Phần 18

Họa xâm lăng của Trung Quốc

Hội chứng Hậu Thuộc địa (I)

Đám ma Cộng Sản

Họa xâm lăng của Trung Quốc

Nguyễn Văn Lục

Khai triển họa xâm lăng của Trung Quốc đối với Việt Nam qua tác phẩm Chính đề Việt Nam, Tùng Phong

“Giả sử mà Nam Việt Nam bị Bắc Việt thôn tính, thì sự Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là một vấn đề thời gian.” (Chính Đề Việt Nam, Tùng Phong)

Cảm tưởng của tôi khi đọc xong cuốn Chính Đề Việt Nam là cảm xúc bị sốc. Ngạc nhiên không ít. Cảm giác ấy cũng đã xảy ra trong một trường hợp khác ở mức độ địa chấn óc não là 4.5 thay vì 6 khi đọc Chính Đề.

Đó là khi đọc được tài liệu “Vi phạm Nhân quyền tại miền Nam Việt Nam”, bản báo cáo của Phái đoàn Điều Tra Liên Hiệp Quốc về vụ đàn áp Phật giáo 1963.

Trong bản báo cáo, ông Ngô Đình Nhu đã “thuyết giảng” cho phái đoàn Điều tra LHQ về phong trào Phật giáo trong bối cảnh lịch sử, chính trị, xã hội Việt Nam như thế nào?

Phải đọc tài liệu này, qua những phân tích, để thấy tầm nhìn sâu, trí thức hơn người và khác người của ông Ngô Đình Nhu.

Nhận xét như thế, tôi không có ý ngầm hiểu rằng tác giả Chính Đề Việt Nam và Bản trả lời LHQ là một người.

Bản tài liệu này của phái đoàn điều tra LHQ là bản chính xác nhất, vì bản này do ông Hùng Khánh Võ Đình Cường, một phụ tá thân cận của TT Trí Quang dịch và xuất bản. Trong đó có lời Giới thiệu của Thượng Tọa Trí Quang, đề ngày 01/11/1965 với lời ghi nhận như sau:

Bản báo cáo này nguyên Liên Hiệp Quốc công bố bằng nhiều thứ tiếng. Tôi được các Phật tử cho bản Pháp văn và Anh văn, liền giao bản Pháp văn cho đạo hữu Hùng Khánh Võ Đình Cường nhận dịch.

Sau này, có dịp, tôi sẽ dùng tài liệu này như một đề cương để tìm hiểu biến cố Phật giáo năm 1963 mà có thể nói chưa một ai nhận định ra được như thế.

Nay trở lại với cuốn Chính Đề Việt Nam, Tùng Phong như một cương lĩnh để khai triển Vấn đề Việt Nam, nhất là vấn đề người cộng sản trong bối cảnh lịch sử phải sống chung với người láng giềng Trung Quốc và những bài học từ đó phải rút ra .

Chính Đề Việt Nam được khai triển với những luận điểm do sự hiểu biết và kiến thức rộng rãi, những trình bày rành mạch các trào lưu tư tưởng, các dòng lịch sử từ hoàn cảnh cụ thể các nước tư Đông sang Tây, cách đánh giá Chủ Nghĩa Cộng Sản rất thuyết phục, cách học hỏi bài học Nhật Bản đến chủ trương phải Tây hóa toàn diện với đầy quyết tâm làm tôi ngỡ ngàng chấp nhận.

Nó đúng là tầm nhìn của một nhà chính trị có chiều sâu, có hiểu biết và có kinh nghiệm.

Tác giả dựa trên những dữ kiện lịch sử để nhận thấy rằng, cái hiểm họa chính, trước mắt, thường trực đe dọa đến sự an ninh của Việt Nam vẫn là kẻ láng giềng phương Bắc. Theo đó, vấn đề tranh chấp giữa khối cộng sản theo Liên Xô và khối tư bản theo Mỹ chỉ là những phương tiện tranh đấu để phát triển và khi đất nước họ phát triển rồi thì chủ nghĩa cộng sản tự nó không còn có giá trị gì nữa. Cho nên Liên Xô hay Trung Cộng có dùng lý thuyết Karl Marx-Lenin thì cũng chỉ là một giải pháp chính trị giai đoạn. Tác giả khẳng định rằng đối với Mao Trạch Đông, xử dụng chủ nghĩa Mác Xít chỉ có tính cách giai đoạn. Giải pháp ấy chỉ nhằm lôi kéo các nước bị trị, các nước nghèo gia nhập khối cộng sản để bao vây các nước phát triển thuộc khối tư bản.

Đối với tác giả Chính Đề Việt Nam, muốn đất nước phát triển thì phải có một lãnh đạo giỏi. Chúng ta đánh bại quân xâm lăng và quật đổ ách thống trị vì chúng ta có lãnh đạo giỏi và ý thức quốc gia được hun đúc và nuôi dưỡng. Đồng thời tác giả nhắc đi nhắc lại nhiều lần là cần theo đuổI chính sách Tây phương hóa toàn diện, quyết tâm không thể do dự, không thể chối từ. Cũng đồng thời tác giả nhấn mạnh nhiều lần con đường phát triển cho Việt Nam cần phải theo gương Nhật Bản cho bằng được để có thể tự cường và rồi tự chủ.

Theo nội dung trình bày trong sách, tác giả có vẻ thiết tha đến say mê con đường phải Tây phương hóa và coi Nhật Bản như một tấm gương sáng cho Việt Nam phải noi theo.

Đối với kẻ láng giềng phương Bắc, ngay từ thập niên 1960, tác giả đã cảnh cáo rất nghiêm trọng mối hiểm nguy Trung Cộng như sau:

“Trong sự chọn lựa đường lối của chúng ta sau này, sự chúng ta ở sát nách Trung Quốc là một yếu tố vô cùng thiết yếu.(...). Vì thế cho nên không có một lầm lẫn nào to tát cho bằng sự tin tưởng rằng trong một vài thế hệ hay một thế kỷ có thể thay đổi được tất cả tư tưởng của một dân tộc (..) Các nhà lãnh đạo miền Bắc khi tự đặt mình vào sự chi phối của Trung Cộng, đã đặt chúng ta trước một hoàn cảnh nô lệ kinh khủng. (...) Hành động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của chúng ta, mà lại còn đe dọa đến sự tồn tại của dân tộc.(...) Các nhà lãnh đạo cộng sản vì thế đã tạo thời cơ cho thực dân thực hiện những thủ đoạn chính trị của họ mà hậu quả đã đưa đến sự chia đôi lãnh thổ ngày nay. (...) Sự lệ thuộc nói trên và sự chia đôi lãnh thổ đã tạo hoàn cảnh cho sự chi phối và và sự toan thống trị của nước Tàu đối với Việt Nam tái hiện dũng mãnh sau gần một thế kỷ vắng mặt.(...)

Ký ức của những thời kỳ thống trị Tàu tàn khốc đối với chúng ta còn ghi nhớ trong mỗi trang lịch sử của dân tộc và trong mỗi tế bào của thân thể chúng ta. (...)

Giả sử mà Nam Việt Nam bị Bắc Việt thôn tính, thì sự Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là một vấn đề thời gian."

Trích sơ lược và tóm tắt trong Chính Đề Việt Nam, nhất là trong chương Vai trò của miền Nam.

Bài viết sau đây của người viết sẽ triển khai một vài ý tưởng chủ đạo của tác gỉảChính Đề Việt Namđể thấy rằng sự thật gần như thể đã xảy ra đúng như vậy.

Cộng sản Việt Nam có thể là một trong những nước duy nhất hao tổn tài lực và sinh mạng con người đến kiệt quệ sau khi kết thúc cuộc chiến tranh vào năm 1975.

Họ đã được gì ngoài một đất nước điêu tàn và kiệt quệ?

Người viết nhận thấy rằng chọn lựa công việc Giải Thực (Décolonisation) bằng cách cúi đầu làm tên lính tiền đồn cho chủ nghĩa cộng sản Nga Tàu là một sai lầm có tính cách lịch sử của cộng sản miền Bằc. Theo Vũ Ngự Chiêu:

“Phương pháp làm việc tỉ đối giữa nhiều nguồn tài liệu văn khố (multi-archival) đã giải mật vào đầu thế kỷ XXI giúp tạm phác họa cái nhìn toàn cảnh vai trò tiền đồn của Việt Nam trong cuộc chiến tranh lạnh 1947-1991 mà chuyến xuất ngoại cầu viện Trung Cộng và Nga Xô năm 1950 của Hồ được coi như một dấu mốc quan trọng. Chúng cũng giúp phản ánh hiện tượng “Trung Quốc hóa" hay “Mao hóa". Đảng cộng sản Việt Nam (dưới danh nghĩa đảng Lao động và con đường khúc khủy (Zigzag) mà Mao Nhuận Chi (Mao Trạch Đông) muốn đảng Lao Động Việt Nam vượt qua.”

(Trích “Chuyến Ði Cầu Viện Bí Mật Năm 1950 Của Hồ”, Vũ Ngự Chiêu, http://hopluu.net/default.aspx?LangID=38&tabId=464&ArticleID=968, truy cập ngày 19/03/2010)

Ở một mặt khác, nhìn vào phong trào không liên kết của 19 nước Á Phi, họp tại Bandung chứng minh rõ ràng cho thấy các nước ấy có thể dành được độc lập bằng cách lợi dụng sự tranh chấp trong cuộc chiến tranh lạnh giữa hai khối cộng sản và tư bản để tiến tới độc lập dân tộc.

