Phần 12

Những năm tháng ấy năm gì?

Những kẻ bị khai trừ (I)

Những năm tháng ấy năm gì?

Nguyễn Văn Lục

Tưởng nhớ đến Thiên An Môn và tự hỏi bao giờ có một Thiên An Môn thứ hai cho Việt Nam?

Kể từ sau 1975, miền Nam không còn như trước nữa. Trước hết cuộc sống con người hoàn toàn bị thay đổi. Ta quen thuộc gọi là Đổi Đời. Sau đó nó còn thay đổi đến chính con người của ta nữa.Ta không còn là ta, cũng tập nhiễn nói dối trá, đóng kịch giả hình. Đổi đời làm cho cuộc sống con người nghèo đi, sống khổ hơn. Nhưng cái đổi thứ hai làm ta mất luôn phẩm giá đạo đức, nhân cách đến như thể mất tính người, mất tính thiện. Đã có không biết bao nhiêu điều phải nói, nói bao giờ cho hết cái “thời bao cấp” trước Đổi Mới - 10 năm trời. Tôi gọi những đêm trước đổi mới như “những bài học về một thảm họa” (Lessons in disaster”) dành cho con người. Dành cho con người vì những thảm họa đó do con người tạo ra. Miền Nam biến thành vùng nước quẫn đục (eaux troubles) như hình ảnh con cá nằm dẫy lạch đạch trên dòng nước cạn.

Mà con người đành cúi đầu cam chịu, không dám phản kháng.

Thảm họa đó có tên là cộng sản. Bài học thảm họa cộng sản trong những năm ấy không quên được.

Dép râu dẫm nát đời trai trẻ

Nguồn: reedaccess.com

Gót dép râu tưởng rằng nó nhẹ và dễ chịu hơn gót giầy bốt “xang đá” của Tây thời thuộc địa, vậy mà sao nó có thể dẫm nát miền Nam đến như thế.

Nó đi không gây ra tiếng động như loài rắn độc tuồn vào mỗi nhà. Chế độ độc tài ấy không phải được thiết lập để bảo vệ cách mạng. Nhưng người ta làm cuộc cách mạng là để duy trì chế độ độc tài, để bảo vệ chế độ độc tài cộng sản. Đó là điểm khác biệt giữa cách mạng và độc tài.

Vì thế, họ đã đem thế chấp (Hypothéquer) tương lai miền Nam và toàn thể đất nước để thực hiện cho bằng được một thiên đàng cộng sản mà nhiều nước cộng sản đang muốn chối từ.

Kể từ 1975, đó là những đêm dài khổ lụy do không biết bao nhiêu nguyên do xa gần đã dẫn đưa đến những năm tháng mà ta tự hỏi những năm ấy năm gì? Đó là những năm dài của sự khủng bố và ghê sợ. Nó bắt mọi người phải nghĩ theo một lối, sống theo một lối, viết theo môt lối thì rồi đến một ngày kia, hàng trăm thứ hoa cúc đều phải nở ra hoa cúc vạn thọ hết. (Theo ý của Phan Khôi).

Vùng nước quẫn đục ấy là do trách nhiệm của giới lãnh đạo bất tài.

- Họ thiếu tất cả những đức tính của những nhà lãnh đạo giỏi. Thiếu hiểu biết, lại kém cỏi, thiếu tầm nhìn xa cộng thêm tự mãn quá cao như trường hợp Lê Đức Thọ. Ông cho rằng, ông chẳng có bằng cấp gì mà vẫn lãnh đạo được. Một cựu đảng viên đảng cộng sản, nay bị khai trừ, trong một bữa ăn có trao đổi với tôi và đưa ra nhận xét sau đây. Đành rằng giới lãnh đạo phần lớn ít học, ít tiếp xúc với thế giới bên ngoài như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng. Nhưng ông Hồ Chí Minh đã mấy chục năm ở nước ngoài, đã gặp bao nhiêu người, đã có cơ hội học hỏi. Nói về hiểu biết, từng trải thì hơn một anh nông dân như Mao Trạch Đông. Vậy mà làm sao sau này, Hồ Chí Minh lại coi Mao Trạch Đông như hàng bậc thầy. Rồi học theo Tàu, nhắm mắt lãnh đạo như Tàu? Cái gì bên Tàu làm, dù làm sai thì bên Việt Nam làm y trang như vậy. Chỉ có thể trả lời là họ mắc cái bệnh cộng sản. Guồng máy đảng đã uốn nắn, khuôn đúc ra họ. Tôi ghi nhận nhận xét đó và không khỏi suy nghĩ.

- Suy nghĩ đó dẫn đưa tới trường hợp Lê Duẩn với cuốn sách Thời Thắng Mỹ do Thép Mới chấp bút, nắm chức Tổng bí thư từ 1960 đến 1986. Ông ngồi lì ở đó hơn phần tư thế kỷ thì chết rồi. Bộ hết người tài sao? Gần bằng thời kỳ Stalin nắm quyền ở Liên Xô.

‒ Lê Duẩn đã đưa toàn thể đất nước đến chỗ mạt lộ trong suốt 10 năm. Vậy mà khi Lê Duẩn nằm xuống, Lê Khả Phiêu, nguyên chủ tịch nước CHXHCN còn viết một bài nhan đề: Tổng Bí Thư Lê Duẩn như tôi biết, trong đó ông hạ bút, “Cố tổng bí thư làngười có bộ óc phân tích chiến lược sâu sắc. Ông có những đánh giá nhận định trong các lĩnh vực chính trị thế giới, kinh tế xã hội cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.” (Trích TIN 247 com, 11-7-2006)

Ngồi lâu là bệnh của các người cộng sản. Như Staline, như Mao Trạch Đông, như Kim Nhật Thành, như Fidel Castro, như Hồ Chí Minh, như Phạm Văn Đồng, như Trường Chinh, như Lê Duẩn. Họ đều mắc bệnh đó cả.

Phạm Văn Đồng được coi như một thủ tướng lâu đời nhất của Việt Nam từ 1955 đến 1987. Một thủ tướng bất tài, ba phải, ngả theo đa số. Vì thế ngồi lâu.

Trường Chinh ba lần làm Tổng Bí Thư. Lần chót ông lên thay Lê Duẩn vừa mất. Tuổi 80 mà vẫn còn ngồi lại choán chỗ. Nhiều người cứ gán cho ông tư tưởng Đổi Mới. Thật ra, cùng lắm chi là đôi ba lời tuyên bố ý tưởng Đổi Mới. Thực tế, ông đã không làm gì. Theo Vũ Thư Hiên, Trường Chinh được gọi giễu là Longue Marche, trường kỳ là người chủ chốt đánh Nhân Văn Giai Phẩm. Cũng là người chủ chốt lấy sách của Tàu dịch ra rồi nhận là sách do mình viết. Theo Vũ Thư Hiên, cuốn Trường Kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi sao nó giống cuốn Trì Cửu Chiến Luận (Bàn về đánh lâu dài) của Mao Trạch Đông.

Nhưng nếu nói như thế thì cuốn Sửa đổi lề lối làm việc của chính Hồ Chí Minh cũng là đạo văn cuốn Chỉnh đốn văn phong của Mao Trạch Đông? Hóa ra đều là tuồng đạo văn? Từ đó mở màn cho vô số truyện đạo văn, ăn cắp đến hiện nay vẫn chưa dứt? Sau này, người ta cho ông về vườn cùng với các quý ông Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng. Ba Ủy viên chính trị khác cũng cho về vườn luôn thể là Đại tướng Văn Tiến Dũng, Đại tướng Chu Huy Mân và Tố Hữu.

Ông Bùi Tín trong Mặt Thật, trang 289 cho rằng nếu ông Phạm Văn Đồng chỉ làm 8 hay 10 năm thay vì gần 40 năm thì đất nước đã khá hơn. Nếu làm 8 hay 10 năm tnì đất nước khá hơn! Vậy nếu làm 4 năm rồi tụt xuống một năm và giả dụ không làm năm nào thì có khá hơn nữa chăng? {Thủ tướng lâu nhất, già nhất và bất lực nhất như ông thường tự nhận xét}. Nếu như Tổng Bí thư, ủy viên bộ chính trị, ủy viên ban bí thư, bộ trưởng, đại biểu quốc hội cũng chỉ làm nhiều nhất hai khóa đại hội đảng và hai khóa quốc hội thì tình hình đã có thể đổi khác một phần.

- Người ta cho rằng khủng hoảng chính trị xảy ra như trường hợp năm 1980 là vì thành phần lãnh đạo già nua, bất lực, yếu kém mà nay vẫn nắm quyền lực. Đó là tình trạng thường xảy ra ở các nước độc tài cộng sản như trường hợp Liên Xô trong thời kỳ Brezhnev mà nhiều lãnh đạo khi chết còn tại chức. Đó cũng là trường hợp Mao Trạch Đông, Fidel Castro hay Kim Nhật Thành, v.v…

- Các chính sách kinh tế theo đuôi bằng những khẩu hiệu như bùa chú đã tỏ ra hoàn toàn thất bại và sống vật vờ trông chờ vào viện trợ của Liên Xô. Trong khi đó chính Liên Xô, kể từ sau cái chết của Staline đã có những biến động liên tục. Ông giáo sư Hồ Ngọc Đại trong một bài giảng tại trường viết văn đã viết về tình trạng ở Liên Xô như sau: “Năm 1969, 1970 gì đó, tôi sang Liên Xô học. Những người bạn Liên Xô nói với nhau: “Các bạn ơi, chúng ta nên thương anh Đại. Cái mà chúng ta sắp đổ rồi thì anh Đại sang học.” (Trích “Triết học và lịch sử”, Hồ Ngọc Đại, http://phamxuannguyen.vnweblogs.com/print/1958/153914).

Thật vậy, kể từ tháng 3/1985, Khi Mikhai Gorbachev lên nắm quyền, giới lãnh đạo Hà Nội biết rằng, những gì Brezhnev dành cho họ sẽ không còn nữa.

- Cái nợ thế chấp (Hypothèque) dân miền Nam của chính quyền cộng sản từ thập niên 1975 mỗi ngày một nặng. Lấy gì để trả những món nợ ấy? Để theo kịp các nước khác. Nó giống như món nợ của chính quyền cộng sản Trung Quốc đối với dân chúng Trung Hoa. Tôi đọc một bài báo của tờ National Geographic, trong đó có đăng hình một ông cụ già với lời ghi chú như sau: “Visages de Chine. J'ai eu faim presque toute ma vie. Me dit Du Chenglan, 82 ans Derrière chaque visage de la galerie qui suit existe une histoire - faite de lutte, d’ambition, de joie - et c'est dans le creuset formé par ces histoires que s’inscrit l’avenir de la Chine. (Trích National Géographic, Mai 2008, trang 119) ("Những khuôn mặt nước Trung Hoa": Tôi đã ăn đói hầu như suốt cả cuộc đời tôi. Cụ Du Chenglan, 82 tuổi đã nói với tôi như thế. Đằng sau mỗi khuôn mặt, những hình đăng dưới đây thì đều có một lịch sử - Lịch sử làm bằng sự tranh đấu, bằng tham vọng và bằng sự vui sướng- và trong cái lò thử thách hình thành bằng những thứ lịch sử ấy sẽ là tương lai nước Trung Hoa.)

