NVL-Tham vọng toàn cầu hóa của nước Tầu và tương lai thế giới

Tham vọng toàn cầu hóa của nước Tầu và tương lai thế giới (p1)

Posted on March 17, 2019 by editor Posted in Chính Trị Xã Hội, Kinh Tế, Nguyễn Văn Lục, Trung Quốc0 Comments

Nguyễn Văn Lục

Người viết thú nhận đã bắt đầu viết về nước Tầu trong nỗi sợ. Cách làm ăn và sự phát triển kinh tế của họ thay vì gây tin tưởng thì gây lo ngại. Đúng như dự đoán của Alain Peyrefitte từ năm 1973.

Rõ ràng có tâm lý trái ngược, khi nước Mỹ giầu nhiều nước chia sẻ niềm vui và tin tưởng. Khi Tầu khởi lên giầu có, nhiều nước từ láng giềng đến Âu Châu, Mỹ Châu và cả Phi Châu bắt đầu dấy lên những lo ngại. Làn sóng lo sợ ấy như một dịch truyền nhiễm. Nỗi lo ấy có tác động làm cho các nước phòng hờ co cụm lại và cảnh giác.

Năm 2009, trong lễ nhậm chức, Obama tuyên bố:

“… our power grows through its prudent use; our security emanates from the justness of our cause, the force of our example, the tempering qualities of humility and restraint.”

Năm 2009, Ngoại trưởng Clinton cũng tuyên bố:

“…We must use what has been called ‘smart power’, the full range of tools at our disposal…”

Liệu lời tuyên bố của TT Mỹ Obama và Ngoại trưởng Clinton có còn là một phương châm hành động cho thế giới trước sự giầu mạnh của Tầu không hay chỉ bày tỏ một lý tưởng không tưởng trước một Trung Quốc đang trỗi dậy?

Phần nước Tầu, mặc dầu vẫn bày tỏ sự hòa hoãn với thế giới như trong Olympic Games 2007. Nhưng hành động của họ như vẽ đường 9 đoạn trên biển Đông, vẽ lại con đường tơ lụa cũng như xông xáo có mặt khắp nơi làm thế giới không tin vào họ nữa.

Đó là cái bất lợi lớn nhất của Trung Quốc. Và còn xa họ mới bắt kịp Hoa Kỳ và Tây Phương về quyền lực mềm. Hơn thế nữa 2/3 người giầu Trung Quốc cũng lo ngại cho chính tương lai của họ nên tìm có thẻ xanh ở nước Mỹ, hoặc thẻ thường trú nhân ở Canada, v.v..

Bàn về cái tâm lý sợ Tầu thì người Á Châu hiểu rõ hơn người Tây Phương. Cách so sánh đơn giản nhất là người Tầu là một Do Thái Á Châu! Phải chăng đó chỉ là thành kiến của người đời hay có chút sự thật?

Nó cho thấy tâm lý sợ Tầu về đủ mọi loại sức mạnh: sức mạnh về dân số tại Trung Quốc với 1 tỉ 300 triệu người. Rồi sức mạnh lãnh thổ, sức mạnh tiền bạc, sức mạnh tài nguyên, sức mạnh người tài, sức mạnh tồn tại qua lịch sử, sức mạnh mưu kế, khôn ngoan lẫn xảo quyệt, lừa đảo, sức mạnh “quản lý” con người.

Trong đó sức mạnh đông dân là đáng sợ hơn cả. Một thứ “lấy thịt đè người”. Họ nhung đông như kiến, như bầy ong vỡ tổ. So sánh với bầy ong vỡ tổ xem ra thích hợp nhất, vì vừa đông, vừa ồn ào.

Đi đâu cũng thấy khu phố Tầu họp chợ. Chỗ nào có Tầu, chỗ đó có chợ ồn ào. Ăn uống như thể đói ăn. Trong tương lai thế kỷ 21 hai nước đông dân nhất thế giới là Trung Quốc và Ấn Độ sẽ ở vị trí hàng đầu về GDP? Nói chuyện kinh tế một nước là nói chuyện GDP.

GDP và dân số của Trung Quốc và Ấn Độ. Nguồn World Bank

Trung Quốc còn vượt Ấn Độ là ở đâu cũng có Tầu! Sức mạnh di dân Tầu trên thế giới khoảng trên dưới 50 triệu người, đa số họ ở châu Á (Xem: Overseas Chinese). Trong đó số Hoa kiều ở Việt Nam là 823,071 người (Xem: General Statistics Office of Vietnam. “Kết quả toàn bộ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009–Phần I: Biểu Tổng hợp”). Tuy vậy mà dân miền Trung các vùng Đà Nẵng, Nha Trang đã nhốn nháo cả lên về sự đông đảo của người Tầu.

Mỹ có 5,025,817 Hoa kiều (“Asian Alone Or In Any Combination By Selected Groups: 2016”. U.S. Census Bureau. Retrieved 15 October 2016.) Rồi Canada chỉ với hơn 37 triệu dân cũng có 1,769,195 Hoa Kiều (Ethnic origins, 2011 counts, for Canada, provinces and territories – 20% sample data). Ở đâu có giá nhà lên cao là đổ cho Hoa Kiều xâm nhập; ví dụ như ở Toronto, Vancouver.

Bất cứ nơi đất nước giầu sang như Mỹ hay nơi khỉ ho cò gáy tận Angola, Ecuador, Kazakhstan, Iran, v.v. tưởng không có người Trung Quốc, nhưng đâu cũng có, dù là rừng sâu, dù núi non hiểm trở, dù là sa mạc, đều có người Tầu làm ăn.

Đọc vớ vẩn Tam Quốc Chí cũng đâm sợ từ Tào Tháo đến Khổng Minh.

Thêm vào đó là sợ sức mạnh tàn bạo.

Như đã nói ở trên, Mỹ mạnh, người ta không có cảm giác sợ. Nhưng Tầu mà mạnh thì tương lai thế giới không biết đi về đâu? Nhất là Việt Nam,

Đã có hàng triệu người chết vì đói, vì bệnh tật dưới các triều vua. Hàng chục vạn người chết dưới tay Tào Tháo. Hàng triệu người chết vì các đợt chính sách của Mao trạch Đông như cuộc Cách Mạng Văn Hóa. Và cũng đã có hàng triệu người chết vì các cuộc chiến tranh. Mạng người Tầu đã chẳng khác gì như cỏ rác thì mạng người nước khác họ coi ra gì?

Nghĩ đến khối dân Tầu mà sợ cho dân mình.

Trong chính sách kinh tế toàn cầu hóa từ năm 1980, cũng vài trăm triệu nông dân Tầu đã là vật hy sinh, bị bỏ đói, bị mất nhà mất cửa như trường hợp xây đập Tam Hiệp.

Đâp Tam Hiệp. Nguồn: http://primaryfacts.com

[Công trình xây đạp Tam Hiệp đã nhận chìm hơn một ngàn thị trấn và làng mạc, do đó phải tái định cư khoảng 1,3 triệu người (hay nhiều hơn). – Brian Handwerk, “China’s Three Gorges Dam, by the Numbers”, NatGeo, June 9, 2006]

Cái đập ấy cho thấy sự hùng mạnh khủng khiếp đáng nể của con người trước thiên nhiên, nhưng đồng thời nơi đó sự tàn bạo cũng không bút nào tả hết được! Cái Vạn lý trường thành hùng vĩ với bao sức người, sức của, nhưng đã có hàng triệu người phải bỏ làng mạc, ruộng vườn tản cư đi nơi khác?

Nhưng trong những nỗi lo sợ ấy, có nỗi sợ canh cánh bên lòng, nỗi sợ từ thời tiền thân thời Việt Nam Cộng hòa, nỗi sợ lúc bấy giờ chưa rõ tên, chưa có cơ hôi đọc sách đầy đủ như bây giờ. Nỗi sợ tiền thân của nước Tầu như một con hổ đói tham lam vơ vét của “đoàn quân Tầu ô đi/Sao mà ốm đói!” (nhại lời theo nhạc của bài Tiến quân ca).

Tỉ lệ đói nghèo ở Việt Nam 2013

Cái mặc cảm Việt Nam bị Tầu áp đảo, chèn ép đã nằm trong cõi tiềm thức từ lâu trong những bài học lịch sử. Tôi cố nặn óc, đọc, suy nghĩ nhận ra cái yếu, cái mạnh của nền kinh tế ấy để cố trấn an chính mình, hy vọng điều đó không xảy ra trong tương lai..

Và cuối cùng nỗi lo sợ ấy lại trở thành một thực tế đau lòng khi quay về với đất nước mình: Nền kinh tế của Việt Nam với bề ngoài hiện nay có bề ngoài khá sáng sủa với xa lộ, với xe điện ngầm, bãi biển, khu du lịch, khu nghỉ mát, nhà cao tầng, đời sống dân chúng cao, sung túc, dư ăn, dư mặc, tiện nghi nhà cửa. Vậy mà trong tôi vẫn có một nỗi bất an thường trực

Nói cho cùng, Việt Nam chỉ là bản sao của Tầu. Tầu hay 10 thì Việt Nam theo đuôi chỉ được một hai. Tầu xấu 10, Việt Nam xấu một nửa. Việt Nam chỉ là bản sao của nền kinh tế Trung Quốc nên có có tất cả những hệ lụy, điểm mạnh và điểm yếu của nó.