Không phải chi có độc nhất một con đường giải phóng dân tộc là theo chủ nghĩa cộng sản và cũng không nhất thiết phải có một cuộc chiến tranh giải phóng đưới lá cờ cộng sản chủ nghĩa. Khẳng định không có ông Hồ, nước ta ngày nay cũng sẽ thu hồi được độc lập trong xu thế thời đại “Giải thực” sau thế chiến thứ hai.

Nhìn lịch sử thế giới đã qua cho thấy đã có bao nhiêu nước dành được độc lập dưới chiêu bài cộng sản và không cộng sản?

Câu trả lời rất là thuyết phục là hầu hết các dân tộc thuộc khối Á Phi, Ả Rập, Mỹ Châu La tinh đều dành được độc lập mà không có sự can thiệp của khối cộng sản.

Việt Nam trở thành một biệt lệ kém may mắn.

Bởi vì các nước nghèo, kém mở mang cũng biết lợi dụng cả tư bản lẫn cộng sản giúp đỡ viện trợ để sống còn. Phần các nước viện trợ thì viện trợ là một cách để tiêu thụ hàng hóa, để biến các nước nghèo thành lệ thuộc và nhất là còn để gây phe cánh.

Không có thứ viện trợ vô điều kiện. Viện trợ luôn luôn có thòng lọng kèm theo. Nhận viện trợ bao giờ cũng là nhận món nợ phải trả, đôi khi trả đắt hơn cả tiền viện viện trợ: Mất chủ quyên dân tộc, đất nước trở thành con nợ cho nước khác.

Thật vậy, trước đây Liên Xô mỗi năm chi vào ngân sách Quốc phòng trung bình là 18 tỉ đô la (1963) và dành ra khoảng nửa tỉ đô la viện trợ cho các nước không liên kết. Cũng vậy Pháp dành ra 1.7% tổng lợi tức quốc gia dành cho các nước nghèo như viện trợ cho Algeria, Maroc, Tunisia hay Ivory Coast. Hoặc viện trợ đa phương như đóng tiền cho UNESCO rồi UNESCO viện trợ cho các nước khác.

Tác giả Chính Đề Việt Nam đã lên án sự chọn lựa theo Nga Tàu của cộng sản Hà Nội và từ đó gây ra biết bao hệ lụy.

Xếp hàng, chọn lựa đứng về một bên như Việt Nam là một chọn lựa đắt giá và hiểm nguy. Cộng sản Việt Nam đã cố tình quên những tội ác của cộng sản quốc tế trong việc sát nhập bằng bạo lực các nước Đông Âu nhập vào khối cộng sản Xô Viết sau 1945. Vì thế, không lạ gì khi chiến tranh thứ hai vừa kết thúc, đã có 5 triệu người Đức trong vùng do Liên Xô kiểm soát đã kịp thời trốn thoát sang các vùng do Anh Mỹ kiểm soát.

Điều đó cho thấy rằng dân chúng Đức đã biết lo sợ trước về mối hiểm họa của Liên Xô. Sau này, làm sao dân chúng Đông Âu có thể quên được kinh nghiệm mùa xuân 1968 tại Prague?

Trong khi đó khối các quốc gia không liên kết mỗi ngày mỗi đông thêm dù họ đã ngửa tay nhận viện trợ kinh tế của cả khối cộng sản lẫn tư bản.

Các phong trào giải thực ở giai đoạn chót 1955-1965 được gọi là “thế giới thứ ba” hay các nước không liên kết đã đủ sáng suốt để không theo cộng sản Tàu như trường hợp các nước láng giềng của Tàu như Ấn Độ, Indonesia, Ai Cập, Miến Điện, v.v...

Mấy chục nước thuộc khối không liên kết như trường hợp các nước Á Phi được gọi là những nước mới vươn lên (newly emerging states) đã có thể tự tìm ra con đường giải thực và phát triển mà không theo bất cứ khối nào.

Kaunda, một thành viên của khối không liên kết đã có thể tự hào tuyên bố rằng:

“Ngày hôm nay đánh dấu sự chấm dứt một giai đoạn bất định về tương lai và con đường của phong trào không liên kết. Hội nghị không liên kết đối với những nước nhược tiểu còn vĩ đại hơn tòa nhà của Liên Hiệp Quốc."

(Trích bài: Hy vọng mới cho thế giới đệ tam, Thuận Giao, tạp chí Trình Bày, số 5, 1/10/1970)

Tổng thống Indonesia thì hãnh diện tuyên bố, “Đây là một bước mới trong lịch sử nhân loại.”

Các nước trong khối không liên kết như Ấn Độ, Ai Cập cuối cùng đã dành được độc lập mà ít hao tốn những giọt máu vô ích của nhân dân họ phải đổ ra như trường hợp Việt Nam?

Thật bất hạnh cho Việt Nam do sự ngu muội của các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã không có giải pháp nào khác để dành độc lập thay vì dùng súng tiểu liên Trung Quốc và chủ thuyết Mác Xít và chủ nghĩa Mao ít?

Trong khi đó, họ lại ngủ quên trước kẻ thù truyền kiếp từ phương Bắc.

“Không có lầm lẫn nào to tát cho bằng sự tin tưởng rằng trong một vài thế hệ hay một thế kỷ có thể thay đổi được tất cả tư tưởng của một dân tộc” Ký ức cuả những thời kỳ thống trị tàn khốc đối với chúng ta còn ghi nhớ trong mỗi trang lịch sử của dân tộc và trong mỗi tế bào của lịch sử chúng ta.”

(Chính Đề Việt Nam, Tùng Phong)

Thật vậy cha ông tổ tiên của chúng ta đã không bao giờ ngủ quên trước kẻ thù.

Trong suốt gần 1000 năm Bắc thuộc và thời kỳ tự chủ từ năm 972, cái tâm lý đối chọi giữa Trung Quốc và Việt Nam vẫn là do quyền lợi hai bên nghịch nhau: Phần Trung Quốc vẫn coi Việt Nam là thuộc phần đất của họ phải tìm cách thâu hồi về và phía người Việt Nam thì nỗ lực duy trì nền độc lập lãnh thổ bằng mọi giá như trong Bình Ngô Đại Cáo của Lê Lợi, Nguyễn Trãi còn ghi khắc lại:

Như nước Việt ta từ trước

Vốn xưa Văn Hiến đã lâu

Sơn hà cương vực đã chia

Phong tục Bắc-Nam cũng khác

Tám năm sau ngày viết Đại Cáo Bình Ngô, năm 1435, Nguyễn Trãi đã viết cuốn sách tiêu biểu Dư Địa Chí bàn về địa lý, lịch sử và và xã hội An Nam.

Trong 900 năm, Trung Quốc xâm lăng Việt Nam 7 lần. Nhà Tống 2 lần, nhà Nguyên 3 lần, nhà Minh và nhà Thanh mỗi triều đại một lần. Cộng chung có 6 lần mất đất. Tiêu biểu, mất hai động Vật Ác và Vật Dương đời nhã Tống, mất 59 thôn ở Cổ Lâu đời nhà Minh. Dưới đời nhà Minh mất hai Châu và 4 Động, đưới đời Nhà Thanh mất 13 Châu và ba động, v.v...

Mặc dầu vậy, lần nào cũng có sự chống trả. Ít nhất có 7 lần Đại Việt muốn chống lại ước muốn thôn tính của Hán tộc. Vũ khí để chống trả là chủ nghĩa dân tộc chống lại mọi đe dọa từ Bắc Phương.

Người viết xin ghi lại một tài liệu rất quý giá của giám mục Alexandre de Rhodes cách đây mấy trăm năm mà một số danh từ tiếng Pháp viết theo lối cổ trong cuốn Histoire du Royaume de Tunquin (Tunquin được gọi là Đằng Ngoài, tức Bắc Kỳ). Tài liệu này cũng giúp độc giả hiểu nghĩa chữ Annam là gì ? Tại sao gọi là Kẻ Chợ? Tại sao gọi là Cochinchine?

Tài liệu cũng nói lên cái thực trạng lệ thuộc của xứ sở nước Annam vào Trung Quốc như thế nào:

Nhan đề: Du Nom & de lafituation de ce royaume. Chapitre I

“Qve le Royaume de Tunquin ayt éfté autrefois l’vne des principales Prouinces du grand Empire de la Chine, nous l’apprenons du nom qu‘il a retenu: Car comme Pequin( qui eft aujourd’huy la plus floriffante ville de la Chine,& le fejour ordinaire des roys) fignifie la Cour ou la ville Royale du Septentrion; & Nan-quin....

(Bản pháp ngữ của Henri Albi)

(Người viết xin ghi lại giao kèo “Văn Minh” của nước Pháp trong luật lệ biết tôn trọng bản quyền tác giả như thế nào, khác xa với xã hội Việt Nam bây giờ còn rất “mọi rợ” trong luật bản quyền.)

“Dòng tên, tỉnh dòng Lyon đã nhường đặc quyền cho phép Gioan Baotistita Devent, nhà xuất bản ở Lyon được in và bán cuốn sách này của cha Alexandre De Rhodes biên soạn. và như vậy trong hạn 6 năm, cấm tất cả những người khác không được in hay cho in, nếu không sẽ bị phạt như ghi trong đặc quyền."