Những bế tắc toàn diện trong sinh hoạt kinh tế miền Nam

Sau 1975, mọi giao thương, thương mại với thế giới bên ngoài hoàn toàn đình trệ. Không có vấn đề xuất cảng hay nhập cảng. Các ngân hàng ngưng hoạt động. Sinh hoạt kinh tế lúc bấy giờ chỉ có hoặc chợ đen hoặc chợ trời. Các cửa hàng lớn trên các đường Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Tự Do, Trần Hưng Đạo phần lớn đều đóng cửa. Nhưng buôn bán trên vỉa hè thì tràn lan. Buôn đủ thứ, bán đủ thứ. Các đồ ăn cắp hay hôi của từ các nhà tư nhân, từ các kho hàng, các hãng xưởng bỏ đi nước ngoài được bầy bán kháp nơi. Nạn con buôn chạy hàng mánh mung. Nạn chợ đen giá cả mỗi nơi mỗi khác. Thay đổi từng nơi, từng ngày. Chảng hạn hàng thùng thuốc lá của các hãng Bastos, hãng thuốc lá M.I.C. Bia của hãng B.G.I. Các trạm xăng đều đóng cửa. Nhưng xăng chợ đen do Bộ Đội bán chui bầy một cái chai không ở lề đường làm dấu. Giá cả từ 1000 đồng đến 2000 đồng một chai. Xăng không còn nguyên chất mà pha chế thêm dầu lửa.

Người bán là người miền Nam, phần không nhỏ là vợ con các sĩ quan, công chức mà chồng phải đi học tập. Giữ được phẩm tiết lúc này là điều vô giá. Người mua là bộ đội, cán bộ miền Bác. Một bên bán ra, một bên mua vào. Bán là mất, mua vào là lời. Bán từ những đồ vật kềnh càng như ti vi, tủ lạnh, bàn ghế. Riết rồi bán đến cái quần, cái áo cho con cái có cơm vào miệng. Đến lúc không còn gì để bán thì tính kế bỏ đi.

Trong khi đó, sản xuất trì trệ vì thiếu nguyên vật liệu nên hàng giả ra đời. Đó là một nền kinh tế đi bước lùi. Hễ nơi nào có cộng sản đến thì nơi đó mọi sản phẩm đều khan hiếm. Đang giàu thành nghèo. Đang có dư thừa thành khan hiếm. Giả dụ cho họ quản lý một xứ ở sa mạc thì ít lâu sau cát trở thành khan hiếm. Và đây là những bằng cớ:

“Địa phương tôi có một xưởng xà phòng, tên chính hiệu là “kem giặt.” Sản xuất từ nguyên liệu “dầu rái,” loại dầu lấy từ than cây dầu trong rừng trộn nước tro. Sản phẩm làm ra có màu đen, sền sệt, mùi ngai ngái. Đám trẻ ngày nay thấy nó chắc không dám sờ tay. Vậy mà sản xuất ra bao nhiêu, giao cho “thương nghiệp cấp ba” phân phối sạch.”

“Địa phương tôi có một xí nghiệp nước giải khát, những “chai bia” xuất xưởng từ nước giếng, một ít cồn và khí C02, nút chai thu nhặt từ lon sữa bò, đóng nút vội vã từ máy nhắm cơ bắp. Hàng ra bao nhiêu tiêu thụ sách.”

(Trích Tuổi Trẻ online, thứ năm 02/04/2009)

Thủ phạm của nền kinh tế bao cấp này là nó tạo ra tình trạng khan hiếm giả tạo không theo đúng luật cung cầu. Từ đó đưa đến tình trạng đầu cơ tích trữ, nạn làm giá, ép giá lợi dụng khe hở của cơ cấu tổ chức kinh tế. Từ đó gây xáo trộn thị trường. Đó là một nền kinh tế không lành mạnh.

Vì thế có nguyên liệu mà cất dấu, hoặc không được phép bán. Một trường hợp rất cụ thể là thuốc “Tây” ở miền Nam là món hàng dân miền Bắc rất ưa chuộng so với “thuốc rởm” của miền Bắc.

Chợ trời thuốc Tây một thời gian thịnh đạt và nuôi sống nhiều gia đình “ngụy.”

Chợ Trời là cái gai mà họ ngứa mắt lắm. Họ muốn đánh sập. Nhưng đánh không được. Vì cảnh ngăn sông, cấm chợ, cảnh chặn đường, xét hàng.

“Một đoạn đường vài cây số, nhưng có tới hơn chục trạm kiểm soát hàng hóa. Những trạm gác này thường thường bắt được những ông cán bộ mặc quần áo hai lớp để đựng gạo, chị hàng thịt quấn quanh người những tảng mỡ heo rồi mặc áo trùm bên ngoài.”

(Trích Xuân Trung-Quang Thiện. Trích lại trong X-càphê)

Giá cả tùy lúc, tùy chỗ. Cho nên có giá trên trời, giá dưới đất. Muốn mua không có chỗ mua, muốn bán không có chỗ bán.

Chợ Trời ra đời trong cái cảnh bát nháo như thế. Buôn lậu cũng ra đời cùng lúc.

Ai cũng có thể buôn lậu. Ghe thuyền hai đáy, đáy dưới chở thóc, đáy trên chở rơm rạ. Mọi thứ hàng hóa, đồ dùng đến thịt cá đều cấm nên mọi thứ đều là đồ lậu, bất hợp pháp.

Công ty dệt may Thắng Lợi có 5.000 công nhân, nhưng có quá nhiều công nhân trộm cắp. Gặp gì lấy đó, vì đói.

Xe đang chạy xăng, xăng đắt. Nghĩ thụt lùi biến xe chạy bằng than với lò đốt thời 1940!!!.

Nhưng thuốc tây Chợ Trời đến một lúc nào đó, nguồn cung cấp thuốc cũng bị cạn. Lúc bấy giờ, người ta thấy một hiện tượng chéo cẳng ngỗng là các con buôn ra Bắc buôn thuốc Aspirine, loại chai 100 viên mỗi lọ. Thuốc được đem về giao cho một số tay ngang hoặc cựu nhân viên các hãng bào chế còn sót lại. Họ chắc đã bê một cái máy rập viên thuốc về nhà làm hàng riêng. Thuốc miền Bắc được đem nghiền ra, rất có thể còn pha thêm bột mì, sau đó cho vào máy đóng viên thuốc, với một vỏ bọc bằng nhuôm nhãn hiệu Aspro còn sót lại. Thuốc Aspirine miền Bắc, giá rẻ mạt nay mang bộ áo mới, tên mới, có tên là thuốc Aspro, ép từng vỉ. Con buôn thử một cái là biết thuốc thật hay giả.Thuốc miền Bắc, bẻ thì mủn ra. Còn thuốc Aspro “thật” của miền Nam cứng, rắn chắc. Phải lấy dao để cắt làm đôi.

Thật giả ăn thua ở cái nhãn hiệu, ở cái uy tín ấy.

Cũng một cách thức như thế. Một chai bằng chì nặng cả 2 kilô, trong đựng chất thuốc B12 concentrated sánh như mật ong. Những tay buôn đã kiếm được những chai như thế, nhãn hiệu cửa Đức trong các kho thuốc của các hãng bào chế còn để lại. Họ pha thêm với nước cất, có thể thêm nước sirô, rồi đóng vào các ống thủy tinh, bên ngoài dán các nhãn hiệu như Vitamine B12, hay Revitalose, v.v... Một chai nguyên chất như thế, pha ra có thể thành 10 ngàn ống Vitamine B12 đại bổ.

Người miền Nam sung sướng, tin tưởng, nhớ lại thuở vàng son, dùng Vit B12, sau mỗi bữa ăn. Phần các cán bộ miền Bắc, có lẽ lần đầu tiên trên đời được uống một thứ thuốc đại bổ như thế. Có thể, cẩn thận gói ghém gửi về Bắc làm quà cho vợ hay bà mẹ đau ốm. Ôi cả một tấm lòng của người đi xa gửi về!

Trường hợp thứ ba là bút Bic hay còn gọi là bút nguyên tử. Trước 1975, người Tàu Chợ Lớn làm ăn khá giả với loại bút này. Nguyên liệu chính để làm bút Bic là nhập cảng những viên bi nhỏ. Nguyên liệu cạn dần sau 1975. Một thời thứ bút này biến mất trên thị trường. Một người bạn tôi, Việt Kiều Đức về thăm Sài Gòn biết Tàu Chợ Lớn cần thứ nguyên liệu sinh tử đó. Sau giá cả thương lượng, anh trở lại Đức mua hàng thùng lớn những viên bi nhỏ sản xuất tại Đức.

Bút Bic lại có dịp xuất hiện trên thị trường Sài Gòn.

Cảnh xé rào từ chạy gạo đến phá cơ chế

Từ sau chiến dịch cải tạo thương nghiệp, thành phố Sài Gòn đâm thiếu gạo. Hoặc phải ăn gạo tem phiếu vừa mối mọt, vừa ẩm mốc. Sài Gòn từ trước tới nay chưa từng bao giờ thiếu gạo. Người dân phải ăn độn Bo Bo là điều không thể tưởng tượng nổi. Bí thư Thành Uỷ TPHCM lúc bấy giờ là Võ Văn Kiệt.

Ông Kiệt tuyên bố là không để dân thành phố đói ăn.

Bằng mọi cách phải mua được gạo. Gạo thì không thiếu, vấn đề là không mua được theo giá thỏa thuận của nhà nước. Ông Kiệt túng kế nghĩ cách đã đến lúc phải “phá rào”, phá cơ chế. Gạo có mà không mua được vì dân không bán với “giá ép,” giá giựt, giá nghĩa vụ vì bị thiệt thòi nhiều quá.

Giá nghĩa vụ bán cho nhà nước là 0.52 đồng/1 kí lô. Ông Sáu Dân bằng lòng mua với giá 2.5/1kí lô. Sau đó cộng thêm chi phí vận tải, chi phí xay xát và thặng số thương nghiệp.

Việc Tp. HCM mua với giá đó đẩy giá mua chính thức khắp nơi lên 2đ50/1 kí lô, vô hiệu hóa giá chính thức 0đ25. Chẳng bao lâu giá 2.5/1 kí lô dần dần lan ra cả nước và không lùi được nữa.

Giải pháp phá rào của ông Kiệt có cơ cứu cho TPHCM thoát nạn đói và sau đó giá cả được ổn định ở mức 2đ50/kí lô trên địa bàn cả nước.

Giải quyết xong vụ gạo coi như một giải pháp cứu đói cho dân thành phố. Nhưng đến một lúc nào đó, thành phố “Hồ Chí Minh” cạn kiệt nguồn nguyên liệu, sản xuất ngưng trệ.

16 tấn vàng của Ngân Hàng quốc Gia để lại thì đã chuyển giao chính quyền Trung Ương bảo quản và cấu véo chi tiêu hết lúc nào cũng không ai biết.

Lại một lần nữa phá rào. Ông Kiệt phải nhờ đến người Hoa, có vốn, có quen biết với nước ngoài, bắt đầu trao đổi với người Hoa ở Hồng Kông, Singapore.

Kể từ 1980, người Hoa thu gom tất cả những gì miền Nam có thể bán ra nuớc ngoài được như mực khô, tôm khô, lạc khô, đỗ cũng như các đồ tiểu công nghệ như đồ thêu ren, sơn mài, v.v… để đổi lấy sợi dệt, sợi thuốc lá cũng như xăng dầu của nước ngoài.

Cơn đói nhập cảng nguyên liệu giải quyết được một phần cho các cơ sở kỹ nghệ trong thành phố. Nhờ đó nhà máy thuốc lá Vĩnh Hội sản xuất được thuốc, nhà máy dệt Thành Công chạy đều lại, Hãng bột ngọt Vifon có nguyên liệu để làm bột ngọt.

