73. Muốn sinh: tử tức, vượng nhân.
74. Thì tim sinh vị bản thần triều lai
75. Muốn thăng: quan tước, lộc tài
76. Thì tìm Vượng vị, thủy lai hội đường.
77. Cứ nơi mạch ấy cho tường
78. Tả thuận hữu nghịch, đôi đường cho thông.
79. Lập huyệt, tọa hướng, mới dùng
80. Cứ phép bão lại, Huyền Không Ngũ Hành.
81. Cứ như thủy pháp Nang Kinh
82. Kim, Mộc, Thủy, Thổ thông minh như lề
83. Năm hành phỏng luận mộc vi
84. Bính mộc Giáp, Ất, Giáp thì mộc dương
85. Ất là âm mộc đã tường
86. Phỏng đây suy biết âm dương ngũ hành.
87. Cứ đó mà khởi tràng sinh.
88. Giáp sinh tại Hợi, Ất dành Ngọ cung
89. Hợi thuận, Ngọ nghịch hai dòng.
90. Hẳn còn xuôi ngược cho thông một vì
91. Nước sinh nước vượng chầu về
92. Nước Tử, nước Tuyệt chảy đi mặc lòng.
93. Cứ hướng làm chủ bản cung
94. Kim, Mộc, Thủy, Hỏa cho thông hướng nào.
95. Nhất thì được nước sinh vào
96. Nhì thì được nước khắc vào hướng ta
97. Mong sao sinh khắc đến ta.
98. Là nước ấy có ích chí ta hòa dùng.
Áng văn nôm giá trị về thủy pháp này, sau trên nhiều năm nghiền ngẫm, suy nghĩ cách diễn giải, chúng tôi nghĩ rằng với tất cả sự cố gắng, chúng tôi chỉ có thể giải thích được bằng phương pháp sau đây:
1. Trước tiên giải thích các định nghĩa từng câu riêng biệt.
2. Sau nữa mới giải thích tinh thần cả đoạn văn, kèm thêm ví dụ.
Nào trước tiên chúng ta hãy giải thích các định nghĩa từng câu riêng biệt:
73. Muốn sinh: Tử Tức, Vượng nhân.
Muốn đất kết về đinh, muốn nhiều con đỗ đạt.
74. Thì tìm sinh vị, bản thần triều lai
Thì chọn huyệt ở hướng Tràng sinh của thủy.
75. Muốn thăng: Quan tước, lộc tài.
Muốn làm quan to và muốn có nhiều tài lộc.
76. Thì tìm vượng vị, thủy lai hội đường.
Thì phải tìm huyệt ở hướng Đế vượng của thủy.
77. Cứ nơi mạch ấy cho tường
Phải hiểu rõ cả mạch của long, lẫn mạch của thủy.
78. Tả thuận, hữu nghịch, đôi đường cho thông.
Phải hiểu rõ rệt thủy (cũng như long đã nói ở trên) như sau:
a). Nước chảy từ trái sang phải (theo chiều kim đồng hồ quay), (nhìn ở trước huyệt) là dương thủy hay thủy tả thuận hay thủy tả toàn, hay hữu thủy đảo tả.
b). Nước chảy từ phải sang trái (theo ngược chiều kim đồng hồ quay), (nhìn ở trước huyệt) là âm thủy hay thủy hữu nghịch hay thủy hữu toàn, hay tả thủy đảo hữu.
79. Lập huyệt, tọa hướng mới dùng.
Thủy pháp quan trọng cho sự lập huyệt (ấn định huyệt nằm đâu) và tọa hướng (huyệt ngồi đâu mà nhìn vào đâu).
80. Cứ phép bão lai, huyền không ngũ hành. Ngoài hướng sinh và hướng vượng của huyệt, lại còn hướng của thủy bão lại ở trước huyệt. Thủy bão là khúc sông hay suối, ngồi ôm vòng ở trước huyệt. Ta có thể dùng thủy pháp theo Dương công hay Thủy pháp theo Huyền Không ngũ hành.
81. Cứ như thủy pháp năng kinh Nang Kinh là sách Thanh nang kinh về địa lý cổ của Trung Hoa, có nói về phép thủy pháp đúng nhất (sau này có thủy pháp Nang Kinh giả và thủy pháp của các loại sách tên khác nói bậy bạ làm nhiều người lầm).
82. Kim Mộc Thủy Hỏa Thông minh như lề.
Muốn biết thủy pháp, trước hết phải biết đất kết thuộc về cuộc long gì. Chỉ có 4
cuộc long là:
1. Kim cuộc long
2. Mộc cuộc long
3. Thủy cuộc long
4. Hỏa cuộc long
1Nếu khi ngồi ở huyệt mà thấy thủy khẩu phóng về hướng Đông (Quý, Sửu, Cấn, Dần, Giáp, Mão) thì long từ hướng Tây đến. Mà từ hướng Tây long đến, chính là Kim cuộc long.
2. Nếu khi ngồi ở huyệt mà thấy thủy khẩu phóng về hướng Tây (Đinh, Mùi, Khôn, Thân, Canh, Dậu) thì long ở hướng Đông đến. Mà từ hướng đông long đến, chính là Mộc cuộc long.
3. Nếu khi ngồi ở huyệt, mà thấy thủy khẩu phóng về hướng Nam (Ất, Thìn, Tốn, Tỵ, Bính, Ngọ) thì long ở hướng Bắc đến. Mà từ hướng Bắc long đến, chính là Thủy cuộc long.
4. Nếu khi ngồi ở huyệt, mà thấy Thủy khẩu phóng về hướng Bắc (Tân, Tuất, Càn, Hợi, Nhâm, Tý) thì long từ hướng Nam đến. Mà từ hướng Nam long đến, chính là Hỏa cuộc long.
Trên đây chỉ nói về đại cuộc còn tiểu cuộc có khi không luận theo như trên. Sau đó, khi tầm long vài chục bận quý vị sẽ rõ.
83. Năm hành phỏng luận một vì
Phải biết luận ngũ hành theo can và chi:
a). Can Giáp là dương mộc.
Can Ất là âm mộc.
Can Bính là dương hỏa.
Can Đinh là âm hỏa.
Can Canh là dương kim.
Can Tân là dương kim
Can Nhâm là dương thủy
Can Quý là âm thủy
Can Mậu là dương thổ
Can Kỷ là âm thổ.
(Can Mậu và Kỷ không dùng để luận long, vì không có thổ long).
b). Chi Dần là dương mộc.
Chi Mão là âm mộc.
Chi Tỵ là âm hỏa
Chi Ngọ là dương hỏa
Chi Thân là dương kim
Chi Dậu là âm kim
Chi Hợi là âm thủy
Chi Tý là dương thủy
Chi Thìn Tuất là dương thổ
Chi Sửu Mùi là âm thổ.
(Thìn Tuất Sửu Mùi không dùng để luận long vì không có thổ lon).
84. Bính Mộc Giáp Ất, Giáp thì mộc dương
85. Ất là âm mộc đã tường
Nếu bình luận Mộc cuộc thì dùng Giáp và Ất. Nếu gọi là Giáp mộc tức là dương
mộc (Ất là âm mộc).
86. Phỏng đây suy biết âm dương, ngũ hành.
Theo cách gọi đó sẽ biết âm hay dương và có hành kim hay hành mộc, hành
thủy hay hành hỏa (ngũ hành).
Như trên đã nói, nếu ta thấy:
Giáp mộc là dương mộc (tính xuôi)
Ất mộc là âm mộc (tính ngược).
Bính hỏa là dương hỏa (tính xuôi)
Đinh hỏa là âm hỏa (tính ngược).
Canh kim là dương kim (tính xuôi)
Tân kim là âm kim (tính ngược).
Nhâm thủy là dương thủy (tính xuôi)
Quý thủy là âm thủy (tính ngược).
87. Cứ đó mà khởi tràng sinh
Cứ theo đó mà khởi từ tràng sinh, rồi đến Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng.