Làm tại Avignon, bgày 1-3-1651 Lyon, Chez Jean Baptiste devenet en rue Vercìère à la croix d’or, 1651.

(Danh hiệu và vị trí xứ Đàng Ngoài. Chương I

Xứ Đàng Ngoài thời xưa (bị coi) là một trong những tỉnh lớn nội thuộc Trung Quốc, chúng ta gọi theo danh hiệu đã được công nhận. Vì như Bắc Kinh (bây giờ là thành phố thịnh vượng nhất Trung Quốc và là đế đô thường trú của các vua) có nghĩa là triều đình hay thành phố của các vua ở miền Bắc, và Nam Kinh là triều đình hay thành phố của các vua ở miền Nam thì Đông Kinh cũng có nghĩa là triều đình nơi vua họp triều đình. Thực ra Đông Kinh chúng tôi nói đây không ở vào phía Đông nước Tàu, nếu nhắm thẳng vị trí, nhưng ở về phía Nam. Nhưng vì thời xửa xưa, đế chế Trung Hoa lan rộng tới mãi các nước Lào và Xiêm thuộc về phía Tây, nên đối với họ nước Đông Kinh được gọi là nước ở vào phía Đông và như thế gọi cho thuận tiện đối với tất cả những tỉnh ở về phía Tây, những tỉnh này phải đi mất 6 tháng mới tới, nếu cần phải nại tòa án đặt ở Bắc Kinh, nơi vua thay đổi cung điện tùy tiện. Nhưng từ khi những nước ở vào miền Tây này thoát khỏi đế chế Trung Hoa thì tỉnh Đông Kinh vẫn phải triều cống và được gọi là Annam nghìa là nghỉ yên phía Nam. Hiện nay danh hiệu này là tên gọi chung cho hai xứ Đàng Ngoài và Đàng Trong.

Và để nói thêm về danh hiệu đặt cho Đàng Trong ngày nay, tách biệt ra khỏi Đàng Ngoài thì phải biết Thủ đô cả nước Annam gọi là Kẻ Chợ và các thương gia Nhật Bản buôn bán trong tỉnh đó đã gọi sai và gọi là CoCi, vì thế người Bồ giao tiếp với họ, để phân biệt với tỉnh CoCin ở miền Đông Ấn, không xa thành phố Goa, đã lập thành danh từ Cochinchina như muốn nói xứ CoCin gần Trung Quốc ...

Trích sách dịch của Hồng Nhuệ: Lịch sử Vương Quốc Đàng Ngoài, trang 3-4)

Theo Lm Alexandre De Rhodes thì xứ Đàng Ngoài với thủ đô là Kẻ Chợ chỉ là một quân, huyện của Trung Quốc mà thôi.

Tinh thần đối kháng của người An Nam chống lại sự bị đồng hóa của người Tàu theo cha Alexandre de Rhodes thật lý thú và bài học cho chúng ta bây giờ:

“Nước này bắt đầu thoát ly khỏi đế chế Trung Quốc từ hơn 800 năm nay, khi người Đàng Ngoài không thể chịu đựng được cái nhục đô hộ Tàu, thì họ vùng lên sau khi giết quan trấn thủ. Vừa để truyền lại cho hậu lai kỷ niệm chiến thắng đó vừa để ghi muôn đời cuộc khởi nghĩa bằng một vài sự việc thì họ ra lệnh từ nay dân Đàng Ngoài không kết tóc bọc trong lưới trên đầu như người Tàu và để tỏ ra độc lập, họ bỏ tóc dài tỏa trên vai. Hơn nữa họ không đi giày như đã quen, vì đất rất lầy lội thường xuyên trong toàn cõi, họ luôn luôn đi chân không ở miền quê, không có giày, để được tự do chạy nhảy và chiến đấu với người Tàu khi cần. Thế nhưng, sau mấy năm, để bớt căng thẳng đưa tới chiến tranh liên tục thì người Đàng Ngoài đã làm hòa với người Tàu và cứ ba năm một lần họ đến triều đình Bắc Kinh triều cống vua Tàu với lễ vật để tỏ sự thuần phục. Đó là điều họ còn giữ cho đến ngày nay.”

Trích Histoire du Royaume de Tunquin, Lịch sử Vương Quốc Đàng Ngoài, Alexandre de Rhodes, trang 4

Trong sách sử do nhóm Trần Văn Giàu cũng có ghi chú một vài điều tương tự về cách ăn mặc còn truyền lại như sau:

“Phụ nữ thường mặc váy, đeo yếm. Đàn ông thường đóng khố và cởi trần. Họ thường đi đất, che mưa nắng bằng nón, áo tơi."

(Trích “Lịch sử Việt Nam”, tập I Nhóm chủ biên Trần Văn Giàu-Trần Bạch Đằng- Mạc Đường, trang 127.)

Có một nhận xét lý thú là tại sao người Tàu và người Annam ở Đàng Ngoài thì để tóc bím mà người Tàu ở Đàng Trong lại không để?

“Sau khi thấy khi thấy nhà Minh không thể phục hưng được thì Mạc Cửu không chịu cạo tóc, gióc bím theo nhà Thanh, chạy sang cư ngụ ở đất Chân Lạp, làm quan với Chân Lạp. Thấy chính cuộc nước này rối ren mà ở Màng khảm, thuộc tỉnh Ream của Miên, mở sòng bạc để lấy xâu, lại đào được một hầm bạc nên trỏ thành giàu. Mạc Cửu bèn xây một ngôi thành trên bờ biển, mở phố xá rồi chiêu tập lưu dân đến ở các nơi Phú Quốc, Cần Bột, Rạch Giá, Luống Cày, Hương Úc, Cà Mau lập thành 7 xã thôn.”

(Trích “Việt Sử xứ Đàng Trong”, Phan Khoang, trang 326-327)

Sự kỳ thị và chống đối người Hoa cũng tìm thấy nơi người Đàng Trong như được chứng minh trong tờ báo Nam Kỳ Địa Phận. Semaine religieuse (xuất bản liên tục từ năm 1907-1945). Nhưng đặc biệt có một số bài của độc giả gửi tới lên án gắt gao người Chệc vì làm ăn điêu xảo và còn có bài kêu gọi người Annam tẩy chay, không mua bán làm ăn với người Tàu. Xin trích một đoạn về lề lối cầm đồ của người Chệc:

“Kính lời xin ông chủ bút làm ơn ấn hành bài này cho chư vị trong lục châu rõ, mà trừ ba anh Chệc ở tiệm cầm đồ cho hết lường gạt mấy chị đờn bà ... Vậy nếu muốn cho khỏi lầm tay mấy anh Chệc đó, thì cứ phải theo lời nghi ngày 25 novembre 1905 của quan nguyên soái Nam Kỳ đã định điều lệ cho công ty cầm đồ như sau này: Những đồ cầm 100 đồng bạc, tiệm đặng lời 2 đồng trong một tháng, là 30 ngày, nghĩa là kể từ ngày cầm mà đếm cho đến ngày mình chuộc, cho đúng 30 ngày, ví dụ như mình cầm ngày 28 tháng 2 tây, cho đến ngày 29 tháng 3 tây mình chuộc, thì đúng là 30 ngày, thì trọn một tháng lời, vì tháng 2 tây thiếu ngay. Nam Kỳ Địa Phân, trang 541 J.B Xuân.”

(Trích bài “Kỷ niệm 100 năm tờ báo Nam Kỳ Địa Phận 1908-2008”, Nguyễn Văn Lục tạp chí Tân Văn số 8, trang 16.)

Theo Chiristopher E. Goscha:

“Vào năm 1919, có hai tiệm cà phê của người Tàu ở Sài Gòn tăng giá một ly cà phê thêm một xu. Thế là khách hàng bảo nhau tẩy chay toàn bộ hàng hóa của người Hoa. Báo chí đã biến một sự kiện nhỏ bé ấy thành một cuộc “thánh chiến" quyết liệt chống lại sự đè nén bấy lâu của người Hoa đối với nền kinh tế Việt Nam, thực ra là với cả dân tộc Việt Nam.”

Trích tái liệu “Cấu trúc các mối quan hệ thời thuộc địa”, tạp chí Talawas, số mùa thu 2009).

Phải chi bây giờ nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội cũng phát động được phong trào tẩy chay mua hàng hóa của Trung Quốc như tổ tiên ta đã làm cách nay 100 năm?

Cái hệ lụy với Trung Quốc theo như nhận định của tác giả Chính Đề Việt Nam nay đã thành sự thật không chối cãi được.

Đó là chính sách tầm thực của Trung Quốc. Hễ có cơ hội là lấn chiếm dần mỗi lần một ít.

Phần phía Việt Nam cộng sản thì cắt đất để đổi lấy “hai chữ an phận”?

Để trả món nợ chiến thắng Điện Biên Phủ, ngày 22 tháng 9, năm 1958, đại sứ VNDCCH tại Trung Quốc là ông Nguyễn Khang đã trao Công hàm cho ông Cơ Bằng Phi, Thứ trưởng bộ Ngoại giao Trung Quốc. Nội dung như sau:

“Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa trên mặt biển.”

Tiếp theo đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã gửi một công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai như sau:

Thưa đồng chí Tổng Lý,

Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng Lý rõ:

Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của chính phủ nước cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc .

Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Quốc trên mặt bể.

Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng./.

Hà Nội ngày 14 tháng 9 năm 1958

Phạm Văn Đồng

Thủ tướng chính phủ

Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

Phạm Văn Đồng bây giờ có khác gì Hồ Quý Ly và đám con cháu đời nhà Trần?

Lá thư của Phạm Văn Đồng xác nhận chủ quyền của Trung Quốc có nguy cơ dập tắt mọi hy vọng đòi khôi phục lại những phần đất đã mất sau này. Sự “tự nguyện” ấy sẽ là những bằng cớ pháp lý để Trung Quốc đưa ra trước các tòa án Quốc Tế nếu có tranh chấp về biên giới lãnh thổ.

Cái hàm hồ đến ngu xuẩn là khi Thủ Tướng Phạm Văn Đồng tuyên bố tôn trọng 12 hải lý của Trung Quốc mà không có bản đồ đính kèm. Nếu có bản đồ “Lưỡi bò” của Trung Quốc đính kèm thì lãnh hải Trung Quốc sẽ tiến sát bờ biển miền Trung và Bắc Việt, cũng sẽ sát bờ biển Phi Luật Tân, Indonesia và Mã Lai.

Lần thứ hai, để trả món nợ đánh chiếm được miền Nam, Trung Quốc thôn tính đảo Hoàng Sa thuộc phần đất của miền Nam Việt Nam Cộng Hòa năm 1974. Ngày 3 tháng 5 năm 1976, tờ báo Sài Gòn Giải Phóng, cơ quan ngôn luận của Thành phố Hồ Chí Minh viết một bài xác nhận quần đảo Hoàng Sa thuộc Trung Quốc mà nguyên văn có câu như sau:

“Trung Quốc vĩ đại đối với chúng ta không chỉ là người đồng chí, mà còn là ông thầy tín cẩn, đã cưu mang chúng ta nhiệt tình để chúng ta có được ngày hôm nay, thì chủ quyền Hoàng Sa thuộc Trung Quốc hay thuộc ta cũng vậy thôi. Trung Quốc với ta là hai nước sông liền sông, núi liền núi. Khi nào chúng ta muốn nhận lại quần đảo này. Trung Quốc sẽ sẵn sàng giao lại.”

(Trích tài liệu trên báo Đi Tới số Đặc biệt: Trả Ta sông núi, số 55-56, tháng 3-4/ 2002, Đoàn Minh Hóa, trang 13-14.)

Không còn nỗi nhục nào hơn nỗi nhục này. Chắc cũng tương tự như nỗi nhục của Lê Chiêu Thống là cùng.

Riêng ông Dương Danh Dy từng có nhiều năm kinh nghiệm ở bên Trung Quốc phát biểu trên BBC đại khái rằng, “Thế hệ đành anh của chúng tôi đã bị Trung Quốc lừa, đến lượt chúng tôi cũng không tránh khỏi.”

Bị lừa hay biết là bị lừa nhưng tại sao vẫn phải ngậm miệng?

Đã hai lần, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam ở trong tình thế cực đoan tự làm tay sai cho cộng sản Tàu như thứ “phên dậu” (chữ dùng của Chính Đạo) che chắn cho nước Tàu, chống lại Pháp và Mỹ, đã hai lần ngửa tay xin viện trợ của Tàu cộng sản. Hai lần quỳ gối lệ thuộc Tàu đã là tiền đề cho những nguy cơ của hiểm họa xâm lăng từ phương Bắc khó tránh được. Cái giá phải trả là hai hiệp ước ô nhục cắt đất (30/12/1999) và cắt lãnh hải Bắc Việt (25/12/2000).

Hai Hiệp ước ấy do ông Lê Công Phụng ký giấy tương nhượng cho Trung Quốc chắc hẳn theo lệnh của bộ Chính trị.

Chúng ta không có cách nào hơn để biết rõ sự thật là đợi chừng 10 năm nữa khi ông Lê Cộng Phụng chống gậy may ra ông sẽ tiết lộ sự thật về việc nhượng đất này như thế nào?

Cái nhục ấy là trách nhiệm của Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Mạnh Cầm, Nguyễn Dy Niên.

Theo một số tin tức trong nước do bạn bè vừa cho biết thì cái chính quyền cộng sản hiện nay đã bị cộng sản Tàu mua đứt rồi. Không còn chút xíu tin tưởng vào bọn họ được nữa .

Việc chống đối nay chỉ trông chờ vào thành phần trí thức, những người còn biết thức tỉnh trước nguy cơ mất nước vào tay cộng sản Tàu.

Và cứ thể rượu gọi rượu, nợ kéo theo nợ, mỗi lần đạt được một chiến thắng quân sự là mỗi lần trả giá, mỗi lần mang nhục và biện hộ một cách ti tiện.

Sau trận hải chiến ngày 4/3/1988 (mất một phần Trường Sa) với Trung Quốc, tờ Nhân Dân, số ra ngày 26/4/1988 đã tự biện hộ như sau:

“Đúng là có những lời tuyên bố. Cần phải đặt lại những lời tuyên bố trong bối cảnh lịch sử của nó ... Trong cuộc chiến đấu một mất một còn, chống một kẻ thù xâm lược có sức mạnh quân sự lớn hơn mình nhiều, Việt Nam tranh thủ được Trung Quốc gắn chặt với cuộc chiến đấu của Việt Nam càng nhiều bao nhiêu và ngăn chặn Mỹ sử dụng hai quần đảo cũng như vùng biển Đông chống lại Việt Nam thì càng tốt bấy nhiêu.”

(Trích tóm lược báo Đi Tới, như trên, trang 14)

Đối với mọi người dân Việt Nam thì hành động này không khác gì hành động bán nước.

Và những gì Trung Quốc đang làm và sẽ làm như một kẻ láng giềng, một đàn anh hung hãn uy hiếp đối với Việt Nam thì mọi người chỉ còn biết chờ và vái trời cho điều đó không xảy ra.

Nay chỉ còn chút hy vọng là tác giả Chính Đề Việt Nam đã nhận định sai về số phận Việt Nam sau khi cộng sản xâm chiếm được miền Nam.

Hội chứng Hậu Thuộc địa (I)

Nguyễn Văn Lục

Tháng tư, 1956, người Pháp chính thức cuốn cờ và triệt thoái khỏi miền Nam Việt Nam chấm dứt chế độ thực dân Pháp sau ngót một thế kỷ, 80 năm có lẻ ở Nam Kỳ và 60 năm ở Bắc Kỳ.

Miền Nam lúc bấy giờ có khoảng 7000 người Việt có quốc tịch Pháp. Người ta ghi nhận đã có hơn 6000 người trong số đó xin hồi tịch.

Những người có “máu mặt” như ông đại sứ Trần Văn Chương, y sĩ Trần văn Đôn, cha ruột của tướng Trần Văn Đôn và một số sĩ quan như tướng Trần Văn Minh, Trần Văn Đôn đều hồi tịch, tự động xé bỏ quốc tịch Pháp.

Đây có thể coi như cuộc trở về của một số “đứa con hoang đàng” (Enfant prodige)theo một nghĩa trong Thánh Kinh đã kể lại - một sự trở về nhà cha như một cuộc làm hòa giữa quá khứ-tương lai. Quá khứ thì khép lại, tương lai thì mở ra.

Nhưng xé bỏ một tờ căn cước có đủ để người ta quay trở về cội nguồn với con người Việt Nam không? Xóa đi một cái ranh giới địa lý hay ranh giới pháp lý chỉ cần làm một cử chỉ “cái roẹt” là xong, nhưng cái ranh giới tinh thần là công việc còn lại của mỗi người, có khi làm cả đời không xong!

Cuộc hồi tịch này diễn ra thầm lặng đến nhiều người không hay biết vì không ai muốn nó được công khai hóa trên mặt báo và được hiểu là một điều đương nhiên phải như thế.

Chế độ thực dân chính thức không còn nữa và người Mỹ đến thay thế chỗ của người Pháp.

Phần ông Diệm, ở bình diện cơ chế, coi như ông đã thực hiện được hai bước trong tiến trình ba bước chính trị của ông: Bài Phong, Phản Đế, Diệt Cộng.

Nhưng ở mặt tinh thần, nước Pháp xa cách Việt Nam 16.000 cây số, vậy mà về mặt tâm tư thì nhiều người Việt Nam sinh sống ở Việt Nam cảm thấy “gần” nước Pháp hơn là người hàng xóm của mình. Cựu Thủ tướng Trần Văn Hữu còn đi xa hơn, vào năm 1946 có chủ trương tách Nam Việt Nam ra khỏi Quốc Gia Việt Nam. Những người như thế đã được ông Bảo Đại mời ra lập chính phủ vào ngày 6-5-1950!

Chưa kể tệ hại hơn nữa, nhiều người Việt-gốc Pháp còn khinh văn hóa Việt, lối sống Việt vì họ coi là quê mùa, hủ lậu. Điển hình như trong Lục tỉnh Tân Văn (LTTV), số hai, có bài viết lên giọng dạy đời nhận xét, “Người Annam hay dùng chữ Nho mà ta ít hay hiểu lý cao kỳ... ăn cắp chữ Tàu dùng qua chữ Quốc Ngữ ... song việc dùng câu chữ Tàu như vậy thì chẳng phải lẽ, thiếu gì cách nói, sao lại dùng tiếng chi bậy bạ vậy?” (Trích bài Dùng sái nghĩa, LTTV, số 2 trong Tuyển tập các số LTTV).

