Phần 29

Về cuốn “Mặt Trận Đại Học” của Bạch Diện Thư sinh (I)

Posted on May 20, 2015 by editor0 Comments

Nguyễn Văn Lục

mtdh5

Sách viết của cộng sản về các phong trào, về các đoàn thể, về các mặt trận trí vận do cộng sản cài đặt thì nhiều và đủ loại. Có thể nói có tới trên dưới hàng chục phong trào liên tục quậy phá miền Nam nhân danh các lý tưởng như “hòa bình”, “dân tộc”, “quyền con người”, “quyền phụ nữ”, v.v.

Giới thiệu và góp ý về cuốn Mặt Trận Đại Học của Bạch Diện Thư sinh

Mặt trận Đại học. Nguồn:  Bạch Diện Thư Sinh/Hoàng Sa

Mặt trận Đại học. Nguồn: Bạch Diện Thư Sinh/T.s. Hoàng Sa

Những phong trào ‘đòi hỏi’ này như những cái cớ, như phên dậu che chắn những tội ác của cộng sản. Nào là Phong trào Phụ Nữ đòi quyền sống, Liên đoàn Phụ nữ Phật tử, Hội các bà mẹ có con bị bắt tù, Phong trào Dân tộc Tự quyết, Lực lượng bảo vệ Văn hóa, Dân tộc, Ủy Ban Vận động Cải thiện Chế độ Lao tù miền Nam. Mặt trận Nhân dân Tranh thủ Hòa Bình, Lực lượng Thanh niên Cứu đói, Ký giả ăn mày.

Nhiều tổ chức chỉ có cái tên và cài đặt một vài người đứng tên làm bình phong trong mỗi tổ chức.

Và các phong trào này càng xuất hiện lộ liễu và nở rộ kể từ thập niên 1970 trở đi tại Sài Gòn.

Sáng mở mắt ra, đi làm, ra đường là thấy cộng sản trá hình rồi.

Sau 1975, các nhân sự và các phong trào ấy lộ diện và họ hãnh diện công khai hóa, phô trương các thành tích của họ trong việc chống Mỹ, chống Thiệu. Chẳng hạn như cuốn “Văn Khoa một thời sống đẹp” mà mục đích là phô trương những thành tích chẳng lấy gì làm sáng giá trong sinh hoạt sinh viên ở Văn Khoa.

Chẳng hạn thành tích nắm được các nhóm Nhân Văn, Sử Địa, Việt Hán, v.v. Thành tích in được các giáo trình của giáo sư cho sinh viên, tổ chức một buổi du ngoạn. Những thành tích ấy cũng đẹp, nhưng chỉ có tính cách trang trí cho tuổi trẻ sinh viên mà thôi. Và họ còn đưa ra danh sách những cảm tình viên Văn Khoa mà không cần che đậy.

Cuốn “Giữa ngàn thác lũ” qua tựa đề lại kín đáo khoe khoang dòng họ gia đình. Cuốn này không quan trọng, không đáng đọc. Cuốn “Một cuộc đời dầy thử thách” cũng vậy, chú trọng thành tích cá nhân không có gì đáng nói. Nhưng cuốn này cũng rút ra được đôi điều lý thú. Ông tác giả cảm thấy đau lòng, khi cán bộ Trung ương từ Hà Nội vào tiếp thu thì tiếp thu 10, giao lại cho cơ quan một.

Đó phải chăng là thành tích mở đầu của tư bản đỏ!

Nói chung, như trong hai tập “Trui rèn trong lửa đỏ” phần đông họ không ngần ngại công khai xác nhận những thành tích như ám sát, thủ tiêu, đốt xe Mỹ, cài đặt người vào mọi cơ quan đoàn thể, tôn giáo, nhất là khối Phật giáo Ấn Quang, đại học Vạn Hạnh, một số chùa quanh Sài Gòn.

Họ gọi chung những nơi này là “những điểm hẹn”, từ đó xuất phát ra những cuộc biểu tình chống chính phủ. Những nơi đó mang nhãn hiệu tôn giáo, người của ta không dễ vào được, biết mà đành chịu?

Trường hợp TT Thích Thiện Minh thuyết pháp ở trụ sở Thích Quảng Đức, đường Công Lý có nội dung sách đông quần chúng để lật đổ chính phủ. Ông và 19 sinh viên phải ra trước tòa án Mặt trận, tội danh chứa chấp vũ khí, tài liệu bất hợp pháp bị lên án 5 năm cấm cố, 10 năm khổ sai(1).

Chẳng bao lâu sau, ông lại được thả. Thời Việt Nam Cộng hòa ông xông xáo như thế, ăn to nói lớn. Sau 1975, cộng sản bắt ông đi tù và ông chết một cách đáng ngờ khi bị giam.

Quan trọng hơn cả, họ cũng công khai nhìn nhận đã thủ tiêu ám sát những nhân vật quốc gia như ký giả Từ Chung, giáo sư Nguyễn Văn Bông, các giáo sư Y khoa Lê Minh Trí, Trần Anh, các sinh viên như Lê Khắc Sinh Nhật, sinh viên y khoa Trần Quốc Chương, bắn bị thương các sinh viên Ngô Vương Toại và Nguyễn Văn Tần, tức ký giả Cao Sơn, bắn bị thương Bùi Hồng Sỹ, v.v.

(T) Bộ trưởng Giáo Dục Lê Minh Trí bị khủng bố Việt cộng đạt mìn sát hại  (Sài Gòn 06-01-1969 - Tổng trưởng Bộ Giáo Dục BS Lê Minh Trí bị   lúc 7g50 tại góc Nguyễn Du - Hai Bà Trưng). (P): Gs. Nguyễn Văn Bông bịc khủng bố Việt cộng ám sát trưa ngày 10.11.1971.  tại ngã tư Cao Thắng - Phan Thanh Giản, Saigon. Nguồn: DCVOnline tổng hợp.

(T) Bộ trưởng Bộ trưởng Giáo dục và Thanh niên Lê Minh Trí bị khủng bố Việt cộng đặt mìn sát hại tại lúc 7g50, 6/1/1969 tại góc Nguyễn Du – Hai Bà Trưng, Saigon. (P): Gs. Nguyễn Văn Bông (hình năm 1967) bị khủng bố Việt cộng ám sát trưa ngày 10/11/1971 tại ngã tư Cao Thắng – Phan Thanh Giản, Saigon. Nguồn: OntheNet/DCVOnline tổng hợp.

Chúng ta đã làm gì và truy lùng ra được những thủ phạm ám sát người ngay giữa ban ngày? Có thể nào nhân dân miền Nam chấp nhận được cảnh giáo sư y khoa Lê Minh Trí, nắm chết bên vệ đường trước sự thản nhiên và vô tình của mọi người. Cảnh sát của trung tá Nguyễn Văn Luân làm gì và ở đâu?

Việc công khai hóa này cũng hay, vì nhiều khi dư luận thời đó có thói quen gán ghép trách nhiệm các vụ ám sát này cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa như trong trường hợp giáo sư Nguyễn Văn Bông. Tuy nhiên còn một vụ chưa rõ là việc ám sát ông Trần Văn Văn, một lãnh tụ miền Nam trong nhóm Caravelle.

Họ còn có cả một danh sách hồ sơ đen những người mà họ định thủ tiêu hay ám sát. Nhân tiện đây, xin phép tác giả cuốn Mặt trận Đại học nêu tên một số người mà may mắn nay còn sống. Tác giả Bạch Diện thư sinh đã trích dẫn một bài báo của giáo sư Nguyễn Văn Trung nhan đề “Đôi điều trao đổi với nhà văn Mai Kim Ngọc” trong tờ Văn Học, số 124, trang 68 như sau:

Và tác giả Song Nhị, trong cuốn “Nửa thế kỷ Việt Nam” đã đưa ra một danh sách 17 người bị cộng sản lên án tử hình còn có các sinh viên Phạm Quân Khanh, Phạm Hưng, Phạm Tài Tấn (Thư Sinh), Phạm Bằng Tường, Nguyễn Tường Quý, Khổng Trọng Hinh, Nguyễn Văn Tấn( Cao Sơn, đã quá vãng), Hồng Nguyên Sĩ(2).

Để được biết một cách thật chính xác, tôi đã điện thoại hỏi trực tiếp nhà báo Song Nhị, cũng là một nhân viên của Phủ Đặc Ủy tình báo, anh cho biết anh đã hỏi trực tiếp những người trong cuộc và họ đều xác nhận như vậy. Đó là các anh Phạm Tài Tấn, Phạm Bằng Tường, Nguyễn Văn Tấn cung cấp trong một cuộc phỏng vấn có thu âm tại San Jose ngày 20/3/2010 cùng tham chiếu bài viết “Chạm mặt tử thần” của Hoàng Xuân Sơn, đăng trên Sài Nhỏ, số 961, 23-4-2010, tr A6-A7(3).

Thực tế, phải nhìn nhận các phong trào này đã lôi cuốn được một số trí thức cũng như sinh viên học sinh miền Nam ngả theo họ.

Nhưng tỉ lệ sinh viên theo cộng sản là bao nhiêu? Không có thống kê nào cho biết. Nhưng riêng ở Văn Khoa Sài Gòn sinh viên tham gia các phong trào là 263 người. Và con số bị tù là 67 người bị bắt(4).Trong khi đó tổng số sinh viên văn Khoa ghi tên theo học có thể lên đến con số 6-7000 người.

Trong số những sinh viên bị bắt, có một số khuôn mặt quen thuộc như Cao Thị Quế Hương, Ngô Đa, Lâm Bá Phát, Đoàn Khắc Xuyên, Nguyễn Thị Yến. Có những người hoạt động rất tích cực như Cao Thị Quế Hương, Nguyễn Thị Yến.

“Tôi vẫn còn giữ một danh sách của đội quyết tử cảnh cáo một số sinh viên thuộc các phân khoa như Ngô Thế Vinh (Y Khoa).

Việt cộng Cao Thị Quế Hương (196x-201x)< DCVOnline tổn hợp.

Việt cộng Cao Thị Quế Hương (196x-201x)< DCVOnline tổng hợp.

Nhưng cho đến nay không cách nào đánh giá đúng mức từng người được. Mức độ dấn thân tùy thuộc từng người, từng hoàn cảnh. Sinh viên Văn khoa, Luật khoa, hay Vạn Hạnh, số người tham gia hoạt động nhiều bởi vì nơi đây là những nơi chấp nhận dễ dãi các thành phần không trúng tuyển tại các phân khoa khác. Không Học được Đại Học Sư Phạm, kỹ sư Phú Thọ, Y Khoa, Quốc Gia Hành Chánh vì có thi tuyển, có chọn lọc thì kéo nhau ghi tên Văn Khoa. Học thật cũng nhiều mà học chơi cũng không thiếu. Các sinh viên này có nhiều thuận lợi và nhất là thời giờ rảnh rang tụ họp để đi làm ‘Chính trị’ mà cả ‘Chính em’ nữa.

Chỉ đạo các phong trào này là Trần Bạch Đằng, bí danh Tư Ánh người lãnh đạo mặt trận đô thị. Tác gỉả Mặt trận Đại học đã dành một số trang để viết về cuộc đời hoạt động của ông Tư Ánh.