Tìm hiểu nền kinh tế Trung Quốc là gián tiếp chỉ ra một bài học cho Việt Nam.

Nước Tầu là tư bản hay cộng sản?

Một trong số những nhận xét đầu tiên về nước Tầu là càng ngày họ là nước có nền kinh tế tư bản hơn là cộng sản. Tư bản theo nghĩa làm giầu -phi thương bất phú- vốn là căn tính của người Tầu. Cho nên, ý thức hệ cộng sản không có lý do để tồn tại ở Tầu, trước sau nó cũng phải đội nón ra đi.

Cả cuộc đời hoạt động, tranh đấu, họ Mao chỉ mong vô sản hóa toàn dân. Tư hữu bị xoá bỏ năm 1954. Trước đổi mới, tư hữu của người dân Tầu là chiếc xe đạp, một vài vật dụng thường ngày và chiếc áo cán bộ làm nên tài sản tư hữu của người dân.

Cục diện nước Tầu thay đổi khi sức khỏe của Mao bắt đầu suy yếu. Việc khai trừ Lâm Bưu khiến không có người kế thừa. Cuộc khủng hoảng kế thừa xẩy ra giữa Châu Ân Lai vad Đặng Tiêu Bình. Mao Trạch Đông tạo mâu thuẫn giữa đôi bên để không bên nào đủ mạnh. Kẻ đứng giữa hai địch thủ lúc bấy giờ là Hoa Quốc Phong trở thành kẻ kế thừa đương nhiên. Nhưng đến khi chính họ Chu bệnh tật và chết trước cả Mao thì con đường mở ra cho tương lai không còn ai khác hơn là họ Đặng.

Thời cơ đến kể từ cuối năm 1974-1976

Phải đợi đến sau 1980, sau khi dạy cho Việt Nam một bài học, bắt tay với Mỹ, Đặng Tiểu Bình nắm giữ chặt quyền lực chính trị, nhưng thả lỏng kinh tế. Ông tung ra khẩu hiệu: Hãy trở nên giầu có và vinh hưởng. Hãy để cho một số người có khả năng làm giầu vượt trên người khác.

Jean- Francois Huchet đã dành hai ba bài báo viết về những Les nouveaus riches (Những nhà giầu mới) để ca tụng lớp người này ở Trung Quốc. Như họ sống trong các khu vực sang trọng dành riêng cho họ. Có sân Golf riêng, bể bơi, những văn phòng làm việc thoáng, rộng rãi, bài trí rất mới tiện nghi, những chiếc xe hơi đắt tiền trong lối vào biệt thự như cung điện. Con cái họ luôn luôn có người cảnh vệ canh gác ngày đêm phòng ngừa bị bắt cóc. Cái vấn đề giầu sang hình như là độc quyền riêng của họ.

Nhưng nguồn gốc làm giầu của họ có điều bất chính. Họ lại có xu hướng cố tình phơi bày sự giầu có và sang trọng của họ như thể cho mọi người thấy họ là những thành phần gần gũi và có quan hệ cấp cao với lãnh đạo, thuộc thành phần ưu tú được gọi là “Bureaucratie céleste” tạm dịch là chế độ quan liêu tuyệt vời. (GEO, La Chine du IIIe millénaire, số 327, tháng 5-2006. Xem các bài viết của Jean-Francois Huchet: Les nouveaux riches, trang133-143.)

Ở Việt Nam họ được gọi một cách giản dị hơn: Đó là bọn tư bản đỏ. Chế độ đã để lộ liễu tất cả thói quen hiếp đáp, chà đạp, cướp bóc đất đai của nông dân mà không cần biết phải trái, luật lệ là gì. Họ thường khởi đầu sự làm giầu bằng hai nguồn: đất đai và quyền thế.

Người viết tin rằng ngọn đuốc bùng cháy vì đất đai sẽ còn cháy sáng.

Việc đền bù nếu có đều không thỏa đáng. Bộ trưởng bộ đất đai và tài nguyên của Tầu nhìn nhận: từ năm 1999- 2002, hơn 1.500.000 triệu nông dân là nạn nhân của các vụ chiếm đất bất hợp pháp.

Phải là nông dân, phải là những người có mảnh đất từ đời xưa do cha ông họ để lại, phải là những giáo hội, mất nhà thờ, mất chùa mới thấm thía hết nỗi đau này. Nạn chiếm ruộng đất khiến nhiều nông dân rơi vào cảnh không nhà không cửa xảy ra khắp nơi trên đất nước Tầu. Cảnh ấy cũng bày ra đầy rẫy ở Việt Nam. Dân chúng thôn quê tin rằng chính quyền ở Bắc Kinh còn nghe lời cầu cứu của họ. Phần lớn, chính phủ làm như đui mù không đếm xỉa đến quyền lợi sống còn của người dân. Cùng lắm, chính quyền tìm cách xoa dịu chẳng khác gì như những người lính cứu hỏa đến dập tắt ngọn lửa, kỷ luật một vài lãnh đạo địa phương để xoa dịu.

Rồi chuyện đâu vẫn còn đó. Giống như đất đai ở Thủ Thiêm và ở tất cả nơi nào có đất. Có đất là có tiền, là có tất cả. Họ chỉ cần làm thế nào để cho những sự chống đối không trở thành những phong trào có tổ chức có nguy cơ lật đổ chính quyền.

Phần người viết cũng đang chờ đợi để đọc cuốn sách của LM Nguyễn Ngọc Nam Phong tu sĩ linh mục Dòng Chúa Cứu Thế thuộc Cộng đoàn Hà Nội Thái Hà viết kể lại tất cả: “Mười năm Thái Hà- Tòa Khâm sứ”.

Sự giầu có của họ bắt đầu từ đất đai và sự phẫn uất của nông dân cũng từ nơi đây. Lạy trời có một ngày- một ngày không xa, họ phải trả cái giá này!

Con cái những đại gia này cũng chẳng biết gì “quá khứ trong rừng” của bố mẹ chúng. Có biết họ cũng cố tình quên cái quá khứ chẳng ra gì ấy. Khoe giầu là cái mốt hiện đại tìm thấy ở bên Tầu cũng như Việt Nam.

Tư tưởng của Đăng Tiểu Bình còn được diễn tả đầy đủ mà tác giả Martin Jacques dành hẳn một chương: The age of China. (Thời đại của nước Tầu). Sau cái chết của họ Mao năm 1976, không ai có thể tiên đóan được nước Tầu sẽ ra sao?

Nhưng họ Đặng đã có cái nhìn viễn kiến tin rằng phải có một tư duy mới. Ông tuyên bố vào năm 1978:

“To make revolution and build socialism we need large numbers of pathbreakers who dare to think, explore new ways and generate new ideas.”

(Emancipate the mind, seek truth from facts and unite as one in looking to the future, From Selected Works of Deng Xiaoping, Volume II <1975-1982>)

Trong câu trích dẫn trên của họ Đặng, ông còn nhắc tới việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng vốn là con người có đầu óc thực tiễn và không lệ thuộc vào lý thuyết khi nền kinh tế càng phát triển thì nhóm chữ “Chủ nghã xã hội” càng mờ nhạt đi. Chữ nghĩa ấy chỉ còn là vết sơn phết bên ngoài còn giữ lại mà từ kẻ nói đến người nghe đều không tin là có thật.

Nhưng trên thực tế, đó vẫn là một nước tư bản có mô hình kiểu Trung Hoa.

Mặc dầu vậy, khó có thể nói phát triển kinh tế mà không vay mượn, học hỏi người ngoài. Những ông thầy vỡ lòng cho nước Tầu – qua Đặng Tiểu Bình – từ Nhật, từ các con rồng Á Châu như Đại Hàn, Đài Loan, Singapore.

Họ Đặng chỉ cần mở mắt học sự phát triển từ những nơi đó.

Điều này thật rõ rệt với một bằng chứng. Tỉnh Quảng Đông, vốn giáp giới với Hồng Kong, gần gũi với Đài Loan và chịu ảnh hưởng những cải cách từ nước này. Nó là một mô hình đầu tiên về sự phát triển. Sau này ai đó đặt nước Tầu biểu tượng cho một mô hình mới về sự phát triển qua bốn con rồng Á Châu cách đây 30 chục năm. Đó là Nam Hàn, Hồng Kông, nay đã sát nhập vào nước Tầu, Singapore và Đài Loan.

Nhưng xem ra 4 con rồng ấy nay cũng ít còn được các tác giả nhắc tới. Nhưng khách quan mà nói làm sao có thể có bốn rồng một lúc? Bốn rồng kia có cộng lại về dân số bị Tầu thổi một cái cũng biến mất!