88. Giáp sinh tại Hợi, Ất dành Ngọ cung.
Ví dụ:
a). Nếu là dương mộc thì:
1. Tràng sinh ở Càn Hợi
2. Mộc dục ở Nhâm Tý
3. Quan đới ở Quý Sửu
4. Lâm quan ở Cấn Dần
5. Đế vượng ở Giáp Mão
6. Suy ở Ất Thìn
7. Bệnh ở Tốn Tỵ
8. Tử ở Bính Ngọ
9. Mộ ở Đinh Mùi
10. Tuyệt ở Khôn Thân
11. Thai ở Canh Dậu
12. Dưỡng ở Tân Tuất.
b). Nếu là âm mộc thì đi nghịch:
1. Tràng sinh ở Bính Ngọ (Ất dành Ngọ Cung).
2. Mộc dục ở Tốn Tỵ
3. Quan đới ở Ất Thìn
4. Lâm quan ở Giáp Mão
5. Đế vượng ở Cấn Dần
6. Suy ở Quý Sửu
7. Bệnh ở Nhâm Tý
8. Tử ở Càn Hợi
9. Mộ ở Tân Tuất
10. Tuyệt ở Canh Dậu
11. Thai ở Khôn Thân
12. Dưỡng ở Đinh Mùi.
89. Hợi thuận ngọ nghịch mới dùng
Nếu tràng sinh của mộc mà ở Hợi, ta cho đi thuận, còn nếu tràng sinh của mộc mà ở Ngọ, ta cho đi nghịch.
90. Hẳn còn xuôi ngược, cho thông một vì.
Cứ tính xuôi ngược như thế cho thông đi, trên là mới tính có Mộc cuộc. Ta lại còn phải tập tính cả:
Kim cuộc
Hỏa cuộc
Thủy cuộc nữa
Cũng theo phép như của Mộc cuộc vừa nói, cho thật thông thì ra ngoài đồng mới tầm long, điểm huyệt nhanh được.
91. Nước sinh nước vượng chầu về.
Cứ đến chỗ nào là tràng sinh hay đế vượng của thủy mà có nước chầu về hay có nước tụ là ta được nước sinh hoặc nước vượng cho huyệt.
92. Nước tử, nước tuyệt chảy đi mặc lòng.
Nước Tử và nước tuyệt là xấu nhất không được tụ, không được đến mà phải để cho nó chảy đi. Khi điểm huyệt ta thu sinh, vượng và tránh tử tuyệt của nước cho khéo.
Cụ Tả Ao gọi là:
Thu: minh sinh, phóng: ám tử.
Cụ có câu thơ về việc này như sau:
Minh Sinh, Ám tử, vô di
Coi đi coi lại, quản chi nhọc nhằn.
Có nghĩa là:
Phải thu nước sinh vượng, phóng nước Tử tuyệt.
Phép này quan trọng không di dịch được.
Phải chịu khó nhọc coi đi lại cho kỹ, cho chắc chắn. Bởi đất kết do long mà họa phúc lại do thủy.
93. Cứ hướng làm chủ bản cung
Phải lấy hướng huyệt làm chủ (Theo phép của Huyền không ngũ hành).
94. Kim mộc thủy thổ chô thông hướng nào.
Ví dụ hướng huyệt mà hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ thì ta phải chọn nước hướng nào? Và chọn làm sao?
Ta chọn như dưới đây:
95. Nhất thì được nước sinh vào
Nhất thì hướng thủy phóng phải sinh hướng huyệt (theo huyền không ngũ hành).
96. Nhì thì được nước khắc vào hướng ta.
Nhì thì hướng thủy phóng phải khắc hướng huyệt (theo huyền không ngũ hành).
97. Mong sao sinh khắc đến ta
Chỉ cần sinh nhập (nước sinh hướng huyệt), hoặc khắc nhập (nước khắc hướng huyệt).
98. Là nước ấy có ích chi ta hòa dùng.
Ngoài thủy pháp của Dương công ta chỉ nên dùng loại thủy pháp của Huyền không ngũ hành đó mà thôi. Trừ Dương công thủy pháp chỉ loại nước đó mới hữu ích.
Thật ra trường hợp đặc biệt mới dùng đến phép Huyền không Ngũ hành. Chỉ nên cố gắng dùng Dương công thủy pháp.
- Quý vị đọc đến đây cũng vẫn chưa dùng được nếu không hiểu điều bí hiểm của
Huyền Không ngũ hành sau đây:
Phép ngũ hành thường ta có:
Bính là hỏa Ngọ là hỏa.
Giáp Ất là mộc v.v...
Còn phép ngũ hành của Huyền Không khác ngũ hành thường như sau:
Ất Dậu Bính Đinh nguyên thuộc Hỏa.
Kiền Khôn Mão Ngọ Kim đồng tọa
Hợi Quý Cấn Giáp thị Mộc thần
Dần Thân Tân Tốn Kiêm Tý Tỵ
Hợp dữ Thìn Nhâm bát Thủy thần.
Dịch nghĩa:
Theo huyền không ngũ hành thì:
Ất Dậu Bính Đinh hành hỏa
Kiền Khôn Mão Ngọ hành kim
Hợi Quý Cấn Giáp hành mộc.
Dần, Thân, Tân, Tốn, Tý, Tỵ, Thìn, Nhâm hành thủy
Có phép chỉ dùng huyền không ngũ hành cho hướng huyệt và hướng thủy khẩu, lại có phép dùng cho cả nước lại và nước triều. Chúng tôi sẽ giải thích nó kỹ lưỡng sau này, ở những bộ sách kế tiếp.
Nhưng nếu biết coi phép Hồng Phạm Ngũ Hành ta sẽ biết năm nào thì kết phát. Đây là đi đến chỗ cao và bí hiểm nhất của khoa địa lý. Các vị chân sư truyền dạy cho chúng tôi không muốn chúng tôi phổ biến những bí hiểm như vậy quá rộng rãi, mà chỉ được truyền cho những vị nào mà được các chân sư xét là đáng.
Thật ra, không phải là các Chân sư muốn cho khoa địa lý sẽ thất truyền, mà thật ra các vị đó sợ đời học chưa đến nơi đến chốn, đã vội hành nghề, sẽ có nhiều sai nhầm, và như thế dĩ nhiên là có hại cho người xin để đất, tổn phúc cho thầy để đất, người truyền cũng có phần nào ân hận. Để dung hòa hai quan niệm mâu thuẩn nhau như trên, chúng tôi sẽ tìm cách lưu lại bí mật đó cho đời sau, bằng cách mỗi sách chúng tôi cho vào một số bí quyết. Các vị nào có tâm đạo, chỉ muốn biết khoa địa lý để báo hiếu cho cha mẹ, mà không hề có tham vọng hành nghề địa lý để kiếm ăn, sẽ gặp rất nhiều cơ duyên để thành đạt về khoa này. Xưa kia, các cụ chân nho nghiên cứu địa lý, chỉ mong tìm được một đến hai ngôi đất để báo hiếu cho cha mẹ là đủ mãn nguyện.
Như vậy khoa địa lý sẽ không bị thất truyền mà vị nào quyết tâm vẫn học được nó.
Ngay trong bộ này, quý vị nào có nhiều kinh nghiệm và nhiều hiểu biết về địa lý, đã thấy chúng tôi xen kẻ trong các câu giải thích, trong đó đây ở bộ sách này, những ẩn ý đặc biệt, liên quan rất nhiều đến toàn bộ kiến thức bậc cao của khoa địa lý.
( phản phúc hoàng tuyền kị nước hướng đó đến )
Canh Đinh, Khôn thượng thị Hoàng Tuyền
Khôn hướng , Canh Đinh bất khả ngôn
Ất Bính tu phòng Tốn thũy tiên
Tốn hướng, Ất Bính họa diệc nhiên
Giáp Quý hướng trung hưu kiến Cấn
Cấn kiến Giáp Quý hung bá niên
Tân Nhâm thũy lộ phạ đương kiền
Kiền hướng Tân Nhâm họa mạn thiên
Lập huyệt khai môn nhằm hướng đó có nước đến chủ sát nhân, xuyên tỉnh (đào giếng) nhằm hướng đó củng bị vậy.