Không có người Tàu Chợ Lớn đứng ra làm ăn, đêm đổi mới liệu có hy vọng thành công trong lúc đầu?

Sau 10 năm thế chấp dân miền Nam, giấc mơ thực hiện thiên đàng chủ nghĩa bị phá sản.

Người ta nói tới đổi mới. Không đổi mới là chết. Sau 10 năm thống nhất với lạm phát 400% đến 600%. Năm 1986, một kí lô gạo ngon giá 30 đồng. Hai năm sau, 1988, một kí lô gạo ngon giá 600 đồng. Nhiều người cho rằng sự kém hiệu năng của khu vực quốc doanh là đầu mối của các khó khăn kinh tế tại Việt Nam. Vào năm 1988, các xí nghiệp của nhà nước vẫn chiếm trên 70% tổng số sản ngạch kỹ nghệ. Chiếm 50% vốn đầu tư và 70% tín dụng, nhưng lại chỉ tạo ra từ 8 đến 10% công việc làm. Mỗi năm lại có hơn triệu người gia nhập thị trường lao động. Áp lực lạm pháp lại càng gia tăng vì ngân sách chính quyền bị khiếm ngạch nặng nề... Sản xuất giảm sút, lạm phát gia tăng. (Trích tóm lược trong VietNam at the crossroads, Michael C. Williams, dịch giả Nguyễn Duy Chính, trang 38, chương 4).

Nhất là chính quyền địa phương bỏ rơi những người rời bỏ làng mạc về thành phố lớn. Thành phố cũng không cần biết những di dân mới này là bao nhiêu, làm gì để sống.

Đó là một cảnh báo về khủng hoảng phát triển có nguy cơ bùng nổ xã hội.

Nhưng báo cáo của thành phố Hồ Chí Minh mới đây còn dám tự hào y tế tăng 5 lần so với trước 1975 với 18.000 y sĩ. Mặt nào cũng tăng, cũng phát triển từ giáo dục, y tế, báo chí, truyển thông, điện ảnh.

Đấy chỉ là một thí dụ về bệnh phô trương, kiêu ngạo cộng sản. Nhưng thực tế thì Trường Chinh vào cuối thập niên 1970 đã phải cảnh cáo: Đổi Mới hay là chết.

Thật sự mà nói, Đổi Mới ở nước ta là chậm, là theo đuôi hai nước đàn anh là Liên Xô và Trung Quốc. Liên Xô có Gorbachev với đường lối Glasmost (minh bạch) và Perestroika (đổi mới). Trung Quốc có Đặng Tiểu Bình. Họ có kế sách, có chủ trương.

Đã thế, vẫn có những kẻ bất tài chiếm chỗ. Hồ Viết Thắng là người trách nhiệm vụ Cải Cách Ruộng đất thời Trường Chinh. Nay cũng chính ông ấy vào Sài Gòn, sau 1975. Ông chủ trương không dùng các chuyên viên điện toán của chế độ cũ do Mỹ đào tạo hoặc có gốc gác là người công giáo hoặc người Bắc di cư.

May là không có chỗ lâu dài cho Hồ Viết Thắng ở miền Nam, sau 1975.

Phần những nạn nhân người miền Nam, ai còn đủ sức thì tìm đường tháo chạy. Việc người miền Nam chạy trốn ra nước ngoài là kết quả trực tiếp của những chính sách khốc liệt như đi học tập cải tạo và đánh tư sản mại bản cũng như đánh tàn dư văn hóa ngụy.

Kết quả tai hại của tất cả những chính sách trên đưa đến cảnh vượt biển mà hằng trăm ngàn người đã phải bỏ nước ra đi. Việc người dân phải liều mình bỏ nước ra đi đã hẳn như một lời cảnh báo nghiêm trọng về sự thất bại của chế độ cộng sản áp đặt trên dân chúng miền Nam. Theo lời kêu gọi của ông Nguyễn Văn Linh thì giới văn nghệ sĩ phải: “Nói lên sự thật dù là sự thật phũ phàng” và “không nên uốn cong ngòi bút của mình.” Trong một buổi tiếp xúc với giới văn nghệ sĩ, ông Linh tuyên bố phải “cởi trói” cho những người mà chức năng và nhiệm vụ của họ là: Nói ra. Cởi trói ở đây là để cho họ mở miệng.

Đọc những bài viết của Nguyễn Văn Linh trong mục Về những việc cần làm ngay, ký gỉa Diệu Bình trong bài: Ý Đảng Lòng Dân, báo Tổ Quốc, số 8 đã nhận xét:

“Đã lâu lắm mới thấy kiểu nói như vậy, văn chương không trau chuốt, lý luận chẳng cao siêu, toàn nói chuyện hạt lúa củ khoai, vậy mà được dư luận xã hội rộng rãi cả trong và ngoài đảng hết sức trân trọng và đồng tình, giới báo chí nhiệt liệt hưởng ứng.”

Nói theo ông Nguyễn Văn Linh, ông Hồng Hà, một cán bộ lão thành đã nhận xét là đổi mới chính trị chậm hơn đổi mới kinh tế. Đổi mới Tư Duy là cách sống, cách nghĩ, cách làm. Dám nghĩ, dám làm.

Trần Xuân Bách ngoài Bắc là quyết liệt nhất đề nghị Đảng phải đổi mới đi bằng hai chân: chân kinh tế thị trường với việc mở rộng kinh tế hàng hóa, phát triển thị trường và chân chính trị là đi mạnh vào việc áp dụng dân chủ rộng rãi, chấp nhận đa nguyên.

Những phát biểu của Trần Xuân Bách ngày càng gay gắt khiến cho bộ chính trị khó chịu. Trần Xuân Bách đòi đảng phải thay đổi mới xong. Sau này Trần Xuân Bách bị trù dập, bị khai trừ đến nơi đến chốn, không có lối thoát nữa, vì cổ võ đa nguyên. Họ phê phán Bách không đáng là đảng viên, vô kỷ luật, vô tổ chức loại ra khỏi mọi chức vụ của Đảng.

Tiếp theo lần lượt một số sách vở, báo chí của nhà văn nhà thơ ra đời. Trên Tuổi Trẻ, Người Lao Động có bài của các ông Hữu Thọ, Hoàng Tùng và Hồng Hà.

Về tiểu thuyết có Dương Thu Hương với tác phẩm Thiên đường mù viết về bi kịch một gia đình trong thời kỳ cải cách ruộng đất với đấu tố, sửa sai đưa đến những hậu quả của nó. Tướng về Hưu của Nguyễn Huy Thiệp trình bày con người trong hoàn cảnh vong thân, tha hóa, phi nhân cách, phi trách nhiệm. Phải chăng những con người ấy biểu tượng cho những con người miền Bắc?

Nhưng sau này, nhiều nhà văn đồng ý cho rằng phóng sự Đêm Trước Đổi Mới của Phùng Gia Lộc tạo ra một cú sốc được đăng trên báo Văn Nghệ, 1987, thời nhà văn Nguyên Ngọc còn là Tổng Biên tập tờ báo. Bài báo làm sống động cái cảnh người nông dân lo chạy thuế trong cái vòng kìm kẹm cơ chế của chế độ.

Nó dã man không thua gì cảnh thu thuế thời thực dân Pháp. Nó lên án chế độ, nếu không nói là nói xấu chế độ. Nó tạo ra một trào lưu chuyển động bên trong vì tính cách một phóng sự có thật. Nó gây xúc động tâm trí người đọc trong cả nước về sự dã man và chèn ép người nghèo khổ.

Sự việc diễn ra ở Thanh Hóa, nơi anh Phùng Gia Lộc sinh sống. Ở đây nổ ra cuộc tranh đấu của những người đòi Đổi mới, đòi quyền sống cho con người. Phùng Gia Lộc chỉ là một nhà văn nghèo, ốm đói, bênh hoạn, phải đương đầu với cơ chế xã hội, tạo một không khí đe dọa, khủng bố, uy hiếp đến tính mạng nhiều người.

Bài ký phóng sự gây chấn động.

Bạn bè lo lắng cho anh tìm cách khiến đưa anh ra lánh nạn tại Hà Nội, ăn ở tại tòa soạn báo Văn Nghệ của nhà văn Kim Ngọc.

Phùng Gia Lộc phải trốn ở Hà Nội trong vài tháng cho đến khi viên bí thư Thanh Hóa bị đổ.

Có lẽ trong đời viết văn, Phùng Gia Lộc là người chỉ viết có một bài văn trở thành nhà văn xứng đáng mà chỉ có một bài. Chẳng may Phùng Gia Lộc yểu mệnh.

Nhờ vào những bước đi đầu này mà sau này rất nhiều người đã lên tiếng phản kháng lại nhà cầm quyền như: Nguyễn Hộ, Hà Sĩ Phu, Nguyễn Văn Trấn. Và một số những người bất đồng chính kiến như Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Tiêu Dao Bảo Cự, Hoàng Tiến, Hoàng Minh Chính, v.v...

Công cuộc đổi mới chưa được bao lâu mà thật ra Nói đổi mới thôi. Thật ra cứ để yên như cũ hay là quay về với cái cũ, trở lại quy chế hợp với lòng dân, hợp với quy luật cuộc sống, từ bỏ những cơ chế cứng nhắc ở trên thì dân đủ được nhờ rồi.

Nhưng sau khi sụp đổ của Đông Âu và sau đó là sư sụp đổ của Liên Xô thì khuynh hướng giáo điều tả khuynh lại có cơ phục hồi. Thay vì nhân cơ hội có sự sụp đổ ấy, ta lợi dụng cởi mở, tháo gỡ những khâu còn mắc kẹt do tư duy cứng nhắc, mạnh dạn phê bình, phân tích các bệnh giáo điều, tả khuynh để đất nước có cơ hội vươn lên, mở rộng dân chủ, cho báo chí được phát biểu, trình bày...

Tiếc thay, lo sợ mất chỗ ngồi, lo sợ sự đổi thay làm suy sụp đảng. Xu hướng tả khuynh lại trở lại vị trí của họ. Họ coi lại, kìm hãm đà phát triển với những cảnh cáo vô nghĩa như “Coi chừng chệch hướng,” “Đổi mới nhưng không đổi mầu,” “Hòa nhập mà không hòa tan.”

Hậu quả vô tình là kiềm chế cạnh tranh, cạnh tranh sút giảm, tụt hậu ngay trong nhóm khu vực các nước ASEAN.

Khi Nguyễn Văn Linh từ chức thì quả y như rằng Đỗ Mười lên thay. Đỗ Mười một tay đã phát kinh tế, xã hội miền Bắc cũng như đánh phá sụp tư sản miền Nam, nay nắm đầu cả nước?

Công cuộc đổi mới phải chăng là làm thế nào khắc phục, thay đổi cái đầu của Trung ương Đảng thay vào những thành phần năng động, trẻ trung, có hiểu biết và dám làm.

Chính sách đường lối của cộng sản lại là kẻ thù của chính họ.

Những kẻ bị khai trừ (I)

Nguyễn Văn Lục

Kể từ khi thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam đến nay (1) đã có bao nhiêu cuộc thanh trừng nội bộ, hoặc thủ tiêu các đồng chí của chính họ?

Câu trả lời là không kể xiết được. Bàn tay sắt của đảng cộng sản với bạo lực và lừa bịp đã kéo dài từ hơn nửa thế kỷ nay. Lúc mà người ta nhận diện ra được thế nào là chủ nghĩa cộng sản thì đã quá trễ… Sở dĩ có tình trạng khai trừ là vì chế độc độc đảng, độc tài đến nỗi con người nghĩ ngợi cũng cần phải xin phép. Con người luôn luôn ở trong tình trạng có tội, bị khai trừ. Đó là một thứ tù nhân trong tương lai.