Ở đây, tôi chỉ xin nói thêm một số chi tiết mà chỉ những người cùng hoạt động với Tư Ánh mới biết được. Đó là trường hợp anh Lê Tùng Minh, một cán binh tập kết ra Bắc, vào lại miền Nam và có thời làm việc với Trần Bạch Đằng. Anh Lê Tùng Minh, tên thật Tô Minh Trung, thạc sĩ sử Hà Nội 1960. Một người biết rất rõ về cuộc đời hoạt động của Trần Bạch Đằng, về những bước thăng trầm, về những năm tháng bị trù dập của Tư Ánh. Anh Lê Tùng Minh cũng giống như nhà văn Xuân Vũ, họ biết nhau từ Hà Nội vì cùng là dân tập kết khi có cơ hội vào miền Nam đã tìm cách ra hồi chánh.

Sau khi hồi chánh, anh được điều động về làm việc cho Phủ Đặc Ủy Trung Ương tình báo. Xuân Vũ sau đó làm cho đài Mẹ Việt Nam.

Có một số những Hồi Chánh viên sau này trở thành vốn quý cho miền Nam như đại tá Nguyễn Bé, nhà văn Xuân Vũ, anh Lê Tùng Minh. Vốn quý của Xuân Vũ nằm trong văn học và tuyên truyền. Vốn quý của đại tá Nguyễn Bé trong tài tổ chức, trong trung tâm huấn luyện xây dựng nông thôn ở Vũng Tàu. Người Mỹ ngay cả Phó tổng thống Humphrey cũng quý trọng ông. Các sĩ quan xuất thân trường võ bị như Trung tá Trần Văn Nam, trưởng khối hành chánh hết sức trân trọng đại tá Nguyễn Bé về sự hiểu biết, về tài tổ chức, về tính nết bình dân và nhân cách là ông không hề tơ hào, tham nhũng. Gia cảnh túng thiếu, bà Bé phải đi bán thêm thuốc lá độ nhật.

Giá chúng ta có được 20 chục Nguyễn Bé trong các cơ quan thì hay biết mấy.

Theo anh Lê Tùng Minh, phía Việt Nam Cộng hòa đã truy lùng gắt gao để bắt cho bằng được Trần Bạch Đằng. Ông Trần Kim Tuyến lo việc bắt này mà không xong. Cũng theo anh Lê Tùng Minh, cuộc đời Trần Bạch Đằng trôi nổi, bị truy lùng có lúc phải chạy về an toàn khu. Khi về hoạt động lại ở Sài Gòn, Tư Ánh được giáo sư Dương Minh Thới, cha của bà bác sĩ Dương Quỳnh Hoa bảo bọc. Rất tiếc, nay anh lâm trọng bệnh không trả lời điện thoại cũng như thư từ(5). Phần tôi, mất đi một nguồn tài liệu.

Việt cộng Trần Bạch Đằnh (1970. Hà Nội; 2005 Tp. HCM). DCVOnline tổng hợp

Việt cộng Trần Bạch Đằng (1970. Hà Nội; 2005 Tp. HCM). Nguồn: OntheNet/DCVOnline tổng hợp

Hỗ trợ tích cực các phong trào này thì có một số thành phần như các giáo sư Nguyễn Ngọc Lan, Lý Chánh Trung, Linh mục Chân Tín và một số người mà tác giả Bạch Diện Thư sinh gọi là nhóm tội ác như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đoan Trinh.

Và tác giả Mặt trận Đại học cũng không quên nêu tên các nhân vật phía bên kia nổi tiếng một thời mà có thể trong quan hệ quen biết bạn bè, kẻ bên này, kẻ theo bên kia như trường hợp Lê Hiếu Đằng, Nguyễn Đăng Trừng, Đào Hiếu, Hạ Đình Nguyên.

Cuối cùng có những thành phần quốc gia, có thời lãnh đạo quốc gia, mà tôi gọi họ là những kẻ vẽ đường cho hươu chạy, vì đuổi theo mục đích cá nhân hay bè phái, như các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Cao Kỳ cũng được tác giả viết thành một chương ‘kể tội’ các ông.

Đây là một cuốn sách nên có và nên đọc như bất cứ một tài liệu liên quan đến lịch sử đất nước. Nên đọc vì nhiều điều có thể chúng ta chưa biết.

Trong khi đó câu hỏi tôi đặt ra cho tác giả và người đọc là về phía chính quyền Quốc gia, chúng ta đã làm gì và làm được gì để đối phó với sự xâm nhập và những hoạt động của các nhóm sinh viên thuộc thành đoàn này?

Trước 1963, hầu như hoạt động của giới sinh viên tả phái hay thân cộng không đáng kể, hoặc họ không dám xuất đầu lộ diện công khai nên chính quyền tương đối rảnh tay.

Kinh nghiệm cá nhân là vào những năm đầu thập niên 1960, tôi chưa hề có cơ hội được biết về các tổ chức cộng sản này.

Còn đối với giới sinh viên trẻ như chúng tôi thời 1960, tình báo là chuyện người lớn, chuyện mấy tên cộng sản chuyên nghiệp là chuyện không đáng quan tâm. Đa số sinh viên đều thuộc thành phần người quốc gia. Ngay cả những đại diện sinh viên xuống đường, biểu tình như cơm bữa như trường hợp chủ tịch sinh viên Lê Hữu Bôi, Nguyễn Trọng Nho cũng vẫn là người quốc gia.

Nhưng cộng sản thì sẵn sàng chờ đợi những cơ hội thuận lợi để quấy phá, để xâm nhập. Chúng đã kín đáo hoạt động. Và đó là nghề của họ ngay từ khi đảng mới thành lập!(6)

Trách nhiệm giới sinh viên Quốc gia thời đó cũng có: Đó là sự thờ ơ, sự thiếu cảnh giác của họ!

Tuy nhiên, ngay trong thời kỳ đầu nền Đệ Nhất Cộng Hòa, chính quyền Ngô Đình Diệm và ông Trần Chánh Thành, bộ trưởng thông tin đã quan tâm tới mối hiểm nguy cộng sản rồi.

Họ có chính sách, đường lối tuyên truyền, chống cộng, học tập chống cộng trong giới sinh viên, học sinh.Trong lớp học ở trường công như Chu Văn An, các thầy giáo dậy công dân đã biến giờ học công dân thành giờ học ‘Tố Cộng’. Bên cạnh đó, đã có nhiều sách vở nay đã không còn nữa đã được in ấn khoảng thời gian 1955-1958(7).

Lại một lần nữa, việc học tập chống cộng sản thường bị lơ là. Nhà trường, giáo sư nhiều khi làm lấy lệ. Những sách chống cộng mấy người đọc? Nếu chúng ta có cơ hội đọc những lời cảnh báo của Suzanne Labin trong “Nước đã đến chân”. Hay đọc cuốn “Chính Đề Việt Nam” của Tùng Phong. Hoặc “Chúng ta không thể để cho Việt Nam rơi vào tay cộng sản” của Robert A. Scalapino. Việt Cộng không mặt của George A. Carver (“The Faceless Viet Cong”).

Chính đề Viiejt Nam. Nguồn: Tùng Phong, 1965

Chính đề Việtt Nam. Nguồn: Tùng Phong/NXB Đồng Nai, Saigon, 1965

Hoặc những cuốn sách rất dễ tiếp cận và phổ biến như “Trăm hoa đua nở trên đất Bắc” của Hoàng Văn Chí. Nếu ai chưa đọc cuốn này thì kể như không biết gì về cộng sản cả. Đọc mà không thấm thì tốt hơn hết cho đi tù cải tạo một lần cho biết.

Một trong những cuốn sách để lại trong tôi nhiều ấn tượng là cuốn: “Thoát ly hỏa ngục” của bác sĩ Tom Dooley. Tôi nhớ mãi cuốn này. Và ngay cả bây giờ, giới trẻ Việt Nam nếu được đọc cuốn này cũng vẫn tốt cho họ.

Vì thế, tôi nghĩ rằng không mấy người hiểu cộng sản?

Việc chống Cộng lấy có đã gây phản tác dụng.

Giới trẻ không muốn nghe biết về những điều được coi như nhàm chán ấy nữa. Công việc chống Cộng được coi như công việc được khoán trắng cho chính phủ!

Lại thêm một lổi lầm cần phải nhìn nhận.

Trên trận tuyến tình báo và phản tình báo, Việt Nam Cộng Hòa có những ngành đặc biệt nào để đương đầu với cộng sản? Đã có những tài liệu nào về tình báo và phản tình báo? Những ngành như Phủ Đặc Ủy Trung Ương tình báo bắt được bao nhiêu cộng sản nằm vùng, khám phá được bao nhiêu ổ cộng sản cỡ Mười Hương? Hỏi để hỏi, còn câu trả lời là một chuyện khác!

Trong khi đó, trong cuốn “Sáu năm hoạt động của chính phủ”, tác giả Hồ Đắc Huân liệt kê cho thấy, chỉ riêng ngành công an thôi đã bắt được 25.700 cán bộ cộng sản(8).

Con số của ngành công an đưa ra như thế đặt vấn đề tính hiệu quả của ngành tình báo như Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình báo? Nhiều người cho đến nay cũng không được biết cụ thể như thế nào? Lý do là nhiều hoạt động mật không thể công khai hóa tài liệu.

Cái khuyết điểm lớn của người quốc gia là đã không học đủ để chống cộng sản.

Ngay trong Phủ Đặc ủy Tình báo, ai là người chịu khó đọc các tài liệu và tìm cách truyền lại cho các người khác?

Về điểm này, xin anh Bửu Uy thứ cho về việc tôi tiết lộ cách thức làm việc thiếu tính hiệu quả của Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình báo. Anh là người của A17 được cài đặt vào Văn Khoa một cách bí mật. Anh được coi nhừ ‘nằm vùng’ để bắt trọn ổ bọn sinh viên Thành Đoàn. Vậy mà anh đã bị lộ. Họ đã lật tẩy anh và công khai nói ra. Xin trích dẫn:

‘Năm học 1973-1974, chính quyền Sài Gòn đã đưa sinh viên công an Nguyễn Phúc Bửu Uy lên làm Chủ tịch Ban chấp hành sinh viên Văn Khoa rồi sau đó là Chủ tịch Tổng Hội sinh viên Sài Gòn. Bửu Uy tự xưng là ‘Sinh viên tự do’ hô hào ‘Cương quyết duy trì sự ổn định đại học, cương quyết vạch mặt tẩy chay những phần tử ngoan cố còn sót lại’. Tháng 7-1973, nhóm Bửu Uy lấy lại trụ sở nhóm Nhân Văn gây khó khăn cho nhóm’(9).

Hoạt động của Bửu Uy như thế là công khai thì làm thế nào Phủ Đặc Ủy có thể cài người, xâm nhập vào các tổ chức của cộng sãn?

Vì thế, sự theo dõi, xâm nhập, cài người và công tác mật vụ của chúng ta quả thực có giới hạn?