Hưóng hoàng tuyền có cửa đối diện hoặc không khuyết, hoặc đường mương rõ hay kín, góc nhọn nhà, đường lộ hay cột cờ ngay trước nhà, một khi năm Đô thiên tới sơn thì tai họa đến nhanh , cửa dù mở Phúc Đức củng vẩn bị
Có bài thơ về hoàng tuyền thủy sát của cổ nhân mà cho đến nay không ít người nhầm lẫn , và không hiểu về cách tính về nó, ngay cả người nghiên cứu sâu về phong thủy vẫn cứ nhầm lẫn nguy hiểm về vấn đề này
Tại sao lại là - Canh đinh khôn hướng thị hoàng tuyền ?
Cổ nhân chỉ nói là hướng canh đinh , nếu gặp nước ở phương khôn chaỷ đến thì bị hoàng tuyền thủy sát, nhưng ngừoi đời nay có mấy người hiểu nghĩa của nó đâu, ý nghĩa đúng bản chất của câu này là: nhà cửa hay mồ mả nếu lập hướng Canh, Đinh, thì ta phải hiểu là ngược lại với hướng là sơn , canh hướng thì sơn giáp, đinh hướng thì sơn quý, vậy Tọa giáp tính khởi trường sinh tại hợi, đế vượng tại mão , mộ tại mùi, TUYỆT TẠI THÂN, mà trong bát quái phong thủy thì khôn thân là song sơn ngũ hành , khôn thân đồng một nhà , vậy nhà hướng Canh, gặp khôn thân là vị trí tuyệt của sơn Giáp nên mới nói là hoàng tuyền thủy sát
Nhà hướng Đinh thì tọa sơn Quý, vậy quý là âm can nên khởi trường sinh tại mão, đế vượng tại Hợi, mộ tại Mùi, tử tại thân, vậy nhà hướng Đinh thì đương nhiên là Sơn Quý thì Quý tử tại thân , vậy thơ mới nói là : đinh canh khôn hướng thị hoàng tuyền
Do đó lấy một câu quyết trên để giải nghĩa cách tính khởi trường sinh của ngũ hành quá rõ ràng
Nhưng người xưa làm thơ để cho người sau dễ học dễ nhớ nên khó nói chi tiết được, nên hiện nay tôi thấy có quá nhiều người không hiểu đúng bản chất , ngay cả sách PT của Cụ Việt Hải, sách Cụ viết rất bổ ích, phải công nhân là cụ sưu tầm rất nhiều , nhưng đến khi đọc phần giải thích về Hoàng tuyền thủy thì tôi thấy Cụ giải thích không đúng, ngay cả quan điểm Tọa Không hướng mãn tôi thấy cụ cũng chưa giải thích thấu đáo , vì tọa không triều mãn là cách sơn điên thủy đảo dựa vào huyền không tam nguyên, nếu ai không nghiên cứu kỹ huyền không cứ theo thuyết tọa không triều mãn ở bình dương thì thật là tai họa. qua ví dụ như trên, nếu ai không hiểu bản chất thì chỉ kiêng kị y xì như trong thơ , nghĩa là trong bài quyết thì mỗi hướng chỉ tránh có một vị trí trong mỗi câu thơ, hoặc là tử, hoặc là tuyệt, vì vậy nếu ta hiểu cách khởi trường sinh của ngũ hành dựa theo tọa sơn thì sẽ biết được đâu là sinh, vượng để mở cửa, cho nươc chảy đến, đâu là suy, bệnh , tử,mộ, tuyệt, để cho nước chảy đi.
Sau đây là bài thơ đầy đủ về hoàng tuyền thủy sát
Đinh canh khôn hướng thị hoàng tuyền
Khôn hướng đinh canh thiết mạc ngôn
Tốn hướng kỵ hành ất bính thương
Ât bính tu phòng tốn thủy tiên
Giáp quý hướng trung ưu kiền cấn
Cấn phùng giáp quý họa liên liên
Tân nhâm kiền lộ tối nghi kỵ
Kiền hướng tân nhâm họa diệt nhiên
Bài thơ trên đây đều lấy lập hướng để tránh hoàng tuyền thủy sát, nhưng để hiểu bản chất thì ta phải lấy hướng tọa để khởi trường sinh, cách khởi trường sinh thì y nguyên như trong Tử Bình, ( âm sinh dương tử, dương sinh thì âm tử ) từ đó ta sẽ biết được chỗ nào là sinh vượng thì mở cửa, cho nước chaỷ đến, còn chỗ nào suy, bệnh, tử, mộ tuyệt thì cho nước chảy đi về bát quái thì cùng nhà, hay cùng một tính chất ngũ hành như nhâm tý là một , quý sửu , cấn dần, giáp mão....
31. Tính chất tốt xấu của hai mươi tư sao quản hai mươi tư cung sơn hướng
1 – Sao Phúc đức: là sao đại cát
Hướng nhà có sao phúc đức chiếu thì được hưởng giầu sang, tăng tiến về tài – lộc, tăng nhân khẩu, trăm sự đều tốt.
- Khai môn phúc đức đại cát xương
- Niên niên tấn bảo đắc điền viên.
- Chủ tăng điền địa, kim ngân khí.
- Hữu sinh quý tử bất tầm thường.
2- Sao Ôn hoàng: Là sao xấu.
Chủ về bệnh tật. Gây ra tai ách về thủy , hỏa.gây nên hao người tốn của.
- Ôn hoàng chi vị mạc khai môn,
- Tam niên ngũ quỷ gặp tai ôn.
- Cành hữu ngoại nhân gặp tự ải.
- Nữ nhân sinh nở gặp nan tồn.
3 – Sao Tiến tài: là sao tài tinh.
Chủ về tiền của, nhân khẩu tăng, cửa nhà thịnh.
- Tiến tài chi vị thị tài tinh.
- Tại thử an môn bách sự thành.
- Lục súc điền viên, nhân khẩu vượng.
- Gia quan, tấn tước, hữu thành danh.
4 – Sao Trường bệnh: là sao xấu.
Chủ về bệnh tật, ốm đau về tim, có khi chết trẻ, gia tài tổn thất.
- Trường bệnh cung vi tật bệnh trùng.
- Thử vị an môn lập cát hung.
- Gia trưởng hộ đinh mục tất loạn.
- Thiếu niên bạo tử, lao ngục trung.
5 – Sao Tố tụng : là sao xấu.
Chủ về kiện tụng, mâu thuẫn, rắc rối, tổn thất về tiền tài, có khi mất cả cơ nghiệp. Tai họa hay đến bất ngờ, gia đạo không yên , miệng tiếng.
- Tố tụng an môn gặp bất thường.
- Đoài sơn họa đến, mắc tai ương.
- Đất đai, tài vật, ân nhân hoại,
- Còn mang khẩu thiệt, não nhân trường.
6 – Sao Quan tước : Sao chủ về thành đạt.
Thăng quan tiến chức, nhân khẩu, tiền tài tăng tiến, gia sản phát đạt thịnh vượng. Người trong nhà thông minh, học giỏi, hiếu thuận.
- Cửa khai quan tước tối cao cường.
- Thăng quan, tiến chức , nhập đề hương.
- Đinh nhân, điền địa, tiền tài vượng.
- Thiên bang cát khánh, tổng tương dương.
7 – Sao Quan quý : là sao tốt.
Sinh con quý tử, học hành đỗ đạt, chức vị. Trường thọ, phúc đức, tiền của lâu bền.
- Quan quý cung phương, hảo an môn .
- Định chủ danh vang, vị tước tôn.
- Điền địa thứ hai, nhân khẩu vượng.
- Kim ngân, tài vật phát bá vương.
8 – Sao Tự ải : là sao xấu.
Chủ về tai ương hoạn nạn dẫn đến tự tử. Chăn nuôi, sản xuất không lợi. Nam xa phương, Nữ dễ gặp nạn khi sinh nở.