Và mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn, mỗi lần thay đổi chính sách lại có thứ tù nhân mới, có kẻ bị khai trừ mới. Có thứ bị khai trừ trong “thời kỳ” theo đệ tứ hay theo đệ tam, khai trừ “thời kỳ” cải cách ruộng đất, khai trừ “thời kỳ” Nhân Văn Giai Phẩm, khai trừ “thời kỳ” chính sách theo Nga hay theo Tàu, khai trừ “thời kỳ” trong “vụ án chống đảng, chống nhà nước ta đi theo chủ nghĩa xét lại và làm tình báo cho nước ngoài”, khai trừ “thời kỳ” Mặt trận Giải phóng miền Nam, khai trừ “thời kỳ” những người cựu kháng chiến Nam bộ.

Và nay có thêm một thứ khai trừ mới: Phe phái tranh ăn tìm cách loại trừ nhau... Như mới đây, những người dính dáng trong vụ PMU nay bị bắt và bị điều tra. Tướng công an Phạn Xuân Quắc bị điều tra. Hai nhà báo Thanh Niên và Tuổi Trẻ bị bắt.

Tham Nhũng liên kết với đảng được dịp trả thù đối với những ai đòi công lý.

Thêm nạn nhân, thêm oán hận, thêm tủi nhục, thêm phân hóa, chia rẽ, thêm lãng phi nhân lực. Đã có biết bao gia đình tan nát lầm than trong cải cách ruộng đẩt. Phùng Quán đã diễn tả bản chất đảng cộng sản đối với dân:

Những con người tiêu máu của dân

Như tiêu giấy bạc giả

Chúng tôi, xin lược chọn một vài thời kỳ khai trừ chưa được nói tới nhiều mà thôi.

Đối với người cộng sản, họ chia dân chúng ra ba loại người và có ba cách đối xử. Hoặc dân phải “ngoan”, chữ dùng của Vũ Thư Hiên. Ngoan thì tạm yên thân Bảo biểu tình chống Mỹ, chống Tàu thì chống. Bây giờ bảo không được chống thì không đựợc chống. Nghĩa là bảo gì nghe nấy.

Nhưng nếu trong xã hội chẳng may có nmhiều người ngoan thì bướng trở thành một cái tội. Bướng, bất mãn, không “giáo dục” được, tức ngoan cố thì bị khai trừ. Nhưng nếu chống đối nữa thi trở hành phản động sẽ bị thanh trừng, bị tù tội hoặc thủ tiêu, ám sát..

Khai trừ nhóm đệ tứ, còn gọi là Trốt-kít

Vì thế, ngay từ cuối năm 1937, tại Nam phần, đã xảy ra liên tiếp các cuộc thanh trừng nội bộ giữa đệ tam và đệ tứ quốc tế do cộng sản Pháp như Duclos, Gitton giật giây những người cộng sản đệ tam như Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Tạo, Trần Văn Thạch, Nguyễn Văn Nguyễn. Gitton đã viết thơ cho Nguyễn Văn Nguyễn, đề ngày 19 tháng 5, 1957 như sau:

“Phải chấm dứt sự hợp tác với bọn Tạ Thu Thâu kể từ nay..Phải gấp rút ly khai”.

Chứng cớ là Daniel Guérin, bạn thân của ông Tạ Thu Thâu hồi ở Pháp đã viết như sau:

“Ngoài sự bắt bớ của chính phủ, bọn Stalinist quyết đồ sát Tạ Thu Thâu, vu cáo là Phát Xít. Ấy là, chính ở Paris mà bọn Stalinist mưu đồ sát hại Tạ Thu Thâu và các bạn của Thâu. Các bạn nên hiểu ràng, chính từ trong khám đường sâu thảm, Tạ Thu Thâu, người bạn của chúng ta chỉ còn trông cậy có chúng ta, hy vọng có chúng ta.

(trích dẫn Nguyễn Kỳ Nam, Hồi ký 1925-1964, từ trang 23-25, chưa xuất bản).

Ngoài Tạ thu Thâu, lần lượt đến Phan Văn Hùm, Huỳnh Văn Phương, Trần Quang An, Phan Văn Chánh, Nguyễn Bình hay những người có cộng tác với Việt Minh trong Mặt trận Quốc gia thống nhất như Huỳnh Phú Sổ, Dương Văn Giáo.

Họ đã lần lượt bị sát hại. Vì đối với cộng sản, đệ tứ là kẻ thù trên cả kẻ thù như thực dân Pháp.

Trong dịp Trần Văn Giàu đến Paris hồi tháng 10, 1989, hơn 100 nhân sĩ, trí thức VN ở Pháp đã chất vấn Trần Văn Giàu về vấn đề thủ tiêu ám sát đệ tứ. Theo bác sĩ Trần Ngươn Phiêu cho biết Trần Văn Giàu rất lúng túng. Việc họp này đã được thu băng và còn được lưu giữ. Trần Văn Giàu cũng hứa “rửa” tiếng cho Tạ Thu Thâu, nếu đảng cộng sản VN không “rửa”. Nhưng từ đó đến nay, chưa bao giờ thấy Trần Văn Giàu làm gì để “rửa” cả. (Trích Trần Ngươn Phiêu, Phan Văn Hùm, thân thế và sự nghiệp, trang 358). Ngoài các nhóm đệ tứ bị sát hại ở miền Nam, ngoài Bắc những trí thức miền Bắc như Trương Tửu, Phan Khôi, Nguyễn Hữu Đang, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường cũng bị tiếng oan là đệ tứ. Nhất là trường hợp Trần Đức Thảo, một trí thức thân với đệ tam.

Nhưng ai đã giết Tạ Thu Thâu?

Vào năm 1989, tại Pháp, hơn 100 nhân vật chính trị và văn hóa đòi phục hồi danh dự cho Tạ Thu Thâu bị giết tại ven biển Mỹ Khê, Quảng Ngãi vào tháng 9, 1945. Những người giết Tạ Thu Thâu kết tội ông làm Việt gian cho phát xít Nhật. Cuối năm 1939, chính Nguyễn Ái Quốc gửi báo cáo cho quốc tế cộng sản ghi rõ:

Đối với bọn Trốt Kýt, không thể có một thỏa hiệp hay nhân nhượng nào cả. Phải lột mặt nạ chúng như là tay sai của Phát xít, phải tiêu diệt chúng về chính trị.

Ông viết tiếp khi ở bên Tàu: “Bọn Trốt kít là một lũ bất lương, những con chó săn của chủ nghĩa Phát xít Nhật và chủ nghĩa Phát xít Quốc tế” (Trích Thành Tín, Mặt Thật, trang 112-113, Turpin Press 1994).

Theo ông Hoàng Hoa Khôi, thuộc nhóm đệ tứ trong tập hồ sơ: Nhìn lại sáu mươi năm tranh đấu cho Việt Nam, ông viết:

“Sau khi điều tra, chúng tôi biết được ba thủ pham. Họ đều là những người cộng sản. Người thứ nhất là Kiều Đức Thắng, trách nhiệm nghiệp đoàn, người thứ hai là Nguyễn Văn Trấn, đã từng được đi học tập ở Moscow, người thứ ba là Nguyễn Văn Tây, cựu bộ Trưởng chính phủ Trần Văn Giàu”.

(trích Hoàng Hoa Khôi, Hồ sơ đệ tứ, trang 228 ).

Cũng cần nói thêm ông Nguyễn Văn Trấn sau này đã phản tỉnh và viết cuốn: Viết cho mẹ và Quốc Hội. Trong sách, ông Trấn né tránh về vai trò sát thủ của ông trong việc thủ tiêu những người CS đệ tứ. Ông là cánh tay mặt của Trần Văn Giàu, người bị coi là có trách nhiệm trong các vụ ám sát nhóm đệ tứ. Ông mất năm 1998.

Cũng có nhiều tài liệu khác viết về cái chết của Tạ Thu Thâu như cuốn Việt Nam 1920-1945 của ông Ngô Văn hay tài liệu: Người Việt ở Pháp 1940-1954 của ông Đặng Văn Long.

Khai trừ nội bộ ở ngoài Bắc

Sau cuộc chiến 1954-1975, theo ông Bùi Tín, có đến hàng trăm vụ án chính trị gọi là “chống lại lãnh đạo”, “chống đảng”, “xét lại”, “phản động” vẫn không được thanh minh để giải tỏa nỗi oan ức. Những người trực tiếp trách nhiệm là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ. Mà Võ Nguyên Giáp sợ. Mà Hồ chí Minh im lặng. Sau đó, ông Bùi Tín trong bản kiến nghị của một công dân, ông đã đưa ra hằng trăm tên tuổi những người bị tù, bị oan ức, bị xỉ nhục. Gia đình họ bị điêu đứng. Có người đã chết oan ức và tủi nhục. Ông Bùi Tín đã đòi công lý cho các người sau đây: các tướng Đặng Kim Giang, Nguyễn Vinh, Lê Liêm; các đại tá Đỗ Đức Kiên, Nguyễn Minh Nghĩa, Nguyễn Hiếu, Phan Hoàng; các giáo sư: Bùi Công Trừng, Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh; các nhà báo: Hoàng Thế Dũng, Nguyễn Kiên Giang, Quang Hân, Mai Luân, Mai Hiển, Định Chân, Trần Thư, Khắc Tiếp, Hồng Văn; các văn nghệ sĩ Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, Phùng Quán, Nguyễn Bính, Hữu Loan, Minh Giang, Quang Dũng, Trần Châu, Trần Đĩnh, Hà Minh Tuân, Việt Phương, Anh Chính, Sỹ Ngọc, Văn Cao, Tử Phác, Đặng Đình Hưng, Trần Lê Văn, Chu Ngọc, Trần Tích Linh; vụ trưởng Vũ Đình Huỳnh; các đại tá Ngọc Bằng, Cao Nham, Đỗ Trường, Nguyễn Trần Thiết bị giữ và vụ án ông Ta Đình Đề.

Trong cuốn Án tích cộng sản Việt Nam, tác giả Trần Gia Phụng đã đưa ra một danh sách trong “Thông Điệp xanh” mà nhiều tên tuổi phù hợp với danh sách của ông Bùi Tín. Xin được đưa ra:

Bùi Công Trừng, Bùi Ngọc Tấn, Dương Bạch Mai, Đào Phan tức Đào Huy Dếnh, Đặng Cần, Đặng Đình Cầu, Đặng Kim Giang, Đinh Chân, Đỗ Đức Kiên, Đỗ Văn Doãn, Hoàng Minh Chính, Hoàng Thế Dũng, Huy Vân, Lê Liêm Lê Minh Nghĩa, Lê Trọng Nghĩa, Lê Vinh Quốc, Lưu Động, Mạc Lân, Mai Hiến, Mai Lân, Minh Tranh, Nguyễn Cận, Nguyễn Gia Lộc, Nguyễn Hồng Sỹ, Nguyễn Kiến Giang, Nguyễn Minh Cần, Nguyễn Thị Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thẩm, NguyễN Văn Vịnh, Phạm Kỳ Vân, Phạm Quang Đức, Phạm Viết, Phan Thế Vấn, Phùng Văn Mỹ, Quảng Hân, Trần Châu, Trần Đĩnh, Trần Minh Việt, Trần Thư, Tuân Nguyễn, Ung Văn Khiêm, Vũ Đình Huỳnh, Vũ Huy Cương, Vũ Thư Hiên.