Trước đây còn có các cuốn như “Những Huyền thoại & Sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm” của Vĩnh Phúc tiết lộ một số những hoạt động của bác sĩ Trần Kim Tuyến kể lại. Cuốn sách được coi như một thứ Oral History của tác giả Vĩnh Phúc hỏi về một người, một phía, không có tham khảo khác. Nhưng nhiều sự kiện được trình bày và tiết lộ cũng giúp người đọc hiểu được một phần về nền đệ nhất cộng hòa, hóa giải nhiều điều sai lầm hoặc thuộc huyền thoại. Cuốn sách được nhiều người tìm đọc.

Nhưng hoạt động tình báo của phía người quốc gia hẳn còn nhiều hoạt động khác mà người ở ngoài không biết được?

Cuốn “Dòng họ ngô Đình, giấc mơ chưa đạt” của tác giả Nguyễn Văn Minh cho thấy tác giả là người biết rõ ông Cẩn hơn ai hết vì đã làm việc sát cánh với ông Ngô Đình Cẩn trong 8 năm (1955-1963). Mặc dầu vậy, những bí ẩn về con người và những hoạt động của ông Cẩn vẫn còn nhiều điều chưa được giải mã. Trớ trêu là nay có nhiều sách phía bên kia viết về ông Cẩn với một sự trân trọng đáng ngạc nhiên như cuốn “Đoàn Mật Vụ Ngô Đình Cẩn”, của Lê Phan. Và nhất là cuốn “Bội phản hay Chân chính” do những người từng bị tù đầy thời ông Ngô Đình Cẩn lên tiếng. Những người này sau khi được thả ra đã bị đảng cộng sản cách ly, không dùng vì cho rằng họ bị ‘nhiễm độc’ tư bản. Họ đã lên tiếng, kêu oan và đã có dịp nói rõ cái tổ chức mật vụ Ngô Đình Cẩn nó khủng khiếp, nó dễ sợ như thế nào!

Một trong những tác giả của cuốn sách là ông Văn Tiến Mạnh. Vào năm 1993, cuốn sách “Bội Phản hay Chân Chính” mới được chính thức cho xuất bản với tựa đề rút ngắn lại: “Người chân Chính”. Ông Dư Văn Chất là người trách nhiệm chấp bút cuốn sách này. Ông cũng là người từng nếm trải kinh nghiệm ‘siêu đẳng’ về mật vụ Ngô Đình Cẩn.

Đây là một kinh nghiệm lý thú vì trăm người như một, từ trong nhà thân thuộc đến ra ngoài, người ta thường có cái nhìn ‘coi thường’ không nói là khinh miệt ông Ngô Đình Cẩn.

Từ ý tưởng này, tôi sẽ xin ngồi viết lại về con người ấy, về hành trạng con người ây cũng như về cái chết ‘oan uổng’ của ông và những bản án rất nặng dành cho những người dưới quyền ông.

Theo tôi, họ không đáng bị nhận những bản án có tính cách chính trị của một thời kỳ mông muội đầy tinh thần xã thôn.

Tôi muốn được trả lại công đạo cho họ!

(Còn tiếp)

© 2015 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”

Bài do tác giả gởi. DCVOnline minh hoạ.

(1) Trần Nhã Nguyên, “Lịch dử Việt Nam 1940—2007”, trang 508. Sau 1975, Ông Thích Thiện Minh bị bắt giam tù và chết năm 1978 với nhiều nghi án.

(2) Song Nhị, “Nửa thế kỷ Việt Nam”, Cội Nguồn, 2010, ấn bản lần hai, trang 98.

(3) Bạch Diện Thư Sinh, “Mặt trận Đại Học”, trang 130.

(4) “Văn Khoa một thời sống đẹp”, trang 450-470.

(5) Theo anh Lê Tùng Minh, ông Trần Kim Tuyến cố tìm rượt bắt Trần Bạch Đằng, tự là Tư Ánh. Nhưng không được. Tư Ánh đã tìm cách trú ẩn tại nhà giáo sư Dương Văn Thới, cha của bà bác sĩ Dương Quỳnh Hoa từ năm 1955-1960. Dưới quyền Tư Ánh có Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy, Đỗ Hữu Nhật, Lê Hiếu Đằng, Nguyễn Minh Triết.

(6) Trong cuốn Trần Văn Thạch (1905-1945), cây bút chống bạo quyền áp bức, tác giả là Trần Mỹ Châu, con gái của ông Trần Văn Thạch. Trong đó, ông Trần Văn Thạch, một trí thức thuộc nhóm cộng sản đệ tứ bị Pháp bắt đi tù Côn Đảo cùng với các đồng chí của ông như Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm Hùm, Hồ Hữu Tường, Huỳnh Phú Sổ, Nguyễn Văn Tạo, v.v.

Ông Trần Văn Thạch đã kể lại bọn cộng sản đệ tam, nhờ kinh nghiệm học hỏi từ Nga Xô và Trung Cộng nên khi ở đảo Côn Sơn, họ đã tìm cách cài đặt người của họ vào các công việc như:

– Nhà bếp, nhờ đó có thể lén giấu cơm cháo nuôi đồng chí của họ;

– Trạm xá, để tận tình cứu chữa cho đồng chí và đồng thời bỏ mặc kẻ đối nghịch không cùng phe. Nhất là các thứ bệnh kiết lỵ. Nguyễn An Ninh chết ngày 14- 3- 1943 vì không có thuốc.

Làm bồi tây và đồng thời tố cáo những kẻ thù nghịch.

(7) Chẳng hạn, các cuốn “Việt Nam; tiết lộ của một nhân chứng” của Suzanne Labin (Vietnam; révélations d’un témoin), “Thoát ly hỏa ngục” của Thomas Dooley (“Deliver Us from Evil: The Story of Vietnam’s Flight to Freedom” (New York : Farrar, Straus and Cudahy, 1956)), “Kỹ thuật phá hoại của cộng sản tại Tiệp Khắc 1938-1948” của Josef Korbel (“The Communist Subersion of Czechoslovakia 1938-1948”), “Giai cấp mới” của Milovan Djilas (Fall of the New Class: A History of Communism’s Self-Destruction), v.v.

(8) Hồ Đắc Huân, “Sáu năm hoạt động”, trang 391.

(9) “Văn Khoa một thời sống đẹp”, trang 63

Về cuốn “Mặt Trận Đại Học” của Bạch Diện Thư sinh (II)

Posted on May 21, 2015 by editor0 Comments

Nguyễn Văn Lục

cafe

Trong cuốn Bội phản hay chân chính có một nhận xét đáng chú ý của ông Văn Tiến Mạnh cho rằng: Chính người cộng sản sợ người cộng sản.

Giới thiệu và góp ý về cuốn Mặt Trận Đại Học của Bạch Diện Thư sinh

(Tiếp theo phần I)

Chiến sĩ biệt động thành Huỳnh Phi Long đánh một đồn đích đáng vào giặc Mỹ xâm lược tại Nhà hàng nỏi Mỹ Cảnh Saigon. Nguồn: OntheNet/DCVOnline tổng hợp

“Chiến sĩ biệt động thành Huỳnh Phi Long đánh một đồn đích đáng vào giặc Mỹ xâm lược tại Nhà hàng nổi Mỹ Cảnh Saigon.” [Khủng bố VC Huỳnh Phi Long bí danh Huỳnh Anh Dũng đạt bom giết người trong và ngoài nhà hàng nổi Mỹ Cảnh, Sài Gòn ngày 25/6/1965] Nguồn: OntheNet/DCVOnline tổng hợp

Cũng một cách ấy, tôi cũng nhận ra, tại hải ngoại này, chính người quốc gia sợ người quốc gia. Vì thế, họ chụp mũ, vu cáo, bịa đặt cho nhau! Ai cũng có thể là tay sai cộng sản. Và người ta thường mỉa mai chống cộng hay chống nhau!

Đó là biểu tượng tinh thần xã thôn, lấy ta làm trung điểm, là đúng, người khác là sai.

Tôi nhấn mạnh là có bốn cuốn sách của phía bên kia viết về mật vụ ông Cẩn với trân trọng.

Có cuốn sách nào của phía bên kia viết về công tác của Phủ Đặc Ủy Trung ương tình báo không?

Trong khi đó chẳng hiểu tại sao có nhiều người quốc gia hận thù ông Cẩn và đánh giá quá thấp ông Cẩn như thế! Trong khi kẻ thù của ông lại nể sợ ông.

Mười Hương sau này vào đến Trung Ương Đảng(10) viết về Ngô Đình Cẩn như sau:

Chúng ta lâu nay cứ chê bai thằng Cẩn rằng nó đi guốc mộc, miệng nó nhai trầu bỏm bẻm… chê như vậy nó không đúng đâu. Thằng Cẩn giỏi lắm, có mưu trí lắm. Nếu anh em thằng Diệm mà nghe lời thằng Cẩn thì chưa chắc Diệm đã đổ sớm như vậy đâu. Chính Nhu Thục bảo đàn áp Phật giáo chứ thằng Cẩn bảo không được…’(11)

Sách về công tác mật vụ thời đệ nhị cộng hòa kể là hiếm hoi như vừa nêu trên. Vì thế, tôi đón nhận một cách phấn khởi khi đọc cuốn “Mặt Trận Đại Học” của Bạch Diện Thư Sinh.

Trước khi đọc “Mặt Trận Đại Học” thì đã được nghe nói về tác giả cũng như về những người bạn đồng hành, những người mà sau này, do nghề nghiệp nghiệt ngã, chịu đựng những án tù, người 8 năm, người 13 năm và có hai người tù đến 17 năm mấy tháng cho đến lúc đóng cửa trại tù cải tạo. Sự trân trọng, lòng quý mến cũng như sự cảm phục về con người, về tư cách của các anh em ấy cũng như về cách xử xự khi ra khỏi tù càng cho tôi có một cảm tình đặc biệt với họ.

Họ là những sinh viên thuộc đủ phân khoa đại học Sài Gòn mà phần đông đã tốt nghiệp đại học nay trở lại trường công tác trong vai trò một điệp báo viên. Họ đã làm công việc của họ trong thầm lặng, trong một tổ chức mà một số quy luật bắt buộc phải tuân theo. Phải nói họ lãnh cái phần thiệt thòi nhất, hy sinh nhiều nhất, nhất là đánh mất tuổi trẻ trong cuộc chiến tranh này.

Một phần đời của họ sẽ không bao giờ lấy lại được.

Đại bàng gẫy cánh! Không họ chỉ là những con người bình thường trong một xã hội miền Nam mà điều tốt nhiều hơn điều xấu, người tử tế thì nhan nhản ngoài đường phố. Vậy mà họ đã một thời sống nỗi bất hạnh, mất mát của cả một miền đất nước.

Nay họ đã trở về. Và họ đã lớn lên. Nhà tù đã không thay đổi được gì nơi họ.