- Tự ải vị thượng bất tương dương.
- Khai môn kiến lập gặp tai ương.
- Đao binh, hắc đạo hoàn hành sự.
- Ly nhân tự ải, nữ nhân thương.
9 – Sao Vượng trang : là sao tốt
Chủ về tài lộc, tăng tiến làm ăn phát đạt, nhân khẩu tăng, có bảu vật.
- Vượng trang khai cửa đa cát lợi.
- Tấn tài, tấn bảo, cập điền trang.
- Bắc nhân, thủy âm nhân tấn cát.
- Đại hoạch tằm tơ thắng lợi thường
10 – Sao Hưng phúc : là sao cát.
Chủ về trường thọ, hiếu nghĩa, phúc đức. Thăng quan tiến chức, có tài lộc. Gia đình hạnh phúc.
- Hưng phúc khai môn thọ khang cường.
- Niên niên , tứ quý ít tai ương.
- Sỹ nhân tiến chức, đa quan lộc.
- Đinh nhân phát phúc, tiến điền, lương.
11 – Sao Pháp trường: Là sao xấu.
Chủ về tai ương, hoạn nạn. nhân đinh giảm, tha phương, quan trường.
- Pháp trường là hướng đại hung ương.
- Nhược an thử vị thọ thương trường.
- Phi tai lao ngục, phi đa sảo.
- Lưu đồ phát phối, xuất tha hương.
12 – Sao Điên cuồng : là sao xấu.
Chủ về dâm tà, điên cuồng, nam phóng đãng rượu chè, cờ bạc, nghiện hút. Gia đình bất an. Hao tiền tài, nữ sinh nở khó khăn.
- Điên cuồng cung hướng chớ khai môn.
- Sinh ly tử biệt lẫn tai ương.
- Mất đất ,mất người, thêm khẩu thiệt.
- Nước lửa ôn hoang, tuyệt diệt thêm.
13 – Sao Khẩu thiệt: Là sao xấu.
Chủ thị phi, miệng tiếng, tai họa đến bất ngờ.Mọi việc không thuận, Gia đình bất hoà.
- Khẩu thiệt khai môn tới bất thường.
- Hay gặp gian nan , lắm tai ương.
- Phu thê tương tiễn, nhật trực hữu.
- Vô đoan huynh đệ đấu tranh cường.
14 – Sao Vượng tàm: là sao tốt.
Chủ vượng về tài sản, ruộng đất, . Thịnh phát về nghề trồng dâu, nuôi tằm. Tiền tài, nhân khẩu tăng. Ưa làm việc thiện.
- Vượng tằm đại cát hảo tu phương.
- Thứ vị an lai gia đạo xương.
- Lục súc tằm tơ giai đại lợi.
- Tọa thân lúa gạo mãn giang đường.
15 – Sao Tấn điền: là sao tốt.
Chủ phúc trạch dồi dào,nhà cửa ruộng đất nhiều. ưa làm việc thiện, sự nghiệp thành đạt.
- Tấn điền vị thượng phương miên mien.
- Thường chiêu tài bảo, tử tôn hiền.
- Cảnh hữu ngoại nhân lai kỷ vật.
- Kim ngân tài bạch phú điền viên.
16 – Sao Khốc khớp : là sao xấu.
Chủ sự than khóc, gặp sao này chiếu đến thì hay sẩy ra tai họa ,dễ mắc ôn dịch,bệnh truyền nhiễm, có khi chết trẻ. Gia tài tiêu tán dẫn đến phá sản.
- Khốc khấp sơn hướng bất khả khai.
- Hàng năm tai họa đến nhà hoài.
- Uổng tử thiếu nam, vong tổn nữ.
- Bi ai hung họa, phá đinh tài.
17 – Sao Cô quả : Là sao xấu.
Chủ cô đơn,góa bụa, gặp sao này chiếu đến thì cơ nghiệp phá sản, gia đình tan nát, người nhà phải sống tha phương.
- Cô quả tại phương là đại hưng.
- Tu chi chi quả phụ tựa đường chung.
- Lục súc điền tàn, hay tổn hại.
- Cánh liêm nhân tán tẩu tây đông.
18 – Sao Vinh phú : là sao tốt.
Chủ về phú quý, vinh hoa, điền sản. Nhân đinh tiền của tăng tiến, chăn nuôi phát đạt. Gia đình hạnh phúc, con cháu học hành đỗ đạt, thật là đầy đủ vinh hoa phú quý.
- Vinh phú vị thượng đại cát xương.
- Khai môn nhân vượng , chẳng tai ương.
- Phát tích toàn gia, vô sự hại.
- Phú quý vinh hoa mãn triều đường.
19 – Sao Thiếu vong : Là sao sấu.
Chủ về rượu chè cờ bạc, hoang phí, chơi bời quá độ, phá sản. tuổi trẻ đã sinh nhiều bệnh tật, có khi chết yểu. Phụ nữ bệnh khó khỏi thậm chí còn tự ải
- Thiếu vong cung hướng bất khả đoài.
- Nhất niên chi nội khóc thinh hoài.
- Háo tửu, âm nhân, cờ bạc hại.
- Lôi môn tự ải, tử thương ai.
20 – Sao Xương dâm : là sao xấu.
Chủ về hoang dâm, vô độ, bại hoại gia phong, gia đình vô đạo đức, điền sản lụn bạị.
- Xương dâm chi vị, bất khan tu.
- Tu chi dâm loạn vạn sự tu.
- Thất nữ hoài thai tùy nhập định.
- Nhất gia đại tiểu bất tài tu.
21 – Sao Thân hôn: là sao tốt.
Chủ về hôn nhân, tiền tài, nhân khẩu tăng tiến, điền địa chăn nuôi phát đạt, vạn sự hanh thong. Hợp với người mệnh hỏa.
- Thân hôn vị thượng hảo tu phương.
- Tu cho nhân quả chúng hiền lương.
- Đương thời lai vãng đa cát khánh.
- Kim ngân tài bảo mãn thường thường.
22 – Sao hoan lạc: là sao tốt.
Chủ về tiền của, làm ăn phát đạt. Phụ nữ gặp thuận lợi. Hợp với người mệnh thủy.
- Hoan lạc muôn tu định tam tài.
- Thường hữu nhân ân vị tổng lai.
- Điền tằm lục súc giai hưng vượng.
- Phát phúc thành danh thị an bài.
23 – Sao Tuyệt bại ; là sao xấu.
Chủ về phá tài, tuyệt tự. Gia đình chia ly,có người tự ải hoặc chết đột ngột.Gia sản suy bại , phá tán.
- Tuyệt bại chi phương bất khả lâu.
- Làm nhà hướng ấy chỉ thêm sầu.
- Nhân đinh tổn thọ, không công việc.
- Phụ tử đông tây tác tự cầu.
24 – Sao Vượng tài :là sao tốt.
Chủ trường thọ,phú quý.Sản nghiệp, nhân khẩu đều tăng tiến, đời sống sung túc, tôn trọng đạo hiếu, hợp với người mệnh hỏa.
- Vượng tài môn phương yếu quyên tri.
- Phú quý long phương,nhân phát uy.
- Hiếu đạo nhân đinh gia nghiệp thắng
-Nhất sinh phong hậu thọ suy tề.
32. Thanh Long, Bạch Hổ, Huyền Vũ, Chu Tước
Có 4 vật được người đời mệnh danh là tứ linh gồm:
1. Tả Thanh Long (rồng xanh ở bên trái).
2. Hữu Bạch Hổ (hổ trắng ở bên phải).
3. Tiền Chu Tước (con chim trĩ màu đỏ ở phía trước).
4. Hậu Huyền Vũ (sao huyền vũ ở phía sau).
Trong đó:
- Bạch Hổ là linh vật thiêng liêng có tượng là hình con hổ, có màu trắng (bạch) là màu của hành Kim ở phương Tây, do đó tương ứng với mùa thu.