Vào năm 1993, Quảng Đông còn nửa phát triển, nửa tụt hậu. Những con đường trong thành phố còn bụi bậm, lầy lội khi mưa. Xe cộ thì đủ loại. Cả xe hơi, xe kéo, hoăc do súc vật, xe thồ, xe cải tiến, xe đạp của nông dân cùng chạy ngổn ngang trên đường phố.

Vậy mà chỉ cần hai năm sau, nhiều cao ốc đang được xây dựng dở dang, đường phố với xa lộ phẳng phiu nối đuôi nhau là các xe hơi đủ loại.

Giầu lên thì phải có triệu phú. Triệu phú đầu tiên xuất hiện của Trung Hoa là vào năm 1992. 12 năm sau, con số lên đến 300.000 ngàn triệu phú. Sao lại có tốc độ làm giầu nhanh đến như thế? Đến năm 2016 con số triệu phú người Hoa lên hơn 1,6 triệu người nhưng 1/3 số triệu phú đó muốn ròi khỏi Hoa Lục.

Hiện nay ở Trung Quốc có hai loại giới trẻ giầu có.

Loại thứ nhất là con cái các lãnh tụ chính trị cao cấp, tài sản xây dựng dựa vào quyền lực chính trị của bố mẹ. Tiêu biểu nhất là con của Vinh Nghị Nhân (Rong Yiren), Phó Chủ tịch nước thời 1993-1998 đi vào lãnh vực thương mại. Larry Yung Chi-kin hay Rong Zhijian (Vinh Trí Kiện) đứng đầu CITIC Pacific và thú giải trí là nuôi ngựa đua. Lý Tiểu Bằng (Li Xiaopeng) con của Li Peng (Lý Bằng), thủ tướng chính phủ từ 1987- 2003 trở thành Bộ Trưởng bộ Giao thông (2016). Con gái Lý Bằng, Lý Tiểu Lâm từng là Tổng Giám đốc Công ty Phát triển Điện lực Trung Quốc và hiện chỉ còn là Phó Chủ tịch Tập đoàn Đại Đường Trung Quốc. Con trai của Jiang Zemin (Giang Trạch Dân), Jiang Mianheng (Giang Miên Hằng), Phó Chủ tịch Học viện Khoa học Trung Quốc, Hiệu trưởng đầu tiên của Đại học Kỹ thuật Thượng Hải.

Do tham nhũng tiêu phí ngân quỹ quốc gia trị giá từ 3 đến 5% GDP, tương đương 70 tỉ Euro năm 2003.

Loại thứ hai là loại tự lập, xuất thân gia cảnh tầm thường nhưng nhờ quyết tâm và chịu khó cũng đã làm nên chuyện như Liu Yonghao (Lưu Vĩnh Hảo) vào năm 1980 cùng với ba em đã xây dựng thành công hãng New Hope trong ngành thực phẩm. Tài sản được định giá là 1 ti 300 triệu. Tất cả những thành phần đi sát với chế độ được gọi chung là “Bureaucratie céleste”, chữ dùng của nhà báo Jean Francois Huchet như đã nói trên. (Jean-Francois Huchet, Ibid, trang 142)

Hiện tượng “thái tử đỏ” nêu trên cũng rập khuôn lại ở Việt Nam như trường hợp con cái của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và con cái các Bí thư tỉnh ủy vậy.

Lạy trời có một ngày, một ngày không xa, họ phải trả cái giá này! Việt Nam rồi cũng sẽ không tránh khỏi ngày tàn của chế độ cộng sản. Sẽ có một ngày. Vâng sẽ có một ngày. Tôi thường lẩm nhẩm câu thơ của anh Nguyễn Chí Thiện,

“Sẽ có một ngày con người hôm nay / Vất súng, vất cùm, vất cờ,vất Đảng…”

Nguyễn Chí Thiện, Sẽ có một ngày.

Và đối với tôi, “Sẽ có một ngày” là bài thơ hay nhất của anh, một giấc mơ cho tất cả chúng ta. Tôi tin như thế. Tin chắc như vậy. Nên dù nước Tầu sau này có thể đứng đầu thế giới. Nhưng. Nhưng nó không thể có lý do tồn tại lâu được!

Đế Quốc La Mã cũng đã qua đi. Chủ Nghĩa Phát Xít Đức-Nhật-Ý như cái bóng thoảng qua lịch sử. Chủ nghĩa Cộng Sản cũng chỉ là cái chớp mắt lịch sử. Phải tin là có sự khởi đầu và sự chấm dứt. Sống thì phải có một ước mơ. Không thì sống làm gì?

Thế hệ cộng sản thứ hai là hậu duệ của bọn lãnh đạo thế hệ cha ông chúng. Chúng tạo sự nghiệp dễ dàng với đầy tham vọng có thể – tham vọng mà cha ông chúng không dám làm, không dám nghĩ tới. Chúng phô trương sự giầu có, quyền thế một cách công khai, không cần dấu diếm nữa. Chúng ở những căn nhà sang trọng nhất, đắt giá nhất. Chúng tậu nhũng xe cộ cả triệu đô la. Các phương tiện giải trí đắt tiền như sân Golf riêng.

Nhưng liệu chúng có giữ được đến đời kế tiếp không?

Kinh tế thị trường của Trung Quốc phần chính là được người dân quê xây dựng.

Dân quê đã từng làm nên cuộc cách mạng vô sản. Chính họ chứ không ai khác như thợ thuyền theo lời tiên đoán của Mác. Mao Trạch Đông cũng đã tự hào về cuộc cách mạng đến từ nông dân như thế. Nhưng cũng trớ trêu thay, dân quê một lần nữa cũng là nồng cốt làm nên chế độ tư sản hiện nay. Họ không phải giới thợ thuyền như ở phương Tây mà là dân quê mù chữ và không có tay nghề.

Khởi đầu của giai đoạn bùng lên phát triển là nhờ số dân quê đông đảo. Hầu hết họ còn trẻ. Phần lớn là phụ nữ không có tay nghề. Hàng triệu người dân quê đã bỏ quê ra tỉnh, ở các tỉnh dọc bờ biển, thuộc miền Nam nước Tầu. Họ làm việc trong các hãng may. Buổi sáng, trong các bộ đồng phục, trước khi bắt đầu làm việc, họ tập thể dục buổi sáng, sau đó đứng nghiêm chỉnh chào lá cờ của hãng. (Một ngày làm việc của họ: 5 giờ 30 sáng thức dậy. Vệ sinh. 7 giờ bắt đầu làm. 11 giờ 30 ăn trưa. 17giờ 30 nghỉ làm. Nếu làm phụ trội thường không được trả thêm).

Họ làm việc như thể ở thời kỳ như trong film Temps modernes của tài tử Charlie Chaplin dưới sự kiểm soát chặt chẽ của các đốc công như một trại binh. Nhiều công nhân đã tự tử để cảnh cáo giới chủ bóc lột công nhân. Trung bình, lương của họ là từ 3 đến 4 Euro/ngày. Nó cũng giống như hiện nay hoàn cảnh của 1 triệu công nhân trong ngành may mặc của Việt Nam với đồng lương chết đói không đủ sống.

Nói đúng ra, trong thời kỳ của 30 năm đầu là xưởng thợ của thế giới, ông chủ hãng người Tầu cũng chỉ là một nhà thầu làm công cho các ông chủ tận đâu đâu bên Mỹ, bên Tây. Họ là một trong số 350 triệu người nông dân bỏ quê ra tỉnh.

Nếu may mắn được làm trong các cơ xưởng lớn của nhà nước thì họ được cung cấp nhà ở, môt trợ cấp xã hội đủ sống và cũng hiếm có việc bị sa thải. Chẳng hạn, tại các xưởng thép thuộc thanh phố Vũ Hán, thủ đô của tinh Hồ Bắc, mướn 110.000 nhân công. Họ được mua một căn nhà giá rẻ, 2000 euro, 80% rẻ hơn giá thị trường.

Trong nhà thường có đầy đủ tủ lạnh, tivi, DVD, tủ lạnh hai cửa, máy giặt, máy điện toán chưa kể trường học cho trẻ nhỏ, xe chuyên chở ngay cả cung cấp gạo, dầu ăn.

Ở trong những công ty nhỏ thuộc nhà nước quản lý thì khó khăn hơn nhiều. Trong số 126.000 hãng nhỏ, một phần tư đóng cửa, một phần tư khác tư nhân hóa. Và hơn 30 triệu công nhân thất nghiệp từ năm 1998-2003. Mặc dầu tìm kiếm công việc khó khăn và bấp bênh, tiền ít, nhưng vẫn còn hơn làm ruộng. (La Chine du IIIe millénaire. Dans les coulisses d’une société qui bouge très vite. GEO, N. 327, tháng 5-2006, trang 128-131)

Vào những thập niên1990, hàng hóa dưới nhãn hiệu Made in China đã tràn ngập khắp thế giới. Nhưng chữ Made in China thì không có nghĩa rằng hàng hóa ấy được Made by China. Thật vậy, hàng hóa xuất cảng từ Trung Hoa thực ra là do các công ty lớn ngoại quốc đã đặt hàng cho các công ty Trung Hoa làm. Các mẫu mã sản phẩm đến các thành phần sản phẩm đều do các công ty ngoại quốc đặt hàng và Trung Hoa chỉ là nơi lắp ráp với nhân công rẻ. Trường hợp tiêu biểu là công ty Walmart.

