương, gặp Dương Nhận là người có tính cách nặng kiên cường, câu chấp, bất khuất, như trong tứ trụ gốc có chế phục, lại cần có hành vận Quan vượng, tất nhiên về sau có thể phát phúc, lại không có thể nói chuyên chế phục, quý là ở được đạo trung hòa, chính là nói Tận pháp vô dân. Giả như [ Giáp Thân, Bính Dần, Ất Mão, Tân Tị ], mệnh này chuyên dụng nhật can vượng, thời thượng Thiên Quan, Nguyệt thượng chế phục, mệnh này vốn là của Sử Di Viễn Vệ Vương vậy. [ Nhâm Tý, Canh Tuất, Mậu Tuất, Giáp Dần ], thời thượng Thiên Quan, Nguyệt thượng chế phục, hành Bính Dần vận Đông phương, tay trắng phát tài thành gia. [ Canh Tý, Mậu Tý, Mậu Thân, Giáp Dần ], thời thượng Thiên Quan, Niên thượng chế phục, thiếu niên đăng đệ, làm quan đến chức Thượng Thư, chính là bát tự của Lý Như Khuê vậy.
Tài Quan Ấn thụ toàn bị, tàng súc vu tứ quý chi trung.
Chỗ này luận Tạp khí Tài Quan Ấn thụ cách. Tứ Quý là Thìn Tuất Sửu Mùi vậy, chính là khí của trời đất không thuần chính, là tạp khí vậy. Cái Thìn bên trong có dư khí Ất mộc, là mộ khố của Nhâm Quý, có Mậu Kỷ là xác định địa vị, Thìn Tuất Sửu Mùi đều tùy theo chỗ khí tàng mà nói. Bốn vị này là tích trữ ẩn chứa tạp khí, là Quan tinh, Tài khí, Lộc Mã, Ấn thụ của ta vậy. Cần phải xem tứ trụ có thiên nguyên thấu xuất chữ nào là phúc, thứ đến phân ra tiết khí nông sâu. Như Sát vượng Quan thiếu, cần có chế phục, không hỉ Tài, nếu chủ vượng tương xung cần có hành Tài vận Khố vượng, đại để là đất tụ phúc, không thể bị phá thương, như không có chỗ kỵ, thì đại phát tài.
Giả như [ Bính Tuất, Mậu Tuất, Giáp Ngọ, Kỷ Tị ], là Tạp khí Tài Quan cách. Mệnh này dụng Tân Quan, Kỷ là Tài, trong Tuất có Tân kim dư khí, Mậu Kỷ thổ là Tài, là mệnh Sử Thái Sư Việt Vương. [ Tân Sửu, Nhâm Thìn,Bính Tuất, Ất Mùi ], bát tự này là mệnh của Thiệu Mân. Hành Quan Ấn vận, thiếu niên sớm đăng khoa, làm quan đến Ngự Sử. [ Tân Mùi, Tân Sửu, Canh Tuất, Canh Thìn ], bát tự này cũng có đủ Thìn Tuất Sửu Mùi, sao mà Tỉ Kiếp nhiều, lại là Thổ trọng Kim mai, hành Dậu vận thân vượng, là đất quay lưng lại đuổi đi, cho nên chỉ là người phụ trách văn thư, công danh không thành, cuối cùng bản thân góa vợ, cô độc.
Quan tinh Tài khí trường sinh, trấn cư vu Dần Thân Tị Hợi.
Chỗ này là Tài Quan sinh vượng ở Tứ Mạnh: Dần Thân Tị Hợi, chính là ngũ hành gặp đất Trường sinh. Như [ Nhâm Thân, Tân Hợi, Kỷ Tị, Bính Dần ], mệnh này trước vinh sau nhục, Kỷ dụng Giáp là Quan, trong Hợi có Giáp mộc Trường sinh, Kỷ dụng Nhâm là Tài, trong Thân có Nhâm thủy Trường sinh, Kỷ dụng Bính là Ấn thụ, trong Dần có Bính hỏa Trường sinh, trong Tị có Canh kim Trường sinh, là cách cục Tứ mạnh. [ Nhâm Dần, Ất Tị, Quý Hợi, Canh Thân ], bát tự này ban đầu hành đến vận Bính Ngọ, Đinh Mùi là vận tốt, vừa đến Dậu Tuất Hợi, trong Tị có Bính Mậu Tài Quan tử ở Dậu, dụng thần bị tổn thương, gia đình tiêu tan, vợ con đều không còn nữa.
Canh thân thời phùng Mậu nhật, danh Thực Thần can vượng chi phương. Tuế Nguyệt phạm Giáp Bính Dần Mão, thử nãi Ngộ nhi bất Ngộ.
Chỗ này chính là Thực thần chuyên vượng cách. Mậu lấy Canh là Thực thần, ở trong có Canh kim Kiến Lộc, Mậu thổ dụng thủy là Tài, trong Thân có thủy Trường sinh, chính là Tài vượng vậy. Hoặc dụng Ất là Quan tinh, càng có thể hợp Mão trong có Ất mộc, thành Mậu thổ quan quý khí. Như tứ trụ thấu xuất Giáp Bính Dần Mão bốn chữ, thì phá mất Thân trong có Canh là quý khí, chỗ này chính là Ngộ nhi bất Ngộ (gặp mà không gặp) vậy. [ Bính Tý, Kỷ Hợi, Mậu Thìn, Canh Thân ], bát tự này chính là cả đời thành nhân viên đích xác, do lộ mất chữ Bính, nhưng phải đọc sách nhiều lần, năm Canh Tý bắt đầu cống nạp, vận hành Giáp Thìn thủy thổ khố ở Thìn, dụng thần nhập mộ, chết ở Bắc Kinh.
Nguyệt sinh nhật can vô Thiên Tài, nãi Ấn thụ chi danh.
Chỗ này chính là luận Ấn thụ cách, vốn là thập Can sinh Ta vậy. Là Phụ mẫu, là khí sinh Ta, lại có thể Quan tinh hộ Ta, cho nên Ấn thụ không có lo sợ Thương quan. Chủ yếu là sinh vượng, kỵ tử tuyệt, như trong tứ trụ gốc có Quan tinh thì càng tốt, kỵ gặp Tài vận. Như hành Quan vận thì phát, nếu hành đến đất Tài vượng là Tham Tài phôi Ấn, tai họa trăm điều, hành vận tử tuyệt phải chết.
Nhật Lộc cư thời một Quan tinh, hào Thanh vân đắc lộ.
Chỗ này luận Quy Lộc cách, trong tứ trụ cần không có một điểm Quan tinh thì mới thành cách này, tên gọi là Thanh vân đắc lộ. Cần nhất là nhật can sinh vượng, kiêm hành đến đất Thực thần, Thương Quan là có thể phát phúc.
Nhưng Quy Lộc có 6 điều kỵ:
(1) Có Xung hình,
(2) Có xảy ra hợp,
(3) Có Đảo Thực,
(4) Có Quan tinh,
(5) Có thiên can tháng, ngày giống nhau,
(6) Có thiên can năm, tháng giống nhau.
Phạm 6 điều này thì không thể lấy thành quý vậy.
Giả như: [ Giáp Tý, Bính Tý, Quý Sửu, Nhâm Tý ], mệnh này là Trương Thống Lĩnh, chính là có chữ Tý nhiều mà tụ thành phúc quy về Lộc. [ Giáp Tý, Đinh Sửu, Ất Sửu, Kỷ Mão ], mệnh này là Thái Văn Huy, thuật sĩ đều đồng ý mệnh này nhờ đọc sách mà có công danh, sau học nghề thầy thuốc, hành vận Tân Tị, năm Canh Tý mất Lộc, chỗ này không phải là Nhật Lộc quy thời. 《 Độc Bộ nói 》: "Ất mộc vô căn, sinh lâm sửu nguyệt. Kim đa chuyển quý, hỏa thổ tắc chiết."
Dương thủy điệp phùng Thìn vị, thị Nhâm kỵ Long bối chi hương.
Như người sinh ngày Nhâm Thìn, gặp chữ Thìn nhiều là quý, chữ Dần nhiều là phú. Cái Nhâm lấy Kỷ thổ là Quan tinh, Đinh hỏa là Tài tinh, Thìn Tị cùng xung Tuất trong có Quan khố, cho nên quý vậy. Chữ Dần nhiều, có thể hợp Ngọ trong có Tài, cho nên phú vậy. [ Bính Tý, Giáp Ngọ, Nhâm Thìn, Giáp Thìn ], mệnh này cả đời viên thành, thuật sĩ thấy rõ là thiếu niên sớm thuận lợi trong thi cử, đều lấy là Nhâm kỵ long bối cách, đồng ý là có thể kham nổi làm quan. Tôi ( tác giả) thì lấy Tài cách xem, vận Mùi Dậu Tuất vận chưa tốt, đến đây quả quyết là mất lộc, mà không có con cháu nối dõi.
Âm mộc độc ngộ Tý thời, vi Lục Ất Thử quý chi địa.
Cách này là rất sợ chữ Ngọ xung giờ Bính Tý, chữ Tý nhiều là tốt, gọi là Tụ quý vậy. Hoặc trong tứ trụ có chữ Canh, chữ Tân, chữ Dậu, chữ Sửu bên trong đều có Canh Tân kim, thì giảm điểm số, Tuế quân, Đại vận cũng vậy. Như Nguyệt bên trong có Quan tinh, thì không dụng cách này. Nếu trong tứ trụ gốc không có Quan tinh, phương dụng cách này. [Đinh Mão, Nhâm Tý, Ất Tị, Bính Tý ], chỗ này đều là dựa vào bát tự, thuật sĩ gọi làLục Ất Thử quý, đồng ý có công danh, hành Thân vận phục vụ rất được ở Bắc Kinh, đến Mùi vận thì công việc bị đình lại. Chỗ này tốt nhất là lấy Ấn xem.
Canh nhật toàn phùng Nhuận hạ, kỵ Nhâm Quý Tị Ngọ chi phương. Thời ngộ Tý Thân, kỳ phúc giảm bán.
Việc này luận là Tỉnh lan xoa cách. Chỗ này là ngày Canh Thân, Canh Thìn, Canh Tý, ba Canh mà thủy cục là quý. Sao vậy? Cái Canh dụng Đinh làm Quan mà Tý xung Ngọ, Canh dụng mộc là Tài mà Thân xung Dần, Tuất trong có Mậu thổ là Ấn của Canh mà có Thìn xung, lại có Thìn Tuất là Tài Ấn, cho nên lấy Thân Tý Thìn là Tam xoa (ba cái xiên ngang) đến xung Dần Ngọ Tuất là Tài Quan Ấn thụ. Như trong tứ trụ dụng Thân Tý Thìn đủ là quý, không chỉ có Canh kim, được tam Canh đủ thì càng tốt, hoặc Mậu Tý, Bính Thìn cũng không ngại. Hỉ hành Đông phương Tài địa, Bắc phương Thương Quan, Nam phương hỏa địa không thành quý, việc này chính là phương Nhâm Quý Tị Ngọ vậy.