Bìa Hồi Ký và hình tác giả Kale lúc trẻ (Lê Anh Kiệt) . Nguồn:  https://sites.google.com/site/lakiet/

Bìa Hồi Ký và hình tác giả Kale lúc trẻ (Lê Anh Kiệt) . Nguồn: https://sites.google.com/site/lakiet/

Trong cái tâm tình ấy. Tôi cũng đã đọc cuốn Hồi Ký ngắn, “Một cuộc đổi đời” của anh Lê Anh Kiệt, một sinh viên tốt nghiệp đại học khoa học mà cha theo kháng chiến, gốc miền Nam. Anh không viết gì nhiều về những ngày công tác trong Phủ Đặc Ủy Tình báo, nhưng viết về trại tù cải tạo trong suốt 17 năm. Trước khi đi tù, anh có người vợ trẻ đang mang thai cháu bé. Và khi ra tù thì vợ anh đã bỏ đi rồi.

Anh viết với một tấm lòng, với sư trung thực, với một sự chững chạc không kết án ai, nhất là những thiệt thòi bạc bẽo từ nơi mà anh đã từng phục vụ.

Ngoài Lê Anh Kiệt, người viết cũng xin được nói tới anh Nguyễn Phúc Bửu Uy, người chủ tịch sinh viên Sài Gòn (1972-1973). Qua điện thoại, với tiếng cười xem ra hồn nhiên, trong sáng. Xem ra anh không phải là người đã từng 17 năm tù trong ngục tù cộng sản? Những câu trả lời của anh rất mực thẳng thắn mà vượt khỏi những ranh giới hận thù.

Anh cũng là nhân viên của cụm tình báo A17 và cũng như nhiều anh em khác, cũng như khoảng 500 nhân viên của Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình báo, anh đã bị đi tù cải tạo trong suốt 17 năm và chỉ được thả ra khỏi trại cải tạo ngày 29 tháng 4 năm 1992 cùng với 20 người tù cải tạo cuối cùng, trong đó có bốn tướng lãnh Việt Nam Cộng hòa. Và một trong những người đó là tướng Lê Minh Đảo – từng được mệnh danh là “Người hùng Xuân Lộc”. Tướng Đảo cũng là người lo giúp đỡ và chăm sóc cho Bửu Uy lúc mới ra tù. Tình bạn của họ nảy sinh từ trong tù, từ những lúc cuộc đời tăm tối, lao đao, khốn khổ nhất.

Được hỏi tại sao anh bị đi tù cải tạo lâu như thế? Anh Bửu Uy do dự trả lời, “Có thể mình cũng bướng với họ. Và cũng rất có thể, họ muốn dụ ra làm việc cho họ, nhưng mình từ chối.”

Nếu muốn, chúng ta có thể gọi anh là người tù ‘kiệt xuất’. Mặc dầu cha anh cũng là cán bộ phía bên kia. Nhưng đã không giúp đỡ gì được anh cả. Nói chuyện qua điện thoại với anh, tôi có cảm tưởng anh đã vượt thắng được chính mình và nay anh đã coi 17 năm tù ấy như phần đời đã trải qua.

Nó cũng làm anh lớn lên về nhiều mặt.

Nhưng nghĩ tới anh và nghĩ tới những bạn bè của anh như quý anh Tuân (Pháp), Ngọc Diệp, họa sĩ, Điệp, anh Thắng, cũng 17 năm tù (người phụ trách vụ Huỳnh Văn Trọng) cùng chung nỗi oan nghiệt thời thế.

Tôi cũng muốn nhắc đến ông Nguyễn Thành Long, người chỉ huy A17 được anh em quý mến vì sự nhiệt thành, hăng say trong công việc và rất được tướng Bình quý trọng.

Tôi có một thắc mắc trong nhiều thắc mắc là liệu công việc của A17 có thể xâm nhập vào cơ sở chùa Ấn Quang, vào đại học Vạn Hạnh không? Bởi vì nhiều phần tử cộng sản đã được cài đặt vào chùa Ấn Quang và họ đã tạo dựng được cơ sở từ nơi chốn thiền môn này?

Chẳng hạn, một thí dụ điển hình trong một bài viết của Vũ Tiêu Giang đăng trên báo Độc Lập ngày 12 tháng 8 -71 với tiêu đề như sau: Đồng bào các giới xúc động. 20 sinh viên, học sinh tuyệt thực đã bắt đầu kiệt sức! ‘ Dùi cui xiết chặt vòng vây’ quanh chùa Ấn Quang.

Dùi cui thì chắc là công việc của cảnh sát không phải công việc của anh em A17 rồi.

Sài Gòn ngày 11 tháng 8 (ĐL) Tiếp xúc với báo chí sáng thứ tư tại chùa Ấn Quang, T.T. Huyền Quang phát ngôn viên chính thức của giáo hội Việt Nam Thống Nhất Ấn Quang lên tiếng cho rằng nếu đại tướng Dương Văn Minh rút lui thì cũng chỉ vì ông Thiệu đã gia công tối đa cố chèn ép các liên danh đối lập và như vậy cuộc bầu cử đơn độc chỉ có một mình liên danh chính quyền thì hóa ra một trò khôi hài có một không hai trên thế giới.

Khi đưa ra nhận định trên T.T. Huyền Quang còn lớn tiếng tiên đoán rằng: ông Thiệu dù bình tĩnh đến đâu cũng không gạt nổi sự lo ngại về đảo chánh, tranh cử đơn độc trưng cầu dân ý để bảo đảm pháp lý tổng thống sau 3 tháng 10- 1971.

Lên tiếng về dư luận cho rằng Đại sứ Bunker về Hoa Thạnh Đốn có liên can đến vấn đề bầu cử tổng thống, nhất là liên danh Kỳ-Lễ bị loại bỏ. T.T. Huyền Quang nói rằng dư luận thấy rõ tại Hoa Thạnh Đốn chứ không phải Đại sứ Mỹ ở Việt Nam đang bối rối trước trò chơi dân chủ tháng 10 sắp tới đây có thể có lợi cho Mỹ hoặc cũng có thể có hại cho chính sách ngoại giao Mỹ với thế giới và cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 1972.

Một nhà sư tạm bỏ kinh kệ để bàn luận chính trị cũng đến là hay. Tôi đồng ý với T.T. Huyền Quang trò bầu cử độc diễn này thật là khôi hài. Nhưng nếu đã là khôi hài thì còn chấp làm gì và xúi các thanh niên sinh viên tuyệt thực đến đói lả? Thật là tội nghiệp cho các cô cậu ấy. Cuộc tranh đấu tuyệt thực xem ra thiếu tính chính nghĩa. Đó có phải là công việc của một nhà sư? Hay đó chỉ là cái bệnh tinh thần xã thôn, xía vô và gây rối?

Một số nhỏ nhà sư, gốc gác miền Trung, mang sẵn tinh thần xã thôn, lấy vùng địa lý của họ làm điểm tựa, đã liên tục quấy phá chính quyền trong suốt nhiều năm như thế.

Và xin hẹn trong bài sau sẽ phân tích kỹ càng về họ.

Tướng Nguyễn Khắc Bình- Phủ Đặc Ủy như lá che chắn cho chế độ

Có một câu hỏi mà tôi mong muốn các nhân viên từng phục vụ trong Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo cho tôi một câu trả lời là: Từ năm 1968 cho đến 1975 dưới quyền lãnh đạo của tướng Bình, Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo đã làm được những công trạng gì? Câu trả lời mà mọi người ở bên ngoài đều muốn biết sự thật. Tất cả những nhân viên tình báo trong cụm A17 đều có vẻ e dè không muốn trực tiếp trả lời!

Ông Nguyễn Khắc Binh, cựu Đặc ủy trưởng, ĐUTƯTB trong buooit Hội ngộ A17. Nguồn: Hoàng lan Chi

Ông Nguyễn Khắc Bình, cựu Đặc ủy trưởng, ĐUTƯTB trong buổi Hội ngộ A17, 14/12/2014 (Ridgeview Way, San Jose, USA) . Nguồn: vietbao.com

Cuốn sách của tác giả Bạch Diện Thư Sinh thì càng kín đáo đến hầu như tôi không thấy tên tướng Nguyễn Khắc Bình trong cuốn sách, người chỉ huy cao cấp nhất của cụm A17. Thế nghĩa là thế nào? Tôi thấy chỉ có một lần tướng Bình được nhắc tới trong việc thành lập A17 mà thôi(12). Sự im lặng ấy mang ý nghĩa gì? Sự nhắc tới như thể không nhắc đến tên người chỉ huy của mình trong toàn cuốn sách, phải chăng tự nó đã là một ân huệ?

Vì thế, tôi không thể không nghĩ đến người chỉ huy của Phủ Đặc ủy Trung Ương Tình báo: Tướng Nguyễn Khắc Bình. Giống như các cấp chỉ huy cao cấp trong chính quyền miền Nam. TT Nguyễn Văn Thiệu đã chuyển giao quyền hành cho Phó Tổng thống Trần Văn Hương. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, trước đó, đã mời ông Nguyễn Bá Cẩn ra giữ chức vụ Thủ tướng, thay cho thủ tướng đương nhiệm là Trần Thiện Khiêm vừa từ chức. Nhiệm kỳ của Thử tướng Nguyễn Bá Cẩn kéo dài 10 ngày, từ 14/4 đến 23/4/1975. Phần Tướng Nguyễn Khắc Bình, theo một người nhân viên làm tại Phủ Đặc Ủy cho hay, tướng Bình đã ‘ép’ ông Nguyễn Phát Lộc, đốc sự thượng hạng, ngoại hạng phải nhận chức Đặc ủy Trưởng thay ông, mặc dầu ông Lộc từ chối không muốn nhận.

Ông Lộc, một công chức già, người từ tốn, kín đáo, không khoe khoang khoác lác, có hiểu biết rộng, không quen biết nhiều, sau đó đóng vai ‘Con dê tế thần’ hay nói cho đẹp là ‘Lê Lai cứu Chúa’, ông cũng như mọi anh em khác trong Phủ Đặc Ủy Trung Ương tình báo phải đi học tập.

Sau đó, ông Nguyễn Phát Lộc đã chết trong trại học tập tại Nam Hà!

Cộng sản vào thì ai cũng sợ, ai cũng tìm đường cho mình một con đường thoát hiểm. Nhưng vẫn cần có một Sirik Matak, một Nguyễn Khoa Nam chứ!

Thư của Thủ tướng Cambodia Sirik Matak gởi Đại sưa Mỹ tại PnomPenh John Gunther Dean

Giá lo xong được cho đồng đội, rồi muốn đi đâu thì đi vẫn là điều tốt đẹp nhất.

Tôi còn nhớ F. Snepp có phận sự lái xe đưa hai ông Thiệu và Khiêm ra phi trường theo lệnh của Polgar. Lộ trình của T.T. Nguyễn Văn Thiệu là phải ghé qua đón thủ tướng Khiêm, sau đó trên xe, F. Snepp còn đặn dò T.T. Nguyễn Văn Thiệu phải cúi rạp xuống sàn xe kẻo lính gác cổng trông thấy sẽ tức giận nổ súng. F. Snepp còn cắc cớ hỏi, bà Nguyễn Văn Thiệu giờ này đang ở đâu?