Chính những công ty ngoại quốc nắm kỹ thuật cũng như dây chuyền sản xuất bán ra nước ngoài. Và họ nắm đầu ra đầu vào của một sản phẩm về chất lượng sản phẩm cũng như lợi nhuận. Theo các nhà chuyên môn đánh giá 100 Euro món hàng sản xuất tại Trung Hoa, nhà thầu Trung Quôc chỉ được hưởng từ 20-25 euro. Số tiền còn lại rơi vào tay các đại công ty ngoại quốc.

Nhìn phần lớn các đồ tiêu dùng, các dụng cụ như các máy cưa, đục, các loại máy khoan, tiếng là Made in China, nhưng đều là thương hiệu của Mỹ, Canada của Nhật đặt hàng. Giá rẻ gấp 4-5 lần sản phẩm chế tạo ở Canada hay Mỹ.

Lấy một vài tỉ dụ cho rõ. Vào mua một cái mở hộp tại những của hàng lớn đề rõ ràng Made in China. Nhưng nếu vào một cửa hàng Un dollar rất phát đạt ở Canada, giá chỉ là 2 đô 50. Cũng cái mở hộp ấy vào cửa hàng lớn như Canadian Tires, cái mở hộp nay đề giá 10 đô la 50. Sự chênh lệch cho thấy các công ty tư bản Tây Phương ăn lời một cách vô tội vạ.

Không phải cứ ở Dollar store mới có dụng cụ rẻ tiền (1,99$ là giá ở Canadian Tires). Vấn đề là ưu tiên và chọn lựa của người tiêu thụ: muốn hàng giá thấp hay muốn có phẩm chất cao và chế tạo ở bản xứ (các nước phương Tây) — DCVOnline

Tuy nhiên, tình trạng trên mỗi ngày, mỗi thay đổi vì Trung Hoa đã gửi đi rất nhiếu sinh viên đi du học nước ngoài, học kỹ thuật, tạo được nguồn vốn để tự họ chế tạo ra các sản phẩm tiêu dùng.

Các nhà chuyên môn như các kinh tế gia ngân hàng thế giới nhận xét, trong tương lai, trình độ chuyên môn hóa sẽ thay đổi. Trung Hoa sẽ có thể sản xuất được những hàng hóa thuộc loại cao cấp, tinh tế như các nước tư bản theo kịp đà tiến bộ của thế giới. (Martine Bulard, Ibid, trang 40)

Bù lại thì nay nước Tầu nhận lãnh hậu quả là độ ô nhiêm không khí cao nhất thế giới vì những loại khí thải như Carbon dioxide CO2, Methane (CH4), Nitrous oxide (N2O), Ozone (O3), Chlorofluorocarbons (CFCs).

Có ba loại phế thải theo Huang Hung-liang, một chuyên viên của văn phòng xử lý chất thải tại Thượng Hải là: nước thải từ các nhà máy, không khí ô nhiễm và các chất thải rắn.

Như thường lệ, ông Huang đề cao những cố gắng của chính quyền Trung Quốc để giải quyết vấn đề ô nhiễm để cuối cùng phải nhìn nhận: chúng tôi còn thiếu kinh nghiệm và tin chắc rằng sẽ tìm ra giải pháp!

Kết luận là câu hỏi về xử lý chất thải còn nguyên vẹn. Và phải chăng nước Tầu thành công nhất trong kỹ nghệ, nhưng cũng là nước có độ ô nhiếm báo động nhất thế giới. (Orville Schell. In the people’s Republic. Bản dịch tiếng Pháp do Martine Wiznitzer, Les Chinois, năm 1978, các trang từ 132-139).

Một trong những lý do các nước Tây phương thẩy hàng hóa sang cho Trung Quốc sản xuất giản dị là vì họ không muốn sản xuất những đồ tiêu dùng ấy ở nước họ và phải tốn kém hơn để tránh gây ô nhiễm nước và không khí.

Đồ tiêu dùng ở Mỹ làm ở Trung Quốc có giá rẻ vì giá nhân công rẻ ở Trung Quốc đồng thời nước Tầu ở trong tình trạng ô nhiễm đến báo động.

(Jane Spencer. “China pays a steep price as textile export boom”. The Wall Street Journal, 1er November 2007.)

Cho nên Bộ trưởng môi trường Trung Quốc đã nhận xét một cách cay đắng:

Ô nhiễm không khí. Nguồn: The Economist/AFP/ImageChina

“Sản phẩm làm ra thì đã được xuất cảng. Cái còn lại dành cho Trung Quốc là tình trạng ô nhiễm. Cho nên giá thành sản phẩm được xuất khẩu không phản ảnh trung thực giá thành sản phẩm thực sự. Sự thặng dư thương mại đã che dấu một sự thật không bao giờ được công khai hóa. 40 % năng lượng tiêu thụ chỉ để dành sản xuất cho việc xuất cảng.”

(Jane Spencer: “China shifts pollution fights. The Wall Street journal, 1-11-2007).

Nhưng nước Tầu cũng như Việt Nam chỉ nhìn thấy cái lợi kinh tế trước mắt, bất kể cái hại nào khác như trường hợp của Việt Nam với Formosa. 200 km dọc bờ biển miền Trung đã bị nhiễm độc. Các ngư dân phải bỏ nghề đánh cá đi nơi khác kiếm công việc. ¾ thành phần giới trẻ lao động đi làm ăn ở Đại Hàn, Đài Loan hoặc lên Đà Lạt trồng rau.

Sẽ tốn kém bao nhiêu tiền và làm sạch ô nhiễm môi trường là một bài toán chưa có lời giải đáp? Thời gian bao lâu nữa để trả lại môi trường biển trở lại như cũ?

Vì thế chỉ một mình cái đập Tam Hiệp là một mối đe dọa trên môi sinh, môi trường, chưa kể hơn 1 triệu người phải di dời đi nơi khác.

Vì những cái lợi trước mắt, nước Tầu phải trả giá gấp bội lần nhiều hơn để làm sạch môi trường. Các dòng sông đều nhiễm độc. Nghẽn mạch các dòng sông. Nước uống sạch không còn. Không khí nhiễm độc. Đến 20 thành phố nước Tầu đều thuộc loại ô nhiễm nhất thế giới.

Một tỉ dụ điển hình là Trung Quốc đang phải đối đối đầu với vụ bê bối y tế mới nhất sau khi một đợt huyết tương lớn dùng để điều trị bệnh nhân bị phát giác là đã nhiễm HIV. (Laurie Chen , “12,000 Chinese blood plasma treatments contaminated with HIV”, SCMP, 6 tháng Hai, 2019). Mhuwng gay sau đó giới hữu trách y tế đã cho hay loạt huyết tương hơn 12.000 chai đều không bị nhiễm HIV hsy hepatitis B and C. (Michelle Wong, Chinese blood plasma ‘clear’ of HIV as authorities give mixed messages , SCMP, 7 tháng Hai, 2019).

700 triệu dân Trung Hoa vẫn chịu cảnh đồng lương 2 euro/ngày.

1 quan (RMB) bằng 0,13 Euro. Năm 2018, lương cao nhất ở Bắc Kinh khoảng 44 euro/ngày, thấp nhất, 25 euro.ngày là lương ở Hạ Nhĩ (Harbin) thủ phủ của Tỉnh Hắc Long Giang. Nguồn:

Zhaopin Limited

(Còn P2)

© 2019 DCVOnline

Tham vọng toàn cầu hóa của nước Tầu và tương lai thế giới? (p2)

Posted on March 19, 2019 by editor Posted in Chính Trị Xã Hội, Nguyễn Văn Lục, Quan Điểm0 Comments

Nguyễn Văn Lục

Sau 30 năm cặm cụi, cúi đầu nhẫn nhục làm “cơ xưởng của thế giới”, nước Tầu đã có đủ sức tự mình vươn lên, tự mình sản xuất và bán ra ngoài.