Đó là những nạn nhân ở phía Bắc mà ông Bùi Tín có giao tiếp, quen biết và biết rõ.

Trong số những người trên, nhà văn Vũ Thư Hiên cho biết bố ông là Vũ Đình Huỳnh bị bắt vì tội thành phần “xét lại”. Ông bị bắt ngày 18/10/1967 vì “chống đảng”. Theo bà Phạm Thị Tề, chồng bà bị còng tay bằng còng số 8, nhưng còng sắt không vừa, họ đã trói giật cánh khủy ông, một ông già đã về hưu. Hình ảnh đó cho đến chết tôi cũng không thể quên, vì nó tàn bạo và man rợ gấp bội phần so với thời thực dân” (trên Diễn đàn số 44).

Ít lâu sau đến lượt Vũ Thư Hiên theo bố vào tù. Bố đi tù thì theo lý lịch, theo luật tru di tam tộc, không tội trở thành có tội, con phải tù theo là phải rồi. Cũng nhờ đó mà sau này Vũ Thư Hiên viết cuốn Đêm giữa ban ngày.

Một cuốn sách làm nên tên tuổi anh.

Mặt trận giải phóng miền Nam

Phần đông những người của MTGPMN đều là trí thức, chuyên viên. Có tất cả khoảng 30 người vào khu. Chỉ có ba cặp vợ chồng, còn tất cả đi một mình. Có thêm 6 thanh niên chưa quá 30 tuổi. Vào khu rồi bà Dương Quỳnh Hoa mới thành hôn với kỹ sư Huỳnh Văn Nghị. Ngay sau 1975, chừng một tháng, Hà nội đã xóa sổ MTGPMN. Từ đó phần đông những người đã theo Mặt trận bất mãn, chống đối và ly khai. Họ là những người như Lữ Phương, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Nguyễn Trọng Văn, (ba người này không vào khu, vẫn ở thành phố) Trương Như Tảng, Dương Quỳnh Hoa. Trước đây, họ bị coi là bù nhìn, sau họ cảm thấy bị phỉnh gạt trắng trợn. Phần lớn âm thầm, nuốt nhục rút lui, hoặc trốn ra ngoại quốc như bộ trưởng Trương Như Tảng.

Dù sao, bỏ quên là một hình thức khai trừ nhẹ nhàng nhất mà họ may phúc được hưởng.

Hoặc xin ra khỏi đảng như vợ chồng bác sĩ Dương Quỳnh Hoa.

Bà Dương Quỳnh Hoa mất ngày 25/02/2006, tại Sài gòn. Sinh thời, bà theo học ngành thuốc tại Sài gòn và nhất là tại Pháp, gia nhập đảng cộng sản Pháp vào những năm 1948-1954. Với tư tưởng xã hội và cấp tiến như thế, bà tham gia MTDTGPMN. Sau này bà đã thú nhận, đó là một ảo tưởng chính trị trong đời.

Ông Huỳnh Văn Nghị, chồng bà đã phản đối quyết định thống nhất ngay lập tức Mặt trận giải phóng miền Nam và Liên minh các lực lượng dân chủ và hòa bình. Họ bị loại trừ. Bà xin ra khỏi đảng, nhưng thời đó, thủ tướng Phạm Văn Đồng đồng ý với điều kiện bà phải giữ im lặng. Nhưng sư im lặng đó không kéo dài được lâu khi bà phải chứng kiến quá nhiều điều “phản cách mạng” từ khi đảng cộng sản Việt Nam ‘thực thi’ cái lý tưởng mà bà đã hy sinh cả đời sống cho nó. Khi được tờ báo Far Eastern Economic Review (FEER) phỏng vấn vào ngày 17/10/1996: Quel est l’évènement le plus marquant pendant les 50 années passées? Bà trả lời: L’effondement du mur de Berlin qui mit un terme à la “grande illusion” (Tạm dịch. Biến cố nào được kể là nổi bật nhất trong 50 năm qua? DQH: Sự sụp đổ bức tường Bá Linh và chấm dứt một “ảo tưởng” lớn.

Nhất là khi được Stanley Karnow phỏng vấn về sự thất bại của cộng sản Việt Nam (The Failure of Communism in Vietnam, Nguyen Phuc Buu Chanh, Online: http://snipurl.com/29phe [www_freerepublic_com], May 19, 2008) bà Dương Quỳnh Hoa đã trả lời rằng:

Tôi đã là người cộng sản cả đời tôi. Nhưng bây giờ khi chứng kiến những sự thật về chủ nghĩa cộng sản và sự thất bại của nó, quản trị kém, tham nhũng, đặc quyền, áp chế, lý tưởng của tôi đã không còn. (“I have been a Communist all my life, but now I’ve seen the realities of Communism, and it is a failure—mismanagement, corruption, privilege, repression. My ideals are gone.”)

Chủ nghĩa cộng sản là tai họa. Những cán bộ đảng cộng sản không hề hiểu biết về sự cần thiết của việc phát triển một cách hợp lý. Họ bị mê hoặc bởi những khẩu hiệu của Mác Xít đã không còn giá trị nữa, nếu không muốn nói rằng chúng không bao giờ có giá trị. Họ là những kẻ (tàn ác) quá độ. (“Communism has been catastrophic. Party officials have never understood the need for rational development. They’ve been hypnotized by Marxist slogans that have lost validity—if they ever were valid. They are outrageous.”)

Người ta tự hỏi rằng nếu bà Dương Quỳnh Hoa không phải là một khuôn mặt nổi tiếng, một trí thức hàng đầu của MTGPMN thì bà có được bình yên, không bị tù tội sau khi tuyên bố những lời như trên với một ký giả Hoa Kỳ? Nhưng điều này có thể giải thích phần nào vì khi nhà cầm quyền cộng sản nộp đơn kiện chính phủ và một số công ty hoá chất Hoa Kỳ tại toà án New York về những thiệt hại về nhân mạng và nhất là ảnh hưởng tai hại phụ nữ Việt Nam ở những vùng ô nhiễm thường bị xẩy thai hay sinh ra trẻ dị dạng. Một trong ba người đứng tên trong đơn kiện này lại là bà bác sĩ Dương Quỳnh Hoa.

Những dữ kiện về bà Dương Quỳnh Hoa trong đơn kiện do phía cộng sản đưa ra trước toà án New York đọc được như sau:

Người đi kiện DUONG QUYNH HOA

Điều thứ 135. Năm 1964, plaintiff Duong Quynh Hoa là một người Việt Nam và là một y sĩ cư ngụ tại thành phố Saigon thuộc miền Nam Việt Nam

Điều 136. Trong thời gian này, bà thường đi lại tỉnh Biên Hoà và vùng Sông Bé là những nơi bị nhiễm thuốc độc do những bị cáo trên đây sản xuất.

Điều 137. từ 1968-1976, Dr. Hoa là Bộ Trưởng Y tế cuả CPLT MNVN và sinh sống tại tỉnh Tây Ninh.

Điều 138. Trong thời gian ở Tây Ninh, bà được chỉ thị nhiều lần phải bao đầu bằng bao Plastic vì quân đội Hoa Kỳ sẽ rải hoá chất độc. Trong thời gian này, bà đã trông thấy một thùng đựng chất độc da cam sản xuất bởi những bị cáo được thả xuống từ máy bay quân đội Hoa Kỳ.

Điều 139. Tháng 5, 1970, Dr. Hoa sinh hạ một bé trai tên là Hùynh Trung Son. Plaintiff Huynh Trung Son sinh ra bị dị tật và bị tàn phế.

Điều 140. Plaintiff Huynh Trung Sơn chết khi được 8 tháng tuổi.

Điều 141. Sau chiến tranh, Dr. Hoa bắt đầu có triệu chứng ngứa ngáy và bị lở ngoài da.

Điều 142. Năm 1971, Dr. Hoa có thai và bị sẩy thai vào tháng 7, 1971 sau 8 tuần lễ có thai.

Điều 143. Dr. Hoa có thai lần nữa nhưng lai sầy thai sau sau tuần vào tháng 1 năm 1972.

Điều 144. Sau khi mất đứa con đầu lòng và sầy thai hai lần, Dr. Hoa quyết định sẽ không có con nữa.

Điều 145. năm 1985, sau khi bị ngất xỉu và chóng mặt nhiều lần, Dr. Hoa bị khám phá là bị bệnh tiểu đường.

Điều 146. Năm 1998, Dr. Hoa bị bệnh ung thư vú và phải giải phẫu cắt bỏ ngực.

Điều 147. Năm 1999, Dr. Hoa thử máu và khám phá ra nồng độ chất độc da cam dioxin trong máu bà cao hơn độ bình thường rất nhiều.

Điều 148. Cả hai cái chết của hai người đi kiện, plaintiff Duong Quynh Hoa con trai của ba là Huynh Trung Son là do chất độc da cam do những bị cáo nêu ra ở trên sản xuất.

(trích từ phán quyết cuả toà UNITED STATES DISTRICT COURTEASTERN DISTRICT OF NEW YORK vụ VN xin kiện vụ chất độc da cam)

Năm 2004, mặc dù chi rất nhiều tiền cho các tổ hợp luật sư danh tiếng cuả Hoa Kỳ toà án ờ New York đã bác đơn xin kiện của chính phủ Việt Nam về vụ chất độc da cam. Từ đó đến nay, tuy phía Việt Nam cho biết sẽ kháng án nhưng vấn đề này không còn được đề cập tới sôi nổi như trước đây. Ghi chép lại dài dòng về những chi tiết của đời sống riêng của bà Dương Quỳnh Hoa để thấy rằng dù không bị cộng sản thanh trừng, bà cũng đã phải trả cái giá quá đắt. Bà là một điển hình cho trí thức miền Nam khi chọn sai lý tưởng để theo đuổi và nhất là khi đó lại là chủ nghiã cộng sản. Ít ra thì khi có phán quyết này của toà án Hoa Kỳ, bà Dương Quỳnh Hoa đã qua đời, khỏi phải thêm một lần thất vọng

Trong Hồi ức Nguyễn Thị Bình, một người còn được trọng dụng, dày đến 700 trang, người đã một thời là đồng chí với nhau ở trong bưng là bà Dương Quỳnh Hoa đã không được bà Bình nhắc đến một lần.

Những người khác như quý ông Trịnh Đình Thảo (1901-1982), vợ là bà Ngô Thị Phú, quê quán Sóc Trăng. Ông Lâm Văn Tết ( 1896-1982) Ông bà Phùng Văn Cung, vợ là Lê Thoại Chi. Giáo sư Nguyễn Văn Kiết, Nhà văn Thanh Nghị, Hoàng Trọng Quỳ, vợ là nghệ sĩ Tâm Vấn. Ông bà Trần Kim Bảng, bút hiệu Thiên Giang, vợ là nữ sĩ Vân Trang, thân sinh ra gs địa chất Trần Kim Thạch. Em gái bà Vân Trang là nghệ sĩ Mộng Trung, vợ Trần Văn Khê. Giáo sư Nguyễn Văn Chì, vợ là là bà Nguyễn Đình Chi, Chánh án Phạm Ngọc Thu, Võ Ngọc Thành, dược sĩ Hồ Thu, kỹ sư Cao Văn Bổn, kỹ sư Tô Văn Cang, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, chức sắc Cao Đài Nguyễn văn Ngỡi, bà Bùi thị Nga (vợ của ông kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát.)

Sau 1975, sau “ngày giải phóng”, họ làm gì? Họ ở đâu ? Họ chẳng làm gì cả Họ tiếp tục ngồi chơi xơi nước với danh hão? Họ tiếp tục ăn bánh vẽ dù chẳng còn muốn ăn. Bà Bùi Thị Nga có thay chồng viết cuốn Huỳnh Phát, cuộc đời và sự nghiệp, dày trên 600 trang cùng không một chữ cho bà Dương Quỳnh Hoa.