Ông Thiệu trả lời “nhà tôi đã đi sớm và giờ này đang đi mua sắm đồ ở Londres.” Chỉ một câu trả lời một cách tự phát này thôi đủ đánh giá cuộc đời làm Tổng Thồng của ông Thiệu.

Về tướng Nguyễn Khắc Bình thì một trong số những người cận vệ của ông khi vào tù có kể cho bạn bè nghe là: Ông Bình đã lặng lẽ ra đi, và không từ biệt cũng như chào hỏi bất cứ nhân viên dưới quyền nào. Người cận vệ ấy kể thêm – không biết đúng hay sai – là tướng Bình đã rút ra 5000 đô la cho người nhân viên này!

Chữ tướng Bình “lặng lẽ ra đi” là chữ của Huy Đức, tác giả “Bên Thắng cuộc” dùng. Xin trả lại cho tác giả Huy Đức.

Ông Lâm Lễ Trinh thì mỉa mai hơn, viết:

Theo một nhân viên làm tình làm ở Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình báo trong nhiều năm có viết cho tôi nội dung như sau:

‘Chiều 29 tháng tư, trước khi rời cơ quan, ông phụ tá Nguyễn Phát Lộc cũng chờ đợi như một số anh em từ sáng tới giờ, nói với chúng tôi: Ông Long và đại tá Nguyễn Tấn Lợi được cử sang tòa đại sứ Mỹ thu xếp di tản thì đã lên máy bay đi rồi. “Các anh về thu xếp lo liệu cho gia đình. Tôi cũng như các anh.”

Có anh thắc mắc, “Nhưng ông phụ tá cũng có passport ra phi trường.” Ông Lộc đáp lại, “Tôi cũng như các anh.”

Xếp lớn, xếp nhỏ lo tìm đường thoát thân để mặc đàn em ở lại! Trong cái cách thức ra đi này, những người ở lại cảm thức được như một sự phản bội. Trong thâm tâm họ nghĩ như thế. Ngồi trong tù họ cũng nghĩ như thế. Chỉ không tiện nói ra.

Nếu có dịp may mắn gặp tướng Bình, tôi sẽ tặng ông một cuốn sách rất đáng đọc. Đó là cuốn “Hồi Chuông tắt lửa”, truyện của Thế Nguyên. Tại sao tôi lại có ý định tặng quyển sách này? Chỉ có cách là tìm đọc nó ắt sẽ hiểu.

Còn đối với người bình thường, ưa đọc sách thì xin giới thiệu truyện ngắn của nhà văn Phạm Duy Tốn. truyện “Sống chết mặc bay”. Ngoài kia vỡ đê, dân làng nghe trống thúc dục lo cứu lụt, phần các cụ Chánh, cụ Lý, quan trên vẫn chiếu trên chiếu dưới, rượu vào lời ra, chửi nhau loạn xạ! Một lúc lại có người chạy vào bá cáo đê thế này, đê thế kia! Các cụ vẫn tiếp tục chửi nhau, sống chết mặc bay!

Đó là cái tinh thần xã thôn, cái văn hóa làng xã, cái Le Mal Vietnamien! Nó thiếu hẳn một tấm lòng tử tế. Nó thiếu hẳn một thứ đạo đức vì người hay vì mình.

Tôi đã có cơ hội được nghe cũng như tôi đã đọc; tôi đã được cơ hội nói chuyện với một số người trong nhóm A17 và cả một số nhân viên khác trong Phủ Đặc Ủy, tôi chỉ còn biết tôn trọng thái độ của họ cũng như tôn trọng sự chọn lựa của mỗi người. Và nhất là tôn trọng cách ứng xử của họ sau khi ra khỏi tù cải tạo. Chắc hẳn, họ có quyền ngửng mặt lên trước mọi người vì họ đã thực sự lớn lên sau những năm tháng cô đơn cùng cực trong cõi tối tăm của ngục tù cộng sản.

Nhưng với tư cách người cầm bút, tôi cần trình bầy một cách đẩy đủ hơn, nhất là những mặt trái của quá khứ.

Và nhân tiện đọc cuốn sách này – mặc dù cuốn sách giới hạn vào hoạt động của nhóm A17- ( A17 có nghĩa hoạt động tình báo tại 17 phân khoa đại học Sài Gòn) mà tôi viết bài giới thiệu và khai triển thêm về những hoạt động mật vụ, vốn là một bộ phận trong bất cứ cuộc chiến tranh nào.

Nhận xét chung của tôi là các hoạt động mật vụ của Việt Nam Cộng hòa, nhất là thời kỳ Đệ Nhị Cộng Hòa chưa đáng kể. Tôi không đủ tư cách để biết rõ từng cơ quan, từng tổ chức và đó cũng không phải là công việc của tôi.

Tôi chỉ nhìn bên ngoài, nhìn các hoạt động của cộng sản thì thấy họ hoành hành xuống đường, biểu tình, phá rối trị an, đốt xe Mỹ, ám sát hết nhân vật nọ, nhân vật kia. Nếu chúng ta có một tổ chức tình báo chặt chẽ như trước đây, làm sao có thể để xảy những cảnh thây người nằm la liệt bị chết, bị thương như vụ Mỹ Cảnh?

Cảnh sát bất lực! Các tổ chức an ninh, mật vụ, an ninh quân đội bó tay. Hàng chục vụ đốt xe Mỹ, hàng chục vụ ám sát công khai giữa thanh thiên bạch nhật. Và gần 200 vụ đánh bom trên toàn quốc. Xác người bị giết như giáo sư đại học y khoa nằm phơi thân giữa phố thị không đủ gây một mối thương cảm nào trong dân chúng.

‘Sáng 29-4-1975, Sài Gòn hoảng loạn hoàn toàn, Tướng Nguyễn Khắc Bình đã bỏ chạy, chỉ có Phó Tổng Giám đốc cảnh sát Phạm Kim Quy. Quy cho biết y chỉ có thể điều động được một sư đoàn cảnh sát dã chiến và sẽ cố gắng thi hành chỉ thị của ông tổng thống Minh, giữ trật tự trong đô thành(13).

Tin trên báo Tự Do sinh viên Ngô Vương Toại bị khủng bố Việt Cộng mưu sát tại Sài Gòn, 19/12/1967. Bố năm trước khi sv Lê Khác Sinh Nhật bị khủng bố VC ám sát nagy tại trưởng Luật, 1971.

Tin trên báo Tự Do: Sinh viên Ngô Vương Toại bị khủng bố Việt Cộng mưu sát tại Sài Gòn, 19/12/1967. Bốn năm sau, sv Lê Khắc Sinh Nhật bị khủng bố VC ám sát ngay tại trưởng Luật năm 1971.

Xác sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật nằm đó. Có biểu ngữ, có những lời phản đối. Nhưng nhà cầm quyền như cảnh sát im lặng.

Không một lời công bố lên án và hứa sẽ trả thù cho họ.

Nguồn: Bạch Diện Thư Sinh, “Mặt trận Đại học”, trang 135

Nguồn: Bạch Diện Thư Sinh, “Mặt trận Đại học”, trang 135

Hàng trăm vụ xuống đường biểu tình, đi khơi khơi ngoài phố, hung hăng, la hét, biểu ngữ rợp trời. Cảnh sát chỉ dàn trào và ngăn chặn, kéo hàng rào kẽm gai.

Tôi cũng đã từng chứng kiến cảnh đó. Tôi thấy thiếu một cái gì, không giải thích được. Thiếu một tinh thần! Tôi nói thật, thiếu thật đấy. Tôi chưa bao giờ được chính tai nghe tướng Bình, đứng đầu cảnh sát lên tiếng.

Trang Sĩ Tấn họp báo, tuyên bố huyênh hoang, dọa nạt thì có. Tôi nghe mà không tin.

Đã thế, về mặt lý tưởng, ta thờ ơ, thiếu huấn luyện. Về mặt tinh thần ta hớ hênh và thiếu cảnh giác. Về mặt thực tế, nhiều bộ phận làm việc như công chức, sáng đi tối về. Đó không phải là công tác mật vụ, vì nó đòi hỏi hơn nhiều, một sự hy sinh đôi khi cả gia đình, vợ con. Mật vụ là kín đáo, làm mà tay phải không biết tay trái làm.

Dương Văn Hiếu. Một người làm tình báo tiêu biểu! Một người đã bị Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo cho ngồi chơi

Mặc dầu Dương Văn Hiếu không phải là chủ điểm của bài viết này. Nhưng ông lại là ngưới làm tình báo có công trạng nhất thời Việt Nam Cộng hòa. Hơn hẳn mọi người – hơn Trần Kim Tuyến một bậc. Câu hỏi là tại sao Dương Văn Hiếu làm được người khác không làm được? Nhắc đến ông cũng là dịp để so sánh Mật vụ miền Trung với các cơ quan tình báo khác như thế nào.

Chắc nhắc đến Dương Văn Hiếu, nhiều người sẽ không quên có dư luận về việc thủ tiêu một vài chính khách đối lập thời đệ nhất cộng hòa. Công việc ấy, sẽ xin đề cập đến trong một bài viết khác.

Nhắc đến ông cũng bởi vì ông đã bị Thủ tướng Trần Thiện Khiêm ‘gửi gấm’ ông một cách đặc biệt sang Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo như một hình thức giam lỏng ông.

Về điểm này, mong được tướng Bình giải thích kỹ càng hơn chăng?

Nhắc đến Dương Văn Hiếu là nhắc về một quá khứ sự nghiệp làm tình báo của ông và những người cộng sự với ông. Ông được cụ Võ Như Nguyện, một vị chỉ huy cảnh sát miền Trung đặc biệt giới thiệu, rồi sau đó ông trở thành trưởng ty công an Thừa Thiên Huế. Trong thời gian làm trưởng ty công an Thừa Thiên, Huế, ông đã phá vỡ được trong vòng hai năm hệ thống điệp báo cộng sản Khu 5. và từ đó mở rộng hoạt động ra các tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Trị, Bình Thuận, Quy Nhơn(15)…

Quan trọng hơn cả ông đã bắt được Mười Hương, ủy viên Trung ương Đảng, chỉ huy mạng lưới tình báo của Hà Nội tại miền Nam. ở Sài Gòn năm 1958. Y không chịu quy thuận, rồi đại tá cộng sản Lê Câu, rồi Phạm Bá Lương công cán ủy viên của Bộ ngoại giao(15)!

Trần Quốc Hương (Mười Hương) 201x, Việt Nam. Nguồn: OntheNet

Trần Quốc Hương (Mười Hương) 201x, Việt Nam. Nguồn: OntheNet

(Còn tiếp)

© 2015 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”

DCVOnline minh hoạ.

(10) Mười Hương được Dương Văn Minh qua tướng Nguyễn Hữu Xuân thả ra vào tháng 6, 1964.

(11) Hoàng Hải Vân, “Tướng tình báo chiến lược”, Thanh Niên, số 330, thứ ba 26/11/2002

(12) Bạch Diện Thư Sinh, Ibid, trang 248.

(13) Lâm Lễ Trinh, “Về Nguồn”, trang 339. Theo tôi thì tướng Bình đã rời Sài Gòn sớm hơn thế nhiều. Chỉ đi sau Ông Thiệu thôi.