Trích dẫn đoạn văn trên chỉ muốn gián tiếp nói điều này, phê phán những kẻ sùng bái dùng chữ Nho “tiếng chi bậy bạ” thì bản thân họ, những người phê phán lại sùng bái thứ chữ xì xà xì xồ nghe đến ngứa lỗ tai!

Cái tâm lý trên chỉ muốn nói lên một điều rằng Hội Chứng Hậu Thuộc Địa tưởng rằng đã qua rồi, nhưng thật ra nó còn kéo dài dài trên nhiều mặt sau đây.

Hội chứng trọng thi cử

Tổ chức thi cử ở mọi cấp vẫn nặng nề trường ốc, học ba năm thi một giờ; vẫn lấy kết quả thi cử là thước đo nhân tài. Tiểu học thi theo tiểu học, trung học đệ nhất cấp rồi đệ nhị cấp đến hai lần thi tú tài 1, tú tài 2. Lên đại học thi tuyển.

Tôi nhìn lại, việc thi cử không mang ý nghĩa chứng nhận một trình độ đã học. Nó mang tính “đầy đọa” con người.

Nhiều vị ra đề thi phải hỏi hóc búa, đề toán phải có câu hỏi “lừa” được thí sinh mới là trứ danh. Thời trước nhiều giáo sư nổi tiếng chỉ nhờ cái tài “hóc búa” với thí sinh như giáo sư Hoàng Cơ Nghị, giáo sư Nguyễn Văn Lúa. Gặp giáo sư Lúa chấm pháp văn là “lúa đời” có nhiều hy vọng được 1, 2 gậy, ngay cả 0 nữa.

Cái lề lối thi cử ấy có từ thời tây thuộc địa. Đó chỉ là những rào cản, chẳng thấy khai phóng gì cả. (Ở đây xin không đề cập đến lề lối thi cử của các cụ nhà Nho).

Việc thi cử ấy trước đây rập theo chương trình thi cử của hệ thống giáo dục Pháp tương đương với các bằng: Certificat d'études primaires élémentaires, Brevet d'enseignement primaire supérieur, Brevet élémentaire và Brevet supérieur.

Nhưng không tránh được nó làm hao tổn tinh thần cho học sinh mới 11, 12 đã học như “quốc kêu mùa hè”. Nhưng cái rào cản tú tài 1 và 2 mới giết chết và làm hao mòn tuổi trẻ.

Không có lý gì 100 học sinh tiểu học tiếp tục học lên, rơi rớt dọc đường, ùn tắc chặt cứng ở rào cản tú tài và đại học như nêm cố như nút chặn tương lai. Và không chắc đến 10 người được bước vô cửa chính của Đại Học.

Họ bị vứt ra đời với hai bàn tay trắng. Không nghề nghiệp, không tương lai. Cả một thế hệ thanh niên sụp xuống hố, chôn vui cả tuổi trẻ.

Mặc dầu có những hạn chế do thi cử, nền giáo dục thời Đệ nhất Cộng hòa Việt NamCH, từ cấp tiểu học trung học, phát triển rầm rộ sau đó bị chặn đứng với rào cản tú tài.

Năm 1954-1955, chúng ta có 363.160 học sinh tiểu học. Sáu năm sau lên con số lên đến trên một triệu: 1.001. 757 học sinh. (Trích “Sáu năm hoạt động của chính phủ Việt NamCH”, Hồ Đắc Huân, trng 645. )

Một phần ở cấp Trung tiểu học, người Mỹ “thong thả nhúng tay vào” do các cố vấn Mỹ từ trường đại học Ohio. Họ trách nhiệm nghiên cứu, hướng dẫn đưa ra các dự án như: giáo dục cộng đồng, giáo dục tổng hợp, giáo dục chuyên nghiệp và kỹ thuật. Sau này, dần dần chế độ thi cử được thông thoáng hơn. Do sự cố vấn của Mỹ, các kỳ thi tiểu học, trung học được bãi bỏ.

Nhớ họ mà giáo dục được cải tiến nhiều.

Nói về việc thi cử ảnh hưởng Pháp, xin dùng cuốn sách Một chút lịch sử Y Khoa Đại Học đường của giáo sư Trần Ngọc Ninh để dẫn giải. Ngoài tác giả là giáo sư TNN còn các bác sĩ Hoàng Tiến Bảo, Trần Xuân Ninh, Nguyễn Lương Tuyền. (Thiếu bài của giáo sư Hoàng Tiến Bảo, mặc dầu có tên ở trang bìa sách) đều chỉ nhấn mạnh tới sự thành lập Phẫu Nhi Khoa và Phẫu Khoa trực Nhi mà không đủ điều kiện để giới thiệu các khoa khác? Đối với một người ham học hỏi thì cũng mong muốn được biết sự hình thành và phát triển của ngành Y khoa Sài gòn nói chung ra sao như lời giới thiệu của bác sĩ Trần Đình Thắng trong lời nói đầu, “Y Khoa đã tiến một bước dài, Y khoa đã tiến một bước lớn”.

Nhưng điều quan trọng hơn nữa là cũng mong muốn được biết kết quả về số bác sĩ được đào tạo ở miền Nam là bao nhiêu? Nhiều ít như thế nào? Và tại sao lại nhiều ít?

Theo Wikipedia, từ năm 1947 đến 1954 , cả trong Nam lẫn ngoài Bắc, số tốt nghiệp y khoa bác sĩ vào khoảng 130 người. Một con số ít hơn cả thời gian mới thành lập năm 1902!

Cắt nghĩa về sự ít oi này thì người ta đổ cho chiến tranh. Trong Nam làm gì có chiến tranh như ngoài Bắc mà mỗi năm cũng chỉ đào tạo được 5-10 bác sĩ?

Nhưng từ năm 1955 trở đi đến 1975 ở trong Nam được chia ra hai thời kỳ: thời kỳ 1955-1966 chịu ảnh hưởng Pháp. Số ra trường còn rất ít.

Từ 1966 bắt đầu chịu ảnh hưởng Mỹ, mỗi năm lấy 200 sinh viên, nhờ đó số bác sĩ tăng lên rất nhiều.

Kết quả từ 1947 đến 1975, hai trường y khoa Hà Nôi và Sài Gòn thì tính từ 1954 trở đi, miền Nam có khoảng 2300 bác sĩ.

Giai đoạn 54-1966 là giai đoạn ảnh hưởng giáo dục Y Khoa Pháp cho thấy kết quả số lượng thấp- và thấp đáng ngại, thấp đáng phải lên án khi không đếm xỉa gì số phận những bệnh nhân chết oan vì không thầy, không thuốc!

Cuốn sách cũng không giúp người đọc nắm được con số các bác sĩ chuyên khoa được đào tạo trong số gần 2000 bác sĩ ra trường.

Ngành giải phẫu vốn là niềm hãnh diện của giới bác sĩ Y Khoa Sài Gòn với các giáo sư thạc sĩ Nguyễn Hữu, Phạm Biểu Tâm, Trần Ngọc Ninh.

Có tài liệu nào cho phép chúng ta biết được có bao nhiêu bác sĩ chuyên khoa giải phẫu đã được đào tạo bởi chính tay ba vị thầy kể trên! Cứ giả dụ rằng mỗi năm ba giáo sư (giáo sư Ninh về nước trễ vì đi du học) nhận 5 học trò thì trong 21 năm, ít lắm chúng ta cũng có được 200 bác sĩ giải phẫu?

Những băn khoăn thắc mắc của người viết là khi chiến cuộc leo thang, hàng ngày có hàng trăm thương bệnh binh gửi về các bệnh viện trên toàn miền Nam như bệnh viện Cộng Hòa, Duy Tân Đà Nẵng, v.v... Các bác sĩ Việt Nam đang giải phẫu tại các nơi ấy học giải phẫu ở đâu, bởi thầy nào để có thể làm được đủ mọi loại giải phẫu trong hoàn cảnh thập tử nhất sinh của các thương bệnh binh?

Hội chứng bằng cấp ở Pháp

Việc học, việc thi cử là để đi đến chỗ có được bằng cấp.

Thi cử càng khó khăn thì bằng cấp càng có giá trị. Bằng ngoại quốc thì có giá hơn bằng trong nước. Cùng học ở ngoại quốc, nhưng bằng đậu ở Pháp có giá hơn bằng ở Tân Tây Lan, ở Anh quốc, Thụy Sĩ hay Bỉ.

Hội chứng Hậu thuộc địa rõ ràng là ở chỗ này: bằng cấp là thước đo chiều cao tinh thần và định vị xã hội. Ngay chính bản thân ông Diệm cũng không tránh khỏi cái bệnh bằng cấp trong đầu.

Trong cách xưng hô, ông Diệm chỉ gọi bằng Ngài những người như ông Vũ Văn Mẫu, ông Vũ Quốc Thúc vì họ có bằng thạc sĩ luật. Thường các người khác ông gọi trống không. Sau này tôi mới vỡ lẽ ra là việc nhỏ, việc lớn gì ông Diệm cũng để mắt vào. Như việc bổ nhiệm một ông quận trưởng, một chức vị nhỏ, vị quận trưởng tương lai cũng phải vào trình diện cho ông Diệm “coi tướng”

Vậy mà việc bổ nhiệm những chức vụ viện trưởng, khoa trưởng, việc chuyển hóa tiếng Việt ở đại học, v.v... ông hầu như không mấy quan tâm. Vì ông Diệm nể những người có bằng cấp.