Trong Phong thủy, Bạch Hổ tương ứng với thế đất cao
- Thanh Long là linh vật thiêng liêng bậc nhất trong Tứ tượng, thời cổ đại gọi là Thương Long, có tượng là hình rồng, có màu xanh, màu của hành Mộc ở phương Đông, do đó tương ứng với mùa xuân.
Trong đó Giác là hai sừng của rồng, Cang là cổ của rồng, Đê là chân trước của rồng, Phòng là bụng của rồng, Tâm là tim của rồng, Vĩ là đuôi của rồng, Cơ là phân của rồng. Bảy chòm sao này xuất hiện giữa trời tương ứng với mùa xuân.
Hai sao Phòng và Tâm là gần nhau nhất trong cung Thanh Long, có nhiều đặc điểm tương đồng về độ sáng, cấu tạo, chu kỳ, ... nên thời được ví như hai chị em sinh đôi.
Trong phong thủy, đại long mạch thì Thanh Long tương ứng với các dãy núi dài, hoặc dòng sông dài. Chẳng hạn với thành Thăng Long (Hà Nội ngày nay) thì sông Hồng chảy ở phía Đông là thế Thanh Long. Đối với kinh thành Huế thì cồn Hến ở giữa sông Hương, ở về phía đông là Thanh Long.
Một số lưu ý về Phong thủy khi sử dụng Thanh Long, Bạch Hổ:
Tả Thanh Long, hóa giải tiểu nhân
Nếu đặt Thanh Long (Rồng Xanh) ở hướng rồng của ngôi nhà thì những kẻ tiểu nhân không dám gây sự quấy nhiễu. Hay khi hướng Bạch Hổ của ngôi nhà khí vận Phong Thủy quá xấu, thì nên bày Thanh Long ở hướng rồng, để hóa giải tai ách do Bạch Hổ gây ra.
Là con vật đứng đầu trong các loài thú lành, nên ngoài việc hóa sát nó còn tăng cường phát huy quyền lực, người có chức vụ cao dùng nó có hiệu quả càng lớn. Bên cạnh đó, Thanh Long rất phù hợp cho người làm việc hành chính hoặc hoạt động chính trị, giúp chống lại những lời dèm pha và tăng cường quyền uy. Có thể đặt Thanh Long bằng ngọc (tốt nhất), bằng đá, bột đá… ở góc trái bàn viết tượng trưng cho Tả Thanh Long. Và để loại bỏ hết những khó khăn, trở ngại do bọn tiểu nhân gây ra thì rồng xanh còn có thể bày ở bên trái nhà ở, như vậy hiệu quả sẽ càng tốt hơn.
Sách có câu: “Tiểu nhân hưng ba trở trệ đa, Thanh Long nhất điều khứ kỳ ác”, nghĩa là "nếu bị kẻ tiểu nhân tác oai tác quái gây khó khăn ách tắt, thì hãy dùng một con rồng xanh trừ khử hết mọi điều xấu do nó gây ra".
Vì Thanh Long được coi là một loại thú lành, người ta đồn rằng nếu như người đàn bà nào trước khi sinh nở mà nằm mơ thấy rồng, thì đứa bé trai được sinh ra chắc chắn sẽ hơn người.
Tuy nhiên muốn trưng Thanh Long để tránh tiểu nhân thì phải trưng vào dịp ngũ long nhật, cụ thể là các ngày “Giáp Thìn”, “Bính Thìn”, “Mậu Thìn”, “Canh Thìn” và “Nhâm Thìn” thì hiệu quả mới nổi bật.
Một số lưu ý về Rồng trong Phong Thủy
- Khi trưng bày không nên đặt hướng đầu Rồng về phòng ngủ, nhất là phòng ngủ trẻ em.
- Rồng là biểu tượng của Hoàng đế, của người quân tử. Rồng có khả năng dùng hơi thở thổi ra nguyên khí trời đất, nguyên khí này chính là nền tảng của học thuật Phong Thuỷ.
- Hình dạng của núi sông, thung lũng, các khối nhà, đường xá đều có liên quan đến các bộ phận của Rồng như đầu, mình, thân, đuôi, móng vuốt và viên ngọc rồng từ đó ảnh hưởng đến vị trí Phong Thuỷ.
- Rồng có sức mạnh tạo ra tiết khí, mưa giông, ánh sáng từ mặt trời, gió biển và đất đai. Rồng biểu trưng cho năng luợng của đất trời, là vật siêu phàm của Phong Thuỷ.
- Rồng bằng ngọc, đá quý mang nguyên khí Thổ, trong vận 8 là cát khí đem lại sự may mắn về công danh, tài lộc. Bày ở các hướng Tây Nam hoặc Đông Bắc trong phòng khách hoặc phòng làm việc,ở cửa hàng kinh doanh buôn bán !
33. Thuận Thủy - Nghịch Thủy
Thuận thủy là căn cứ theo phương hướng của cửa chính và dòng nước hay con đường phía trước cửa chính. Trong vị thế cửa chính như đón hướng đi của dòng nước hay hướng đi của dòng xe cộ lưu chuyễn thì như là đón thủy khí vào nhà, tức là nghịch thủy. Trong vị thế cửa chính quay xuôi theo dòng nước hay chiều đi của xe cộ trước nhà thì coi như là thủy khí từ nhà theo dòng này mà thoát ra nên đây là tống thủy khí đi, là thuận thủy, là mất thủy khí.
Thủy Pháp Tường Sinh rất quan trọng khi thiết kế xây dựng nhà mới. Nó chính là việc điều tiết dòng Khí ra vào của căn nhà nhờ vào dòng nước cho phù hợp với Thiên Môn - Địa Hộ của căn nhà. Đây chính là hướng đường cấp , thoát khi tiến hành tính toán cụ thể khi thiết kế. (.lần sau có thời gian tôi sẽ nói rõ hơn)
34. Nguyên Tắc Cơ Bản Của Phong Thủy Âm Trạch
1 . Rồng đến có thế , phát mạch từ xa
Việc lựa chọn âm trạch , đầu tiên phải xem thế đến của sơn mạch trên phạm vi vĩ mô . Trong phong thuỷ gọi núi đến từ xa là thế , núi ở nơi gần là hình , trước tiên bàn về thế sau bàn về hình , hình là do thế quyết định .Trong ” Táng thư . Nội thiên ” có ghi : “Thượng địa chi sơn , nhấp nhô liền giải , là đến từ trời . Như sóng nước , như ngựa phi , thế đến như bay , như long như loan khi cao lên lúc trũng xuống , như đại bàng bổ xuống , như con thú quỳ , vạn vật đều tuân theo ” .
Ở đây viết ” Thượng địa chi sơn ” là núi nơi mai táng , đặc điểm của nó là : núi non nhấp nhô trùng điệp , như từ trên trời kéo xuống , như vạn mã phóng bay , hình thành thế lai long , khí thế hùng vĩ “.Thầy phong thuỷ lại cho rằng : thế lai long lại uốn lượn uyển chuyển , là rất tốt cho sự hình thành sinh khí to lớn , cho nên trong ” Táng thiên . Nội thiên ” lại ghi : ” Địa thế nguyên mạch , sơn thế nguyên cốt , uốn lượn Đông Tây hoặc là Bắc Nam , ngàn thước là thế , trăm thước là hình . Thế đến hình dừng , là nơi toàn khí . Đất toàn khí an táng phù hợp ” .Chính vì thế rồng đến khí thế to lớn có ” Toàn khí ” cho nên có đặc điểm ” Đất cao nước sâu , cây cỏ tươi tốt ” . Các nhà phong thuỷ thường căn cứ vào thế lai long lớn nhỏ để xác định đẳng cấp phú quý , vì vậy trong ” Táng thư . Tạp thiên ” có ghi : ” Thế như vạn mã từ trên trời dẫn xuống , táng vương giả . Thế như sóng lớn núi non trùng điệp , táng thiên thừa . Thế như giáng long nước vòng mây lượn , táng tước lộc tam công . Thế như nhà cửa san sát , cây cỏ xanh tươi , táng khai phủ kiến quốc …” .