(14) Xin đoc bài Phỏng vấn của ông Lâm Lễ Trinh có nhan đề “Dương Văn Hiếu lên tiếng” đăng trên vietnamexodus, một bài phỏng vấn khong thể bỏ qua. Sau đó, Dương Văn Hiếu cũng nhờ tỉnh trưởng Thừa Thiên ông Nguyễn Đình Cẩn cũng như ông Hồ Đắc Khương, Đại biểu chính phủ miền Trung nhiệt tình giới thiệu với tổng thống Ngô Đình Diệm.

Giữa năm 1957, tổng thống Diệm bổ nhiệm ông làm Trưởng Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung để làm việc tại Sài Gòn vào đầu năm 1958.

Người ta thường tưởng lầm ông làm việc cho ông Cẩn. Không hẳn vậy. Ông làm việc trực tiếp với ông Nhu, đôi khi ông Diệm gọi. Nhân viên dưới quyền ông không có cả trăm người mà vỏn vẹn có khoảng 10 nhân viên.

Kết quả là ông đã bắt được Vũ Ngọc Nhạ, một cán bộ trà trộn vào bộ Công Chánh. Huỳnh Văn Trọng thì dính dáng vào vụ Gián Điệp Pháp ở nhà hàng Morin Huế. Y trốn thoát qua Cao Mên. Năm 1963 thì mò về được Sài Gòn, do linh mục Trần Ngọc Nhuận bạn của gia đình Nguyễn Văn Thiệu giới thiệu và sau đó Nhạ ‘trở thành cố vấn’.

(15) Lâm Lễ Trinh, “Dương Văn Hiếu lên tiếng”, vietnamexodus.info

Về cuốn “Mặt Trận Đại Học” của Bạch Diện Thư sinh (Kết)

Posted on May 22, 2015 by editor1 Comment

Nguyễn Văn Lục

1

“Phong trào Văn Thân”, v.v. nên thay vào đó bằng một cái gì khác. Cái khác đó là những bài phỏng vấn giới lãnh đạo của Phủ Đặc ủy về mặt tổ chức, mặt nhân sự, những thiếu sót cũng như thành quả của Phủ Đặc ủy từ khi mới thành lập đến 1975.

Giới thiệu và góp ý về cuốn Mặt Trận Đại Học của Bạch Diện Thư sinh

(Tiếp theo phần II)

1970 Miền Nam VN – Sinh Viên học sinh biểu tình đòi hỏi Chính Quyền                                 phải tôn phải tôn trọng tự do nhân quyền theo Hiến Pháp. Nguồn: OntheNet

1970 Miền Nam VN – Sinh Viên học sinh biểu tình đòi hỏi Chính Quyền phải tôn phải tôn trọng Hiến Pháp. Nguồn: OntheNet

Trong tập tài liệu “Dòng họ gia đình, giấc mơ chưa đạt”(16), tác giả Nguyễn Văn Minh đã dành một phụ bản từ trang 448-492 để nói về những hoạt động của Dương Văn Hiếu. Danh sách những cán bộ cộng sản nằm vùng bị Dương Văn Hiếu bắt dài mấy trang. Chúng ta không khỏi ngạc nhiên khi Dương Văn Hiếu từng bắt người của Bộ Ngoại giao Vũ Văn Mẫu, người của an ninh quân Đội của Đỗ Mậu, người của Mỹ làm cho USOM đến đại sứ Mỹ phải phản đối và 11 người làm việc trong Tổng Liên Đoàn lao công của Trần Quốc Bửu. Ông Bửu phản đối kêu lên ông Nhu. Ông Hiếu đề nghị cho 11 người này đối chất với ông Trần Quốc Bửu. Cả 11 người đều nhìn nhận là họ có hoạt động cho cộng sản.

Sau 1963, ông cùng với nhiều người khác ra tòa. Có một thẩm phán là thành viên, ông đại tá Dương Hiếu Nghĩa trước đây là thiếu tá thiết giáp có liên hệ với vụ giết ông Diệm, họ đã xử:

-Dương Văn Hiếu: Chung thân khổ sai

-Thái Đen: Chung thân khổ sai

-Nguyễn Thiện Dzai: chung thân khổ sai.

-Phan Khanh: 10 năm khổ sai.

Năm 1964, có ba chiếc máy bay DC3 ra Côn Sơn chở khoảng 30-40 người về Sài Gòn. Ông được phóng thích.

Sau đó, ông được Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo lúc ấy do tướng Nguyễn Khắc Bình chủ trì cho người đến mời về làm việc cho Phủ Đặc ủy. Ông yêu cầu trả nhà và bạch hóa hồ sơ. Ông Bình cho người mang 40 ngàn đồng để nói là giúp gia đình trong cơn túng bẫn.

Ông đến hỏi ý kiến Tổng giám Mục Nguyễn Văn Bình thì Giám mục Bình khuyên cứ đi làm cho yên thân.

Tại Phủ Đặc ủy, ông được cấp một văn phòng và một thư ký đánh máy, mỗi tháng đọc tài liệu rồi báo cáo. Đối với ông, đây là một hình thức giam lỏng.

Nếu người ta biết dùng ông như thời Đệ Nhất Cộng Hòa, chức vụ ít nhất ông phải là phụ tá Đặc ủy trưởng thì những thứ như Trần Bạch Đằng có thể đã bị ông cho ngồi cũi rồi!

Tiếc thay, vô cùng tiếc thay!

Bản thân ông đã vậy, ông còn cảm thấy chua chát hơn khi những cán bộ cộng sản mà ông từng bắt giam thì sau cách mạng, họ được giải giao về Tổng Nha Công an và Cảnh sát và tại nơi đây, tướng Mai Hữu Xuân, tân Tổng Giám Đốc Cảnh sát Sài Gòn của chính quyền Dương Văn Minh đã trả tự do vào cho họ vào tháng sáu 1964.

Tất cả bọn Tình báo Khu 5, Tình báo Chiến lược, Cục 2 quân báo Trung Ương VC. Và ngay cả Mười Hương đều được thả. Cộng sản bắt người miền Nam đi học tập – dù chỉ là một nhân viên Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo, chúng cũng giam đến 17 năm, trong thời bình.

Vậy mà ta thả tất cả. Thả như thế thì Dương Văn Minh là ai? Trong sách của Lý Quý Chung, “Hồi ký không tên” có đặt ra một câu hỏi ấm ớ là Dương Văn Minh là người Quốc Gia, người của Mỹ hay người của Cộng sản?

Trong câu hỏi ấm ớ của Lý Quý Chung đã có sẵn câu trả lời.

Vậy thì so với phía bên kia, ta thua chẳng những vì không biết dùng người. Mà thua vì còn có những kẻ đâm sau lưng chiến sĩ.

Đoàn công tác đặc biệt miền Trung

Ở miền Trung, ông Ngô Đình Cẩn có tổ chức một đám mật vụ riêng. Hoạt động rất có hiệu quả mà phạm vi hoạt động của ông bào trùm khắp miền Trung, có khi vào cả Sài Gòn.

Thật ra tên gọi chính thức là Đoàn công tác đặc biệt miền Trung mà nhiệm vụ chính yếu là thực hiện công tác chiêu hồi. Dưới mắt ông Cẩn thì những người cộng sản cũng có lý tưởng, có kinh nghiệm, có chịu đựng nhiều gian khổ, dám hy sinh, hiểu thấu quy luật hoạt động và hoạt động có hiệu quả. Vậy nếu thuyết phục được họ về quy thuận quốc gia thì việc chống cộng sẽ có hiệu quả hơn nhiều.

Vì thế, năm 1957, Ông Cẩn đã đệ trình ông Diệm thành lập một cơ quan có tên là Chiêu mời và sử dụng những người kháng chiến cũ.

Kết quả là chính sách đã thu đạt được kết quả hết sức khích lệ. Dương Văn Hiếu, một nhân viên thuộc Nha Công An Cảnh sát Cao nguyên Trung phần được giao phó trọng trách này. Sau này, nói gọn, người ta gọi là “Đoàn công tác”. Dịp tết năm 1958, ông Cẩn chính thức đến gặp các anh em đã chuyển hướng, Ông nói,

Ông Ngô Đình Cẩn (Saigon 23/4/964)

Ông Ngô Đình Cẩn (Saigon 23/4/964)

“Bữa ni tôi tới anh em vì được biết rằng các anh em là người có thiện chí, có tinh thần quốc gia…Tôi đến với một mục đích chiêu mời anh em về với Quốc gia. Chúng ta cùng nhau xây dựng một chế độ thực sự tự do.

Tôi đến với anh em như một chiếc bánh, có bao nhiêu lớp lá bên ngoài, tôi đều bóc ra hết cho anh em thấy cái chất thật bên trong của chiếc bánh. Về phía anh em, tôi cũng yêu cầu anh em như rứa. Mình hãy, và phải thật thà với nhau. Mỗi anh em sẽ được giao phó nhiệm vụ, hưởng thụ quyền lợi đúng với khả năng của mình.

Anh em phải nhớ rằng, nhiệm vụ chính của Đoàn không phải là lùng sục để bắt bớ cán bộ cộng sản. Mà là phát hiện, phát giác, rồi chiêu mời các anh em ấy về hợp tác, cùng với mình xây dựng đất nước, cải tạo xã hội lạc hậu, bất công này…”

Đây có thể là bài diễn văn hay nhất và duy nhất trong cuộc đời ông Ngô Đình Cẩn đã đọc với tuyền ni, rứa, ni, rứa nhưng lại là bài diễn văn thu phục được lòng người nhất bằng những lời lẽ chơn chất.

Kết quả là Đoàn công tác với một số nhân viên ít ỏi đã quét sạch hệ thống hạ tầng cơ sở của cộng sản từ cấp xã lên đến quận, huyện tỉnh trong khắp miền Trung. Việc mà Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo với số nhân viên và ngân sách lớn gấp bội phần đã không làm được. Sau này, tôi không lấy làm ngạc nhiên khi bà Ngô Đình Thị Hiệp có nhận xét rằng ông Ngô Đình Cẩn thông minh nhất nhà, hơn cả ông Diệm, ông Nhu cộng lại.

Nhưng nếu mật vụ của Trần Kim Tuyến nặng về mặt chính trị thì ông Cẩn nặng về mặt an ninh và chiêu hồi.

Sau đây xin giới thiệu một số cơ quan, tổ chức mật vụ

1. Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo

Chiến lợi phẩm của tình báo Việt Cộng năm 1975. Nguồn: qdnd.vn

Chiến lợi phẩm của tình báo Việt Cộng năm 1975. Nguồn: qdnd.vn

Về mặt an ninh tình báo, trước 1963, Việt Nam Cộng hòa có nhiều tổ chức hoạt động khác nhau lắm. Có Đoàn Công tác Đặc biệt Miền Trung của ông Dương Văn Hiếu, có sở Nghiên cứu Chính trị Xã hội của Trần Kim Tuyến, có Lực lượng Đặc biệt của Lê Quang Tung và Nha An ninh Quân đội của Đỗ Mậu.. Tuy nhiên mỗi tổ chức hoạt động biệt lập và không dẫm chân lên nhau.