Hồi đó quý vị được đảng bố trí ở biên giới Việt Nam-Campuchia, khoảng giữa bót Tà Xúa tới Chợ Giữa, Kà tum. Nhưng vì vấn đề an ninh,quân sự, chỗ ở cũng bị thay đổi nhiều lần để tránh phi cơ Mỹ ném bom.

Nhiều vị được dẫn đến “Trung ương” MTGPMN, phải vất vả lắm.Trước hết, phải vượt qua kinh Đìa Vàng, đến Ba Thu trong vùng Mỏ Vẹt. Nhà ở là mấy chục nóc nhà ni lông. Ai cũng ngủ võng cả. Nghe tiếng máy bay là lăn từ võng xuống hầm ngay đó. Nhà ăn tập thể thì nóc lợp lá trung quân, chung quanh có nhiều hầm đào sẵn để tránh bom. Nhà này vừa dùng làm chỗ ăn uống đồng thời là chỗ hội họp chính tri. Hằng ngày, Huỳnh Tấn Phát, linh hồn của Mặt trận, họp để đọc tin tức, nghe bá cáo và học tập. Nhất là nhanh chóng “để các vị ổn định tư tưởng và đời sống riêng tư.”

Nhiều vị ra đi tưởng chỉ vài tuần là “Giải phóng xong miền Nam”. Nay nhớ nhà, nhớ cơm, nhớ phở, nhớ điện, nhớ nước, nhớ cầu tiêu, nhớ tiện nghi Sài Gòn Nhiều khi không biết làm gì thì gs Nguyễn Văn Kiết mang triết học của Kant, Hegel ra giảng cho các quý vị nghe đỡ buồn. Vấn đề ăn uống chắc không có trở ngại gì. Chỉ sợ kiến rừng. Đồ ăn dư phải để trong một bát nước, nếu không kiến bò vào bát xơi trước. Nhưng vấn đề tắm rửa cho mấy vị phụ nữ thì thật phiền hà. Người như bác sĩ Dương Quỳnh Hoa mà nay phải ra tắm suối cởi truồng thì coi sao được. Bảo vệ phải làm nhà tắm, đi khuân nước về, rồi phải đun sôi cho vị nữ bác sĩ tắm cho đỡ lạnh. Đối vị nữ lưu như bà, thế là cực khổ lắm rồi.

Công việc chính là ngồi chơi xơi nước. Biết mình bị lợi dụng, biết bị làm cảnh, biết bị lừa.

Nhưng, như nhạc TCS, Tiến thoái lưỡng nan, đi... về… lận đận.

Muốn về cũng không có đường về.

Quý vị thì nhàn, không có việc gì làm, họp hành đưa ra nghị quyết, tuyên bố rồi biên bản bị vứt vào sọt rác, vì Trung ương đã soạn sẵn. Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch Hội đồng cố vấn chính phủ cũng nhàn. Ngồi chơi xơi nước đến hai lần. Trong khi đó theo Trần Thanh Quốc, thư ký riêng của Huỳnh Tấn Phát – chủ tịch Phát làm chủ tịch chính phủ cách mạng lâm thời cộng Hòa miền Nam VN – với chức vụ đó ông “không có một chút thì giờ để nghỉ ngơi. Chỉ có thể nói những phút giây rảnh rỗi là khi anh lên yên con ngựa sắt để đi họp. Đó là thời gian nghỉ ngơi thanh thản nhất.” Bận thế đấy.

Trước 1975, 4 vị thanh niên là Trần Quang Long, Trần Triêu Luật, Lê Hiếu Đằng, và Trần Thiên Tứ sang công tác ở tuyên huấn R. Trần Quang Long và Trần Triệu Luật đã chết sau ba đợt bom tại đây.

Hầu hết những vị này, sau 30/04/1975 đều cho ngồi chơi xơi nước. Đó là cách đãi lọc kiểu cộng sản. Chỉ riêng những người đã từng chiến đấu dưới hàng ngũ cộng sản như Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Thị Bình còn được giữ chức vụ ngồi chơi nước như Phó Thủ tướng chính phủ. Ông Phát sau này chỉ lo vụ tiêp tân, đón tiếp khách ngoại quốc hoặc có nhiệm vụ đi ra nước ngoài thay mặt chính phủ.

Đó là số phận dành cho những kẻ chạy cờ. Một cách khai trừ “ êm dịu”

Vụ án Cimexcol-Minh Hải: Khai trừ vì tranh ăn

Đối với phe cánh của ông Võ Văn Kiệt thì vụ án Cimexco chỉ là “cơ chế cũ đánh cơ chế mới” hay “ kinh tế bao cấp đánh kinh tế mở cửa”. Trong phiên tòa xử vụ Cimexcol, người ta nhận xét là: Phiên tòa này lấy cái cũ xử cái mới, không đúng pháp luật, không được lòng dân. Tôi tự hỏi lòng dân liên quan gì đến việc các quan lớn “chơi” nhau, giữa cánh Nam với cánh Bắc?

Vụ án xảy ra vào tháng 7/1997. Kết quả vụ án là Dương Văn Ba, lãnh án chung thân khổ sai từ ngày 25/12/1987. (DVB, cựu dân biểu đối lập đệ nhị cộng hòa, miền Nam, thành phần thiên tả, thân cộng sản. Anh ta chỉ bị giam mấy năm và sau đó được thả do sự can thiệp của cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt). Bên cạnh Dương Văn Ba có đồng lõa là Trịnh Thị Tuyết Sương, kế toán trưởng mà theo lời khai của đương sự là: Thị Sương bị Dương Văn Ba, (hồi còn sinh viên quen gọi DVB là Ba gà) mưu mô xảo quyệt mua chuộc bằng tiền tài vật chất, tình cảm, dần dần biến thành tay sai đắc lực, mù quáng thực hiện mệnh lệnh của DVB . Thị Sương tỉnh ngộ và đã thành thật khai báo nên cần xem xét giảm nhẹ đặc biệt đối với Thị Sương.

Việt Cộng

Nguồn: confusionroad.com

Bút Bic

Nguồn: biotechnology-innovation.com.au

Dươnng Quỳnh Hoa tự Bảy Hồng

Nguồn: roninfilms.com.au

Bút Bic

Nguồn: newsliteimgs.s3.amazonaws.com

Huỳnh Tấn Phát (1913-1989)

Nguồn: wikimedia.org

Tạ Thu Thâu (1906-1944)

Nguồn: tusachnghiencuu.org

Dương Văn Ba (bìa trái), Hồ Công Danh (giữa), Huỳnh Văn Trọng (tay mặt), Hồ Công Hưng (kế Trọng) trong một bữa ăn nhậu tại nhà Dương Văn Ba (Sài Gòn, 08/11/2002)

Nguồn: Ảnh tư liệu/NVL

Những người khác cùng bị ra tòa với Dương Văn Ba là Nguyễn Quang Sang, Trương Công Miên, Huỳnh Văn Ngươn, Thạch Phen (cựu dân biểu đối lập, đệ nhị cộng hòa), Lâm Thành Đại, Dương Thị Nhung, Trần Công Thức, Huỳnh Kim Báu, Đặng Hữu Hiền, Trang Trung Trí, Phan Thị Hương Trang, Lương Công Trà, Nguyễn Duy Thưởng, Nguyễn Thanh Hòa, Lê Phương, Tạ Khắc Quyền, Lê Văn Bình. Tất cả là nhóm lãnh đạo miền Nam cộng một số “ngụy quân” , ngụy quyền” cũ. Nhất là con số 2000 công nhân viên mà một số không nhỏ là cựu sĩ quan chế độ miền Nam.

Sau này, vào ngày 9/3/1994, có vụ “làm việc” lại về vụ án Cimexcol, tỉnh Minh Hải với sự có mặt của:

- Bộ chính tri: Có anh Đỗ Mười, anh Võ Văn Kiệt, anh Đào Duy Tùng, anh Lê Phước Thọ ( Sáu Hậu), anh Đỗ Quang Thắng, anh Nguyễn Hà Phan.

- Đại diện các cơ quan pháp luật trung ương có: Viện Kiểm soát nhân dân: Anh Lê Xuân Dục.Tòa án: Anh Phạm Hưng, chánh án TANDTC, người đã xử vụ án, anh Tư Thắng, Phó chánh án TANDTC. Thanh Tra: Anh Tám Thẩm.

- Các ban Đảng: Ban Tổ chức: anh Nọ, anh Ba Niềm. Ban Kiểm tra: anh Sáu Kiến, phó chủ nhiệm và một số cán bộ phụ trách phía Nam. Ban Văn hóa tư tưởng : Anh Lê Thanh Nhàn ( Ba râu)

- Ban Thường vụ tỉnh Minh Hải: Đặng Thành Học, bí thư Tống Kỳ Hiệp, phó bí thư; Ngô Vân, chủ tịch tỉnh, Nguyễn Hoa, trưởng ban tuyên giáo; Nguyễn Văn Út, trưởng ban tổ chức. Trọng Nam, giám đốc sở công an…

- Và Đoàn Thanh Vị, nguyên Ủy viên trung ương đảng, bí thư tỉnh uỷ Minh Hải Phạm Văn Hoài, Phó bí thư, chủ tịch UBND tỉnh, Lê Văn Bình, nguyên phó bí thư, chủ tịch UBND tỉnh.

- Tổng số khoảng 40 người, trong đó có 6 anh Ủy Viên Bộ chính trị, và 8 anh trong Ban chấp hành TU đảng. Lời bình: Toàn thứ chóp bu để giải cái án này cho Dương Văn Ba, một thứ “sâu mọt” bị kẹt giữa hai lằn đạn. Vai trò của ông Võ Văn Kiệt là bênh vực cánh miền Nam, ngay cả “ngụy quân, ngụy quyền” cũ.

Nhận xét: Đây chỉ là một vụ án tranh chấp giữa phe cánh với Võ Văn Kiệt. Khi đọc hồ sơ vụ án, tôi thấy có lời phê duyệt của Nguyễn Văn Linh như sau: Hồ sơ tội trạng đã rõ ràng, cứ thế mà thi hành.

Cứ thế mà thi hành, vậy mà sau đó, vụ án bị đem ra mổ xẻ, xét lại dưới trào Võ Văn Kiệt.

Trong vụ án này có vài việc đáng ghi và viết ra đây:

Thứ nhất, có bị cáo là Ngô Vĩnh Hải, tổ trưởng tổ Kiều hối của Cimexcol. Anh bị truy tố về tội mua bán hàng cấm. Được biết Ngô Vĩnh Hải, trước 1975 là ký giả của tờ Điện Tín. Thẩm phán đã tra vấn anh là có phải anh có người anh là giáo sư đại học ở Mỹ (2) và anh đã được bảo lãnh không? Việc có người anh ở Mỹ có liên quan gì đến vụ án?

Anh đã không nhờ luật sư biện hộ và tự biện hộ trước tòa. Anh phủ nhận các lời khai do công an thẩm vấn anh trước đây. Anh khai:

“Thưa quý tòa, lời khai đó của tôi, nhưng tôi khai theo sự hướng dẫn của An ninh điều tra. Nếu tôi chịu khai như thế thì An ninh sẽ thả tôi về xum họp gia đình trước tết 1988 - tôi bị bắt cuối năm 1987.”