Không nói đến mối quan hệ giữa thế lai long lớn nhỏ và đẳng cấp phú quý , trong đó có nói đến núi non trùng điệp , nước vòng mây lượn , cây cỏ xanh tươi v.v …, rất rõ ràng đã thể hiện sự tìm kiếm của con người với môi trường tự nhiên đẹp đẽ . Con người hy vọng rằng sau khi chết đi sẽ trở về trong lòng của đại tự nhiên , tìm kiếm môi trường táng địa lý tưởng là biểu hiện một loại quan niệm về môi trường của người cổ đại . Thế của rồng đến thường có quan hệ với phát mạch xa xôi . Phát mạch của rồng đều ở nơi những dãy núi hội tụ , cho nên mới gọi là ” Lai long thiên lý ” , ý nói là huyệt vị phong thuỷ thường có quan hệ với đầu nguồn của long mạch , chỉ có sơn mạch to lớn mới có thể hình thành chi long dài rộng . Như vậy rồng mới có khí thế , huyệt cũng mới có sinh khí .
Trong phong thuỷ lấy quan hệ ” Tổ tông ” để biểu thị giữa can long ( rồng chính ) và chi long ( rồng nhánh ) . ” Địa lý giản minh ” có ghi : ” Nơi phát mạch của đại long phải là nơi gặp gỡ của núi cao đỉnh lớn , gọi là thái tổ ; từ đó mà xuống , lại có đỉnh cao , gọi là thái tông ; thế núi quanh co uốn khúc , lại có đỉnh cao , gọi là thiếu tổ . Từ đây núi thiếu tổ đi xuống , có cao có thấp , nhưng lấy tiết tinh thứ nhất đặt đằng sau đỉnh huyền vũ gọi là phụ mẫu ” .Vì vậy , khi xem thế núi phải xem kỹ hình thế của thái tổ , thái tông , thiếu tổ , thiếu tông , phụ mẫu , sau đó mới trên cơ sở núi phụ mẫu và dựa theo lý luận thai tức dựng dục của người để tìm nơi tồn tại của sinh khí , tức là tìm huyệt .
2. Lớp lớp che chắn , từ xa đến gần
Như trên đã nói hình thế to lớn của rồng có quan hệ với phát mạch từ xa , nhưng phát mạch từ xa không phải từ đầu đến cuối là một đường thẳng , mà phải có lớp lớp che chắn , có tầng tầng lớp lớp hộ vệ chủ mạch.
Đúng như trong ” Táng thư ” đã ghi : ” Thế như vạn mã từ trên trời rơi xuống , hình dáng như có từng lớp lang ” , hình pháp gia cho rằng núi mà không có che chắn thì chủ long sẽ cô đơn , che chắn càng nhiều càng cát tường , vì vậy ” Địa học giản minh . Long khai chương ” đã nói một cách tổng quát : ” Long như mở đường mà đi , là có lực nhất , kim thuỷ mão là trên , thuỷ tinh là thứ , phải có hình dáng như tấm che chắn , được như vậy mới tốt ” .
3 . Tứ cục phân minh , bát long hữu dị
Nhà phong thuỷ cho rằng , hình thế của lai long nhìn từ phía bên ngoài có thể chia làm năm loại : tức ” ngũ thế - chính thế , trắc thế , nghịch thế , thuận thế , hồi thế ” , cụ thể biêủ hiện là : ” Long Bắc phát triều Nam đến là chính thế . Long Tây phát Bắc làm huyệt , Nam làm triều , là trắc thế . Long nghịch thuỷ thượng triều , thuận thuỷ hạ thử là nghịch thế .
Thân long quay về núi tổ làm triều , là hồi thế ” . Hiển nhiên , đây là cách chia của phái hình pháp , lấy hình thế tự nhiên của thân núi để đánh giá lợi hại của môi trường âm trạch , trộn lẫn giữa quan niệm duy vật và duy tâm . Phái lý khí khi bàn về hình thế , chủ yếu dựa vào Ngũ tinh Bát quái và phương vị .Nhà phong thuỷ căn cứ ngũ tinh ở trên trời đối ứng với ngũ hành của núi sông , cho rằng hình núi trên đất , dốc thuộc Mộc , nhọn thuộc Hoả , vuông thuộc Thổ , tròn thuộc Kim , dài thuộc Thuỷ . Lại dùng lý luận tương sinh tương hợp của ngũ tinh để suy đoán tài quan ấn lộc , dùng 24 sơn hướng để chỉ rõ hướng táng khác nhau .Hướng Đông thuộc Mộc long , hướng Nam thuộc Hoả long , hướng Tây thuộc Kim long , hướng Bắc thuộc Thuỷ long . Gọi là tứ cục . Lại theo phép tăng giảm của Âm Dương , bốn loại long cục đều có phân Âm Duơng , bắt đầu là Âm long , thịnh là Dương long …
4 . Huyệt trường phân minh , huyệt hình đa dạng
Môi trường âm trạch về mặt vĩ mô phải là nơi khí thế to lớn , về mặt vi mô phải có huyệt trường rõ ràng . Phạm vi của huyệt trong phong thuỷ rất nhỏ thường gọi là ” Huyệt tám thước ” , là một miếng đất tấc vuông ” Thừa sinh khí , trú tử cốc ” , vả lại vị trí rất khó tìm chuẩn , vì vậy trong ca dao cổ có câu : ” Nhìn thế tìm long dễ , muốn biết huyệt điểm khó ” .
Các sách như ” Táng thư ” và ” Địa học giản minh ” đều cho rằng : nơi kết huyệt có liên quan với khí . Trong ” Địa học giản minh ” đã dùng lý luận thai tức dựng dục để bàn về tình hình kết huyệt của long mạch , trong sách ghi :” Một tiết tinh phía sau đỉnh huyền vũ gọi là phụ mẫu , dưới phụ mẫu nơi mạch rớt xuống là thai , giống như nhận huyết mạch của cha mẹ làm thai vậy .Luồng khí phía dưới đó là tức vậy , lại bắt đầu từ đỉnh huyền vũ tinh diện là dựng , giống như hình thể có đầu mặt của thai nam nữ vậy , nơi dung kết huyệt là dục , giống như đứa con sinh thành từ thai mà dục vậy ” .Có thể thấy rằng nơi kết huyệt tương đương với nơi người mẹ sinh con , cũng là khu vực Âm Dương giao cấu mà rất nhiều sách nói tới . Nghĩa là đã xem huyệt phong thuỷ là nữ âm , là nơi ” Lấy được khí ra , thu được khí đến ” , là nơi nhận được sự thai nghén , là nơi ” ém khí ” , ” dưỡng tức ” . Đồng thời cũng là nơi ” sinh dục ” , ” xuất thai ” .
Chính vì phong thuỷ cổ đại dùng nguyên lý thai tức dựng dục sinh sản của loài người để giải thích về ý nghĩa của huyệt phong thuỷ , đã làm cho huyệt phong thuỷ lấy tượng trưng là nữ âm , huyệt phong thuỷ được xem như là đất toàn khí , vì vậy con người khi lựa chọn đất ở , đất để chôn cất đều chọn đất có những điều kiện như vậy làm đất tốt nhất , điều này đã hình thành một khuynh hướng tình cảm lâu dài , đem lại một nội dung văn hoá đặc biệt .
Huyệt phong thuỷ đặc biệt nhấn mạnh : ” Có được sự tốt đẹp của thai tức dựng dục của tổ tông cha mẹ , lại có toàn khí dung kết … ” . Huyệt hình của huyệt phong thuỷ thường có sự khác nhau do địa hình cục bộ , vì vậy chia ra làm oa huyệt , kiềm huyệt , nhũ huyệt , đột huyệt .
- Oa huyệt , theo như trong ” Táng thư ” là hình giống như tổ chim yến , chôn ở nơi lõm xuống , thường gặp ở nơi núi cao .
- Kiềm huyệt , hình dáng giống như hai chân bắt chéo lên nhau như gọng kìm , còn gọi là khai cước huyệt , ở núi cao bình địa .