Giả như: [ Canh Tý, Canh Thìn, Canh Thân, Đinh Sửu ], mệnh này là Vương Đô Thống Chế, Đinh Sửu xuất ra bên cạnh, được 14 quan dưới cấp; [ Canh Thân, Mậu Tý, Canh Thìn, Bính Tuất ], bát tự này cả đời cũng quá vâng chịu, sau nói hầu hạ cha, riêng sau đó cũng phát tài một chút mà không quý. Sao vậy? vì sinh Giang Nam thì làm cây Quất, sinh Giang Bắc thì làm cây Gai, là do đất nơi sinh ra vậy.
Nhược phùng Thương quan nguyệt kiến, như hung xử vị tất giai hung.
Việc này luận Thương Quan cách. Phép coi Thương Quan ắt phải cần thương tận, mà không thành họa. Tứ trụ như gốc có Quan tinh, thì thương tổn càng nặng, gốc không có Quan tinh, thương tổn thì nhẹ. Như tam hợp, hội khởi Sát cùng Thương quan, cùng với vận hành đất Thương Quan, thì họa không thể nói vậy. Cho nên, Thương Quan kiến Quan, là họa trăm điều. Như can năm gánh nhận sinh mệnh, có Thương Quan, Thất Sát là họa rất nặng, gọi là Phúc cơ thụ thương, cuối cùng không có thể trừ khứ, nếu Nguyệt Thời thượng thấy đất Thương Quan, có thể phát phúc. Như mệnh Nữ nhân có Thương Quan thì chủ khắc phu, nếu thấy hợp nhiều thì là Ti tiện, không làm kỷ nữ cũng là dâm loạn, không phải nô tỳ thì là sư ni. Sao vậy? Thương quan là thương phu. Nếu trong tứ trụ có Tài đến hợp khứ, không phải là phụ nữ hiền lành vậy. [ Kỷ Mão, Quý Dậu, Mậu Dần, Canh Thân ], địa chi lục xung, lấy Mậu nhật, giờ Canh Thân là cách không thành, chỉ tốt là lấy Thương Quan xem, hành Nam phương vận, thi cử bình thường không có lợi, khắc vợ không có con cháu, Kỷ vận thì tốt.
Nội hữu Chính Đảo Lộc phi, kỵ Quan tinh diệc hiềm ky bán.
Bên trong có Chính đảo Lộc phi; chính là Đinh Tị được nhiều chữ Tị. Tị xung xuất Hợi trong có Nhâm thủy là Quan tinh, chính là Chính Phi thiên Lộc Mã cách vậy. Nếu Tân nhật được chữ Hợi nhiều, Hợi xung xuất Tị trong có Bính hỏa là Quan tinh, chính là Đảo phi thiên Lộc Mã vậy. Bên trong nếu có Nhâm Quý Thìn Tị, đều là Quan tinh bị trói buộc chân vậy, thì bị giảm điểm số, Tuế Vận cũng luận như vậy. Nhâm Thìn, Tân Hợi, Quý Hợi, Quý Hợi, bát tự của Đô Đường Vương, là Đảo phi thiên lộc mã cách. Mậu Dần, Quý Hợi, Quý Hợi, Quý Hợi, bát tự này chính là người ăn mày, lộ xuất chữ Mậu là Quan tinh, vì thế thành hạ mệnh vậy.
Lục Quý nhật, thời phùng Dần vị, tuế nguyệt phạ Mậu Kỷ nhị phương,
Chỗ này luận Hình Hợp cách. Lấy ngày Lục Quý làm chủ tinh, dụng Mậu thổ là chính khí Quan tinh, hỉ gặp giờ Giáp Dần, dụng Tị trong có Mậu thổ, Quý nhật đắc Quan tinh, như Canh Dần hình thể không thành, suy ra giờ Giáp Dần, vốn là hành vận cùng Phi thiên lộc mã giống nhau. Sợ trong tứ trụ có chữ Mậu chữ Kỷ, lại sợ Canh Dần đả thương chữ Giáp hình phá con, kỵ chữ Thân, kỹ càng mà suy ra. Giả như Quý Dậu, Tân Dậu, Quý Mão, Giáp Dần, mệnh này là Lâu Tham Chính. Kỷ Mão, Ất Hợi, Quý Mùi, Giáp Dần, bát tự này có Niên thượng lộ xuất chữ Kỷ, cho nên công danh lận đận, liên tục khoa thi hỏng.
Giáp Tý nhật tái ngộ Tý thời, úy Canh Tân Thân Dậu Sửu Ngọ.
Chỗ này luận là Tý Diêu Tị cách. Giáp dụng Tân Quan. Tân lộc ở Dậu, hai chữ là Ấn thụ của Giáp mộc, hợp xa Tị trong có Bính Mậu, hợp động Dậu trong có Tân, là Quan của Giáp. Mộc hỉ tháng là Nhâm Quý Hợi Tý, kỵ Canh Tân Thân Dậu, chính là kim đến tổn thương Giáp mộc, Ngọ đến xung Tý, Tý Sửu hợp trói buộc, thì không thể khứ hợp xa vậy. Giả như Canh Thân, Giáp Tuất, Giáp Tý, Giáp Tý, mệnh này chính là La Ngự Sử, tuy nhiên là Diêu Tị, nhưng mà Niên thượng có Canh Thân, xung khắc Giáp vận, hành Mậu Dần, Dần hình Tị, trái lại thành họa, năm Ất Sửu bãi quan. Quý Sửu, Kỷ Mùi, Giáp Tý, Giáp Tý, bát tự này chính là một người thích đánh bạc. Gia nghiệp làm sạch, bên trong sợ Canh Tân Thân Dậu Sửu Ngọ, chỗ này chi năm chính lộ xuất chữ Sửu, hành Đông phương gặp đất Lộc bại, cho nên bần cùng.
Tân Quý nhật đa phùng Sửu địa, bất hỉ Quan tinh. Tuế thời phùng Tý Tị nhị cung, hư lợi hư danh.
Chỗ này luận là Sửu diêu Tị cách. Chỉ có hai ngày Tân Sửu, Quý Sửu có thể dụng, nhưng trong tứ trụ cần không có một điểm Quan tinh, phương dụng cách này. Cái Tân dụng Bính Quan, Quý dụng Mậu Quan. Bính Mậu lộc ở Tị. Duy chỉ có Sửu thì có thể Diêu Tị, Bính Mậu lộc xuất ra vậy. Không thích hợp Điền Thực vị trí Tị, chữ Tý hợp trói buộc không thể xa được, như Thân Dậu được một chữ là đẹp. Giả như Ất Sửu, Kỷ Sửu, Quý Sửu, Quý Sửu, chính là mệnh của Diệp Thị Lang. Lại có Đinh Sửu, Quý Sửu, Tân Sửu, Kỷ Sửu, mệnh này của Vương Thông Phán vậy. Quý Sửu, Ất Sửu, Quý Sửu, Quý Hợi, bát tự này tay trắng phát tài thành gia, chính là Sửu diêu Tị cách chân chính vậy.
Củng Lộc Củng Quý, Điền thực tắc hung.
Chỗ này luận Củng Quý Củng Lộc hai cách, chính là hai vị trí hư không là đất Củng quý lộc, tứ trụ không thể chiếm mất cung Quý Lộc, thì Điền thực không dung nạp vật, chỉ vì Quan tinh vinh hiển vậy. Kỳ Lộc Quý là so với vật dụng hưng thịnh, nếu trống rỗng thì có thể chứa đựng được vật, chính là Quý Lộc hiển vinh. Kinh nói: Quan sùng lộc hiển, xác định là đất Giáp lộc. Lại kỵ tổn thương mất ngày giờ, đều là không tạo điều kiện để dung nạp vật. Giả như Đinh Tị, Bính Ngọ, Giáp Dần, Giáp Tý, mệnh này là Vương Lang Trung, chỗ này là hai Giáp đến xen lẫn Sửu là quý khí bên trong, Sửu trong có Quý thủy là dư khí, Tân kim mộ khố, Kỷ thổ thừa vượng chính là Tài của Giáp mộc, cho nên không thành quý, về sau vận hành Tân Sửu loại trừ thông phán, nhập vận Canh Tý, Canh kim khắc Giáp mộc, lại là tháng Ngọ, xung phá Giáp Tý, Thiên Trung Sát tức là Không Vong, không được xen lẫn quý, làm mất quý nhân, phá hủy một ngày. Canh Tuất, Mậu Tý, Nhâm Thìn, Nhâm Dần, mệnh này chính là mang theo vật quý báu, 11 tuổi hành Canh Dần được cất lên, 19 tuổi năm Mậu Thìn được Thám Hoa, hành Tân Mão vận điền thực tốt.
Thời thượng Thiên Tài, biệt cung kỵ kiến.
Chỗ này luận Thời thượng Thiên Tài cách, lại có tên là Thời Mã cách, cùng với Thời Thượng Thiên Quan là giống nhau, dụng Thời thượng Thiên nguyên, cùng chi bên trong Nhân nguyên, chỉ cần Thời thượng có một vị thì mới thành quý, nếu có vị khác thì nhiều Tiện, khó lấy Thiên Tài mà luận, cần có thân vượng, không có khắc phá, nếu Tài vượng lập tức phát liền. Giả như Đinh Dậu, Kỷ Dậu, Mậu Tý, Nhâm Tý, là mệnh Thiệu Thống Chế vậy. Đinh Sửu, Kỷ Dậu, Đinh Sửu, Tân Hợi, bát tự này là Thời thượng Thiên Tài, chi tháng lại là Dậu Sửu hội cục, nói là thấy kỵ cung khác vậy, cho nên gia nghiệp bị phá hết.
Lục Tân nhật phùng Mậu Tý, hiềm Ngọ vị vận hỉ tây phương.
Chỗ này luận là Lục âm triều dương cách, Tân kim đến Hợi là đất Lục Âm, mà được giờ Tý, cho nên viết là Lục Âm hết một xứ Nhất dương sinh, cho nên nói là Lục âm triều dương cách, chính là nói Âm hết thì Dương đến. Tân dụng Bính Quan, Quý là Thọ tinh, chỉ cần có một vị trí chữ Tý, nếu nhiều thì không phải, hỉ can Mậu, Mậu đến hợp Quý, động Tị trong ám tàng Bính, Bính là Tân là Quan tinh. Trong Tứ trụ kỵ thấy Ngọ xung phá Tý lộc. Tây phương chính là kim vượng địa, cho nên là hỉ vậy, Đông phương đất Tài khí là thứ yếu, không nên hành Nam phương đất hỏa, Bắc phương đất thủy Thương Quan vậy.