Cả hội trường đều xôn xao. Trên ghế chủ tọa, người ta thấy ông tòa nổi giận nói: “Anh đâu là trẻ con mà người khác bảo anh khai thế nào, anh khai thế nấy”.

Thưa quý tòa, bởi lẽ tôi không là trẻ con, tôi mới làm vậy, vì tôi muốn được thả ra. Nhưng an ninh điều tra không thực hiện lời hứa ấy với tôi, như vậy người thực hiện lời hứa đâu là trẻ con, thưa quý tòa!

Cuối cùng tòa xử Ngô Vĩnh Hải được trắng án. Nhưng ai có thể đền bù cho Ngô Vĩnh Hải bị 16 tháng tù giam trước khi xử trong đó có 10 tháng biệt giam?

Lê Văn Bình (bìa trái) và các bị cáo bị đưa ra xét xử tại phiên tòa xét xử Cimexcol năm 1989.

Nguồn: phapluattp.vn

Người thứ hai là bị cáo thứ 21, Lê Văn Bình, người duy nhất trong ban Lãnh đạo tỉnh Minh Hải “được chọn” đưa ra xét xử. Ông Bình chỉ bị “một năm tù cho hưởng án treo. Giao cho UBND Phường 1, thị xã Bạc Liêu theo dõi, giáo dục”. Nhưng trước tòa, ông không đóng vai bị cáo mà buộc tội tòa án như sau: “ các anh chỉ biết xử chứ không biết xét, biết kết tội chứ không biết giải oan, chỉ vì mình hơn vì công lý.” Cả phòng im lặng, “tôi không thể hiểu nổi các anh, các anh không đủ tư cách.” Ông Lê Văn Bình mạnh miệng như thế, bởi vì ông còn là nguyên đại biểu Quốc Hội khóa 8 kiêm chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Minh Hải.

Ông mạnh miệng như thế là phải rồi. Một năm tù treo là lối xử mà không xử. Vậy mà ông Lê Văn Bình uất ức mãi. Trong suốt 4 năm ròng, ông Lê Văn Bình phải chịu đựng nỗi oan Khiên và cũng 4 năm đó, ông đội đơn gõ cửa khắp nơi kêu oan, nhưng đến nay nỗi oan khiên vẫn còn đó!

02/04/2008 Võ Văn Kiệt đến Bệnh viện Bạc Liêu thăm hỏi Năm Hạnh Lê Văn Bình (chết ngày 01/5/2008)

Nguồn: phapluattp.vn

Ông Lê Văn Bình mà còn phải chịu đựng như vậy thì dân chúng thấp cổ bé miệng phải chịu đựng ra sao? Sau này khi có cơ hội, ông đã làm cho to chuyện. Lúc Dương Văn Ba bị bắt ra tòa thì ông đang bận họp ở Quốc Hội.

Riêng Dương Văn Ba, thời làm dân biểu VNCH, ăn to nói lớn, miệng hùm gan sứa, trong tòa nhà Quốc Hội đập bàn đập ghế, đánh bạc xì phé như ranh ngay từ thời sinh viên nên chuyện gì cũng dám làm. Chuyện tầy trời cũng không ngại. Nay, biết thân phận mình, anh tỏ ra hiền lành, tịnh khẩu... Anh nhũn như con chi chi.

Người thứ tư là ông Trang Thanh Khả, giám đốc công ty gỗ. Bi kịch của Trang Thanh Khả là ông đã tự sát bằng cách: Trang Thanh Khả “tự cắt lưỡi mình, vì lưỡi để nói mà không được nói. Cắt hai động mạch chủ ở hai tay, để chứng minh hai bàn tay sạch. Mổ bụng, kéo ruột ra cắt một khúc, chứng tỏ lòng dạ tốt mà lãnh đạo không tin.” Sau này thì người ta ca tụng đồng chí Trang Thanh Khả là người can đảm đã dám “lấy cái chết đau thương thảm khốc để cảnh tỉnh người lãnh đạo”, một hành động có một không hai trong lịch sử cận đại, để mà tôn vinh cho xứng đáng.

Bên cạnh đó còn việc chết đuối của Lâm Thành Sự ở Laksao khi công tác ở bên Lào? Có thể là chết đuối là việc tự nhiên, nhưng việc gì cũng có thể là dối trá thì tại sao không nghi ngờ?

Dù sao thì đồng chí Trang Thanh Khả không còn nữa. Nói chi cũng bằng thừa.

Người thứ năm lên tiếng: Quyết định công khai ý kiến là ông Nguyễn Quốc Sử, nguyên viện trưởng, viện kiểm soát nhân dân, tỉnh Minh Hải.

“Trong cuộc đời tham gia làm cách mạng của tôi đến thời điểm này còn 3 tháng 26 ngày nữa là tròn 40 năm, chưa lúc nào tôi hay suy tư hơn lúc này, kể cả những năm tháng tôi bị lưu đầy và lúc được tin những người thân của tôi ngã xuống, mặc dù rơi nước mắt, nhưng ý chí căm thù lại thúc tôi đứng thẳng để trả thù”.

Còn bây giờ làm sao vô tư được?

Sau này, tờ tuần báo Tuần Tin Tức, số 38, ra ngày 19/09/1993 có đưa ra chứng cớ về tiền bạc thiếu hụt của công ty. Theo cáo trạng thì Cimexcol có thiếu hụt 4,62 triệu đô la, nợ nước ngoài 5,1 triệu đô la không có khả năng thanh toán. Nhưng theo kết luận của đoàn Thanh tra của tỉnh Minh Hải thành lập thì đã đưa ra con số nợ chỉ vỏn vẹn có 807.813, 48 đô-la . Mức chênh lệch tới 3,826 triệu đô la. Như vây số hơn 3 triệu đô la đi đâu?

Sau này, nhóm người của ông Võ Văn Kiệt (3) còn đòi truy cứu những ông lãnh đạo Trung ương và địa phương chủ đạo vụ án như ông Trần Kiên, bí thư Trung ương đảng,Trần Đình Hương (Mười Hương), bí thư trung ương đảng; Nguyễn Việt Thắng, Phó chánh án tòa án nhân dân tối cao; Trần Quyết, Viện trưởng viện KSNDTC và những ông thanh tra như Nguyễn Thanh, Đoàn Minh Thuần, Nguyễn Quang Thanh, Lê Xuân Đục, chủ tọa phiên tòa. Ở Minh Hải có Nguyễn Văn Đáng, Đặng Thành Học, Tống Kỳ Hiệp. Những người trong ban giám đốc kế nhiệm bi. tố cáo là đã làm thâm hụt hằng triêu đô la sau vụ án. Những người đứng đơn trong việc kiện ngược lại là quý ông Đoàn Thành Vị, Phạm Văn Hoài, Lê Văn Bình.

Nhưng hồi sau ngã ngũ ra sao thì không ai được biết? (trích theo hồ sơ tài liệu của Hồ Ngọc Nhuận, Chuyện một vụ án).

Đây chỉ là một hình thức thanh trừng nội bộ dựa trên pháp lý để tranh ăn.

(Trích tài liệu in photopy của cựu dân biểu đối lập Hồ Ngọc Nhuận. Sách không được ông Trần Bạch Đằng cho xuất bản)

Vụ án những người kháng chiến cũ

Sau 1975, những kháng chiến cũ cho thành lập một hội lấy tên là: Hội truyền thông kháng chiến thành phố Hồ Chí Minh. Hội đã được Bí thư thành ủy thành phố HCM lúc bấy giờ là ông Nguyễn Văn Linh cho phép hoạt động vào năm1985. Chuyển hồ sơ về Trung Ương. Không ai dám quyết định. Một năm sau,16/05/1986, Lê ĐứcThọ mới cho quyết định hoạt động.

Hâu hết họ là người có gốc gác miền Nam.

Hội viên danh dự có Nguyễn Văn Linh, bí thư thành Ủy TPHCM, Võ Văn Kiệt, phó chủ tịch Hội đồng Bộ tưởng, Nguyễn Hữu Thọ, chủ tịch quốc hội và Huỳnh Tấn Phát, phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng.

Cố vấn: Thượng tướng Trần Văn Trà, ông Trần Bạch Đằng. Ban chấp hành có: Chủ tịch Nguyễn Hộ.

Các phó chủ tịch: Huỳnh Văn Tiếng, Nguyễn Đức Hùng,Tạ Bá Tòng, Phạm Chánh Trực, Ngô Liên, Nguyễn Thị Tấn, Lê Hồng Tư, Lê Trung Nghĩa.

Các ủy viên: Lê Đình Vũ, Lê Quỳnh Vân, LM Chân Tín, bác sĩ Võ Cương, đại tá Thái Doãn Mẫn, Trần Văn Thơm, Ni sư Huỳnh Liên, HT Thích Thiện Hào, Võ Anh Tuấn, bà Ngô Bá Thành, Phan Kim Phụng, Nguyễn Trọng Xuất, Nguyễn Đăng Nguyệt, Ls Trần Ngọc Liễng, Vũ Hải Sơn.

Có lúc số hội viên Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ (CLNNNKCC) đã lên tới con số trên 20 chục ngàn người, 90% là đảng viên đảng cộng sản. Họ có một số xí nghiệp như phân xưởng nhựa, phân xưởng bột giấy, phân xưởng cơ khí và cơ giới khai thác lâm sản.

Khi Hội đã tạm vững mạnh thì đề ra hai mục tiêu: Đấu tranh đổi mới và chống tham nhũng quan liêu.

Ngày 03/06/1988, họp tại nhà Hữu nghị, 31 đường Lê Duẩn, quận 1 mong Đảng đổi mới. Có khoảng 100 chữ ký. Đặc biệt có chữ ký của Lý Chánh Trung. Tôi dò tìm, nhưng không thấy tên của bất cứ người nào trong ban chủ nhiệm như quý ông Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng. Kiến nghị gửi đi, chắc không được trả lời.

Ngày 11/06/1988, tống thêm một bản kiến nghị yêu cầu kiểm điểm Bộ chính trị với 44 chữ ký. Lần này, đặc biệt có chữ ký của ông Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng và Thượng tướng Trần Văn Trà, chủ tịch Ủy ban Quân quản Sài Gòn.

Trước khi gửi kiến nghị, xin ghi lại mấy lời phát biểu rất thẳng và cứng rắn sau đây.

Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, người đã từng ăn bánh vẽ MTGPMN , ông nói: Nhân dân ai cũng thích cái bánh thật chứ chẳng ai thích cái bánh vẽ. Giáo sư Lý Chánh Trung, phó chủ tịch UBMTTQ thành phố, phó Trưởng đoàn Quốc Hội TPHCM nói:

Trước hết, chúng ta nên dứt khoát trục xuất chủ nghĩa hình thức. Không thể dân chủ hóa, nếu không công khai hóa mọi sự. Mà không thể công khai hóa nếu không có tự do báo chí và tự do ngôn luận.

Bùi Văn Nam Sơn, học Triết ở Đức về mạnh dạn:

Chỉ có đổi mới triệt để bộ máy tổ chức và nhân sự đây lùi xu hướng bảo thủ trì trệ mới có thể phát triên. Một tình trạng tha hóa về chính trị có thể nào quan niệm được trong một chế độ xã hội lấy tinh chân thật và tính nhân dân viết trên ngọn cờ của mình.

Trần Văn Giàu nhận xét:

Càng sống lâu, càng hư, làm quan lâu càng hư. Cách mạng là phải trẻ, phải tiến bộ. Phải tống cổ bọn tham nhũng và quan liêu ra khỏi đảng. Lập pháp trường cát ở Tao Đàn, Bến Thành để xử băn bọn đó.