Nhưng lúc đó, Trần Kim Tuyến đã nghĩ đến chuyện gom tất cả các tổ chức trên thành một tổ chức duy nhất nằm trong một Bộ An Ninh trong đó có cảnh sát, tình báo chiến lược và phản gián quốc nội, quốc ngoại.

Tham vọng của Trần Kim Tuyến và kế sách tổ chức lại các cơ quan tình báo đã bị ông Diệm lờ đi.

Tổng thống Ngô Đình Diệm đã không đồng ý đề nghị đó vào năm 1960. Nhưng có phải vì thế, vào năm 1961, ông Diệm đã cho thành lập riêng Phủ Đặc ủy Trung Ương tình báo?

Thật ra cuốn sách “Mặt Trận Sài Gòn” đã cung cấp rất ít tư liệu về tổ chức của Phủ Đặc ủy Trung Ương tình báo cũng như những hoạt động có hiệu quả của tổ chức. Hầu như ta không thể hình dung ra một tổ chức tình báo với khoảng 500 nhân viên đủ loại mà hoạt động hầu như không có gì?

Đó là cảm tưởng của người đọc sách.

Phủ Đặc ủy hoạt động chưa được bao lâu thì chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đổ. Những người chỉ huy được thay thế liên tục tùy theo thời kỳ mà ưu thế dành cho sự tin tưởng vào một cá nhân và nhân vật được chọn trở thành công cụ cho người lãnh đạo hơn là lo cho nền an ninh quốc gia(17).

Tướng Nguyễn Khắc Bình và A17

Tướng Nguyễn Khắc Bình phải là người thế nào để có thể cùng một lúc nắm hai ngành an ninh quốc gia cùng một lúc? Đã thế cũng phải là người khôn ngoan khéo léo hết mực để cân bằng được hai thế lực: Một bên là tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, bên kia là Thủ tướng Trần Thiện Khiêm. Có lẽ đó là cái khả năng mà tướng Bình có quyền tự hào về chính mình.

Con việc điều hành được hai ngành an ninh kể trên cho có hiệu quả thì là một chuyện khác.

Trong thời gian ông tại chức, bọn sinh viên thân cộng phá phách, gây rối loạn từng ngày từng giờ. Thành phố Sài Gòn trở thành một mặt trận giữa hàng rào kẽm gai, khói lựu đan cay một bên và biểu ngữ, xuống đường của sinh viên một bên.

Cứ khách quan nhìn bề ngoài thì rõ ràng công an cảnh sát không làm chủ được tình hình Sài Gòn, nếu không nói là ngoải khả năng kiểm soát an ninh của họ. Hàng rào kẽm gai chỉ có tác dụng gây khó cho khách bộ hành hơn là ngăn chặn được các cuộc biểu tình.

Nếu có khách du lịch đến Sài Gòn thì tôi nghĩ hình ảnh giây kẽm gai là hình ảnh không đẹp mắt tý nào. Nó cho người ta có cảm tưởng một thành phố mất an ninh, một thành phố mà sinh mạng một người có thể bị đe dọa bất cứ lúc nào.

Có lẽ thành tích sáng giá nhất của cảnh sát Sài Gòn là đưa được 16 tên sinh viên cộng sản ra tòa. Sáng ngày 5 tháng 3, 1970 cảnh sát tung lưới bắt Dương Văn Đầy. rồi Phùng Hữu Trân, Nguyễn Ngọc Phương, Cao Thị Quế Hương, Trương Hồng Liên, Võ Thị Tố Nga. Ngày 10 tháng 3 đến lượt Huỳnh Tấn Mẫm, rồi Lê Thành Yến, Nguyễn Thành Công.

Huỳnh Tấn Mẫm (giữa) ra tòa ngày 20/4/1970. Nguồn:  baodanang.vn

Huỳnh Tấn Mẫm (giữa) ra tòa ngày 20/4/1970. Nguồn: baodanang.vn

Có người cho rằng sau chuyến đi Đại Hàn đã đưa ông Thiệu đến quyết định thành lập cụm A17 và giao khoán trắng cho tướng Bình như thấy nước đã đến chân và quyết định thành lập A17 để đối phó với bọn Thành đoàn cộng sản.

Quyết định thành lập này đến từ TT Nguyễn Văn Thiệu và tướng Nguyễn Khắc Bình. A17 để chỉ thị 17 phân khoa đại học. Trụ sở Trung ương Tình báo đặt ở số 3 bên Bạch Đằng. Người trực tếp điều hành A17 là ông Nguyễn Thành Long, từ Nam Vang kéo về. Nghe nói ông là người nhà của ông bà Thiệu.

Ông Thiệu, ông Khiêm đều xử dụng người nhà, người mà họ tin tưởng vào những vị trí tốt nhất mà chúng tôi sẽ có dịp nói trong bài viết sắp tới. Việc thành lập thêm A17 vào cuối năm 1971 xem ra có quá trễ không? Giả dụ như nó được thành lập từ năm 1967-1968 xem ra thuận lợi hơn, vì cộng sản chưa cài đặt được người khắp nơi!

Chưa kể Phủ đặc ủy Trung ương Tình báo từ trước đến nay mà mục tiêu hoạt động nhằm đối tượng nào? Người Mỹ hay cộng sản? Ông Thiệu sợ Mỹ hơn hay sợ cộng sản? Và bao nhiều tiềm năng hoạt động của Phủ Đặc ủy dành cho việc chống sự xâm nhập của cộng sản?

Hỏi như thế vì tôi mới đọc một cuốn sách mới xuất bản ở trong nước nhan đề “Văn Khoa, một thời sống đẹp”, nhiều tác giả, trong phần tài liệu cho thấy rằng, cộng sản đã cài đặt được tổ chức Thành đoàn trong giới sinh viên Văn Khoa kể từ năm 1966 đến sau này. Nghĩa là 5 năm trước khi ta có A17.

– Năm 1966-1967. Chủ tịch là Lê Quang Lộc, thủ quỹ là Huỳnh Quan Thi

– Năm 1967-1968. Chủ tịch Trần Khiêm, thủ quỹ Nguyễn Thị Yến. Kèm theo một ban chấp hành gồm các tên như Huỳnh Quan Thư, Lê Tấn Lộc, Trịnh Xuân Nùng, Nguyễn Thanh Tòng, Lê Văn Thành và Nguyễn thị Minh Châu.

– Sau đó chia ra nhóm Triết: có Trương Văn Hùng, Bùi Văn Nam Sơn. Nhóm Nhân văn có Lê Đao Ngạn. Nhóm Anh văn có Nguyễn Sĩ Minh. Nhóm vận động quy chế hoãn dịch là Trần Văn Long, Nguyễn Thanh Tòng.

Và cứ thế tiếp theo các năm khác cho đến 1972(18). Các khóa sau còn có Hạ Đình Nguyên, Ngô Đa, Đoàn Khắc Xuyên, Đỗ Trung Quân, Trần Long Ẩn, Lâm Bá Phát, Bùi Văn Nam Sơn, Lê Đạo Ngạn, Nguyễn Ngọc Phương (Ba Triết). Đã nói đến Nguyễn Ngọc Phương thì phải nói luôn đến Cao Thị Quế Hương.

Nhiều tên tuổi này chắc không xa lạ gì đối với các anh Bửu Uy và Bạch Diện Thư Sinh.

Đây chúng ta chỉ nói tới mặt hoạt động nổi của Thành đoàn. Hoạt động chìm là những thành phần nồng cốt có thẻ đảng thì cần đọc thêm trong cuốn “Trui rèn trong lửa đỏ” (Tập Ký Sự Truyền Thống Thành Đoàn của Trần Bạch Đằng.)

Nhưng vì nhu cầu tình thế, chúng được tung ra hoạt động. Đây cũng là mục tiêu cuốn sách của tác giả Bạch Diện Thư Sinh nhan đề “Mặt trận Đại Học”.

Phủ Đặc ủy còn cài đặt cơ quan, tai mắt của mình ở một số nước lân cận. Nhưng việc cài đặt này nhiều khi không căn cứ trên khả năng và công tác, mà do quyền lợi phe phái quen biết. Kể từ khi thành lập từ năm 1961, Phủ Đặc ủy Trung Ương tình báo không tạo được cái thế giá và tiếng vang về tính hiệu quả của cơ sở.

Nó lặng lờ như một cơ quan hành chánh, làm công việc nghiên cứu hồ sơ mỗi khi có biến động chính trị thì chỉ việc thay đổi người đứng đầu.

Một nhân viên trong sở tình báo nói, “mặc dầu có chức vụ, công việc của tôi đúng là công việc cạo giấy, sáng đi tối về. Muốn kiếm ăn, có tiền thì đi chỗ khác làm.”

Một người khác khi được hỏi về thành quả trong phủ Đặc ủy, sau nhiều năm trời đạt được kết quả gì. Ông có vẻ ngao ngán, “90% thời giờ và công việc nhằm bảo vệ an ninh cho Tổng Thống Thiệu”. Ngay chính ông Long, nghe nói có quan hệ thân thuộc với bên bà Thiệu, ông làm việc hăng say cũng chỉ vì muốn bảo vệ an ninh cho ông Thiệu.

Phần ông cố vấn đặc biệt Nguyễn Văn Ngân khi được nhà báo Trần Phong Vũ phỏng vấn cách đây 6, 7 năm về công việc của ông Thiệu [loạt bài phỏng vấn đó chấm dứt bất ngờ, nội dung dang dở, không có kết luận – DCVOnline]. Ông cố vấn đặc biệt của tổng thống Thiệu đã thành thật cho biết 90% thời giờ của ông Thiệu nhằm canh chừng người Mỹ. Thế thì còn lại bao nhiêu thời giờ lo cho dân, cho quân đội?

Tướng Nguyễn Khắc Bình nắm cơ quan này từ 1968 đến 1975, thời kỳ với rất nhiều xáo động chính trị, cộng sản nhan nhản khắp nơi, khắp cơ quan chính quyền mà hình như chính quyền tỏ ra quá lúng túng và hầu như bất lực!

Cái cảm giác của tôi trong thời kỳ này là rất bực dọc, đi đâu cũng bị ngăn chặn bởi rào kẽm gai. Mà nếu đụng vào lúc cảnh sát ném lựu đạn cay thì sui quá. Người chỉ huy và điều hành cảnh sát thời bấy giờ dẹp biểu tình là ông Trang Sĩ Tấn.

Tôi rất ác cảm với ông này!

