Các hiền triết đời xưa rất trọng cái đẹp. Ngay từ cuối đời Xuân Thu. Ngũ Cử đã định nghĩa về cái đẹp mà sách “Quốc ngữ – Sở ngữ” đã ghi lại : “Về cái đẹp, trên dưới, trong ngoài, to nhỏ đều vô hại, như vậy gọi là đẹp. Định nghĩa của Ngũ Cử đã chỉ ra đặt trưng về bản chất cái đẹp đó là sự hài hòa.
Trong thực tiển, các triết gia thời xưa luôn luôn tìm tòi hiệu quả của cái đẹp. Trong kiến trúc, từ nhà ở đến cung điện, từ mồ mã đến lăng tẩm, đều thể hiện tư tưởng mỹ học. Tư tưởng mỹ học ấy được các nhà Phong Thủy tiếp thu và truyền bá.
Phong Thủy rất quan tâm đến cái đẹp của đường gấp khúc. Viên Mai đời Thanh viết trong “Thư gởi Hàn Thiện Châu” : “Khúc (gấp khúc) quý ở chỗ có văn (nếp gấp). Trên trời có sao Văn Khúc, không có sao Văn Trực. Gỗ thẳng không có văn (văn gỗ), gỗ cong queo có văn. Nước lặng không có văn (gợn sóng), khi có gió thổi, mặt nước có văn. Núi phải khúc khuỷu, nước phải quanh co, đường phải vòng vèo, cầu phải cong, hành lang phải uốn lượn. “Đường quanh co vào nơi vắng vẻ”. Khúc khuỷu nội hàm sâu sắc, tượng trưng cho tình cảm, quây quần, súc tích.
Nhà Phong Thủy nói có bốn địa hình đẹp :
Một là La thành Châu mật. La thành tức là Sa, Thủy xung quanh huyệt. Sa Thủy bày la liệt như sao trên trời, bảo hộ huyệt như thành trì, vì vậy gọi là La thành. Vị trí cắm huyệt như đại tướng ngồi trong trướng, cờ quạt sĩ tốt sắp hàng hai bên, tám cổng thành khóa chặt chân khí.
Hai là Sa thủy nội triều. Sa thủy bốn bên ôm lấy huyệt địa, các đỉnh đều hướng vào trong, tựa như rất có tình, lại có dáng như cúi chào.
Ba là minh đường rộng rãi. Trong cái địa thế được sơn thủy vây quanh, có một bãi phẳng, nhỏ thì lập được một thôn lớn mới xây được một thành phố.
Bốn là vượng khí bừng bừng, toàn bộ diện tích sinh cơ hừng hực, cây cối xanh tốt, mùa màng tốt tươi.
Phong Thủy còn có mười địa hình xấu :
Một là long phạm kiếp sát phản nghịch. Hai là long có sống lưng sắc như lưỡi kiếm. Ba là huyệt có hung sa ác thủy. Bốn là huyệt có phong khí thổi ra. Năm là Sa có hiện tượng vở lở. Sáu là Sa quay lưng lại huyệt. Bảy là Thủy như cây cung chĩa thẳng vào huyệt. Tám là Hoàng Tuyền đại sát. Chín là phương hướng phạm sinh phá vượng. Mười là phương hướng phạm bế sát thần. Theo Thuật Phong Thủy, các địa hình trên, nếu làm nhà, để mả đều không tốt.
Các sách Phong Thủy miêu tả rất nhiều về vẻ đẹp sông núi, và đã tiến hành phân loại. Như “ Huyền nữ thanh nang hài giác kinh” quyển bốn, khi bàn về đất đai viết : “Đất của thánh hiền nhiều đất ít đá, đất của Tiên, Phật nhiều đá ít đất. Đất của thánh hiền thanh tú kỳ nhã. Đất của Tiên, Phật cổ quái. “Thanh tú” không bỏ đất đi là kỳ, không đem đá đến là tiên. Lành như loan phượng, đẹp như ngọc khuê, nặng như đỉnh vạc, cổ như Hà Đồ Lạc Thư, văn chương để lại tiếng thơm, giàu có khó mà nhất nước. Thanh quang quá lộ, vì quý mà không làm quan, đạo phúc đoan trang, lưu danh thiên cổ, hiếu nhiều phước ít, chùa là nơi ăn ở vạn năm. “Thanh kỳ” như cành mai trong gió lạnh, cốt cách giữ nguyên : hạt trời mảnh mai, thần quang độc kiếm, khúc khuỷu như hoàng nguyên : nhọn như hàng vạn ngọn lửa đốt cháy thuyền, thẳng tuột như trích tượng cao chín tầng mây : vách đá cheo leo như sắp đổ, đỉnh cao khuyết lõm như đỗ nghiêng, không vướng chút bụi trần. Duy chỉ có vầng trăng vằng vặc trên sông, bao la vạn dặm. Không là khách phong trần, thì cũng thanh cao như văn nhân mặc khách”.
Đoạn văn trên miêu tả rất cụ thể thế nào là “thanh tú”, thế nào là “thanh kỳ”. Thánh hiền là những người nhập thế, lấy “thanh tú” làm chuẩn mực cho cái đẹp. Tiên, Phật là những người xuất thế lấy “thanh kỳ” làm chuẩn mực cho cái đẹp. Vật đẹp kiểu “tú mỹ” là hàng mai (cây mai trong gió rét), dã hạc (hạc trời) cốt cách (gày như que củi).
“Quản thị Địa Lý chỉ mông” quyển hai, khi bàn về địa hình, địa thế, cũng miêu tả :”Mây đùng ra khỏi động, rồi tỏa xuống như đàn hươu chạy xuống núi. Từng mảnh từng mảnh sà xuống hàng trăm ngàn mảng nối nhau mà cuồn cuộn trôi đi như con trùng bò theo bờ ruộng, như nhện giăng lưới trước hiên, như hoa văn trên mặt lụa, như sóng gợn trên mặt nước, nhấp nhô liên tiếp.
Lưu Cơ trong “Kham Dư mạn hứng bàn về vẻ đẹp, vẻ đáng ghét và cái thiện của nước. Cái đẹp của nước trong xanh ngon ngọt, mùi vị không nước nào sánh được, nước này do long mạch chảy dài từ suối ngọt mà ra. Mùaxuân không tràn ứ, mùa thu không khô cạn, như vậy mới là nước mạch tốt. Cái đáng ghét của nước là, mùi vị hôi tanh, lại sôi sùng sục như nước sôi. Nước đục màu đỏ, hồng, không tốt. Nhà Phong Thủy đem la bàn đến chỉ uổng công. Cái thiện của nước là, quanh co ôm ấp, phúc dài lâu, một dài quanh co lo phải cầu, lại có nhập hoài và thương bản, ruộng đồng liền thửa quê hương giàu”.
Những quan niệm trên vận dụng vào thực tiễn, đã sản sinh ra nhiều thắng cảnh như Thập tam lăng, Thanh lăng đều rất đẹp.