Bằng cấp là một giấy mua vé vào đời bằng cửa lớn, cơ hội thuận tiện cho những hợp đồng hôn nhân cân bằng tính toán giữa sắc đẹp, tiền bạc và bằng cấp. Người đời từng nói, phi cao đẳng bất thành phu phụ.

Những bằng từ trường Pháp ở Việt Nam và nhất là từ nước Pháp thì vẫn là nhất. Oai hơn nữa nếu là bác sĩ học và ở Pháp.

Cái oai ấy được bác sĩ thiếu tướng Vũ Ngọc Hoàn viết:

“Các quan tây công sứ, các quan đầu tỉnh Việt Nam còn nể vì các quan đốc tờ, hèn chi trước mặt thầy thuốc tây, ta chẳng thấy người dân run sợ, khúm núm. Địa vị đã cao trọng trong xã hội, lại bị ngoại cảnh chi phối dần dà các quan đốc tờ sống xa rời dân chúng, giam mình trong một tháp ngà trưởng giả. Phải thú nhận một điều là đa số các thầy thuốc ngày xưa đều có ít nhiều tác phong quan liêu, nhưng điều đó có thể cắt nghĩa được là vì bộ mặt phong kiến của xã hội và trình độ thấp kém của dân trí thời đó.”

(Trích “Quân Y quân lực Việt NamCH”, Ibid, Vũ Ngọc Hoàn, trang 21)

Đáng lẽ cần viết thêm rằng, đồng thời nó tạo ra những huyền thoại chung quanh những bằng cấp đạt được ấy và khi “vinh quy bái tổ” thì đúng là cảnh áo gấm về làng trở thành những vị ăn trên ngồi chốc, giữ những địa vị then chốt trong môi trường đại học và ngoài đại học.

Về vấn đề giáo dục cấp Đại Học xem ra chính quyền Đệ Nhất Cộng Hòa ít can thiệp trực tiếp thô bạo vào việc đào tạo, vào chương trình giáo dục, vào tổ chức thi cử, v.v...

Vì Tổng thống Diệm nghĩ rằng tổ chức giáo dục tương đối đã có nề nếp, là tốt nhất. So với các lãnh vực khác, chính phủ ông Diệm cần quan tâm giải quyết như vấn đề kinh tế, bình định và phát triển nông thôn, phát triển quân đội.

Gọi là huyền thoại vì những bằng cấp ấy cũng có mặt tối của nó.

Chỉ riêng các lãnh vực khoa học nhân văn như sử học, triết học, văn học cho tôi thấy rằng sự chọn lựa đề tài liên quan đế luận án thì 10 người hết cả 10 đều chọn các đề tài liên quan đến Việt Nam.

Đây là một chọn lựa tạm gọi là “ăn gian”.

Chọn đề tài Việt Nam vì nó có lợi cho ứng viên mà bất lợi cho người chấm, vì họ không thể đọc được tiếng Việt, không có kiến thức chuyên ngành liên quan đến luận án. Vậy thì họ chấm cái gì, căn cứ trên tiêu chuẩn gì để cấp bằng tiến sĩ Quốc Gia của Pháp?

Có một luận án để lấy bằng tiến sĩ quốc gia về văn chương đề cập đến tiểu thuyết Việt Nam, giai đoạn 1925-1945. Làm sao giáo sư Pháp chấm luận án đủ khả năng hiểu biết về các tác giả Việt Nam như Trần Tiêu, Thế Lữ, Xuân Diệu, Vũ Trọng Phụng, Nam cao, Nhất Linh,Thạch Lam, Khái Hưng, Tú Mỡ, Lưu Trọng Lư? Đành chấm Phương pháp làm luận án, cách tìm tòi làm research? Rồi chính thí sinh làm luận án, nhiều khi tiếng Việt cũng chưa thông - chữ Hán mù tịt - có khi cũng chẳng đọc được đầy đủ về tiểu thuyết tiếng Việt. Nhưng làm thì cứ làm.

Vì thế, khi về Việt Nam dạy, thay vì dạy Quốc văn, ông lại dạy văn chương Pháp (trừ trường hợp giáo sư Thanh Lãng). Còn phần Quốc Văn thì lại nhường chỗ cho các vị giáo sư ở trong nước như Phạm Văn Diêu, Lê Hữu Mục, Vũ Khắc Khoan, v.v...

Phần đông các giáo sư dạy triết khi làm luận án ở bên Tây đều chọn Triết lý Đông Phương cho “dễ”. Dễ không hàm ý triết học Đông Phương dễ, dễ ở chỗ người tây Phương không rành rẽ chữ Hán, chữ Phạn (đây là nói trước 1975) nên viết gì thì viết. Nhưng về thì dạy triết lý Tây Phương, nhường lại môn triết học Đông Phương cho các vị tự học ở trong nước như : Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn đủ loại. Đúng là học một đằng dạy môt nẻo.

Nhìn chung, việc làm luận án chỉ nhằm mục đích kiếm mảnh bằng - một bước nhảy - hơn là từ đó mở đường cho việc nghiên cứu tìm hiểu thêm về chuyên ngành.

Mảnh bằng tiến sĩ là bước mở đầu cũng như bước kết thúc việc học hỏi thêm.

Đọc một số các đề tài luận án tại Pháp cho thấy làm một luận án Tiến sĩ văn chương xem ra không lấy gì làm khó khăn, nói “phách” một chút thì phải nói là dễ. Có nhiều đề tài luận án thật ra chỉ đáng là bài khảo cứu mà người ta có thể viết xong trong vài tháng.

Đã thế, những giáo sư có bằng tiến sĩ quốc gia ở Pháp về thì được xếp giáo sư thực thụ. Nhưng nếu đỗ tiến sĩ ở Thụy Sĩ hay Bỉ thì chỉ được xếp là giảng sư. Thanh Lãng có tiến sĩ tại Thụy Sĩ và có nhiều công trình nghiên cứu văn học hơn bất cứ giáo sư văn chương nào ở đại học văn khoa Sài Gòn chỉ được coi là giảng sư.

Trong khi một giáo sư với luận án tiến sĩ về tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1925-1945 tại Paris, mặc dầu dạy Pháp văn, mặc dầu sau đó không có bất cứ công trình nghiên cứu lớn nhỏ nào trở thành giáo sư thực thụ.

Điều gì xảy ra ở văn khoa thì có thể xảy ra ở Luật Khoa hay Y Khoa chăng? Ở những nơi ấy có điều chi giống, điều chi khác, điều chi hay hơn hay là tồi tệ hơn Văn Khoa?

Ít lắm thì khi viết xong phần này, tôi cũng tự giải tỏa cho mình một “huyền thoại” trước đây coi việc đỗ tiến sĩ ở ngoại quốc chắc phải giỏi lắm lắm! Dù không có cơ hội đọc các luận văn tiến sĩ, nhưng chỉ đọc các đề tài luận án cũng có thể hiểu phần nào nội dung các luận án ấy được xếp ở trình độ nào?

Từ luận án tiến sĩ ở Văn khoa suy diễn ra các luận án tiến sĩ luật khoa, thạc sĩ luật khoa đến luận án tiến sĩ Y Khoa. Giá có bao giờ được may mắn chỉ cần đọc các đề tài các luận án chắc cũng đủ mãn nhãm lắm rồi!

Đại học Y khoa Sài gon có 16 giáo sư thực thụ. 7 giáo sư diễn giảng, 27 giảng sư và 41 giảng nghiệm viên. Tôi thực sự không biết những ai được coi là giáo sư thực thụ, những ai là giảng sư.

Có bao nhiêu vị học ở Mỹ về được coi là giáo sư thực thụ trong số 16 người? Những Đào Hữu Anh Hoàng Tiến Bào, Vũ Quỹ Đại, Nguyễn Khắc Minh, Đỗ Thị Nhuận, Bùi Duy Tâm, Nguyễn Ngọc Giệp được xếp vào loại nào? Lại có bao nhiêu vị bác sĩ trong danh sách đã làm luận án trong Bibliographie des theses của giáo sư Nguyễn Đức Nguyên và có chân trong ban giảng huấn được xếp vào giảng sư hay giảng nghiệm viên. Đã có bác sĩ nào là học trò của các thạc sĩ giáo sư Việt Nam được phong làm giáo sư?

Ai biết xin chỉ dùm

Hội Chứng đào tạo theo Tây là tốt nhất

Cách đào tạo rập theo Tây có thể bắt đầu bằng các bằng tú tài. Chẳng hạn các chương trình triết học lớp đệ nhất nhái nguyên con triết Tây của Pháp. Cách phân chia các môn luận lý, đạo đức, tâm lý, siêu hình học là chương trình của Tây từ thập niên 1945-1950. Nhất là càng lên cao ở trình độ Đại Học thì từ giáo sư đến chương trình học, việc thi cử đều theo Tây cả.