1970. – Tại Miền Nam VNCH ) Hoàng Phủ  Ngọc Tường ( Một sinh viên Huế thân Cộng Sản ) – com-lê, ca-vát – đứng trước micro. Bên phải HP Ngọc Tường, người mang kính đen, sơ-mi trắng ca-vát – hai tay chắp trước bụng, đứng hiền khô là “Ðại diện Ty Cảnh Sát Thừa Thiên đến chứng kiến như là giữ an ninh cho buổi diễn thuyết theo “quyền tự do phát biểu chính kiến của công dân .” Nguồn: OnteNet

1970. – Hoàng Phủ Ngọc Tường com-lê, ca-vát đứng trước micro. Bên phải HP Ngọc Tường, người mang kính đen, sơ-mi trắng ca-vát, hai tay chắp trước bụng, là “Ðại diện Ty Cảnh Sát Thừa Thiên đến chứng kiến như là giữ an ninh cho buổi diễn thuyết theo “quyền tự do phát biểu chính kiến của công dân .” Nguồn: doithoaionline

Tôi nghĩ trong bụng theo cách suy nghĩ đơn giản của tôi là ông chỉ đi dẹp biểu tình cũng không xong. Nếu là tôi, tôi sẽ chụp hình, xem thằng nào cầm đầu, xem thằng nào hô to nhất, xem thằng nào hung hăng ra vẻ chỉ huy. Ngay đêm đó cho người đến nhà nó, dí súng vào thái dương nó; nếu nó có bồ, cho người bắt luôn dọa bắn con bồ nó cho đến khi nào nó ướt quần, và lạy van; cho nó ăn một trận đòn thừa sống thiếu chết, cho nó nhịn đói 3 ngày, vứt nó vào chỗ cần vứt cho nó tởn. Tên Vũ Hạnh, tên Huỳnh Tấn Mẫm và nhiều tên khác cứ nhởn nhơ như đùa giỡn với an ninh thì còn ra thể thống gì. Nhân viên kém thì cho ra theo học khóa cấp tốc bồi dưỡng với mật vụ Ngô Đình Cẩn tất phải khá.

Trong lúc tức quá, giận quá nghĩ thế thôi, chứ ai đời thường dân lại đi dạy cảnh sát hành động; thế thì khác gì dạy đĩ vén váy!

Nhưng nghiêm chỉnh mà nói, ta làm việc quá yếu. Phải có một chính sách đặc biệt đối với những tên khủng bố cộng sản. Một chính sách khủng bố, bạo lực mang tính nhà nước. Terreur d’état. CIA có làm khác không?

2. Sở Nghiên cứu chính trị và xã hội của ông Trần Kim Tuyến

Ngoài Phủ Đặc ủy, người ta không thể quên trước đó có “Sở Nghiên cứu Chính trị Xã hội” của ông Trần Kim Tuyến. Tên là sở nghiên cứu chính trị nghe rất hiền lành. Số nhân viên không quá vài chục người. Nhưng lại là đầu não trong các hoạt động mật vụ, đặc biệt là liên quan đến an ninh Phủ Tổng thống. Và ông Tuyến chẳng bao lâu sau trở thành một thứ huyền thoại, một thứ Trùm Mật vụ mà quyền uy chỉ đứng sau ông Nhu. Nhiều người sợ nhóm mật vụ của ông Tuyến(19). Mặc dù không có bề thế, số nhân viên có giới hạn mà người ta có cảm tưởng nó mạnh, nó hữu hiệu hơn các hoạt động của Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo.

3. Ngành Đặc Biệt (N.Đ.B., The special Branch)

Ngành Đặc biệt, N.B.Đ do thủ tướng Trần Thiện Khiêm trực tiếp điều động, chủ nhiệm chương trình với sự phối hợp chặt chẽ của trùm mật vụ William Colby với chiến dịch Phượng hoàng(20). Chương trình này trên thực địa đã giúp một phần không nhỏ vào an ninh, trật tự. Nhưng chương trình này tồn tại không bao lâu khi chương trình Việt Nam hóa chiến tranh thành hình vào 1969. Chương trình Phượng Hoàng, suốt 6 năm dài (1969-1975) đã được coi như một sách lược quốc gia trọng yếu về mặt chính trị. Mục tiêu của chương trình Phượng Hoàng nhằm tiêu diệt hạ tầng cơ sở Việt cộng hầu vô hiệu hóa mọi hoạt động khuynh loát, gây hấn, bạo động, phá hoại.

Nhưng rõ ràng là chiến dịch Phượng Hoàng nhằm bình định nông thôn hơn là thành thị(21). Rất tiếc, cuốn sách của đại tá Nguyễn Mâu viết về Ngành Đặc Biệt ít được ai lưu tâm tới.

Vài lời kết luận

Cuốn sách như tôi đã trình bày đạt được một số yêu cầu của người đọc. Và cái quý của nó được coi như cuốn sách đầu tiên viết về vấn để này. Tuy nhiên, tác giả chưa có điều kiện để trình bày cho rõ đầy đủ, vì những lý do gì Thành đoàn cộng sản đã có thể dần dần cài đặt người trong các tổ chức sinh viên của các phân khoa đại học Sài Gòn.

Phần người viết, xin nhận những thiếu xót không thể tránh được vì không nắm rõ được tổ chức của Phủ Đặc ủy.

Để bù vào những thiếu xót đó, người viết cũng đã điện thoại trực tiếp cho tướng Nguyễn Khắc Bình để nếu có thể nhờ ông giải thích cho những điểm còn chưa rõ. Rất tiếc, dù đã để lại tin nhắn, tướng Bình cũng không gọi lại. Việc không gọi lại, người viết coi như một cách thức gián tiếp ông muốn từ chối không muốn nói chuyện. Nhưng vẫn hy vọng khi ông đọc bài này thì sẽ liên lạc lại.

Cái thiếu xót của người viết bài này là không nắm rõ được tổ chức cũng như hoạt động của cụm tình báo quốc ngoại tại các quốc gia lân cận như Lào, Cao Miên, Thái Lan. Ví dụ, trước đây Mật vụ Trần Kim Tuyến đã đột nhập tòa đại sứ Thái Lan ăn cắp tài liệu bị đổ bể và phải xin lỗi muốn chết.

Tại Cao Miên, Phủ Đặc ủy có trực tiếp tham dự vào việc lật đổ Sihanouk không, cũng như việc ủng hộ cho Lon Nol lên làm tổng thống. Việc này có thể ông Long trước từng làm việc với đại sứ Phước ở bên Cao Miên có thể biết rõ hơn. Vấn đề là vai trò của Phủ Đặc ủy như thế nào? Vì việc thanh toán Sihanouk cũng không thành.

Về những vấn đề quốc nội, khi tổng thổng Nguyễn Văn Thiệu chà đạp lên hiến pháp, muốn lập pháp cho tổng thống tranh cử kỳ thứ ba cũng như kéo dài thời hạn tổng thống 4 năm thành năm năm. Vai trò Phủ đặc ủy như thế nào bên cạnh Nguyễn Văn Ngân? Chẳng hạn như vai trò đi tiếp xúc, môi giới, đưa tiền cho mỗi lá phiếu thuận mà số tiền có thể lên đến từ 500.000 đến 600.000 đồng. Mình ông Nguyễn Văn Ngân có thể làm xuể công việc này hay không?

Vai trò cảnh sát thì đã rõ ràng là cho lệnh ngăn chặn biểu tình? Nhưng còn việc đi truy bắt dân biểu Trần Ngọc Châu thì vai trò mật vụ của Phủ Đặc ủy như thế nào? Đồng thời cũng đi săn lùng bắt dân biểu Ngô Công Đức chạy vắt giò lên cổ, rồi sau đó phải trốn đi đường bộ sang Nam Vang thì đó là công tác và trách nhiệm của ai? Ai ra lệnh? Không lẽ, chính tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đi bắt?

Khi có phong trào Nhân Dân chống tham nhũng của linh mục Trần Hữu Thanh và liệt kê những vụ tham nhũng của T.T. Nguyễn Văn Thiệu thì Phủ Đặc ủy đã làm gì?

Đường giây tham nhũng của cả ông Nguyễn Văn Thiệu và Trần Thiện Khiêm như buốn nha phiến, thuốc phiện lậu về qua ngả phi trường Tân Sơn Nhất hay đường biển. Người của tướng Bình như các vị tư lệnh cảnh sát đã nắm giữ vai trò gì? Che dấu, đồng lõa, tạo điều kiện thuận lợi cho qua và cuối cùng chia phần?

Tướng Nguyễn Khắc Bình là tay chân thân tín của hai vị đứng đầu nước, được giao phó những trách nhiệm về an ninh lại có thể đứng ngoài cuộc? Khởi đầu cuộc chống tham nhũng là một cuộc biểu tình ở Huế chống T.T. Nguyễn Văn Thiệu ở miền Trung thì Phủ Đặc ủy có ra lệnh đăc biệt gì cho ông Liên Thành, cảnh sát trưởng ở Huế trong thời kỳ đó? Và kết quả ông Liên Thành đã làm việc ra sao?

Và một lời cuối với tác giả cuốn sách “Mặt trận Đại học”. Nếu phần chính tác phẩm coi như ổn đi thì phần phụ lục không ổn. Nếu có thể, khi tái bản nên xét lại phần này vì xem ra nó không phù hợp với nội dung chính của cuốn sách. “Phong trào Văn Thân”, v.v. nên thay vào đó bằng một cái gì khác.

Cái khác đó là những bài phỏng vấn giới lãnh đạo của Phủ Đặc ủy về mặt tổ chức, mặt nhân sự, những thiếu sót cũng như thành quả của Phủ Đặc ủy từ khi mới thành lập đến 1975.

Tôi nghĩ như thế thì cuốn sách trọn vẹn hơn.

© 2015 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”

DCVOnline minh hoạ.

(16) Nguyễn Văn Minh, “Dòng họ Ngô Đình, giấc mơ chưa đạt”, trang 448-486

(17) Tại Phủ Tình Báo, các người lãnh đạo lần lượt là các ông trung tá Lê Liêm, đại tá Nguyễn Văn Y, tướng Mai Hữu Xuân, tướng Nguyễn Ngọc Loan, tướng Linh Quang Viên, rồi tướng Nguyễn Khắc Bình và người cuối cùng là ông Nguyễn Phát Lộc

(18) Trích “Văn Khoa, Một thời sống đẹp”, theo tài liệu Lược sử Đoàn và Phong trào Thanh Niên Thành phố, trang 461-472.

(19) Ngoài ông Tuyến, còn có một nhân vật ‘chìm’ rất có ảnh hưởng đến ông Diệm. Đó là ông Hoàng Bá Vinh được ông Diệm rất tin dùng. Khi Ông Tuyến bị thất sủng thì ông Dương Văn Hiếu (Phó Tổng Giám đốc Công an) đã tính đề nghị ông Nhu để ông Hoàng Bá Vinh lên thay. Hôm đảo chính, tiếc thay ông Hoàng Bá Vinh không có mặt ở Sài Gòn, vì ra Huế dự lễ mừng sinh nhật ông Cẩn và khi về Sài Gòn ngày mồng 2 tháng 11 thì số phận ông Diệm-Nhu đã bị định đoạt rồi.

(20) Tài liệu của Trung tá Nguyễn Mâu N.Đ.B, tập II, 2009, trang 53: “kết quả là năm 1968 có 11.288 việt cộng bị bắt, 2.200 bị giết, 2.290 quy thuận. Năm 1969, 8.515 bị bắt, 4.832 bị giết, 6.187 quy thuận.”

(21) Nguyễn Mâu, “N.Đ.B, ngành đặc biệt”, Tập II, trang 13.