Giả như Mậu Thìn, Canh Thân, Tân Mão, Mậu Tý, mệnh này là Tất Phủ Ngộ, vận hành Tây phương. Lại như Kỷ Mùi, Tân Mùi, Tân Mùi, Mậu Tý, mệnh này là Vương Quận Ngọc, vận hành Đông phương. Giáp Dần, Giáp Tuất, Tân Mão, Mậu Tý, mệnh này là Nhất Sinh Viên, thuật sĩ đều lấy là Lục Ấm triều dương cách mà suy ra, hành Đông phương vận phá gia, kiểm tra tuổi hỏi bổ sung lại, đến xem lại lấy Tham Tài phá Ấn mà luận.
Ngũ hành ngộ nguyệt chi Thiên Quan, tuế thời trung diệc nghi chế phục. Loại vi khứ Quan lưu Sát, diệc hữu khứ Sát lưu Quan, tứ trụ thuần tạp hữu chế, định cư nhất phẩm chi tôn. Lược kiến nhất vị Chính Quan, Quan Sát hỗn tạp phản tiện.
Chỗ này luận Thiên Quan, tức Thất Sát, như trong tứ trụ hoàn toàn không có một điểm Quan tinh, dụng Thất Sát là Thiên Quan. Nếu có Chính Quan, thì là Thất Sát là quỷ, chính là người hay tranh đoạt vậy, cho nên mới nói là hình thấy hay không. Cần nhất là Nhật can sinh vượng, cho nên hỉ thân vượng, sợ xung, hỉ Dương Nhận, chỉ cần có chế phục, không thích hợp tứ trụ thấy Chính Quan, có Huynh thì không hiển Đệ vậy. Hoặc trong tứ trụ phạm Tuế Vận, hoặc là khứ Quan lưu Sát sao vậy? là có thể được chế phục vậy. Nếu Quan Sát hỗn tạp, không thành thanh phúc, nếu chỉ có Thiên Quan Thất Sát là quý. Thất Sát là tiểu nhân, mà tiểu nhân thì nhiều hung bạo, không sợ kỵ chính là có thể lao động lấy để dưỡng người quân tử vậy. Đúng là không chỉ có không thuật lấy khống chế thì không thể thuần phục mà thành dụng vậy. Nếu trong tứ trụ gốc không có chế phục, cần hành vận chế phục. Trong Tứ trụ gốc có chế phục cần hành đến đất Sát vượng; nếu có chế phục lại hành vận có chế phục nữa thì gọi là Tận pháp vô dân vậy.
Giả như Kỷ Mùi, Ất Hợi, Bính Dần, Tân Mão, mệnh này Vương Chương Minh, chỗ này tháng là Thiên Quan bị chế phục ở Niên thượng, lại gồm cả Nhật tọa Trường sinh, lại vừa có mộc tam hợp, nhật chủ phùng quý, cho nên phát lộc, về sau gặp nhục hình không có áo quan tài để chôn, chỉ có hành vận ban đầu Nhâm Thân là khởi phúc.
Ất Dậu, Ất Dậu, Ất Dậu, Ất Dậu, hai người phụ nữ , bát tự giống nhau, một người thì cực quý, một người thì cực bần mà thọ, là sao vậy? Bởi vì mệnh phụ nữ, quý tiện là theo chồng vậy. Ất Dậu, Tân Tị, Ất Mão, Tân Tị, mệnh này là Chu Cử Nhân, hành vận Mậu Dần, Ất Mão trúng khoa thi, hành Đinh Sửu, Tị Dậu Sửu hội kim cục, chính là Sát trọng, năm Nhâm Tuất mất lộc.
Mậu nhật Ngọ nguyệt, vật tác Nhận khán, thời tuế hỏa đa, khước vi Ấn thụ.
Chỗ này luận Dương Nhận, không phải là Dương là Dê, Chó mà Dương chính là âm dương. Trước một vị là Lộc, là chỉ có Dương nói là có Nhận, Âm thì là không phải. Như Bính Mậu lộc ở Tị, Ngọ là Dương Nhận vậy. Ngày Mậu được tháng Ngọ, đến Ngọ không thành Nhận. Nhận không thành Nhận là sao vậy? Chính là Âm hỏa sinh Dương thổ, gọi là Nguyệt sinh Nhật can, nếu can năm, can giờ lại thấy hỏa, thì chính là Ấn thụ cách.
Nguyệt lệnh tuy phùng Kiến Lộc, thiết kỵ hội Sát vi hung.
Nói chung trong mệnh lấy Tài Quan là quý. Như trong tứ trụ có lấy hợp, lấy Tham hợp vong Quan, lại bao gồm cả hội khởi Thất Sát, trái lại là hung triệu. Mà như Giáp nhật dụng Dậu nguyệt, là Quan tinh chính khí. Như năm giờ là Tý Thìn, thì hội khởi Thân trong có Canh là Thất Sát, chính là quỷ tặc của Giáp vậy, cho nên là hung.
Quan tinh Thất Sát giao soa, khước dĩ hợp Sát vi quý.
Quan tinh chính là thần quý khí. Thuần mà không tạp chính là thanh phúc, tạp mà không thuần liền phá tạo hóa, trong chi có hợp xuất Thất Sát là cát triệu, Kinh nói: Hợp Quan tinh không thành quý, hợp Thất Sát không thành hung, chính là ngũ hành dựa vào cứu trợ, mà như ngày Giáp được giờ Mão, trong Mão có Ất, có thể hợp chữ Canh, là Thiên Quan của Giáp, vốn là hợp Sát vậy. Như nam tử được khí trung hòa, cùng người đều hợp quý. Nữ nhân được, phát sinh nhiều tâm ý không đủ, tuy là đẹp nhưng tính hay vui với ái tình, chủ khắc phu phá tử vậy. Như ngày Canh, tứ trụ thấy Bính là Sát, thì có Thân Thìn hợp khởi Tý là thủy cục đến cứu, Bính hóa thành Quan, thì là cát.
Trụ trung Quan tinh thái vượng, thiên nguyên doanh nhược chi danh.
Đại để con người sinh ra lấy Tài Quan Lộc là quý, lấy khí trung hòa là phúc hậu, bè lũ với khí thiên lệch là phúc bạc. Như Quan tinh thái vượng, Thiên nguyên thân nhược, lại hành về đất Quan vượng, trái lại là thành họa. Mà như ngày Giáp Ất, Thiên nguyên dụng Canh Tân Thân Dậu Tị Sửu là Quan quý, trong tứ trụ Quan tinh đã nhiều, gốc có chế phục thì tốt. Bản thân nhược, dù là hành vận có chế phục chính là có thể phát phúc. Như hành đến đất Quan vượng, chính là tạo hóa thái quá, họa hại phá tài không thể nói hết, vận số cũng vậy. Tân Tị, Canh Tý, Bính Tý, Quý Tị, bát tự này có Quan vượng, hành vận Bính Thân, Bính lâm Thân là vị trí Sát trọng, năm Giáp Tý, tháng 10 mất lộc.
Nhật can vượng thậm vô y, nhược bất vi tăng tức đạo.
Chỗ này luận Thời vượng, bản chủ đắc địa, chính là đất Thời vượng vậy. Là người không nhiễm bệnh trầm kha, về già răng chắc biến thành màu đen, thể cốt mạnh mẽ, tuổi thọ quá số, cách này đa số là xuất tục mà né tránh địa vị, chí hướng vượt lên cao, mộ đạo tu thiện, chính là nhật can quá vượng. Như sinh ngày Canh, tháng giờ ở Thân, hoặc vận lại về Tây phương, Canh lấy hỏa là Quan tinh, hỏa đến Tây phương mà tử, Canh lấy mộc là Tài, mộc đến Tây phương mà tuyệt, đã Tài Quan Lộc Mã đều không có thì đường công danh muốn sao mà sắp bày, cho nên là không có chỗ dựa, cái gọi là mệnh hại xa toàn thân vậy. Giả như Ất Mão, Bính Tý,Bính Ngọ, Quý Tị, mệnh này là Kỳ chân nhân, nhật can vượng ở Đông phương, Nam phương vận vậy.
Ấn thụ sinh nguyệt, tuế thời kỵ kiến Tài tinh, vận nhập Tài hương, khước nghi thối thân tị vị.
Chỗ này luận Nguyệt sinh nhật can, chính là gọi tên Ấn thụ. Ấn thụ thì hỉ Quan tinh, mà sợ Tài khí, nếu thiên can là Tài, chính là Phá Ấn vậy, Ấn thụ chính là khí gốc sinh Ta, cần phải có gốc kiên cố. Như hành Tài vận cần phải lui thân tránh chức vị, nếu không tất nhiên sẽ bị mất chức mà đi bộ vậy. Giả như Canh Tuất, Giáp Thân, Quý Sửu, Đinh Tị, mệnh này Nguyệt trung chính khí, Canh kim Ấn thụ, bản chủ là tạp khí, không hợp Tị trong có Bính hỏa, thành tái Quý, kỳ thủy là thấy tài là Tham tài phá Ấn. Cả đời vất vã, cho nên viết: Ấn thụ ở đất hình khắc, cho nên thân bị loạn li mà mạng vong vậy. Đại vận sau hành đến Kỷ Sửu, lưu niên Bính Dần, tháng tư phá gia, sao vậy? Gốc có Ấn có Thương là Sát, Tuế Vận lại hành Thương vận khí, Canh nhập mộ vậy. Bính Dần, Bính Thân, Quý Sửu, Ất Mão, bát tự này có nhật can Quý thủy, lấy trong Thân có Canh kim là Ấn thụ, Bính hỏa là Tài khắc Canh kim, Ấn thụ bị thương, Hợi vận lập tức bị bệnh lạc huyết mà chết. Cái Ất mộc là Thọ tinh, Ất tử ở Hợi, kim chủ Phế, bị bệnh huyết mà chết.
Kiếp Tài Dương Nhận, thiết kỵ thời phùng. Tuế vận tịnh lâm, tai ương lập chí.
Kiếp Nhận chính là Thiên nguyên ở trên Nhật, là phân tranh tài lộc, vốn là Tỉ kiên vậy. Dương Nhận, là Nhật can gặp trước Lộc một vị trí, mà như Lộc Mã, Giáp lộc ở Dần, Giáp dụng Kỷ thổ là Tài, thấy Mão là Nhận, Nhận đến xâm chiếm cướp đoạt bản thân vậy. Giả như ngày Mậu Ngọ cùng tháng là tương đồng, 2,3 chữ Ngọ Mậu, cộng hưởng xâm chiếm cướp đoạt Quý thủy là Tài, cho nên viết là Kiếp Tài. Lấy Mậu lộc ở Tị trước Thìn một vị, thấy Ngọ, Ngọ có Kỷ thổ khắc Quý thủy, chỗ này gọi là Kiếp tài, Dương Nhận. Cho nên là chủ phá tài tán nghiệp, thoát ly gia đình mất đất, ban ơn mà phản oán, tâm tính bạo ngược, tiến thoái đơn lẻ, trời sinh lấy vợ thứ làm chính, mang tật bệnh phù thủng, tính tình dũng cảm, tham lam, chí nguyện to lớn, tâm hướng lên cao, thương hại không đủ. Nếu đại vận, lưu niên gặp, cạnh tranh nhân tài, nếu không tật bệnh thì cũng liên lụy vợ con vậy.