Quy chế sinh viên nội trú của trường Y Khoa đại học Sài Gòn là tiêu biểu điển hình thừa hưởng cái di sản của Pháp để lại, một điển hình nô lệ cách đào tạo của Pháp: Khắt khe, khó khăn, bảo thủ, ít ỏi.

Với việc thâu hồi chủ quyền đại học ngày 11-5-1955. Khoa trưởng Y Khoa đầu tiên là giáo sư Phạm Biểu Tâm. Niên học 1954-1955, toàn miền Nam có 2.154 sinh viên. Qua năm 1959-1960, số sinh viên tăng lên 9.007 người, trong đó Sài Gòn có 7924, Huế, có 1.083 người.

Có bao nhiêu sinh viên y khoa từ năm 1954 đến 1959? (Trích “Sáu năm hoạt động của chính phủ”, Hồ Đắc Huân, trang 651.)

Ở trong Nam, trường Y Khoa được gọi là Centre d'Études médicales de Saigon, trụ sở tại đường Testard. Kết quả khóa thi năm 1949, có 39 bác sĩ Y Khoa. Thế là nhiều đấy.

Cũng theo tài liệu “Sáu năm hoạt động của chính phủ” thì trên toàn quốc có 130 y sĩ vào năm 1954, sang năm 1960, miền Nam tự do có 184. Giả dụ trên toàn cõi có 130 y sĩ thì 3/4 ở miền Nam - nghĩa là khoảng 96 người. Sáu năm sau, đào tạo thêm được mỗi năm trên dưới 15 người? Điều đó có ý nghĩa gì?

Những con số dưới đây còn làm ngạc nhiên nhiều người, khi trường Y Khoa Hà Nội được mở nằm 1902 thì đến năm 1939 đã có 139 bác sĩ và 216 y sĩ Đông Dương. (Trích Indochine, Pierre Brocheux, trang 257-25.)

Số lượng ít ỏi theo cách đào tạo như vậy có phù hợp với thực trạng và nhu cầu y tế của miền Nam không? Vấn đề là nhu cầu hay phẩm chất? Vấn đề nào là ưu tiên số một của ngành Y Khoa?

Theo giáo sư Trần Ngọc Ninh (TNN, Y khoa bác sĩ, 1923, 405 Hai Bà Trưng Sài gòn. Theo Niên lịch công đàn), người đã trải qua những kinh nghiệm đắt giá về chế độ sinh viên nội trú. Ông viết:

Những năm đầu tiên của chế độ nội trú có một người đậu mỗi năm, mở đầu (1936) là anh Mai Sĩ Đoàn đã chết vì bệnh lao, rồi đến anh Trần Văn Bảng, anh Tôn Thất Tùng, anh Đặng Văn Chung, anh Phạm Biểu Tâm, anh Đinh Văn Thắng, anh Nguyễn Đình Cát, mỗi người một năm. Đến năm 1942 mới lấy hai người đậu, anh Nguyễn Hữu (giáo sư y khoa, bác sĩ giám đốc viện giải phẫu, sài gòn, theo tài liệu Niên lịch công đàn) và anh Nguyễn Văn Thành.

(Trích “Một chút lịch sử y khoa, Đại Học Đường Sài Gòn”, giáo sư Trần Ngọc Ninh, trang 35.)

Cũng theo giáo sư Ninh, kể từ 1966 trở về sau hằng năm có đến 25 đến 50 sinh viên được tuyển làm nội trú.

Tại sao mãi đến năm 1966 vấn đề sinh viên nội trú mới được mở rộng? Phải chăng vì chế độ học theo Pháp đã cáo chung? Cũng vào năm nay, một ông Thủ tướng võ biền, Nguyễn Cao Kỳ, đã phát lệnh đả phá trường Tây và chấm dứt liên hệ ngoai giao với Pháp!

Trường Y Khoa dưới cái dù của pháp như con nòng nọc đứt đuôi Giáo sư Pháp bỏ về nước. Bằng bác sĩ Y Khoa ở Việt Nam không còn được nhận tương đương với bằng Pháp.

Cũng theo giáo sư TNN là từ năm 1945 đã có việc sinh viên bãi khóa để đòi hỏi hủy bỏ chế độ nội trú “ bất công và thiếu nhân đạo”. Cũng từ năm 1945 đã có những soạn thảo về việc xử dụng tiếng Việt trong Y Khoa noi gương người khởi đầu xử dụng tiếng Việt trong ngành Khoa học là giáo sư Hoàng Xuân Hãn.

Những tiết lộ của giáo sư TNN là quý giá và rất quan trọng

Ý hướng như thế là quá tốt đẹp. Vậy mà 30 chục năm sau, trường Y khoa vẫn giữ “giấc ngủ trưa” gò ép chế độ nội trú và việc chuyển ngữ tiếng Việt. Những ai là người trách nhiệm kìm hãm đà tiến và sự phát triển y khoa Sài Gòn trong tầm ngưỡng vọng theo kịp thế giới như bác sĩ Thắng mong đợi?

Và để đến nỗi sau này sinh viên y khoa Sàigon phẫn uất rồi bùng nổ bung ra, một phần do Việt cộng dật giây đã biểu tình đòi hỏi việc chuyển ngữ tiếng Việt cũng như nới lỏng quy chế nội trú.

Đó là phản ứng tiêu cực chống đối các thầy, nhưng lại rất tích cực vì hai mục tiêu đòi hỏi rất chính đáng -đáng lẽ phải được thực hiện từ lâu- đã không làm, đã nhất định giữ nguyên trạng tình trạng Hậu Thuộc địa theo lối đào tạo chính quy của Pháp.

Pháp dạy làm sao, đào tạo kiểu nào, ta đào tạo kiểu đó.

Mặc dù rất kính phục giáo sư TNN, nhất là về phạm vi văn hóa mà nay chỉ có mình ông đứng ra đứng mũi chịu sào, vì ông Hữu bỏ đi Pháp từ thời đó, và ông Phạm Biểu Tâm không còn nữa.

Nhưng luận cứ cho rằng, “Nhưng vấn đề vô cùng phức tạp và có rất nhiều khía cạnh trong đó có sự dung hòa giữa nhu cầu giữ phẩm chất cho nền y học Việt Nam là một trách nhiệm mà giáo dục y khoa không thể không cân nhắc.” (Trích Trần Ngọc Ninh, Ibid., trang 3)

Tôi không dám lạm bàn đến Phẩm chất đại học. Nhưng tôi dám nói rằng quy chế nội trú y khoa là bất công đối với đa số sinh viên.

Đây là luận cứ có giá trị biện hộ hơn là giá trị chứng thực. Tôi đã hỏi một số bác sĩ thì phần đông đều ca thán về cách đào tạo của trường Y Khoa Sai Gòn. Nhiều người nhìn nhận khi ra trường còn ngù ngà ngù ngờ. Nói một cách hơi quá đáng, rành đỡ đẻ không hẳn phải nhờ thầy mà là nhờ kinh nghiệm đỡ đẻ do y tá truyền lại. Nếu không có bác sĩ Trần Đình Đệ, học hậu đại học về sản khoa ở Mỹ về thì ngành này đi đến về đâu?

Dù câu chuyện trên đây hé lộ một phần nhỏ sự thật cho thấy cách đào tạo của Y Khoa Sài Gòn vấp váp về nhiều mặt: Chương trình học lỗi thời, chậm lụt, kỹ thuật kém không thực tế, không bám sát vào nhu cầu y tế Việt Nam, nhiều chương trình học viển vông chỉ dùng cho nghiên cứu chuyên ngành, lý thuyết xuông, học mà không hành, học bằng mắt, học bằng xem mà không học bằng tay.

Học để là bác sĩ hơn là để làm bác sĩ.

Phương pháp giảng dạy, cách dạy, cách truyền đạt không nhằm đối tượng được truyền đạt mà nhằm chủ yếu người truyền đạt, tùy thuộc vào cá tính người truyền đạt - đôi khi phô trương và cả dấu nghề (giữ tài liệu cho riêng mình) đôi khi lấy cái giỏi của mình làm cớ cho sự khinh miệt người khác.

Dĩ nhiên không thiếu nhiều thầy thương học trò, hết lòng chỉ dẫn. Trò có mắt đế biết ơn thầy theo đúng đạo Thầy-Trò.

Nhưng một số sai lầm trên là những sai lầm từ căn bản, sai lầm về chủ đích giáo dục và triết lý giáo dục.

Dạy là truyền đạt mà nếu kết quả không đạt được thì lỗi ở người truyền đạt không phải người được truyên đạt. Trồng cây ăn trái mà không cho trái thì lỗi ở người làm vườn. Hai năm đầu y khoa là hai năm lý thuyết vô tích sự.

Chế độ dạy tiếng Pháp đi ngược lại quyền lợi sinh viên và tình tự dân tộc.

Chế độ nội trú (tôi không nói đến các resident ở Hoa Kỳ) cực kỳ khắt khe trong tuyển chọn tạo ra những ưu đãi tuyệt đối, quyền lực tối cao nơi ông thầy, hãnh tiến nơi người được tuyển chọn trong nỗi nhục nhã của những kẻ không được chọn và không đếm xỉa đến thành phần đa số còn lại. Giai cấp giữa giai cấp - bạn bè đồng nghiệp người cao kẻ thấp - bất công trong nhiệm vụ và sứ mạng phục vụ, lý tưởng, sự say mê trở thành đui què, thất vọng, nhẫn nhục trở thành sự khôn ngoan theo bước chân Hàn Tín.