Tầu cất cánh Kinh tế cùng lúc với Ngoại giao và Quân sự

1/ Để thoát khỏi vòng trì trệ sự phát triển việc đầu tiên Tầu phải làm trong nước là thực thi chính sách tư nhân hóa và cổ phần hóa. Ngay từ cuối thời Mao và sau Mao, những năm từ 1980, Trung Hoa đã có đủ can đảm giải thể các công ty nhà nước để cho tư nhân điều khiển. Hiện nay, rất khó để biết đầy đủ về việc giải thể từ một nền kinh tế do nhà nước điều khiển sang nền kinh tế hỗn hợp diễn tiến ra sao. Những con số đưa ra từ năm 1998 đến 2001 cho thấy có đến từ 7 triệu đến 9 triệu người thất nghiệp. 40 triệu. Phần lớn các công nhân bị thất nghiệp nằm trong công nghiệp dệt may, quân sự và khai thác mỏ diễn ra ở các tỉnh phía Bắc Trung Quốc như các tỉnh Liễu Ninh, Cát Lâm và Hắc Long Giang.

(China Economic weekly, ngày 27-10-2008. Zhang Jun Cai, China labor statistical Year book, 2005. Trích lại trong bản gốc tiếng Tây Ban Nha La silenciosa conquista China của Juan Pablo Cardenal & Heriberto Arạújo. Được Catherine Mansfield dịch dịch ra tiếng Anh với nhan đề: China’s Silent Army, xuất bản 2013. Bản dịch Việt Ngữ của Nguyễn Đình Huỳnh dịch từ bản tiếng Anh với nhan đề: Đạo quân Trung Quốc thầm lặng, 2015, NXB Hội Nhà Văn, trang 165)

Trong khi đó, Các công ty Quốc Doanh của Việt Nam làm ăn thường thua lỗ vì nạn tham nhũng nên cũng có chính sách tư nhân hóa, cổ phần hóa. Việt Nam cũng theo gương chính sách cổ phần hóa, nhưng việc tiến triển rất chậm chạp vì quyền lợi của cán bộ lãnh đạo. Chính sách cổ phần hóa của Việt Nam còn gian trá như: Kêu gọi cổ phần hóa, nhưng chính các lãnh đạo trong công ty dùng tiền tham nhũng mua lại các cổ phần. Đó là một cách “rửa tiền” và hợp thức hóa tiền tham nhũng để biến công ty quốc doanh thành công ty tư nhân.

2/ Việc thứ hai là trong việc đầu tư ở nước ngoài, chính phủ Trung Quốc có chính sách xuất khẩu lao động. Đó là một trong những mục tiêu ưu tiên hàng đầu của họ khi hợp tác với các đối tác ngoại quốc trên toàn thế giới như tại Việt Nam, tại Nga, tại các nước Mỹ Châu La Tinh và tại Phi Châu. Có 982 công ty làm trung gian xuất khẩu người Trung Quốc đi làm lao động ở các nước ngoài [Nguyễn Đình Huỳnh, ibid., trang 114]. Họ đã ký những hợp đồng không thỏa đáng. Việc khuyến khích xuất khẩu lao động chỉ nhằm giảm số người thất nghệp trong nước. Họ được các lãnh đâọ tỉnh thành ủng hộ, bất kể những bất lợi dành cho giới công nhân. Nhiều trường hợp các công ty này thông đồng với giới chức địa phương ăn chặn tiền lương, hoặc cắt giảm tiền lương không đúng với giao kèo họ đã hứa. Một vài tỉ dụ dẫn chứng:

Trường hợp Mozambique

Trung Quốc đầu tư xây dựng một sân vận động hiện đại nhất với 42.000 chỗ ngồi tại Mozambique trong khi dân chúng tại đây sống trong nghèo khổ, đói nghèo. 260 công nhân Trung Quốc làm việc trên công trường nên được hưởng một mức lương tương đối khá 850 đô la, trong khi dân công nhân bản xứ chỉ được giả một mức lương thấp 150 đô la/tháng. Công nhân bị bắt làm nhiều giờ không được cung cấp thức ăn, nước uống nên đâm lười biếng, cố tình làm việc chậm chạp. Đã thế, cuối tháng còn bị khấu trừ không biết tại sao và không được giải thích. Họ nói: “Họ trả cho chúng tôi quá thấp. Họ trả giả vờ, nên chúng tôi làm giả vờ.”

(Nguyễn Đình Huỳnh, Ibid, trang 102)

Sở dĩ họ có thể chèn ép, bắt nạt công nhân ngoại quốc vì họ đã ăn chia chác, hối lộ quan chức địa phương và những người này bắt buộc làm ngơ cho Trung Quốc. Trung Quốc thường đấu thầu các công trình xây dựng với giá rẻ mạt, đổi lại họ được mua giá dầu chính thức hoặc nguyên liệu của nước sở tại. Việc tra đổi này luôn luôn đem lại lợi nhuận cho các nhà thầu Trung Quốc.

Trường hợp Gabon

Công nhân Trung Quốc được tuyển sang làm bị đối xử như một thứ nô lệ mới.

Một số người Trung Hoa được chọn xuất khẩu lao động sang Gabon trên bờ biển Tây Phi. Ở đây, họ có nhiệm vụ xây dựng một con đường cao tốc, dài 112 km giữa hai thị trấn Fougamou và Mouila ở miền Trung Gabon băng qua trung tâm của nước này. Họ được hứa là mức lương họ được hưởng gấp ba lần số lương nếu họ làm trong nước. 1000 eu/tháng. Đó là vào năm 2009. Ở trại có khoảng 40 công nhân Trung Quốc, phần đông có quan hệ họ hàng với người đứng đầu của công ty. Tuy nhiên, trên thực tế, có một số công nhân không có liên hệ bà con với nhà thầu, họ bị bóc lột đến độ họ phải tìm cách bỏ trốn. Họ phải chạy trốn những tên côn đồ do ông chủ sai đuổi bắt họ. Họ phải đi ăn xin để sống sót ngay giữa Phi Châu. Khi gặp họ, ông Liu Senlin cho biết:

“Họ cho chúng tôi ăn gạo thối. Hàng ngày chúng tôi làm việc mười bốn giờ hoặc nhiều hơn. Họ không trả cho chúng tôi mức lương quy định trong hợp đồng. Chúng tôi là nô lệ. Đó là những gì chủ của chúng tôi nói với chúng tôi và đó là cách chúng tôi cảm nhận.”

Họ bị đánh đập, họ chạy trốn và và hai ngày đón xe dọc theo các con đường của xứ Gabon. Rồi họ tới được Libreville, thủ đô của Gabon. Gặp sứ quán Trung Quốc ở Libreville, họ chẳng giúp được gì và khuyên họ quay trở lại làm việc. và đừng nói chuyện với báo chí ở nước ngoài. (Nguyễn Đình Huỳnh, ibid, trang 110-111)

Trường hợp Kazakhstan

Bắc Kinh chỉ có mặt ở khu vực Trung Á sau sự sụp đổ của Liên Xô. Trung Quốc đã biết tận dụng khoảng trống nay do Nga Xô để lại.. Đó là một nền kinh tế èo uột trong khu vực, không cớ sở sản xuất đồ tiêu dùng. Nền kinh tế ấy chủ yếu dựa trên sự sản cuất dầu thô. Bán dầu cho Trung Quốc để lấy đô la và dùng tiền này để mua các sản phẩm rẻ tiền của Trung Quốc.

Tính chung đã có đến hàng ngàn tấn hàng của hóa Trung Quốc hóa được chở đến đất nước này mỗi ngày. Không thiếu một thứ gì. Theo ước tính của Juan Pablo Cardenal, mỗi ngày có khoảng 300 xe tải trở đầy hàng hóa đến đây. Và khi trút hàng xong, các xe tải ấy một cách vội vã quay về với xe trống rỗng. (Nguyễn Đình Huỳnh, ibid, trang 34)

Hầu như không có môt sản phẩm nội địa nào của Kasakhstan. Giờ đây nó phụ thuộc tuyệt đối vào đồ tiêu dùng của Trung Quốc mà người ta có thể nghĩ ra được.

Igor, người quản lý của một trong hơn hai mươi công ty cho thuê mặt bằng kinh doanh ở khu chợ chính của thủ đô Almaty khổng lồ này nói, “80 % các sản phẩm ở đây đến từ Trung Quốc”. Nhưng không ai chịu hiểu rằng 20 năm nữa không còn dầu và ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc trong lãnh vực năng lượng của Kazakhstan với hàng triệu đô la tín dụng của Trung Quốc là nỗi lo sợ thực sự. Những người Kazakhstan, tin rằng sau dầu thô Trung Quốc sẽ nhắm vào lãnh thổ. (Nguyễn Đình Huỳnh, ibid, trang 37)

Hiện tượng “Hán Hóa” đã được củng cố với sự xuất hiện đường sắt ở Tây Tậng.

Đầu tư Trung Quốc

Đây là một trong những nan đề quan trọng nhất, đáng lo ngại nhất cho các nước có nền kinh tế đang phát triển dựa vào đầu tư của Trung Quốc. Lấy một hai trường hợp như ở Ecuador, nơi Tổng thống Rafael đã xóa bỏ việc thị thực đối với khách du lịch Trung Quốc. Chỉ trong 6 tháng, người Trung Quốc nhung nhúc ở các chợ chính của thủ đô. Họ tới đây để làm ăn bằng cách thành lập các doanh nghiệp của họ.