Giả như Quý Mùi, Ất Mão, Giáp Tý, Kỷ Tị, mệnh này là Nhạc Phi, chỗ này là Kiếp tài, Dương Nhận, hành vận Tân Hợi, lưu niên Tân Dậu, 39 tuổi, hợp khởi Tân Hợi, tai họa khởi ở nơi ngục thất mà vong thân. Mậu Dần, Ất Mão, Giáp Tuất, Giáp Tý, bát tự này có tổ nghiệp, có tử tức, không có huynh đệ, phụ mẫu mất sớm. Bản thân trước mắt là khởi phát, hành Kỷ Mùi, năm Giáp Tý, do có sự tình mà phá tài, mất lộc. Mậu Dần, Kỷ Mão,Giáp Tý, Giáp Tý, bát tự này có tổ nghiệp, có nhiều anh trai, không có tử tức, phụ mẫu cũng mất sớm, vận Đinh Tị, năm Quý Mão, bị huynh đả thương thành tật mà chết, sao vậy? Cái Xuân Mộc không có kim, tuế vận lại thấy Mão vậy.
Nhật can Bối lộc, tuế thời hỉ kiến Tài tinh. Vận chí Tỉ kiên, hào nhật Bối lộc Trục mã.
Lộc là hướng thuận, Bối là nghịch, mà như Giáp được Dần là Lộc, nếu gặp Kỷ Bính là Bối Lộc. Kinh nói: Bối lộc là không có vậy. Chủ trước là sáng, sau là mờ, hỉ Tài tinh, Mậu Kỷ thổ trợ giúp thân, hỏa đến Hợi là vô khí, Tỉ kiên thấy Giáp thì phân tài, Kinh nói: Mã là ở vị trí Tài, là Giáp thấy Dần là xứ sinh vượng; Giáp dụng thổ là Tài, dụng kim là Quan, thổ đến Dần là Bệnh, kim đến Dần là tuyệt, chính là Lộc Mã không phù thân. Phú nói: Mã xếp vào vị trí Tài suy thì cần phải thoái thân mà tránh né địa vị. Chẳng phải nói là lấy đường cùng mà gặp thê lương.
Ngũ hành chính quý, kỵ hình xung khắc phá chi Quan.
Chỗ này luận chính khí Quan tinh. Đề cương là trọng yếu, can năm, giờ cần phải có Tài khí, chính là quý nhân vậy. Kỵ thần hình xung khắc phá mất.
Tứ trụ can chi, hỉ tam hợp lục hợp chi địa.
Phàm can chi có Tam hợp, Lục hợp, chính là thiên địa âm dương vạn vật, đều có cảm ứng tương hợp. Nhưng được cương nhu tương chế, hai phía tương đối do đó có gia quyến, thê thiếp, quý ở trọng đại nhân, gần như là tượng bề trên. Hợp Tài là Quan lộc cùng nhau tương tòng, xá hình là tương chế hình Sát vậy.
Nhật can vô khí, thời phùng Dương Nhận bất vi hung.
Mà như ngày Giáp Thân, gặp giờ Mão là Nhận, chỗ này là Thân trong có Canh kim có thể khắc Mão trong có Ất mộc là Tài, là Mã, là Thê, cần phải gặp Nhận thì không thành hung vậy. Giáp Ngọ, Đinh Mão, Mậu Tý, Mậu Ngọ, bát tự này có Mậu thổ sinh mùa Xuân thì nhược vậy, hỉ có giờ Ngọ là Nhận, lấy kỳ bang trợ thân. Gốc có phúc nghiệp, hành Nam phương Ấn vận, sang thêm đại nghiệp. Nhưng mà Quan Sát hỗn tạp, thi rớt sau bẩm chịu, nạp đủ khứ lấy quốc tử sinh chung.
Quan Sát lưỡng đình, hỉ giả tồn chi, tăng giả khí chi.
Giáp dụng Tân Dậu là Quan tinh, lại thấy Thân Canh, tại sao quyết? Lại thấy tam hợp cùng hỗn, Giáp Ất dụng Canh Tân là quan quý, mà có Tị có Sửu, là Quan Sát hỗn tạp, tuy hành vận chế phục, hoặc khứ Sát dụng Quan, hoặc khứ Quan dụng Sát, phương thành phát phúc. Như mệnh hỗn tạp, năm càng ở đất vượng hỗn Quan Sát, kỳ họa không thể thuật lại.
Địa chi thiên can hợp đa, biến vân Tham hợp vong Quan.
Mà như Giáp dụng Tân là Quan, mà có Bính, thấy Canh là Sát mà có Ất. Ất dụng Canh là Quan, mà Tân là Sát, lại có Bính cùng can chi nhiều hợp, chỗ này là Dương Quan Âm Sát, chính là tạo hóa tất nhiên vậy. Nếu tứ trụ có hợp, vốn là nói Tham hợp vong Quan. Kinh nói: Hợp tinh Quan không thành quý, hợp Thất Sát không thành hung, vốn là Ngũ hành có cứu trợ vậy.
Tứ trụ Sát vượng vận thuần, thân vượng vi Quan thanh quý.
Chỗ này Thất Sát tức là Thiên Quan vậy, hỉ chế phục, tứ trụ bên trong lấy Sát là Quan. Mà như Giáp kỵ Canh là Sát, mà Giáp sinh ở đất Dần, chính là thân vượng, Giáp ám tàng bao Bính trường sinh, thì không sợ kim thành Sát, lấy Sát hóa thành Quan tinh, thì Giáp Canh các chữ có thế lực đặc biệt vượng, mà hành thuần vượng vận, chính thành quý cực phẩm.
Phàm kiến thiên nguyên thái nhược, nội hữu nhược xứ phục sinh.
Chỗ này luận Nhật chủ tự tọa Quan Sát, chính là xứ Nhân nguyên nhược phục sinh, chính là Thai Sinh nguyên mệnh. Mà như Giáp Thai ở Thân, Thân trong có Canh kim là Thiên Quan, Nhâm thủy là Ấn thụ, thụ khí tương cảm, khí sinh Thai nguyên. Được Nhâm thủy Trường Sinh, Dậu ở trên ngôi Mộc Dục, Tuất ở trên ngôi Quan Đái, Hợi ở trên ngôi Lâm Quan, như người mà tính ngày nhất định sinh mộc, cách này chỉ cần vận Quan tinh vượng, phương có thể phát phúc, không phù hợp gặp xung phá hình khắc.
Trụ trung Thất Sát toàn chương, thân vượng cực bần vô cứu.
Thương Quan chính là lộc của Thất Sát. Bại Tài chính là Mã của Thất Sát, Thiên Quan chính là thân của Thất Sát, tứ trụ nếu có, thân vượng kiến Lộc, thì không thành phú vậy.
Vô Sát nữ nhân chi mệnh, nhất quý khả tác lương nhân.
Đại để xem nam mệnh, cùng nữ mệnh không giống nhau, nữ mệnh không lấy Quan tinh, không lấy Tài tinh, không lấy Quý nhân, không lấy tam hợp, lục hợp, không cần Bại Mã sinh vượng chiến bại dữ dội, không cần can chi cương cường Dương Nhận, không cần Tỉ kiên, chính là thấy như thế, sao lại biết là quý tiện vậy? Đáp viết: Nữ nhân hoàn toàn dựa vào chồng , chồng phú quý thì vợ cũng phú quý, chồng bần tiện thì vợ cũng bần tiện, chính là lý lẽ Thiên Địa âm dương vậy. Phàm mệnh nữ nhân, đại hỉ là cần an tĩnh thanh quý, vượng phu vượng tử là tốt. Nếu tuyệt khí cùng hình xung phá hại thì không tốt, nếu nữ mệnh có một quý cùng kẹp thêm quý nhất định thành vợ quý nhân vậy.
Quý chúng hợp đa, định thị ni sư xướng tỳ.
Quý tức là Quan Sát vậy. Quan là chính phu, Sát là thiên phu. Hợp là địa chi ám hợp, tam hợp lục hợp, tâm nhiều không đủ, tuy sinh chất tốt mà tính vui tư tình, không phải là vợ hiền vậy.
Thiên quan thời ngộ chế phục thái quá nãi thị bần nho.
Thiên Quan là mệnh chủ có nhân tính thông minh, cương cường ngạo vật. Nếu trong tứ trụ nhiều chế phục, chính là Tẫn pháp vô dân vậy. Khí trung hòa là phúc hậu, bè đảng thiên lệch là phúc bạc. Giả như Bính Ngọ, Giáp Ngọ, Quý Hợi, Ất Mão, chỗ này chính là mệnh tú tài tiền chim Nhạn, nguyệt thượng Thiên Quan, do đó thương tàn, mắt mù thọt đủ, lại có văn chương tú khí, cuối cùng là thân bần cùng vậy.
Tứ trụ Thương Quan, vận nhập Quan hương tất phá.
Chỗ này luận Thương Quan, tứ trụ có Quan tinh, vận nhập đất Quan phá vỡ nhẹ, cần phải rõ khinh trọng. Giả như Quý Mùi, Quý Hợi, Tân Mùi, Quý Tị, mệnh này là Ngũ Đô Thừa, Tân lấy Bính là Quan, Tị trong có Bính, trong tháng có Nhâm thủy, thì phá kỳ Quan tinh vậy.
Ngũ hành tuyệt xứ, tức thị Thai Nguyên, sinh nhật phùng chi, danh viết Thụ khí.
Lý Thị Lang mệnh, tức là Thai Nguyên phùng sinh, danh viết Thụ khí. Thi viết "Ngũ hành tuyệt xứ là Thai Nguyên, ngày sinh gặp thì hoàn toàn phú quý. Nếu có gốc địa chi đến để trợ giúp, định là áo mũ vinh quang, xe sớm cưỡi", lý lẽ đo lường có thể lấy biết tinh vi thâm thúy huyền diệu, tính chất đo lường có thể biết lý lẽ sinh tử. Giáp Thìn, Nhâm Thân, Bính Tý, Kỷ Sửu, ngày Bính Tý chính là ngày bào thai, chi hội thủy cục, hỉ Giáp mộc sinh, Kỷ thổ chế, nhất giao vận Giáp Tuất, Giáp Tý thi khoa cử đậu.
Kế Thiện thiên
Nhân bẩm thiên địa, mệnh chúc âm dương, sinh cư phúc tái chi gian, tẫn tại ngũ hành chi nội. Dục tri quý tiện, tiên quan nguyệt lệnh cập đề cương.
(Tức là, Con người vâng chịu bởi trời đất, sinh mệnh thuộc âm dương, sinh ra nơi phủ đầy trong khoảng không gian nhất định, ở bên trong đều có ngũ hành. Muốn biết quý tiện, trước tiên xem Nguyệt lệnh bằng đề cương).