Đặc biệt có câu hỏi của ông La Văn Lâm chất vấn bà Ngô Thị Huệ (Bảy Huệ), vợ ông Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh:

Tại sao không kiểm điểm ông Đỗ Mười về những sai phạm trong cải tạo Công Thương nghiệp ở miền Nam? Bà Huệ nói ông Lê Duẩn hồi đó bảo bỏ qua. Còn ông Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh lại bị ông Lê Đức Thọ vô hiệu hóa. Ông Lê Đức Thọ tiết lộ toàn bộ ban chấp hành trung ương đảng cộng sản VN khóa 6, trừ 6, 7 người bị đánh rớt, còn lại hầu hết là người do ông chọn lựa, người của ông do ông sắp xếp. Ông Nguyễn Văn Linh chỉ làm trái độn, sẽ bị gạt đi. Rồi tung tin ông Nguyễn Văn Linh bị bệnh sắp chết, sắp bị từ chức!

Đảng kiểu đó là bè phái, Đảng vô Kỷ luật, Đảng ngồi trên đầu dân, bất chấp ý nguyện của dân.

Đây là những phát biểu mạnh mẽ nhất như cho rằng đảng: Nặng về đổi mới kinh tế, coi nhẹ đổi mới về chính trị. Hay Đảng không thể đứng trên Hiến pháp và luật pháp được.

Đảng viên đã gửi không biết bao nhiêu kiến nghị, nhưng chưa bao giờ được thư trả lời và giải quyết của Trung ương. Chỉ ra mệnh lệnh và biện pháp hành chánh quyền lực và cả vũ khị Thật vậy, dang đã dùng roi điện, chó béc giê, súng đạn để đàn áp các sự kiện xảy ra tại thôn Cộng Hòa (Thanh Hóa), thôn Tú Trình (Thái Bình), ở làng Chuối Nước – Đồng chó ngáp và Đầm Dơi của tỉnh Minh Hải và sự kiện Hồ Kỳ Hòa, Tp. HCM. Bản kiến nghị này mang 76 chữ ký có tên Nguyễn Hộ và Lý Chánh Trung.

Tờ Truyền Thông kháng chiến, cơ quan của Câu lạc bộ kháng chiến đòi Dân Chủ hóa và công khai hóa.

Trước những đòi hỏi, kiến nghị của CLBNNKCC, Trung ương đảng nổi giận và gọi đây là: Đây là vụ chống Đảng sau Nhân Văn giai phẩm.

Nếu nhân văn giai phẩm sau 54 là do các nhà văn đòi tự do tư tưởng, tự do báo chí cho người cầm bút. CLBNNCKCC sau 1975 là do các cựu cán bộ cs đòi tự do chính trị, xét duyệt lại đảng.

Bộ chính trị lậ p tức có biện pháp:

- Cấm CLBNNKCC tổ chức hội thảo.

- Cấm ra Đặc san Truyền thống kháng chiến

- Chỉ thị đấu tranh nội bộ, lọai những phần tử quá khích như Nguyễn Hộ và Tạ Bá Tòng

- Giải thể các tổ chức phụ thuộc như ban liên lạc

- Dẹp Bản tin liên lạc

Phần ông Nguyễn Hộ, không chấp nhận ý kiến của Bộ chính trị. Không chịu quay về thành phố theo lời khuyên của ông Võ Văn Kiệt Ông viết như sau trong tập tài liệu của ông: Quan điểm và cuộc sống (Tin nhà, Paris, xuất bản). Ngay lúc ấy, Trung ương đảng cộng sản Việt Nam đứng đầu là Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và bí thư thành ủy Võ Tần Chí cùng nhiều cán bộ khác kể cả Trần Văn Trà (thượng tướng), Trần Bạch Đằng đã họp bàn kế hoạch tỉ mỉ nhằm đàn áp CLBNNKCC thành phố và nhiều nơi khác. Ý kiến phát biểu lên án, buộc tội CLB kháng chiến thành phố của Trần Văn Trà, Trần Bạch Đằng trong cuộc họp nói trên được in ra và phát hành khắp nước... Ông viết tiếp: Sau hơn 70 năm thể nghiệm ở Liên Xô, chủ nghĩa cộng sản đã hoàn toàn thất bại. Trong một bài tham luận khác, ông viết: “Tư bản chủ nghĩa – Con đường không thể đảo ngược được. (trích dần từ trang 11 đến trang 21, sách trên)

Thế là Bão tố xảy ra.

Nguyễn Văn Linh đổi giọng: “Chúng ta không cho phép mọi hành động lợi dụng dân chủ để phục vụ cho ý đồ xấu của một cá nhân hoặc một nhóm người chống chế độ xã hội chủ nghĩa.”

Nguyễn Văn Linh là anh hèn nhất trong đám. Ông cố đấm ăn xôi để hy vọng ở lại nắm quyền lực, ông được cử làm Tổng Bí thư Trung ương đảng sau này.

Vô số các biện pháp thanh trừng tiếp theo ngay sau đó.

Lần lượt cách chức, khai trừ đảng, thuyên chuyển, hoặc ngồi chơi xơi nước các ông Nguyên Ngọc, TBT báo Văn Nghệ, Bùi Minh Quốc, TBT báo Langbian, Tô Hòa, TBT báo Sàigòn giải phóng, Tô Nhuận Vỹ, TBT tạp chí Sông Hương, Kim Hạnh, TBT báo Tuổi Trẻ, Hoàng Phủ Ngọc Tường, TBT báo Cửa Việt, Kim Tinh, phó TBT báo Ấp Bắc, Nguyễn Xuân Quang, TBT báo Sông Bé, Lê Phúc, TBT báo Đối Thoại.

Trần Văn Trà trở cờ bảo ông Nguyễn Hộ là “người nối giáo cho giặc”. Trần Bạch Đằng: “Đáng đời”.

Phạm Khải sau này thay thế ông Nguyễn Hộ nhận định: “Anh Năm Hộ muốn làm một Trung tâm lãnh đạo cả nước”.

Ngày 21/03/1990, ông Nguyễn Hộ bỏ Sài gòn về vùng Sông Bé và tuyên bố: Ly khai đảng Cộng Sản VN. Võ Văn Kiệt đã có lần đi gặp Nguyễn Hộ để thuyết phục ông Nguyễn Hộ. Nguyễn Hộ từ chối tất cả.

Cũng cần hiểu rằng nhiều người sợ quá mà đành lòng phải nói như thế.

Nhưng dù sao cũng ít ra ra vắng bóng một Tố Hữu, một đồ tể trong Nhân Văn Giai phẩm 1955.

Ngày 27/07/1990, Thành Ủy Tp. HCM khai trừ khỏi đảng các ông Tạ Bá Tòng, Đỗ Trung Hiếu, Hồ Hiếu và bác sĩ Đỗ Thị Vân, vợ ông Đỗ Trung Hiếu. Các ông Lê Đình Mạnh, Đỗ Ngọc Long, Luật sư Đoàn Thanh Liêm bị bắt giam. Luật sư Liêm bị xử 8 năm tù liên quan đến một vụ án chính trị khác.

Kể từ đấy, cai tên CLBNNKCC dần dần không còn ai nhắc tới nữa. Những kẻ có lòng với đất nước, có lý tưởng mong đất nước mỗi ngày mỗi khá hơn không còn cơ hội cất tiếng nói nữa.

Đảng trở lại nguyên hình là một tên độc tài bất khả xâm phạm. (Tài liêu do ông Đỗ Trung Hiếu, một cán bộ cộng sản trẻ của CLBNNKCC cũ viết từ trong cuộc tuồn ra bên ngoài và đã được nhóm Tin Nhà ở Paris cho in toàn bộ tài liệu lại)

Đôi lời kết luận

Khai trừ, thanh trừng là chuyện thường tình trong thế giới cộng sản bởi lẽ có độc tài là có thanh trừng. Liên Xô những thập niên 30, 40, 50, Stalin đã giết và đưa đi lưu đầy hằng triệu người. Bên Trung Cộng, những năm 50, 60 trong cuộc Cách mạng Văn hóa, trong việc thành lập công xã nhân dân (Đại nhảy vọt, Great Leap) Mao Trạch Đông, Giang Thanh và lũ tay sai đã giết hại tra tấn, tù đày hàng triệu người dân Trung cộng vô tội. Ngay cả những cán bộ đảng viên kỳ cựu từng sát cánh với Mao Trạch Đông cũng bị thanh trừng sát hại như Lưu Thiếu Kỳ, Bành Đức Hoài, La Thụy Khanh, Hạ Long. Và cũng không thể quên được biến cố đàn áp dã man sinh viên, học sinh trong biến cố Thiên An Môn ngày 04/06/1989 tại quảng trường Thiên An Môn. Cũng vậy, Pol Pot, Ieng Sary đã phạm tội diệt chủng, giết hại hàng triệu người dân vô tội Kam pu Chia trong những năm sau 1975.

Chúng ta không có hy vọng gì người Cộng sản Việt Nam làm khác hơn. Họ không tệ hơn đã là một điều tốt rồi. Một chế độ độc tài không có chỗ cho người tử tế. Làm người tử tế trong một chế độ xã hội cộng sản là điều không dễ.

Rất nhiều người lương thiện ở VN bây giờ cảm thấy cô đơn, lạc lõng trong một xã hội xô bồ, vô đạo đức, tranh dành như ăn cướp giựt.

Ông Đỗ Trung Hiếu, một thành viên tích cực trong CLBNNKCC thất vọng đưa ra lời nhận xét:

“Té ra cái gì cộng sản chống là cái Đảng làm. Cái gì đảng luôn luôn nói đến là cái không có trong thực tế. Đảng cộng sản là người họa sĩ đại tài luôn luôn vẽ bánh vẽ cho nhân dân ăn để riêng mình ung dung ăn bánh thật.”

Ông nhận xét tiếp: “Từ việc nhỏ đến việc lớn, từ suy nghĩ đến hành động, cách đối xử thì thấy rằng: Cuộc sống sao mà khó chịu đến cái quần áo, giày dép, đến cái răng, cái hòm cũng có cấp.”

Thật là một nhận xét chua xót.

Ở Việt Nam, kẻ nào bị thanh trừng, kẻ nào bị gán ghép là kẻ có tội. Thì kẻ đó là người liêm chính, là người tử tế. Tội của đệ tứ chỉ vì bọn đệ tam thời Stalin thắng thế nên hết đệ nhất, đệ nhị rồi đến đệ tam. Dừng lại ở đệ tam thì được. Sang đệ tứ là bị thanh trừng ám sát. Thời Andropov và Gorbachev thì Stalin bị lên án, là có tội. Việt Nam là con đẻ của Stalin và Mao Trạch Đông. Nên tội tính theo mùa, theo thời kỳ.

Tội của CLBNNKCC cũ là đi nhanh quá, tội đòi đổi mới khi chưa cho phép đổi mới. Tội đòi đa nguyên, đa đảng trong khi cộng sản muốn độc quyền. Họ là thứ hình thức tự thực dân hóa (autocolonisation) trên chính đất nước của mình.

Trong tương lai, chúng ta còn được chứng kiến nhưng cuộc thanh trừng, đánh đấm, tranh giành giữa bọn họ.

Nhưng nay, họ chỉ còn đánh đấm nhau vì tiền. Và chúng ta sẽ chứng kiến cái cảnh thằng ăn cướp xử thằng ăn cắp dài dài... dài ... dài ... dài...

Lý Chánh Trung (08/11/2002)

Nguồn: Ảnh tư liệu/NVL

Trần Văn Giàu

Nguồn: fpe.hnue.edu.vn