“Theo Oleg Lipaev, đại diện của Bộ Công nghiệp và Thương mại Nga tại vùng Primorsky, hiện có 20.000 doanh nghiệp Trung Quốc ở vùng Viễn Đông của Nga, hầu hết là doanh nghiệp nhập khẩu hàng Trung Quốc. Do đó, ngành công nghiệp Trung Quốc chiếm 20% GDP của khu vực. Hơn 50% sản phẩm nông nghiệp ở Nga là do Trung Quốc sản xuất. Lipaev nói,

“Trong tương lai gần, giao thương với Trung Quốc có lợi cho Nga và các khu vực thuộc ảnh hưởng Nga, đặc biệt cho người dân. Tuy nhiên, có lẽ trong mười hay mười lăm năm nó sẽ trở thành mối đe dọa cho nền kinh tế Nga. Trong năm hoặc sáu năm vấn đề việc làm sẽ còn tồi tệ hơn bây giờ nhiều.” ”

(Nguyễn Đình Huỳnh, ibid, trang 173)

Nhưng cho đến nay thì cũng không ai biết được con số chính xác con số di dân đến Nga là bao nhiêu. Con số dự đoán là 4 triệu hợp pháp cũng như bất hợp pháp, thường ở những vùng giáp biên giới với Nga. Do sự sụp đổ của Liên Xô nhờ đó cần lực lượng người Trung Quốc tạo ra một vùng kinh tế công nghiệp ở miền Bắc Trung Quốc.

Người Trung Hoa tại châu Phi, Mỹ La Tinh và Trung Á

Chẳng những thế, người Trung Quốc còn có mặt tại châu Phi, Mỹ La Tinh và Trung Á dưới một chính sách kinh tế dựa trên “Tài nguyên thiên nhiên của anh đổi lấy hạ tầng và sản phẩm của chúng tôi”. Bắc Kinh còn xử dụng khái niệm “chính sách cùng thắng” để mô tả chính sách kinh tế.

Chẳng hạn, Trung Quốc đã xây dựng đường sắt Tanzania với Zambia với 25.000 công nhân Trung Quốc xây dựng giúp Phi Châu tăng năng xuất gạo và đường ở Châu Phi. Nhưng đổi lại Trung Quốc được lợi gì?

Đó cũng là tình trạng Trung Quốc xây dựng các tuyến đường cao tốc, hạ tầng cơ sở cho Việt Nam như trường hợp các hợp đồng thầu xây dựng hạ tầng cơ sở ở ngoài Hà Nội (Các các hợp đồng thầu phía Nam do Nhật ký kết). Thầu với giá thấp nhất, rồi hối lộ quan chức, làm ăn giả dối, rồi đội vốn đến đội giá thành tăng gấp hai đến ba lần gói thầu lúc ban đầu.

Ngoại giao đường sắt cao tốc

Có lẽ không một quốc gia nào trên hành tinh này mà hệ thống đường sắt phát triển một cách cực kỳ nhanh chóng như Trung Quốc. Ngoài việc phát triển đường sắt trên toàn lãnh thổ Trung Quốc. Giữa năm 1990 đến 2008, Trung Quốc đã chi 32.000 tỷ nhân dân tệ cho mục đích này (Tỷ giá 10 nhân dân tệ bằng một euro) Trung Quốc còn có tham vọng vượt ra ngoài biên giới Trung Quốc

(Jonathan Holslaf, China’s road to Influence, Asian Survey, 2010)

Trước tiên là đường sắt ở Tây Tạng xây năm 2007, dài 1.956 km ở cao độ 5000 m với số vốn 3,3 ti euro. (Nguyễn Đình Huỳnh, ibid, trang 218)

Đường sắt nối liền Thanh Hải với Tây Tạng. Nguồn:www.tibettravel.org

Đường sắt Qinghai-Tây Tạng là đường sắt đầu tiên đến Tây Tạng, nối Tây Tạng với Trung Quốc đại lục và kết thúc lịch sử một Tây Tạng không có đường sắt.

Theo Wang Menshu, một kỹ sư và cố vấn cho Bộ Đường sắt Trung Quốc, tham vọng này mong kết nối các nước Trung Quốc với Đài Loan, Hàn Quốc, Nga Trung Á và Đông Nam Á. Các dự án này lên đến nhiều chục tỉ đô la đều do hai công ty nhà nước Trung Quốc là China Railway Group (REC) và China Railwway Construction Group (CRCC). Và Trung Á lúc ấy như cửa ngõ đi vào Âu Châu.

Tuy nhiên, các dự án con đường tơ lụa trên thực tế bất khả thi, thêm vào là tệ nạn tham nhũng nên nay bị bỏ lửng. Và Bộ trưởng đường sắt Liu Zhijun bị tố cáo tham nhũng, bị cách chức và bị khai trừ khỏi đảng.

Theo Wang, các dự án sẽ do Bắc Kinh tài trợ để đổi lấy “quyền tiếp cận tài nguyên thiên nhiên và thị trường mới cho các sản phẩm Trung Quốc.”

(Nguyễn Đình Huỳnh, ibid., trang 215)

Chính sách của Bắc Kinh là họ xây dựng đường sắt cho cơ sở hạ tầng, để đổi lại, nước sở tại trả bằng tài nguyên thay vì tiền mặt.

Công việc cho vay tiền xây cớ sở hạ tầng áp dụng ở Tây Tạng, Tân Cương, Kazakhstan và nhiều nơi khác.

Chỉ riêng năm 2010, Trung Quốc đã cho các quốc gia này vay ít nhất 13 tỉ đô la. Một lãnh đạo đối lập Kazakhstan trong nhóm các nước Trung Á (bao gồm Kazakhstan, Kyrgystan, Uzbekistan và Turmanistan) này phát biểu cho hay:

“Chúng tôi sẽ bắt đầu bán rẻ lãnh thổ của chúng tôi. Chúng tôi sở hữu lãnh thổ rộng lớn và có biên giới chung [với Trung Quốc], vì thế bản đồ có thể được vẽ lại để bán đi một vài nghìn ha đâu đó.”

Chưa kể với 5 nước Trung Á với số dân 61 triệu người, Trung Quốc nắm giữ vị trí thương mại thống trị trong khu vực. Họ kiểm soát 28% tài nguyên thiên nhiên (khí và dầu).

Theo Mara Gubaidullina, giáo sư tại Kazakhstan’s National University, về mặt chính trị, Trung Quốc còn yêu cầu Kazakhstan ký một tài liệu về quan hệ song phương, không chỉ yêu cầu Kazakhstan tuân thủ “nguyên tắc một Trung Quốc”, mà còn yêu cầu nước này từ chối cho phép “các phong trào ly khai” ở biên giới, rõ là nhằm chống lại người Duy Ngô Nhĩ dù không nói ra.

(Nguyễn Đình Huỳnh, ibid, trang 222, 226)

Kết luận

Khi viết những dòng này, vào năm 2019, người viết cho thấy còn có nhiều biến chuyển bất ngờ vượt mọi dự đoán.

Chẳng hạn, đối với nước Mỹ, hầu như đứng ngoài hai đại họa trong thế kỷ 20, chủ nghĩa Phát Xít Đức tàn lụi và chủ nghĩa cộng sản sụp đổ tiếp theo sau đó với việc bức tường Bá Linh sụp đổ vào ngày 9-11-1989. Cả hai đại họa ấy chỉ làm cho nước Mỹ có cơ hội mạnh hơn, phát triển hơn và trở thành cường quốc đứng đầu thế giới.

Thế giới hầu như thở dài thoát gánh nặng một cuộc chiến tranh lạnh do Liên Xô lãnh đạo khối cộng sản và Mỹ dẫn đâu khối tự do. Cố vấn an ninh của Tòa Bạch Ốc, Zbigniew Brzezinski, một trong những cố vấn hàng đầu của Tổng thống Mỹ Carter đã ngạc nhiên trước những diễn biến lịch sử đầy bất ngờ tuyên bố:

“C’est vraiment étrange, le communisme né avec ce siècle, va mourir avec lui.” (Thật là điều kỳ lạ, chủ nghĩa cộng sản được sinh ra ở thế kỷ này thì nó cũng đã chết ở thế kỷ này.)

(Éric Laurent. La face cachée du 11 septembre. Plon, 2004, trang 9).

Nhưng lịch sử có những bất ngờ ngoài mọi dự đoán. Cũng chính cố vấn an ninh quốc gia Zbigniew Brzezinski đã cố vấn Tổng thống Carter nên đỡ đầu và trang bị quân sự cho phiến quân Mujahideen khi Liên Xô xâm chiếm nước Afghanistan vào năm 1979. Osama bin Laden và nhóm Al Qaeda đã xuất hiện từ cuộc tranh chấp này.