- Nhũ huyệt , huyệt tinh mở ra , ở giữa có nhũ , còn gọi là huyền vũ huyệt , hoặc cũng gọi là nhũ đầu huyệt , ở bình địa núi cao .
- Đột huyệt , tinh huyệt bằng , ở giữa nổi lên , còn gọi là bào huyệt . Theo ” Táng thư ” có hình nồi úp , đỉnh có nhiều kiểu , thường gặp ở bình địa .
5. Núi bao nước vòng , bốn mặt vây bọc
Môi trường âm trạch tốt hay xấu , ngoài long thế long cách , che chắn , huyệt trường như trên đã nói , còn phải xem núi sông bao bọc xung quanh có hữu tình không ,tức là có cấu thành một tiểu môi trường hoà hợp nhất trí không .
Thông thường cho rằng :” Nơi có chính huyệt , núi phải trẻ , hướng trước mặt phải mở rộng , hình thế bốn bên phải chụm , gió phải kín , nước phải tụ … Sơn minh thuỷ tú phải mưa thuận gió hoà , đất trời sáng sủa , như một thế giới khác , thanh tịnh trong ồn ào , phồn hoa trong thanh tịnh , trông thấy là muốn nhìn , đến gần thấy lòng vui tươi , khí phải tích , tinh phải tụ ” .
Đây là một đoạn văn nói về phương diện Phong thuỷ , mà cũng như là một đoạn văn miêu tả về mặt phong cảnh . Trong đó những yêu cầu phải tìm kiếm như ” Sơn minh thuỷ tú ” , ” Mưa thuận gió hoà ” , ” Thanh tịnh trong ồn ào ” , ” Đến gần thấy lòng vui tươi ” , đây cũng là ý tưởng tìm kiếm về cảnh đẹp thiên nhiên .” Núi bao nước vòng ” trong phong thuỷ , chủ yếu là thể hiện bằng quan hệ giữa sơn và thuỷ . Về quan hệ giữa sơn và thuỷ , các nhà triết học tiền bối đã bàn đến từ lâu . Trong ” Chu lễ . Khảo công ký ” đã chỉ ra : “Địa thế của thiên hạ , giữa hai núi nhất định phải có sông . Bên sông lớn nhất định phải có đường đi “, cũng có nghĩa núi và sông đồng hành với nhau .
Trong ” Quản thị địa lý chỉ mộng ” cũng có ghi : ”Nước đi theo núi , núi ngăn nước . Núi sông phân chia các khu vực , ngăn không cho vượt quá , tích tụ khí . Nước không có núi thì khí tan mà không thể tập trung , núi không nước thì khí hàn . Núi như nhà , nước như tường , ở nhà cao không có tường , không thể phòng vệ được . Núi là thực khí . Đất càng cao khí càng dày . Nước càng sâu khí càng lớn “.Có thể thấy rằng sơn và thuỷ dựa vào nhau để tồn tại , sơn là nội khí , thuỷ là ngoại khí , nội ngoại kết hợp mới có thể tạo thành một chỉnh thể hữu cơ mới có thể làm cho môi trường có sinh khí , mới có thể đạt được ” Sơn minh thuỷ tú ” , ” Mưa thuận gió hoà ” .Về môi trường sơn thuỷ xung quanh huyệt trường thông thường được hợp thành được các địa hình như Sa , Thuỷ , Triều , Án . Trong đó Sa , Triều , Án đều là núi ở xung quanh huyệt .
” Địa học ” của Trầm Cảo đã nói về quan hệ giữa chúng như sau : “Thuỷ nếu vòng vèo uốn khúc thì sa cũng xoay chuyển , sa và thuỷ nguyên là một nhà . Ôm sát hai bên huyệt như cánh ve sầu là long hổ . Thanh long là tên gọi cánh bên trái , bất kể thanh long hay bạch hổ , chỉ cần nước giữ được khí . Giữa long hổ là minh đường , minh đường giống như ngực con người . Phía trước long hổ có án , án phải thấp bằng để có nhìn được xa ,nước chảy ngang bên trong gọi là trung đường , ngoài án phải có triều sơn , giống như chủ nghiêng mình đón khách “. Có thể tóm tắt những ý chính của nội dung trên là :
- Sa thuỷ đồng hành với nhau .
- Thanh long , bạch hổ là hai sa sơn bên trái bên phải .
Ở gần phía trước huyệt là núi thấp gọi là án , ở xa phía trước huyệt là núi lớn gọi là triều ( có nghĩa là triều bái ) .
Nơi nước uốn lượn chảy ra gọi là thuỷ khẩu , hai bên thuỷ khẩu phải có núi cao dựng đứng khép lại gọi là thuỷ khẩu sa . ” Núi của thuỷ khẩu phải cao và lớn , vòng mà khép lại , hình thế như vậy mới tốt ” . Nước chảy ra phải chậm rãi uốn lượn , không được chảy nhanh , nếu không sẽ tổn sinh khí
Vì vậy tại thuỷ khẩu càng nhiều lớp núi càng tốt , ” Hám long kinh ” có ghi : ”Cửa khẩu có ngàn trùng khoá chặt nhất định có vương hầu ở trong đó “. thật ra yêu cầu ở đây vẫn là một loại môi trường tương đối độc lập , yêu cầu môi trường phải tĩnh mịch bình yên, tương đối độc lập với ngoại cảnh , nước chảy vòng vèo , lớp lớp khoá chặt , có cảm giác như lớp lớp che chắn .Sự phân hợp của sơn thuỷ tạo thành môi trường lớn với núi bao nước vòng , kết hợp với sa , triều , án tạo thành môi trường nhỏ trấn giữ bốn mặt.
35. Táng Người Xưa
Nhưng làm thế nào để tìm được một huyệt đất có nhiều sinh khí? Có nhiều thủ pháp chuyên môn, có những bí quyết nhà nghề phức tạp và thần bí, tựu trung lại có mấy phương pháp sau đây:
a) Xác định Long mạch
Thuyết phong thủy cho rằng sinh khí vận hành trong lòng đất dựa theo hình thế của núi. Cần xem xét núi bắt đầu từ đâu và dừng lại nơi nào? Nơi núi dừng lại có địa thế bằng phẳng rộng rãi, có dòng nước chảy uốn quanh kề gần, huyệt đất đó sẽ tích tụ được nhiều sinh khí, huyệt đất đó có long mạch, tức là nơi “cát địa” hay “phúc địa”.
Núi bắt đầu từ xa chạy đến gọi là thế. Nơi núi dừng lại gọi là hình. Thế thì bao quát, hình thì cụ thể. Thế càng cao xa thì hình càng có chỗ dựa vững chắc, nơi cát địa đó sẽ mang lại nhiều phúc lộc cho con cháu.
Muốn tìm được cát địa, phải “sát sa” tức là phải quan sát, xem xét những ngọn núi xung quanh huyệt mộ (âm trạch), phải đạt được các tiêu chí sau đây:
- Huyệt mộ phải dựa lưng vào ngọn núi cao gọi là Huyền Vũ. Bên tả có núi gọi là Thanh Long, bên hữu có núi gọi là Bạch Hổ, hai ngọn núi này đứng chầu vào huyệt mộ, tạo thành vòng tay ngai che chống những luồng ác phong (gió độc), bảo vệ sinh khí không bị gió xua tan.
-Phía trước mặt huyệt mộ có một hòn núi nhỏ án ngữ gọi là Án Sơn (được gọi là Chu Tước), như người đứng khoanh tay, vái chào huyệt mộ. Ngoài xa cũng có một ngọn núi chầu về huyệt mộ gọi là Triều Sơn (núi chầu).