Giải thích Thơ ca: Đề cương tức là Nguyệt lệnh, đầu tiên xem khí hậu nông sâu mà định cát hung. Quan Ấn cùng Tài thần, kỵ Kiếp xung hình, suy ra vận gặp cát thì là đoán cát, gặp hung thì là luận hung, sinh ở tiết khí thuộc thần nào, quý tiện bần phú đều do định mệnh mà ra.
Thứ đoạn cát hung, chuyên dụng nhật can chủ bản. Tam nguyên yếu thành cách cục, tứ trụ hỉ kiến Tài Quan. Dụng thần bất khả tổn thương, nhật chủ tối nghi kiện vượng.
(Thứ đoán cát hung, chuyên dụng Nhật can vốn là chủ. Tam nguyên cần thành cách cục, tứ trụ hỉ thấy Tài Quan. Dụng thần không thể tổn thương, nhật chủ cần nhất là mạnh mẽ, thịnh vượng) .
Thơ ca giải thích : Chuyên lấy nhật can làm chủ, thứ xem Ấn thụ, Tài Quan. Giáp Tý sinh ở tháng Dậu, trong đó phải tường tận Quan Lộc. Dần Ngọ Tuất ngại Bính Đinh, lại không ưa có Tỉ Kiếp, Thương Quan phá Ấn, trái lại là hạ tiện, không có Kiếp Tài vận. Thìn Tuất Sửu Mùi, tổ tiên để lại tài của, có Mậu Kỷ thì danh đăng kim bảng.
Lại nói: Muốn hỏi Tam Nguyên là sao? Là Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa. Ví như ngày sinh Giáp Tý, thiên can Giáp, địa có Quý là tổ tiên của người, có Ấn thụ Tài Quan là chân thực có thể mừng. Nếu có chỗ này lại không có Thương, làm cho thân ở bàn của hương trời tọa nơi nội các. Lấy dụng Chính Quan làm ví dụ, sợ lấy Kiếp phá Thương Quan. Một vị Chính Tài là tốt, Tài nhiều sinh Sát là tai ương. Tỉ kiên vận hành mất vượng, gặp chỗ này nếu là Nam thì hiến dâng tài năng tốt; thân suy mà gặp Tài vận họa khó đảm nhận.
Niên thương nhật can, danh vi Chủ Bản bất hòa.
( Trụ năm gây tổn thương cho nhậtcan, gọi là Chủ và gốc bất hòa)
Thơ ca giải thích: Năm gặp Thất Sát khắc nhật chủ, tổ tông không có lực mà làm mất đi một nhánh trong gia tộc. Nếu còn tháng ngày cùng giờ Quy Lộc gặp Tài thì chết yểu không còn nữa.
Sát vượng vận gặp là thành họa, Ấn sinh nhiều phúc là tốt đẹp. Tỉ kiên vượng vận đoán không nghi ngờ, chỉ là đơn độc với tấm lều tranh.
Tuế nguyệt thời trung, đại phạ Sát Quan hỗn tạp.
( Năm tháng giờ, sợ nhất là có Quan Sát hỗn tạp)
Thơ ca giải thích: Phàm đại đa số Tài Quan Ấn Thực, đều dựa vào tháng sinh mà dụng. Thấy Tài lấy Tài mà đoán, gặp Quan lấy Quan mà luận.
Gặp Ấn lấy Ấn mà luận, liền suy ra khí nông hay sâu. Tử tuyệt bại suy đều cân đo tính toán, năm sinh tháng vận, quý nhiều gốc nhiều, tổ tiên phát sinh mà cầu lấy quý.
Thủ dụng bằng vu sinh nguyệt, đương thôi cứu vu thiển thâm. Phát giác tại vu viết thì, yếu tiêu tường vu cường nhược. Quan tinh chính khí, kỵ kiến hình xung.
( Lấy dụng đều ở tháng sinh, cần nghiên cứu suy ra ở nông sâu. Phát hiện nằm ở mùa, cần xem kỹ càng ở cường nhược. Quan tinh chính khí, kỵ thấy hình xung).
Thơ ca giải thích : Quan tinh, chính Ấn không hỗn tạp, Tài nhiều không gặp Thương Thực. Còn như Ất Mão thấy tháng giờ là Canh Thìn, gặp Tuất xung mà tổn hại; Giáp sinh tháng Tị Dậu Sửu, lại gặp Ngọ Mùi hỏa cục, như còn Quan vượng gặp xung, can có Ấn là cát dụng.
Thời thượng Thiên Tài, phạ phùng huynh đệ, sinh khí Ấn thụ, lợi Quan vận úy nhập Tài hương.
( Can giờ Thiên Tài sợ gặp Tỉ Kiếp, sinh khí Ấn thụ lợi gặp Quan tinh mà sợ nhập vào đất Tài)
Thơ ca giải thích : năm tháng giờ đến sinh ngày, gọi là Ấn thụ sinh thân. Vận hành Quan Ấn khởi đầu gặp quý trọng, Tài vượng vận gặp thì xung phá Ấn.
Ấn vượng không có chế thì cô đơn mà không thuận lợi, nếu Quan Ấn ngang nhau thì xuất sắc hơn người. Vượng Tài phá Ấn thì mệnh nói là kết thúc, còn được Quan vận là quý mệnh.
Thất Sát Thiên Quan hỉ chế phục, bất nghi thái quá.
( Thất Sát, Thiên Quan hỉ có chế phục, nhưng không nên thái quá)
Thơ ca giải thích: Không có chế nói là Thất Sát, Thất Sát có chế nói là Thiên Quan. Có chế có Sát thì là tốt, một chế một phục là thượng sách.
Chế quá thì bần hàn ngu xuẩn, hỉ hành đến đất Thất Sát. Thân vượng không có chế vượng thân cường, lại cần vận hành hướng về Sát.
Thương quan phục hành Quan vận, bất trắc tai lai, Dương Nhận xung hợp Tuế quân, bột nhiên họa chí.
( Thương Quan lại hành Quan vận thì tai họa đến bất ngờ, Dương Nhận xung hợp với Tuế Quân thì đột nhiên họa đến).
Thơ ca giải thích : Luận kỹ càng Thương Quan hỉ kỵ, kỵ là không cùng đến với Quan. Tuế Quân, Nguyệt kiến, Nhật thần nghi kỵ nhất là hình hại.
Ứng như gặp phải kẻ thù, phẩn nộ sinh ra chém giết khó mà cưỡng lại.
Như phùng thử giả, tất sinh tai họa, nghi tinh nghiên hỉ kỵ.
(Như gặp cách này thì nhất định sinh ra tai họa, cần phải nghiên cứu tinh tường hỉ kỵ)
Thơ ca giải thích: Như ngày Giáp Tý, giờ Đinh Mão, chính là gặp Dương Nhận. Tuế vận Tân Dậu nếu cùng gặp nhau thì Đinh phá Tân, Dậu xung Mão mà vô dụng.
Sinh ngày Bính giờ Giáp Tý, năm gặp Mậu hết hỗ trợ. Giáp có thể phá Mậu, Mậu Tý xung, chế thì trái lại là dụng tốt.
Phú nhi thả quý, định nhân Tài vượng sinh Quan.
( Phú mà còn quý, xác định dựa vào Tài vượng sinh Quan)
Thơ ca giải thích: Loại trừ nạn hồng thủy thì phú mà lại quý, xác định dựa vào Tài vượng sinh Quan. Thân cường Tài tích lũy phúc như núi, không lộ Tài Quan đoán là quý.
Tài vượng không có Quan cũng tốt, Tài thần chồng chất mà lộ ra thì hay rong chơi, không ổn định. Nếu lại là chủ suy nhược không có thể sinh, thì định là phú gia bần hán ( nhà thì giàu mà người thì nghèo).
Phi yêu tắc bần, tất thị thân suy ngộ Quỷ.
( Không yểu thì bần, nhất định là thân suy nhược mà gặp quỷ)
Thơ ca giải thích: Giáp sinh Canh kim là Thu vượng, thân suy gặp chế cũng khó mà gánh nổi. Giờ gặp Dần Mão cần phòng chết yểu, sao biết là mộc tuyệt kim vượng? nói không có tật họa nặng thì cũng là cô khổ, sớm cũng phát sinh mà chết yểu. Nhận Thực cần Ấn, họa khước từ mà suy ra là người quý hiển hào kiệt đạt d8ến trí thức.
Lục Nhâm sinh lâm Ngọ vị, hào Nhật Lộc Mã đồng hương.
( Lục Nhâm sinh ở vị trí Ngọ nói là ngày gặp Lộc Mã đồng hương)
Thơ ca giải thích: Ngày Nhâm sinh ở Ngọ, Ngọ có Đinh Kỷ là Tài Quan. Lại gặp Dần Ngọ Tuất đến mà xem kỹ, hỉ nhất là hình xung Quan Sát vượng.
Lại sợ Tài Quan hiển lộ, Khôi thương Tuế Vận là tai ương. Chính Quan là Lộc Mã Tài hương, tháng, giờ, vận là Ngọ cũng một dạng.
Quý nhật tọa hướng Tị Quan, nãi thị Tài Quan song mỹ.
( Ngày Quý tọa hướng Tị có Quan tinh chính là Tài Quan song mỹ)
Thơ ca giải thích: Ngày Quý sinh ở Tị, Tài Quan phúc lộc như thế nào? Tị tàng Bính Mậu là đứng đầu, Bính là Tài thần, Quan ở Tị.
Tháng, giờ, vận cùng đảo xung hình, nhiều bần tiện không nghi ngờ. Tuế Vận Quan Sát lộ phân rõ, giảm phúc mà lấy gian khổ, cực nhọc vậy.
Tài đa thân nhược, chính thị phú ốc bần nhân.
( Tài nhiều mà thân suy nhược chính là Nhà thì giàu mà người thì nghèo)
Thơ ca giải thích: Tài thần mà thấy có 2 hay 3 vị, thân suy phúc thiếu mà nhận nhiều khó khăn. Đoán trước thì giaù có nhiều trân châu, về sau thì phá hại gia đình giống như túi rỗng mà kêu to vậy.
Nhật chủ nhược mà gặp Ấn trợ giúp, bắt đầu hơi thấy có sự giàu sang. Chính Tài thừa vượng là dựa vào vợ mà hưng thịnh, chịu sự mê hoa mà không biết.
Dĩ Sát hóa quyền, định tác hàn môn chi quý khách.
( Lấy sát hóa thành quyền, xác định là thượng khách trong gia đình bần hàn)
Thơ ca giải thích: Ngày Quý tháng gặp Quý Sửu, thiên can có hai khí liền kề giống nhau. Mặc dù gặp Sát mà bản thân kiên cố, Tý Sửu hợp Sát là vũ chức. Không cùng với can chi năm là Sát, gọi là thân và Sát quân bình. Như vậy chỗ này là phú quý song toàn, hiển tổ danh dương phúc lộc bền vững.