[DCVOnline | 1979, sau khi tốt nghiệp đại học bin Laden đã đến Pakistan hợp tác với Abdullah Yusuf Azzam, Cha đẻ của thánh chiến toàn cầu, và tài trợ cho kháng chiến quân Mujahideen trong chiến tranh chống Liên Xô ở Afghanistan. Cùng lúc, trong chiến dịch Cơn Lốc (1979-1989) của CIA, Mỹ và Saudi Arabia viện trợ khoảng 40 tỉ đô-la cho khoảng 100.000 kháng chiến quân Mujahideen và Ả Rập Afghanistan. Bin Laden đã gặp và lập quan hệ với Hamid Gul, một tướng ba sao trong quân đội Pakistan và là người đứng đầu cơ quan ISI (Cơ quan Tình báo của Pakistan). Mỹ đã đưa tiền và vũ khí cho nhóm kháng chiến quân của Bin Laden, nhưng quân đội Pakistan và ISI hoàn toàn đảm trách việc huấn luyện các nhóm chiến binh chống Liên Xô. Saudi Arabia cũng là nơi xuất phát của một số lớn không tặc đánh sập tháp đôi ở New York ngày 11 tháng 9, 2011.

Tóm lại Bin Laden là đồng minh của Mỹ và Saudi Arabia trong cuộc chiến tranh với Liên Xô ở Afghanistan.

1988 Bin Laden tách khỏi nhóm của Azzam và thành lập al-Qaeda vào tháng 2 năm 1989; năm 1990 Osama bin Laden trở lại Ả Rập Saudi vào như một anh hùng của cuộc thánh chiến. Cùng với quân đoàn Ả Rập, bin Laden được cho là đã “hạ bệ siêu cường Liên Xô hùng mạnh”.

Tháng 4 năm 2011, Tổng thống Obama đã ra lệnh mở chiến dịch bí mật để giết hoặc bắt bin Laden. Ngày 2 tháng 5 năm 2011, Tòa Bạch Ốc công bố SEALs của Hải quân Hoa Kỳ đã hạ sát bin Laden trong khu tập thể Abbottabad ở Pakistan. Nguồn: Wikipedia.org, Osama bin Laden]

Bài báo ngày 6 tháng 12 năm 1993 của Robert Fisk trên The Independent với tiêu đề “Chiến sĩ chống Liên Xô đưa đoàn quân lên đường đi đến hòa bình” 20 năm sau thât sửng sốt khi đọc lại .

Đa số không tặc đánh sập Tháp Đôi ngày 11 tháng 9, 2011 xuất phát từ Saudi Arabia, quốc gia hiện là đối tác thương mại và đồng minh quan trọng của Hoa Kỳ. Nguồn: CNN.

22 năm sau thế giới Tây Phương mới thấy mối nguy hiểm từ phiến quân Hồi giáo này mà nó mở màn bằng biến cố 11-9, hai máy bay đâm thẳng vào các tòa nhà của World Trade Center. Khi nhìn trên màn hình TV lúc đầu tưởng như máy bay đâm nhầm. Và chỉ ít phút sau, người ta mới chứng kiến một thảm trạng chưa từng có. Vừa khủng khiếp, vừa như say mê. Một sáng kiến giết người làm cả thế giới kinh ngạc

11-9 báo hiệu một kẻ thù mới của thế giới có tên là: Bọn khủng bố Hồi Giáo. Tiếp theo là Tổng thống. George W.Bush tấn công quân sự vào Afghanistan vào ngày 7-10-2001 và lật đổ chính quyền Talibans để bắt cho bằng được Bin Laden bị tình nghi là kẻ đã chủ mưu trong biến cố 11-9.

Độ tàn độc của khủng bố Hồi giáo còn có độ tàn độc hơn cả cộng sản một bậc cộng thêm với mức độ mù quáng tôn giáo chưa từng thấy.

Từ nay, có một cuộc chiến tốn kém về mọi mặt. Để duy trì an ninh nội địa nước Mỹ, một năm nước Mỹ đã phải chi phí hàng tỉ tỉ đô la! Và đấy là cơ nguy đưa đến sự suy thoái của nước Mỹ về mặt phát triển trong tương lai so với Trung Quốc. Chẳng những thế, Bắc Kinh đã gửi một phái đoàn đến gặp đại diện Talibans như một hình thức ngăn chặn Wagshington. (Xem Eric Laurent, Ibid, trang 18)

3 năm truy lùng vô hiệu, không đạt kết quả. Bin Laden sau khi đã đào tẩu ra khỏi Tora Bora đã biến dạng vào những miền núi non hiểm trở giữa biên giới Afghanistan và Pakistan. Nó báo hiệu trước một nước Mỹ không còn cơ hội chiến thắng như trước đây mà còn cho thấy có những dấu hiệu suy thoái về nhiều mặt. Nhất là những quyết định của Tổng thống G. W. Bush tại Iraq và Afghanistan đã ngốn hàng tỉ đô la cho một cuộc chiến không có hy vọng. Nước Mỹ phải đương đầu với kẻ thù ngay trong nội địa, trong khi Trung Quốc xem ra được rảnh rang lợi dụng làm giầu!

Và nay, cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc, đồng thời một hình thức chiến tranh lạnh giữa Mỹ-Nga-Trung Cộng mà tương lai chưa định hình được.

Những khẩu hiệu mà Tổng thống G. W. Bush đưa ra như bảo vệ “Thế giới tự do”, “những quyền lợi sống còn”, “an ninh Quốc gia”, “hòa bình bị nguy hại” mà thực tế lúc ấy chỉ là “cuộc chiến dầu lửa”.

Nay dầu lửa không còn là điều kiện sống còn của nước Mỹ nữa thì việc gửi 150.000 quân sang Iraq trước đây, nào phải chỉ vì Saddam Hussein là tên độc tài. Hơn thế nữa, khi có cuộc chiến giữa Iraq và Iran thì Mỹ đã từng giúp Iraq chống lại Iran.

(Judith Miller. Laurie Mylroie. Saddam Husein, trang 260)

Tương lai con rồng Châu Á

Đến nay thì có thể định hình tương lai một đất nước mạnh về dân số. Nó là điều kiện ắt có và đủ để đưa một đất nước đi lên. Sở dĩ nói được như thế vì trong cái kinh tế vĩ mô, sản xuất là một chuyện, nhưng tiêu thụ quyết định thị trường, sự sống còn của một sản phẩm là chuyện khác. Cơ hội sản xuất thì dễ hơn là tìm kiếm một thị trường tiêu thụ. Trong cung-cầu thì cầu nay quan trọng hơn cung. Tiềm năng một số nước như Tầu, Ấn Độ, Mỹ, Indonesia, Ba Tây, Nga là lớn.

Đó là những nước có tiềm năng mạnh về dân số và đất đai. Tương lai sau này là ở phía họ. Những nước như Do Thái, Bỉ dù kỹ thuật có cao, nhưng làm sao tiềm năng về kinh tế phát triển?

DCVOnline: Dân số lớn không có nghĩa là dân sẽ giầu hay nước sẽ mạnh. Ví dụ China và India so với Australia và Canada. Cũng thế Nigeria và Ethiopia dân số lớn gấp 3 đến 5 lần Canada và Australia nhưng không thể vì thế mà Nigeria và Ethiopia là những quốc gia giầu mạnh.

Tài sản trung bình của mỗi người lớn trên thế giới. Nguồn: Wikipedia.org

Con rồng nước Tầu: với diện tích 9,6 triệu cây số vuông. Dân số 1,316 tỉ người. Đông nhất thế giới. 43% dân số ở đô thị. Tổng sản lượng quốc gia (GNP) là 2.280 tỉ năm 2006. Lợi tức đầu người: 5300 đô la, gồm 22 tỉnh thành, nếu cộng thêm Đài Loan là 23, cộng thêm 5 khu tự trị, như Tibet. 4 đặc khu – Bejing, Shangai, Tianjin, Chongqing và hai khu vực đặc biệt là Hông Kông và Ma Cao. Ngôn ngữ chính tiếng Mandarin — tiếng Phổ thông và nhiều tiếng địa phương. Vê tiềm năng tương lai, nước Tầu có 91% dân chúng thoát nạn mù chữ, có thể có thể, đọc, viết và đếm, 600.000 sinh viên tốt nghiệp đại học mỗi năm. Hiện tổng số sinh viên là 19.417 triệu người vượt cả Mỹ.

(Martine Bulard. Chine, Inde : la course du dragon et de l’éléphant, Fayard, April 30, 2008, trang 92-95)

Nước Tầu với những vị lãnh đạo vượt khuôn khổ: Mao Trạch Đông cho đến bây giờ vẫn còn được một số dân quê tôn kính là một kẻ tàn độc nhất thế giới. Đặng Tiểu Bình- kẻ kích cầu kinh tế và mở đường cho Đặng Tiểu Ninh với giấc mơ: Toàn cầu hóa.

Nước Tầu còn tìm kế hoạch ổn định khu vực.