-Khi sát sa thấy có đủ hình thế tứ linh (long, lân, quy, phượng- bốn con giống theo thần thoại) thì huyệt đất đó có đủ điều kiện để tích tụ sinh khí, tức là có long mạch.
b) Quan thuỷ:
Đây là phương pháp rất quan trọng. Vì theo thuyết phong thuỷ thì “đắc thuỷ” mới là yếu tố hàng đầu.Thuyết phong thuỷ cho rằng khí là cha mẹ của nước, là bản thể của nước. Nơi nào có sinh khí, tất nhiên ở đó có nước. Nước là cái khí hữu hình, trong khi khí là vô hình. Ngược lại nơi nào có nước, chứng tỏ ở đấy có sinh khí.Mặt khác, thổ là hình thể của khí. Trong điều kiện Thổ bị dòng nước cắt ngăn và giới hạn lại thì khí cũng theo Thổ mà dừng lại, không di chuyển phân tán được.
Các thầy địa lý khảo sát, xem xét các dòng sông, dòng suối, ao hồ xung quanh huyệt mộ (tức âm trạch). Dòng sâu, nguồn dài là khí vượng, dòng cạn, nguồn ngắn thì phúc lộc ít.Dòng nước chảy tới quanh co, uốn khúc hoặc chảy ngang qua mà vòng quanh trở lại bao bọc âm trạch, dòng nước chảy du dương, êm đềm là rất tốt, nếu dòng chảy xói thẳng vào huyệt như tên bắn, chảy sát huyệt mộ gây xối lở thì rất xấu.
Sau khi đã xác định được long mạch và quan thủy, thầy địa lý (phong thuỷ) mới tiến hành điểm huyệt và xác định minh đường.
Việc điểm huyệt và xác định minh đường yêu cầu phải rất thận trọng, vì đây là mục đích cuối cùng phải đạt được khi ứng dụng thuyết phong thủy. Việc làm này thật không đơn giản chút nào. Vì vậy, tục ngữ mới có câu: “Ba năm tầm long, mười năm điểm huyệt”.
Đất điểm huyệt có khi chỉ là mấy thước, có khi cũng có thể là mấy dặm. Địa điểm đó phải là nơi tích tụ được sinh khí, không hề làm cho sinh khí tiêu tán, đồng thời không ngừng hấp thụ được nguồn sinh khí của tự nhiên, của “đất mẹ”, thường xuyên tiềm ẩn và vận hành trong lòng đất.
- Khoảng đất bằng phẳng rộng rãi bao bọc xung quanh huyệt mộ gọi là Minh đường.
- Tiểu minh đường là quãng đất hẹp kề ngay trước huyệt mộ.
- Trung minh đường (nội minh đường) là khoảng không ở phía trong các núi.
- Thanh Long (bên trái), Bạch hổ (bên phải)
- Đại minh đường (ngoại minh đường) ở phía ngoài án sơn.
Minh đường và hình thế của núi có quan hệ mật thiết, cần đạt được tỷ lệ thích hợp. Mạch núi từ xa đến thì minh đường rộng; Mạch núi ở gần thì minh đường hẹp. Nếu minh đường quá khoáng đãng thì sinh khí dễ phát tán. Nếu minh đường quá chật hẹp thì phúc lộc không được lâu bền.
Tóm lại, ứng dụng thuyết phong thuỷ, sử dụng các thủ pháp chuyên môn, các nhà phong thuỷ (thầy địa lý) có thể phát hiện và điều chỉnh những khu đất có nhiều sinh khí để mai táng hoặc để xây dựng các công trình kiến trúc như nhà ở, cung điện, thành trấn, thôn lạc v.v…Đến đây một câu hỏi nữa được đặt ra là tại sao việc chọn đất có sinh khí để mai táng tổ tiên lại có thể đem phúc lộc cho con cháu, tức là “táng tiên” lại có thể “ấm hậu”.
Trong trước tác “Táng thư”, Quách Phác đã nêu luận điểm: “Khí cảm như ứng, quỷ phúc cập nhân”, có nghĩa là những vật đồng chất với nhau có quan hệ cảm ứng lẫn nhau.Quỷ mà Quách Phác viết trong “Táng thư” là cha mẹ hoặc tổ tiên sau khi đã chết (theo cổ tự quỷ có nghĩa là quy, là về, là chết). Thuyết phong thuỷ quan niệm chết là về với đất, về với “đại mẫu” để chuẩn bị cho giai đoạn tái sinh kiếp sau.
Vậy “quỷ” chính là tổ tiên, là cha mẹ đã chết, con “nhân” là những con cháu đang sống, là di thể của cha mẹ để lại.Vì vậy, tổ tiên, cha mẹ và hậu duệ con cháu là đồng khí, là một chất, chúng có quan hệ cảm ứng với nhau. Cho nên “quỷ phúc cập nhân” nghĩa là tổ tiên mang lại phúc ấm cho con cháu.Trong sách “Táng thư”, Quách Phác còn giải thích thêm: “Thi dĩ đồng sơn tây băng, linh chung đồng ứng, mộc hoa vu xuân, lật nha vi thất”. Nghĩa là “mỏ đồng ở phía tây bị sụt lở thì chuông thiêng ở phía đông cũng ứng theo (chuông tự kêu). Mùa xuân cây lật nở hoa thì quả lật ở trong phòng cũng nẩy chồi”.Như vậy, ý của Quách Phác nói: Chuông đồng và mỏ đồng cùng một khí chất, cây lật và quả lật cùng một khí chất, mặc dầu chúng để ở nơi cách biệt nhau, nhưng vẫn có quan hệ cảm ứng theo lẽ tự nhiên của tạo hoá. Vì thế tổ tiên, cha mẹ tuy đã chết, nhưng vẫn có thể phù hộ cho con cháu, hậu duệ của mình bằng cảm ứng.
Nhà phong thuỷ Quách Phác đã lấy một sự kiện đời Hán Vũ để chứng minh cho quan hệ cảm ứng: Có một quả chuông treo ở lầu Vi Ưởng tại kinh đô Tràng An, một hôm bỗng nhiên quả chuông tự kêu “ô ông…ô ông”. Các vị đại thần hôm ấy vô cùng kinh sợ, cho đó là điềm xấu.
Đông Phương Sóc là người có trí tuệ siêu quần thời bấy giờ, đứng lên tâu rằng: “Nhất định lúc này đã có núi đồng khoáng sụt lở”. Mấy ngày sau, quả nhiên có tin từ miền biên cảnh phía Tây xứ Thục báo cáo về triều đình rằng ở đó núi đồng khoáng đã lở vào ngày giờ ấy.
Triều đình đem đối chiếu lại thì đúng vào lúc chuông đồng ở cung Vi Ưởng phát ra tiếng kêu. Hán Vũ đế kinh ngạc hỏi vì sao mà Đông Phương Sóc biết được như vậy? Đông Phương Sóc đáp: “Đồng đúc chuông lấy từ mỏ đồng trên núi, khí của chúng cảm ứng nhau mà phát ra tiếng kêu, giống như thân thể người ta là do cha mẹ sinh ra vậy”. Hán Vũ đế chép miệng than rằng: “Vật còn như vậy, huống chi người ta”.
Các nhà phong thuỷ cũng thường kể chuyện bà mẹ ông Tăng Tửng để biện minh cho thuyết cảm ứng.Chuyện kể rằng: đời Xuân Thu, ông Tăng Tử là người con rất mực hiếu thảo, mỗi khi Tăng Tử đi xa, vắng nhà, mẹ Tăng Tử ở nhà nhớ con da diết, thường cắn vào ngón tay để kiềm chế niềm thương. Tăng Tử ở ngoài xa, mỗi khi ở nhà mẹ cắn ngón tay như vậy thì ông cảm thấy đau nhói ở tim.
Điều đó chứng tỏ giữa mẹ và con có mối quan hệ cảm ứng vô hình, nhưng sâu sắc biết chừng nào.
Như vậy từ thời xưa thuyết phong thủy hướng dẫn cho con người tìm huyệt đạo cát địa (phúc địa) để mai táng tổ tiên, cha mẹ hoặc làm nhà ở, dựng cung điện, thành quách v.v… đã có tác động đến đời sống của con người, đã trở thành một bộ phận văn hoá phương Đông nói chung và văn hóa Việt Nam nói riêng.