Lại nói: Gặp Sát nên hợp cùng xem Ấn, Ấn thụ hóa Sát thành quyền. Sát nhiều cần Thực chế là trước tiên, về sau giàu có nhưng nhất định trước đó không thuận lợi.
Ngày Giáp thấy Canh Thân là Sát, hỉ gặp mộc vượng Đông hành. Bính Đinh Dần Ngọ hỏa táo khô, lại bị chế quá, trái lại là hạ tiện.
Đăng khoa giáp đệ, Quan tinh lâm vô phá chi cung.
( Bước lên khoa Giáp, cung Quan tinh không nên bị phá hại)
Thơ ca giải thích: Sinh ngày Bính có Quan ở tháng Sửu, Tài Quan quy lộc danh truyền. Vật trong Khố hỉ được xung, ngoài trụ cũng hỉ có vận hình xung.
Đến kỳ gặp xung thì quý, vị trí đăng khoa đến Tri huyện. Như còn bên trong trụ có hình xung, tiếp tục ở vận lại gặp nữa thì không tốt.
Nạp túc tấu danh, Tài khố cư sinh vượng chi địa.
( Nạp thóc mà lấy danh tiếng, là đất Tài khố ở nơi sinh vượng)
Thơ ca giải thích: Ngày Đinh Tị, tháng Kỷ Sửu, giờ gặp Tân Sửu là Tài đủ. Can năm Ất Mão trợ thân kiên cố, có Tị hỏa xuất ra để nung luyện.
Sao quản lý Tài đa quy khố, là hai sao thổ kim kết duyên. Phân rõ phải nạp thóc cho triều đình thì kẻ sĩ sẽ danh đăng kim bảng.
Lại nói: Ngày Canh sinh ở tháng Mùi, trong Mùi có Ất mộc là Tài. Tài tinh quy khố cần xung khai, nếu không thì không có nhảy qua được cửa hồng phúc quang vinh.
Quan tinh thái vượng, kinh lâm vượng xứ tất khuynh.
( Quan tinh quá vượng, sợ đến đất vượng nhất định bị ngã)
Thơ ca giải thích: Trong trụ có Quan tinh thái vượng, thân cường trái lại là kỳ thánh phúc. Chủ vượng phương luận không có xung, vận hành Tài địa thì gia đình giàu có.
Thân suy nếu hành Tài địa, hóa quỷ trái lại nhất định gặp nguy cơ là sụp đổ. Nếu như đúng Ấn thụ hỉ dựa vào Tài, cha mất sớm mà không có của để lại lâu dài.
Ấn thụ bị thương, thảng nhược vinh hoa bất cửu.
( Ấn thụ bị tổn thương, nếu như vinh hoa thì cũng không lâu bền)
Thơ ca giải thích: Lục Giáp sinh gặp Quý địa, sợ nhất là có Mậu Kỷ đến xâm hại. Như trụ Tài mà bên ngoài vận gặp thoái tàng, thì tránh được tai họa hình phạt.
Vận không thấy Tài là tốt, trong trụ Tài khí vận may hơn người. Đọc sách biết nhiều sự việc, danh tiếng đề cao nơi Hổ bảng.
Hữu Quan hữu Ấn, vô phá tác lang miếu chi tài.
( Có Quan, có Ấn, không có phá hại đảm nhận tài năng nơi Lang Miếu)
Thơ ca giải thích: Có Ấn gặp ở trên, đẹp nhất là gặp Quan Sát là tốt lành. Vẫn dựa vào phân ra Quan Sát không kiên cố, thì phú quý danh đăng kim bảng.
Kỵ nhất có Tài tinh phá Ấn, lại sợ có Thương Thực phá Quan. Vận hành đúng nơi có Thực thì có nhà tan cửa nát mà hủy hại.
Vô Ấn vô Quan, hữu cách nãi tác triêu đình đại dụng.
( Không có Ấn, không có Quan, có cách chính là được triều đình trọng dụng)
Thơ ca giải thích: Bên trong mệnh không có Quan không có Ấn, cần phải xem có cách là kỳ. Nhâm Kỵ Long Bối cùng phi thiên, Diêu Tị, Triều Dương các cách, Đảo xung, Thực Thương tạp khí. Khôi cương, Nhật Lộc cư thời, Kim Thần , Thử Quý, Tỉnh Lan xoa, lại không có phá, hóa sinh thành quý.
Danh tiêu kim bảng, tu hoàn thân vượng phùng quan. Đắc tá thánh quân, quý tại xung Quan phùng hợp.
( Dang vàng, kim bảng, cần còn có thân vượng gặp Quan. Được phò tá thành quân, quý hiển ở xung Quan gặp hợp)
Thơ ca giải thích: Nhật chủ cao cường xem xét lý lẽ, nhận lấy Quan tinh có khí. Nếu gặp Tài Ấn trợ giúp căn cơ, không có phá hại thì hài lòng nơi văn trường.
Thương Thực, Kiếp Tài không gặp, Tài Quan vượng khí nắm quyền uy. Bước lên mà lấy Hổ bảng Phượng Hoàng trì mà làm quan.
Lại nói: Hợi xung Tị, tàng Bính là Quan Lộc. Bính Đinh thấu xuất thì gặp tai ương, trái lại Bính gặp Thìn thì phải buộc chân.
Quý Hợi Tị tàng Bính Mậu, là địa vị Quan lộc hiên ngang. Không gặp đất Dần Mậu Tị, xác định địa vị mang dây thao mà làm khanh tướng.
Phi cách phi cục, kiến chi yên đắc vi kỳ. Thân nhược ngộ Quan, đắc hậu đồ nhiên phí lực.
( Không phải cách, không phải cục, thấy thì sao được thành kỳ. Thân suy nhược mà gặp Quan, được mà về sau chỉ là uổng phí mà tốn hao sức lực)
Thơ ca giải thích: Không phải cách, không phải cục thì xét kỹ tường tận, chỉ dựa vào phá tổn, thương hại tinh thần. Thân nhược, Quan nhiều thì trước tiên là quý mà về sau là bần, tốn nhiều công sức là tinh thần quang vinh.
Thân nếu như ở Quan thì khó phát, vận hành thân vượng thì Tài vinh. Quan tinh mà có 1,2 điểm nhược thì không sao, ngang nhau thì nói là quý mệnh.
Tiểu nhân mệnh nội, diệc hữu Chính Ấn Quan tinh, quân tử cách trung, dã phạm Thất Sát, Dương Nhận.
( Trong mệnh kẻ tiểu nhân, cũng có Chính Ấn, Quan tinh, trong cách quân tử cũng phạm Thất Sát, Dương Nhận)
Thơ ca giải thích: Kẻ tiểu nhân có Chính Quan, Chính Ấn mà gặp thương khắc, hình xung. Ác nhiều thiện ít thì trái lại là hung, có thể suy ra là hay bị gièm pha mà luận.
Người Quân tử có Dương Nhận, Thất Sát, thiện nhiều mà ác ít gặp nhau. Sát tinh hỉ Nhận mà giúp đỡ, chế Sát mà có thân cường thì là mệnh quý.
Vi nhân hảo sát, Dương Nhận tất phạm vu Thiên Quan.
( Là người háo sát, có Dương Nhận nhất định phạm ở Thiên Quan)
Thơ ca giải thích: Dương Nhận nếu gặp Thất Sát, chủ là người tâm độc ác mà hại dân, uổng phí phú quý không lâu dài, là tượng khí kiêu căng, thanh cao. Ngày Giáp thấy Canh là Sát, có Mão đến là Nhận hiển nhiên. Nếu gặp Ấn thì tốt cho cầu danh, gặp Sát cũng xem Nhận.
Tố thực từ tâm, Ấn thụ toại phùng vu Thiên Dức.
( Ăn chay mà tâm tính hiền lành, Ấn thụ toại nguyện gặp ở Thiên Đức)
Thơ ca giải thích: Đa số Ấn vượng trọng nặng, có Thiên Nguyệt Đức mà trợ cát. Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín luôn luôn tồn tại, hảo thiện mà giúp người, lợi vật. Phú quý hơn người, sản sinh tâm tính từ thiện, bái đạo mà cúng Phật, có chung mà có thủy. Sự tình suy tính cẩn thận, Tài vượng thì thành người phản phúc.
Sinh bình thiểu bệnh, nhật chủ cao cường. Nhất thế an nhiên, Tài mệnh hữu khí.
( Nhật chủ cao cường thì cả đời ít bệnh. Tài mệnh có khí, một đời bình yên)
Thơ ca giải thích: Dần Mão chuyên sợ đất bị khắc chiến, tuổi thọ như hạc đoán là ít gặp tai ương, phát đầy phúc giống như biển đầy. Giáp sinh Thìn Tuất Sửu Mùi, tài mệnh vinh xương mà yên ổn. Tài Quan Ấn thụ vượng là tốt, tâm địa khoan hồng, phương có thể một chút tốt đẹp.
Quan hình bất phạm, Ấn thụ Thiên Dức đồng cung. Thiểu nhạc đa ưu, cái nhân nhật chủ thân nhược.
( Quan hình không phạm, Ấn thụ có Thiên Đức giống như Quan. Vui mừng thì ít mà nhiều ưu sầu, là bởi vì nhật chủ thân nhược)
Thơ ca giải thích: Ấn thụ hỉ gặp Thiên Đức, cả đời phúc lộc thanh hương. Như ngày Ất, tháng Dậu là Sát cương cường, lại sợ có Kỷ Sửu kim vượng.
Nếu hoàn toàn không có chế thì giấc mơ hoàn toàn thất bại, khổ cực, ưu sầu mà gặp hình tang. Nếu như nhật chủ suy nhược, nhất định là người bất lương.
Thân cường Sát thiển, giả Sát vi quyền.
( Thân cường Sát ít, Lấy Sát thành quyền)
Thơ ca giải thích: Hóa Sát thành quyền có thể đạt, như Giáp sinh ở đất Dần Mão. Mộc gặp hành Hợi Mão Tuất Mùi, sao sợ Canh kim thành bè đảng.
Ất sinh tháng Tị Dậu Sửu, hỉ gặp Hỏa cục là ngang nhau. Nếu gặp Hợi Mão Mùi thì sinh ra tai ương, xử thế khó khăn mà nghèo nàn.
Sát trọng thân khinh, chung thân hữu tổn.
( Sát nặng mà thân nhẹ, cuối cùng gặp nhiều tổn hại)
Thơ ca giải thích: Âm không sinh ở Ất Dậu, giờ gặp Tân Tị thì ít cát lợi. Thân nhẹ mà Sát nặng thì đảm nhận khó nhất, lại sợ vận hành hướng Sát.
Dù có phú quý hay tật bệnh, hoặc không có bệnh tật thì phú quý cũng sớm mất mạng. Như thể cây cối còn non nớt mà gặp sương, sợi bông cây Liễu gặp gió thổi mà phất phơ vậy.
Suy tắc biến Quan vi Quỷ, vượng tắc hóa Quỷ vi Quan.