Họ coi tình trạng “ổn định” là điều kiến sống còn cho sự bền vũng, phát triển. Vì thế, nước Tầu là nước đi trước để ổn định biên giới với Nga. Năm 2005, lần đầu tiên trong lịch sử, mối liên lạc giũa Nga-Tầu về biên giới chung đã được ký kết sau nhiều cuộc thương lượng với việc ký kết ngay 2-6-2005.

Với Ấn Độ khó khăn hơn, nhưng hai bên cũng đã ký kết được một thỏa ước tạm vào ngày 11-4-2005 giữa Thủ tướng Ấn Độ Manmoham Singh và thủ tướng Wen Jiabao (Ôn Gia Bảo) về hai vùng Arunachal Pradest (90.000 km) phía Đông-Băc Ấn Độ và vùng Tây Bắc với Aksai Chin (38.000 km). Ít lắm thì hai bên cũng biết phải nhượng bộ như thế nào trong một hiệp định khung giữa đôi bên. Có thể còn lâu mới đi đến một thỏa thuận chung cuộc, nhưng ít ra tránh được những đòi hỏi giữa đôi bên mỗi khi có cuộc đối thoại chung.

(Martine Bulard.Ibid, trang 216-219)

Đối với Việt Nam thì nước Tầu cũng đã được những thỏa thuận chung về biên giới đất và biển ở vịnh Bắc Việt. Chỉ còn lại những khúc mắc về Biển Đông với đường 9 đoạn.

Xem như thế thì, Trung hoa tỏ ra khá biết điều để tránh đụng độ trực tiếp với những láng giềng hùng mạnh như Ấn Độ hay Liên bang Nga. Phải công nhận, nước Tầu đã khi thì thương lượng đa phương, khi thì song phương một cách khéo léo để đạt được những thỏa thuận giữa các nước áng giềng.

Vậy trong tương lai, trong những năm tới 2050, theo dự đoán của các chuyên gia của Goldman Sachs, Ấn Độ được xếp hạng thứ ba thế giới, chỉ sau Tầu và Mỹ, một trong ba nền kinh tế mạnh nhất.

DCVOnline: BRIC và N-11 trên thế giới. Nguồn: Goldman Sachs Global Economics Papers No.153, 28 March 2007, trang 3.

DCVOnline: Chỉ có BRIC sẽ vượt qua G7 vào năm 2035. Nguồn: Goldman Sachs Global Economics Papers No.153, 28 March 2007, trang 4.

(Goldman Sachs Global Economics Papers No.153, 28 March 2007, pp 8-9.)

Sự sắp xếp này xem ra còn nhiều bất cập.

Chẳng hạn Ấn Độ phần lớn là một xã hội nông nghiệp, vậy mà 400 triệu dân Ấn ở trong tình trạng ngèo đói, túng thiếu. Đến nỗi tình trạng nghèo đói ấy có thể coi Ấn Độ là một Ethiopia ở Á Châu. 4 người trên 10 người Ấn Độ không biết đọc biết viết, trong khi bên Tầu chỉ 1 người trên 10 mù chữ. Chưa kể giới phụ nữ, 52% không biết đọc biết viết. Trong trường học bên Ấn Độ không có nổi một chiếc cầu tiêu. Nền nhà bằng đất mà nhiều lứa tuổi học trò được dồn vào học chung một lớp. Tỉ lệ học trò bỏ lớp rất cao. Chưa kể, thành phần trẻ em thuộc xa hội thấp kém (le système de l’Intouchable như sắc dân Dalits) không có cơ hội tới trường. Dưới cả sắc dân Dalits còn có dân Hồi Giáo cũng chịu số phận thiệt thòi hơn.

Nhưng số phận đân nghèo mù chữ sẽ là một trong những yếu tố lầm cho sự phát triển ở Ấn Độ chậm lại so với Trung Quốc.

Chỉ nhìn những người dân Ấn Độ tắm rửa trên nước sông Hằng mà độ nhiễm trùng là nguồn cội của bao nhiêu bệnh truyền nhiễm. Chính quyền vẫn làm ngơ.

Làm sao một đất nước như thế trong một giai đoạn ngắn có thể thoát nghèo và có địa vị như một cường quốc?

Nhưng cả Trung Quốc và Ấn Độ có mẫu số chung là chạy theo đà phát triển đã bỏ rơi dân quê.. Sự khác biệt giầu nghèo giữa thành thị và thôn quê tạo thành hố ngăn cách lớn đến độ cả 300 triệu dân quê Tầu đã bỏ nhà quê chạy ra tỉnh kiếm công ăn việc làm. Hiện nay, Trung Quốc đang trở thành một trong những xã hội bất bình đẳng nhất thế giới ngang ngửa với các nước như Nam Phi.

Tình trạng này cũng không khác gì bao nhiêu tình trạng ở bên Việt Nam.

Về mặt kinh tế, theo sự tiên đoán của Martin Jacques trong một biểu đồ năm 2025 và 2050 cho thấy:

2025, Mỹ vẫn dẫn đầu rồi đến Tầu, Nhật Bản, rồi Ấn Độ, Đức,, Nga, Pháp, Ba Tây, Ý, Mê xi cô, Nam Hàn, Canada, Nam Duong, Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Viet Nam Nigeria.. Việt Nam leo hạng thứ 16.

2050, Trung Hoa dẫn đầu rồi Mỹ, Ấn Độ, Brazil, Mexico, Nga Xô. Nam Dương, Nhật, Anh, Đức, Nigeria, Pháp, Nam Hàm, Thổ Nhĩ Kỳ Việt Nam, Canada, v.v..Việt Nam lên được một hạng, đứng thứ 15 trước cả Canada.

(Martin Jacques. When China rules the World. The rise of the Middle Kingdom and the End of the Western World. Ibid, Phần I, The Changing of the Guard)

Nguồn: Goldman Sachs Global Economics Papers No.153, 28 March 2007, trang 9.

Sự xếp hạng này dựa trên biểu đồ do Goldman Sachs có những con số làm bằng cớ và sự giải thích. Chúng ta đều biết qua lịch sử những nền kinh tế như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha đã có thời là những đế quôc thuộc địa mà phần lớn là đất đai. Tiếp nối theo là ba nước Anh, Pháp Đức khi bắt đầu cuộc đại kỹ nghệ. Hai cuộc chiến tranh đã làm suy yếu các nước này và làm nổi bật vai trò của Mỹ Quốc.

Thế giới sau 1945 gọi các nước Âu Châu là Old World còn nước Mỹ là New World.

Nhưng khi nói về các nước phát triển, người ta gọi đó là các nước Phương Tây (West) trong đó bao gồm cả Mỹ, Canada, các nước Âu Châu, bao gồm thêm các nước Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan và không quên Nhật. Tổng sản lượng nội địa của các nước này bằng nửa của cả thế giới.

Nhưng các nền kinh tế khu vực Đông Nam Á do một đà phát triển tột bực và cực kỳ nhanh chóng với thặng dư thương mại rất lớn đã làm thay đổi diện mạo kinh thế thế giới với Nước Tầu hiện nay. Nước Tầu hiện giữ hơn 2000 tỉ công khố phiếu của Mỹ. Cộng thêm sự suy yếu của các nước sản xuất giầu hỏa với năng lượng dự trữ tưởng chừng như vô hạn đang gặp khó khăn vì giá dầu suy giảm.

Hơn ai hết, nước Tầu đang lợi dụng các khó khăn ấy để khai thác những mối lợi lớn lao về cho mình như ở Venezuéla, Nga Sô và các nước Phi Châu như Angola.

Trong số các nước Âu Châu từng là những nước đế quốc hùng mạnh ngót hai thế kỷ chỉ còn lại hai nước là Anh và Đức trong danh sách mười nước đứng đầu.. Pháp tụt hạng xuống thứ 11.

Trong nhóm G7 hiện nay, chỉ còn 4 nước được xếp hạng. G7 gồm Canada, Nhật, Pháp, Ý, Đức, Anh, Mỹ.

Nhưng trong tương lai, thay vì gọi G7 thì chỉ còn lại G2? G2 là Tầu và Mỹ. Nhưng trong G7 là một sự hợp tác chia xẻ một nửa lợi nhuận trên toàn thế giới.

Người viết không nhất thiết tin tưởng vào bảng xếp hạng này. Nhưng ít lắm nó cũng như một cảnh giác về một sức mạnh của Trung Quốc. Từ đó bắt đầu cho thấy Mỹ đang tìm thế một thứ liên minh bao vây Trung Quốc như hiện nay để đối đầu với một sức mạnh mà chưa ai có tiên đoán được.

Sự co cụm ấy bằng cách tẩy chay hàng hóa Trung Quốc cũng như vụ Hoa Vi, phải chăng đó là bước nhảy hụt mà Trung Quốc có thể bị sa lầy?

Tuy nhiên, dù có những con số đi kèm, Hai biểu đồ này cũng vẫn chỉ là dự đoánn kinh tế không nhất thiết sẽ xảy ra như vậy.

Hết

© 2019 DCVOnline