( Suy thì biến Quan thành Quý, vượng thì hóa Quý thành Quan)
Thơ ca giải thích: Nhật chủ đến phát sinh suy nhược, Quan nhiều thì hóa Quỷ là tai ương. Nếu gặp chủ vượng Sát đến hàng phục thì biến Quỷ thành quan hiển đạt.
Quan nhiều nhất định khó nhận nỗi, Sát trọng không có chế thì thành mệnh yểu thọ. Thân suy, thân vượng cần phải nghiên cứu kỹ càng, chhì có hỉ hóa Sát là thượng cách.
Nguyệt sinh nhật can vận hành bất hỉ Tài hương. Nhật chủ vô y, khước hỉ vận hành Tài địa.
Thơ ca giải thích: Nguyệt sinh nhật can là Ấn, không nên gặp Tài vận phá hại gây tổn thương. Như Giáp sinh Hợi Tý, Ấn không bị xung, có Tị Ngọ Thìn Tuất Sửu Mùi là tổn hại, nhật chủ sinh vượng thái quá nếu không có cách cục gặp Ấn, thì cũng hiểu là Thân vượng mà vô y ( không có chỗ dựa), vận hỉ đất Tài gặp nhiều phúc trọng.
Thời quy Nhật Lộc, sinh bình bất hỉ Quan tinh.
( Nhật lộc quy về giờ, cả đời không mừng gặp Quan tinh)
Thơ ca giải thích: Nhật Lộc ở giờ sinh là tốt nhất, năm tháng sợ có Sát Quan tinh cương cường, vì có Quan chế Lộc, lộc gặp khó khăn, nhưng thấy Quan tinh là cách tốt, tháng, vận hỉ ở đất Tài, không có quan chức mà lộ danh cao. Bên trong Thiên can thấy Quan tinh, vận hỉ có Thực Thương thì rất là phúc.
Âm nhược triều dương, thiết kỵ Bính Đinh Ly vị.
( Âm nếu hướng về dương, kỵ nhất là vị trí Bính Đinh, Ly hỏa)
Thơ ca giải thích: Lục Tân giờ gặp Mậu Tý, nói là ngày âm khứ mất hướng dương. Vận hành về đất phương Tây, chỉ một lần hành động mà bước lên bảng vàng.
Vẫn kỵ vị trí Bính Đinh cung Ly, sợ nhất Quan Sát cùng nhau gây tổn thương. Năm, giờ rất sợ ngôi sao ẩn tàng chỗ này, chỉ là lữ khách mua bán mà thôi.
Thái tuế nãi chúng sát chi chủ, nhập mệnh vị tất vi ương. Nhược phùng chiến đấu chi hương, tất chủ hình vu bản mệnh.
( Thái Tuế là chủ nhiều Sát, nhập mệnh không nhất định là gặp tai ương. Nếu gặp đất khắc chiến, nhất định chủ hình thương ở bản mệnh).
Thơ ca giải thích: Tuế chính là tượng vua của loài người, không thể thấy liền lấy hung mà nói. Ngày sinh gặp Dương Nhận khắc lưu niên, không có chết thì cũng gặp hình phạt, tai nạn không nhẹ.
Xung phá Tuế Quân là họa, ứng như thần phạm lệnh với Vua. Cũng như cha con gặp nhau ở đất Thái ( là nước chư hầu thuộc nhà Chu), giống như Lục Quốc chiếm lấy nước Tần.
Tuế thương nhật can, hữu họa tất khinh. Nhật phạm Tuế quân, tai ương tất trọng.
( Năm tổn thương nhật can có họa tất nhẹ. Ngày phạm Tuế Quân thì tai ương tất là nặng).
Thơ ca giải thích: Tuế ( năm) thương nhật ( ngày) giống như cha giận con, họa thì nhẹ mà có thể tha thứ. Ngày mà phạm Tuế như con giận cha, ở dưới mà phạm ở trên thì làm sao mà dung thứ.
Nhật can ví như bề tôi, Thái Tuế thì như là vua, là cha. Hung vận tai nạn trùng với Tuế lại gặp nhau. Trụ hung lưu niên nhất định là chết.
Ngũ hành hữu cứu, kỳ niên phản tất vi tường, tứ trụ vô tình, cố luận danh vi Khắc Tuế.
Thơ ca giải thích: Ngày Giáp chủ đến gặp Mậu, gọi là Nhật phạm Tuế Quân. Có trụ Canh Tân chế phúc không nhẹ, nếu trụ không có Canh vận không thuận lợi.
Nhật chủ Canh Tân đối với Giáp, là Tuế làm tổn thương nhật can bỏ bớt bệnh. Thực thần, Ấn thụ chế rõ ràng, không có chế thì tai nạn không phải hợp lại cùng với hình.
Canh Tân đến làm tổn thương Giáp Ất, phía trước thấy có Bính Đinh thì không có nguy. Bính Đinh trái lại khắc canh tân. Gặp Nhâm Quý thì không sợ.
Mậu Kỷ lo sầu gặp Giáp Ất, can đầu cần dụng Canh Tân. Nhâm Quý lo buồn gặp Mậu Kỷ, mừng có Giáp Ất đến giải cứu.
Nhâm đến khắc Bính, cần dụng Mậu khứ để đương đầu. Quý khứ thương Đinh, lại hỉ có Kỷ đến tương chế.
Canh đắc Nhâm nam chế Bính, phản tác trường niên. Giáp dĩ Ất muội thê Canh, hung vi cát triệu.
( Canh được con trai Nhâm chế Bính, trái lại lấy trường thọ. Giáp lấy Ất muội gả làm vợ Canh, hung biến thành cát ).
Thơ ca giải thích: Canh được con Nhâm chế Bính, là con đến cứu mẹ không có bệnh. Giáp được Ất muội kết duyên với Canh, trở thành thân thiết mà hung lại thành cát khánh.
Xưa nói có lòng trở thành yêu quý, quả nhiên không có ý hại người. Ham vui mà hỉ Hợp Sát vong Hình, phúc vượng mà đảm nhận của cải nổi tiếng.
Thiên nguyên tuy vượng, nhược vô y ỷ thị thường nhân, nhật chủ thái nhu, túng ngộ Tài Quan vi Hàn sĩ.
( Thiên can tuy là vượng, nếu không có chỗ dựa thì là người bình thường, nhật chủ quá nhượ, mà gặp Tài Quan thì là kẻ hàn sĩ).
Thơ ca giải thích: Thiên can Nhật chủ quá vượng, năm tháng giờ có Ấn, Tài, Quan. Tam tài không hiển lộ, chủ là người bần hàn, là tăng đạo, cô đơn hiện ra.
Nhật can nhu, kim sinh vượng, Tài Quan nhiều trái lại sinh ra tai ương. Gánh nhận không lấy gian khổ học tập, sớm cơ khổ, tướng mạo gầy ốm mà trong túi thì trống không.
Nữ nhân vô Sát, đái Nhị Đức thụ quốc gia chi phong.
( Nữ nhân không có sát, mang Nhị Đức thì được nước nhà phong tước)
Thơ ca giải thích: Nữ lấy Quan làm Phu tinh, không nên có Thất Sát tranh giành. Không có Quan, Thất Sát là Phu cung, không hỉ có Quan tinh tương hỗn.
Tài Quan Ấn thụ mang đủ, thì Phu vinh Thê quý danh môn. Thứ hai nếu thấy Thiên Nguyệt Đức cùng gặp, nắm chức vụ mà được vua ban thưởng bổng lộc.
Nam mệnh thân cường, ngộ Tam Kỳ vi nhất phẩm chi quý.
( Mệnh nam có thân cường, gặp Tam kỳ thì một lúc thành quý mệnh)
Thơ ca giải thích: Nhật chủ cao cường thì phú quý, có Tài Quan Ấn thụ đều đủ. Giáp gặp Tân Kỷ Quý thành duyên phận, Ất Mậu Canh Nhâm có thể thấy.
Ngày Bính gặp Quý Tân Ất, ngày Đinh gặp Nhâm Canh Giáp thì biến đổi thăng chức. Mậu hỉ có Quý Ất Đinh, Kỷ hỉ có Nhâm Giáp Bính tam nguyên.
Canh Tân Nhâm Quý thì theo ví dụ ở trước, không có phá hại thì danh đăng kim điện.
Giáp phùng Kỷ nhi sinh vượng, định hoài trung chính chi tâm.
( Giáp gặp Kỷ mà sinh vượng, xác định tư tưởng trong lòng là chân chính)
Thơ ca giải thích: Giáp gặp Kỷ thổ là hợp ở trong vượng, phú quý vinh hoa nhất định đo lường. Luôn luôn trong lòng chân chính mà được lòng người, luông gặp quý nhân đợi mong muốn.
Giáp thuộc phương Đông khí sinh mộc, chủ về Nhân. Thổ thuộc trung ương khí thổ dày, chủ về Tín, Giáp Kỷ hợp hóa thổ, mà trong tứ trụ lại mang sinh vượng, thì là người trung hậu, là người chính trực vậy.
Đinh ngộ Nhâm nhi thái quá, tất phạm dâm ngoa chi loạn.
( Đinh gặp Nhâm mà thái quá, nhất định phạm lỗi dâm loạn)
Thơ ca giải thích: Ất sinh Lục Giáp, tư tưởng luôn tồn tại tính nhân nghĩa, trung lương. Ngày giờ Giáp Kỷ là Tài Quan, hóa hợp mà thành nhà cửa hưng thịnh, tiền của dồi dào.
Ngày Đinh gặp Nhâm quá nhiều, hóa Quan thành Quỷ là tai ương. Trong trụ có 2 hoặc 3 thì đúng là vừa dâm đãng, kỷ nữ, trọng xuôi theo đàn ông ở cánh cửa hát ca đàn xướng.
Bính lâm Thân vị, phùng dương thủy, nan hoạch duyên niên.
( Bính đến vị trí Thân, là gặp dương thủy, khó mà kéo dài)
Thơ ca giải thích: ngày Bính sinh ở vị trí Thân, Thân là trường sinh của thủy là khai thông. Nhâm Thân, Nhâm Tý cùng Thìn ở bên trong, là Thất Sát cương cường thì gặp họa nặng.
Nhâm Ngọ, Nhâm Dần, Nhâm Tuất, là kỳ họa nhẹ mà vô dụng. Sát nhiều mà thân nhược định thành hung, cẩn thận mà nghiên cứu kỹ lý lẽ giống nhau.
Kỷ nhập Hợi cung, âm mộc kiến chung vi tổn thọ.
( Kỷ nhập Hợi cung, thấy âm mộc thì cuối cùng là tổn thọ)
Thơ ca giải thích: Người sinh ngày Kỷ Hợi, tại họa nếu gặp Ất mộc giao tranh. Đặc biệt biết Hợi có Giáp mộc ở trường sinh, không có chế thì mệnh gặp nhiều lận đận, trắc trở mà dẫn đến chết yểu.
Ất Tị, Ất sửu, Ất Dậu, hung thần trong lấy sự che đậy mà đánh mất ân huệ. Ất Mùi, Ất Hợi, Ất Mão, không chết cũng bần hàn, trục trặc không thuận lợi.
Canh trị Dần nhi ngộ Bính, sinh vượng vô nguy.
( Canh gặp Dần mà gặp Bính, sinh vượng không có nguy hiểm)
Thơ ca giải thích: Giả như nhật chủ Canh Dần, sinh ở Bính hỏa là Sát cương kiện. Dần được trở về cung Cấn thổ là cát tường, lấy Sát hóa quyền là tốt.
Ngày Canh sinh ở Thân là Quy Lộc, được vượng khí cao cường. Trái lại mang Bính hỏa hóa thành Quan, thấy lâm nguy mà không có việc gì.
Ất ngộ Tị nhi kiến Tân, thân suy hữu họa. Ất phùng Canh vượng, trường tồn nhân nghĩa chi phong.
( Ất gặp Tị mà thấy Tân, thân suy thì mang họa. Ất gặp Canh vượng, là cảnh tượng trường sinh nhân nghĩa)
Thơ ca giải thích : Ất mộc đến sinh ở vị trí Tị, thân suy thì có họa, thân vượng thì may mắn tốt lành. Bính Tân, Canh Ất kết đôi thành chim Loan Phượng Hoàng, xử thế không có bằng phúc thọ.
Âm thủy gặp đất Canh, đoán gió xuân mà danh tiếng lẫy lừng bốn biển. Ở trên hòa ở dưới thuận, thân thể cường tráng, thông suốt hơn người, ít bệnh.
Bính hợp Tân sinh, trấn chưởng uy quyền chi chức.
( Bính hợp Tân sinh, trấn giữ nắm chức vụ uy quyền)
Thơ ca giải thích: Bính hợp Tân sinh mùa Hạ, năm tháng giờ thấy Tân nhiều. Rồng giấu kín mà Hổ Báo xâm lược, chí hướng là tiêu điều, lại sợ hình thương khắc phá.
Ngày Tân thấy Bính được hợp, gặp sinh gặp lộc là trung hòa. Vận hành Quan vượng phúc cao như Thạch Sùng, danh tiếng lấy lừng bốn biển.
Mộc trọng phùng hỏa vị, minh vi khí tán chi văn.
( Mộc nặng gặp vị trí hỏa, văn nói ghi nhớ là khí tán)
Thơ ca giải thích: Một mộc mà gặp hỏa trùng điệp, sinh mùa Hạ lại gặp Bính Đinh. Hỏa có thể tiết khí mộc, lấy sự việc không thành mà nghèo khó bao vây.
Chi hỉ có Dần Ngọ Tuất Tị, Mậu Kỷ tài thông. Hỏa mộc hóa không có hung, phúc lộc an nhàn, gia đình thông suốt.
Độc thủy tam phạm Canh Tân, hào nhật thể toàn chi tượng.
( Một thủy mà phạm ba Canh Tân, nói là tượng nhật chủ đầy đủ)
Thơ ca giải thích: Nhâm Quý hai Canh Tân, hỉ sinh đúng năm ngày giờ. Quý sinh Tân thấu lại gặp Canh, trong năm ngày giờ cùng dùng.
Không có đạo, Ấn không có nhiều, một Kiêu một chính là không hung. Cho nên nói là sự việc vui mừng, chư hầu bá tánh đều được hưởng bổng lộc.
Thủy quy Đông vượng, sinh bình nhạc tự vô ưu.
( Thủy quy về Đông vượng, cả đời vui vẽ không ưu phiền)
Thơ ca giải thích: năm Quý Hợi tháng Giáp Tý, giờ Quý Hợi, Nhâm Tý là chân. Tháng giờ có Thương Kiếp vận trình phương Nam, hỉ nhất là Thực Tài Quan Ấn.
Sát Quan xứ vượng trái lại là không tốt, hình phạt ví như chứng bệnh đủ điều.
Quý Hợi, Giáp Tý, Quý Hợi, Nhâm Tý là mệnh của Lão Bành.
Mộc hướng xuân sinh, xử thế an nhiên hữu thọ.
( Mộc hướng về Xuân sinh trưởng, xử thế bình yên mà có thọ)
Thơ ca giải thích: Giáp Ất sinh ở mùa Xuân, trụ gặp Dần Mão trọng nặng. tính cách ôn hòa, lương thiện, định là tư tưởng hiền lành, là người sắp xếp sử sách cho triều đình.
Tài Thực Ấn Quan đều vượng xứ, hỏa vượng trái lại là nghèo mà yểu mệnh. Có thể nghiên cứu phương pháp tinh thông giống như đạo Trung Dung, luận mệnh cần biết biến thông.
Kim nhược ngộ hỏa viêm chi địa, huyết tật vô nghi.
( Kim nếu gặp đất hỏa viêm, huyết bệnh không nghi ngờ)
Thơ ca giải thích: Ngày Canh sinh nơi hỏa địa, trụ gặp Bính Đinh lần nữa. Nếu còn có Dần Ngọ Tuất đủ thông, không bệnh cũng đề phòng tật nặng.
Nam thì chủ bệnh điên, bệnh lao trong người, Nữ thì bệnh sản hậu, máu huyết bị khô. Nếu không có chế phục ở năm, giờ, cấp bách thì có thể vào nhà mồ.
Thổ hư phùng mộc vượng chi hương, tỳ thương định luận.
( Thổ hư gặp mộc vượng, tỳ vị bị tổn thương)
Thơ ca giải thích: Năm Giáp Tý, tháng Đinh Mão, ngày Kỷ Sửu, giờ Ất Hợi. Năm tháng giờ lộ mộc quanh quẩn một chỗ, mắc bệnh sốt rét làm hại.
Vận hành Khảm địa chết yểu, năm gặp mộc địa xác định tai nạn. Tây Nam phương có thể phát sinh tiền tài, về sau càng tốt đẹp.
Giáp Tý, Đinh Mão, Kỷ Sửu, Ất Hợi. Mệnh Ninh Tử.
Kim ngộ Cấn nhi ngộ thổ, hào viết Hoàn Hồn.
( Kim gặp Cấn mà gặp thổ, gọi là Hoàn hồn)
Thơ ca giải thích: Canh kim sinh Dần gặp hỏa, gặp đúng Cấn thổ thành cát tường. Nhật can Mậu nếu cùng gặp, bắt thang trèo cây Quế mà gặp vua.
Trọng thấy Bính Đinh là tương khắc, nhất định lấy yểu thọ, bần hàn. Không thấy Bính Đinh gặp Mậu Kỷ, trông nom gia đình giàu có, thóc lúa nghìn kho.
Thủy nhập Tốn nhi kiến kim, danh vi Bất Tuyệt.
( Thủy nhập cung Tốn mà thấy kim, tên là Bất tuyệt)
Thơ ca giải thích: Nhâm Quý sinh nơi Tị địa, gốc là phú quý mà xem. Trụ sợ Mậu Kỷ lấy tai ương, khởi gặp Canh kim là tối cao.
Nhâm thủy thụ khí ở Tị, thủy được mẫu mà trường sinh. Mà có thể sinh thủy, cho nên nói thủy nhập cung Tốn.
Thổ lâm Mão vị, vị trung niên tất định hôi tâm. Kim ngộ hỏa hương, tuy thiểu tráng tất nhiên tỏa chí.
( Thổ đến vị trí Mão, chưa trung niên mà đã nản chí. Kim gặp đất hỏa, dù thanh niên nhất định ghi lấy thất bại)
Thơ ca giải thích: Ngày Kỷ , tháng gạp chỗ Mão, thân cường có chế là quý nhân. Sát nhiều không có chế mà bản thân khinh thì tật khổ mà trong tư tưởng là bất chính.
Canh Tân tính nhu mà Sát vượng, thiếu niên chí nguyện thất bại, không thành. Lấy thành tính khô mà gây nên hình phạt, vượng có chế thì đảm nhận là quý mệnh.
Kim mộc giao soa hình chiến, nhân nghĩa câu vô. Thủy hỏa đệ hỗ tương thương, thị phi nhật hữu.
( Kim mộc giao nhau mà hình chiến, nhân nghĩa đều không có. Thủy hỏa lần lượt cùng nhau thương hại, nhật chủ không phải là đầy đủ)
Thơ ca giải thích: Giáp Ất Canh Tân trái phải, Ất gặp bên trái, phải gặp Canh Tân. Canh Tân Thân Dậu là vượng thần, tính tình yên ổn mà thủy chung.
Lại nói về Quan Sát hỗn tạp, cho nên là không có nhân không có nghĩa. Tài hương phát phúc càng lao tâm, hồ chứa nước đọng tiền của có thể tốt đẹp.
Mộc tòng thủy dưỡng, thủy nhi mộc tắc phiêu lưu.
( Mộc được thủy dưỡng, thủy mà cùng mộc thì trôi nổi)
Thơ ca giải thích: Giáp Ất sinh nơi đất Tý, nhưng gặp 1,2 vì thì thành kỳ. Nhâm Quý Hợi Tý can chi trùng điệp, thì mộc trôi nổi không có chỗ dựa.
Năm Tân Hợi, tháng Canh Tý, Giáp Thân, Ất Sửu có chi kết giao. Năm gặp Đinh Dậu, vận Thân theo thủy mà đắm chìm, Mân Ngô Cát chết.
Kim lại thổ sinh, thổ hậu nhi kim tao mai một.
( Kim đến thổ sinh trưởng, thổ dày mà kim bị chôn vùi)
Thơ ca giải thích: Ngày Canh Tân gặp Mậu Kỷ, Thin Tuất Sửu Mùi đều đủ. Nếu gặp hỏa thổ can chi trùng điệp, thì Thổ trọng mai Kim không có khí.
Dù có kim châu vạn hộc, khó mà trèo cành Nguyệt Quế gặp thần tiên. Nghiên cứu đạo mệnh lý hết sức tinh vi.
Thị dĩ ngũ hành bất khả thiên cách, vụ bẩm trung hòa chi khí. Canh năng tuyệt lự vọng tư, giám mệnh vô soa vô ngoa hĩ.
( Ngũ hành vốn là không thể chấp nhất ở nơi Cách, sự việc vốn là ở khí trung hòa. Lại có thể cắt đứt suy nghĩ ngông cuồng xằng bậy, xem mệnh không có sơ qua, không có nói ngoa vậy)
Thơ ca giải thích: Xem mệnh trước tiên xem nhật chủ, thứ đến nghiên cứu kỹ chi của năm, tháng, giờ. Khử, lưu, cường, nhược ung dung phối hợp, khinh trọng, nông sâu quan sát lý lẽ kỹ càng.
Đoạn nói khí trung hòa, tham khảo thêm vận trình đảm nhận hướng về hay quay lưng. Tam Tài, Thiên Chính phát sinh khi nào, đều ẩn tàng trong Nguyệt lệnh.
(Hết quyển 11)