Cái đa số là mục đích của giáo dục và là triết lý giáo dục chứ không phải cái thiểu số. Đa số hay thiểu sổ nếu không nắm được nguyên tắc ấy, làm giáo dục là phản giáo dục. Cái lỗi lầm về giáo dục kéo dài chỉ người trong cuộc mới hiểu cho thấu. Nhưng tôi vẫn tin vào lời phát biểu của giáo sư Trần Ngọc Ninh viết, “Trong nghề bắn cung, chỉ có thể có một người giỏi nhất. Trong việc mổ không có vấn đề ấy. Trong sự dạy học, người thầy phải mong rằng học trò giỏi hơn thầy.” (Trích Trần Ngọc Ninh, Ibid., trang 55.)

Nhưng mặt khác, tôi vẫn nghe được những tiếng nói lỗi nhịp và lạc điệu.

Một bác sĩ trẻ học trò cha giáo sư Lichtenberger sau ngao ngán kể lại rằng có lần thầy bảo rằng nếu các anh không được học đến nơi đến chốn thì sau này chẳng khác gì các anh cầm dao mổ giết người một cách hợp pháp.

Đã có bao nhiêu những chẩn đoán, cầm dao giết người một cách hợp pháp? Vì không được đào luyện đến nơi đến chốn? Thế nào là đến nơi đến chốn? Học theo Tây - không theo Mỹ- là đến nơi đến chốn?

Một vị khác cho biết khoá về Hộ Sản bằng tiếng Pháp của một giáo sư dày cả trăm trang, đọc chẳng hiểu gì. Nhưng khi có một vị giáo sư học từ Mỹ về cho một cái bài học dày 4, 5 trang thôi nhưng sinh viên nắm được ngay điều gì y sĩ phải làm theo thứ tự ra sao cứ thế mà làm?

Trăm trang khác 5 trang ở cái gì? Có cần tranh luận đến trở thành tranh chấp già trẻ, tranh chấp theo Pháp hay Mỹ. Hay chỉ cần so sánh cái cours 100 trang và cái cours 4, 5 trang là đủ? Ý kiến của các vị giáo sư thạc sĩ là đúng hay những ý kiến của sinh viên nhỏ nhoi phản ánh đúng thực trạng giáo dục Y khoa Sài gòn là đáng được nghe, được trân trọng?

Chỉ từ khi ra nước ngoài, nhiều vị bác sĩ mới có dịp quay lưng ra ngoài cửa hang động (diễn giải theo môt huyền thoại Hy Lạp bàn về Kiến Thức thực-giả) để nhìn thấy ánh sáng mặt trời thay vì chỉ nhìn thấy bóng của chính mình và cảnh vật bên ngoài lay động phản chiếu trên bức tường hang động.

Cũng cái vị giáo sư học hộ sản từ Mỹ về cho cái “cours dài vài trang” đã không được các đàn anh theo tây ngấm ngầm ngăn cản không được bước vào phòng mổ. Chỉ đến lúc ông rời nhiệm sở cũ đi chỗ khác mới có dịp thi thố tài năng của mình. Nếu điều này là có thực thì rõ ràng có sự kỳ thị, sự tranh chấp, sự đố kỵ giữa hai phe già, trẻ, theo Pháp, theo Mỹ. Kẻ duy nhất chịu thiệt thòi trong cuộc tranh chấp này là các sinh viên Y Khoa Sài gòn.

Tôi đọc một vài bài viết hồi ký về chuyện đi thực tập của các sinh viên y khoa. Tôi có cảm tưởng đang đọc một đoạn mô tả “đám rước”, chỉ thiếu cờ xí, võng lọng và não bạt hơn là một buổi thực tập. Hầu hết từ người đi trong đoàn rước đến người đứng “ngoài vòng, đứng xa xa” chỉ là những khán giả đứng quan sát. Đúng là phúc cho ai được làm nội trú, làm con cưng của thầy, vì y khoa dành cho họ.

Cách đào luyện khắt khe như thế hoặc có mục đích đào luyện thiên tài, hoặc nhân danh giữ gìn phẩm chất y khoa, hoặc chỉ là một hình thức kềm kẹp nhau không cho ai ngóc đầu lên được? Những ranh giới mong manh giữa các điều vừa kể trên có thể biến một điều tốt nhất, lý tưởng nhất trở thành tồi tệ nhất, đáng đỏ mặt. Cái tốt, cái xấu đan xen nhau - ranh giới rất mù mờ; bảo rằng lý tưởng cũng được; bảo rằng bảo thủ, bè phái, cố chấp cũng được; bảo rằng bảo vệ quyền lợi cũng được mà một kẻ bàng quan đứng ngoài đôi khi chỉ hiểu được cái hiện tượng, cái xuất hiện, cái nghe nói, không nắm được cái “yếu tính” của người trong cuộc.

Đó cũng là giới hạn của kẻ viết bài này, một kẻ ngoài cuộc. Cho nên sẽ có kẻ trách, kẻ tán đồng.

Chế độ nội trú ấy vẫn tồn tại từ 1945, vẫn kéo dài ít nhất đến 1966, không một ai lên tiếng. Biết mà không nói. Hàn Tín đâm ra có vẻ nhiều!

Chậm một năm là thiệt thòi một năm cho sinh viên, chậm 20 chục năm thì thiệt thòi 20 chục năm.

Vì thế, năm 1958 viện trưởng đại học Huế muốn mở thêm trường Y khoa vì thấy rằng Việt Nam thiếu bác sĩ trầm trọng. Cứ 30.000 ngàn ngườ mới có một bác sĩ. Trong khi tại Phi Châu là 20.000/một bác sĩ. Sự thiếu hụt bác sĩ là nguyên do từ đâu?

Chỉ rất tiếc không ai đã từng học ở Mỹ về có đủ uy thế để cố vấn cho ông Diệm ngay từ 1955!

Hội Chứng tôn sùng tiếng Pháp và ngại chuyển hóa tiếng Việt

Mới đây nhất tại Hải Ngoại, tôi được một người bạn tặng cho tập san quân y: Quân Y Quân Lực Việt Nam Cộng hoà (Le corps de Santé. Des forces armées de la République du Viet Nam). Đây là một tài liệu hữu ích cho thấy 95% nam bác sĩ tốt nghiệp đều là quân y sĩ.

Chiến trường miền Nam đã ngốn 95% lực lượng y sĩ cho nhu cầu Quân đội. Đó là một phát lộ làm ngạc nhiên nhiều người không ở trong nghề.

Và biết bao nhiêu thương bệnh binh Việt Nam Cộng hoà đã được cứu sống nhờ các quân y sĩ này. Họ xứng đáng được tôn vinh nhất trong ngành Y sĩ. Nhìn họ phần đông hào hùng trong bộ quân phục thêm con rắn trên ve túi áo cho biết họ là ai, không phải thứ thường. Họ đã cứu sống được bao nhiêu bệnh nhân ở những vùng quê, quận lỵ hẻo lánh. Với đồng lương ít ỏi của một y sĩ trung úy mới ra trường là cả ngân sách để cà phê cà pháo, tiền bao đào, tiền xoa mạt chược, ngay cả tiền trợ cho vợ trẻ, con thơ.

Bác sĩ thiếu tướng Hoàn giả dụ rằng một ngày không có các bác sĩ này thì sẽ ra sao?

Tôi cũng ghi nhận một nhận xét “hết lòng” của Y Sĩ Trung Tá Phạm Viết Tú đối với thương bệnh binh:

Bây giờ đây, một số đã ra đi vĩnh viễn, một số khác đang sống vất vưởng nơi quê nhà, chịu mọi sự đắng cay và thiếu thốn về vật chất cũng như tinh thần, do thù hận và kỳ thị. Một số nhỏ khác có lẽ đang sống một cuộc sống không kém khó khăn tại các nước dân chủ tự do. Cuộc chiến vừa qua tại Việt Nam, các thương bình VNCH đã thực sự bị bỏ rơi và bị nhiều thiệt thòi nhất. Biết đến bao giờ các anh hùng tử sĩ, các chiến sĩ VNCH mới được vinh danh trở lại

Điều ngạc nhiên là tập tài liệu này được in và xuất bản năm 2000, nhưng nội dung các bài viết hầu hết bằng hai thứ tiếng Việt và Pháp. Chắc hẳn Ban Biên tập có một dụng ý gì đó nên có chủ trương như vậy không tiện nói ra chăng!

Tôi cũng quay ngược lại quá khứ vào những năm xa xôi đầu thời kỳ thuộc địa Pháp năm 1860, nhà Chung Thiên Chúa giáo đã lập trường Adran, được gọi là trường Pháp-Việt. Đô đốc La Grandière là người đã mời các sư huynh (Frères des écoles Chrétiennes) sangViệt Nam điều khiển trường.

Sang năm sau, đến lượt các dì phước dòng áo trắng (Soeurs Saint Paul de Chartres) lập trường học cho các trẻ em nữ. (Xem L'Ouvre Francaise d'Enseignement au Việt Nam, A. Rivalen, tạp chí France-Asie, số 125-126, Sài Gòn 1956.)

Tiếng Pháp chính thức du nhập trở thành sinh ngữ chính trong nền giáo dục Việt Nam. Vì vậy, việc dùng tiếng Pháp như một sinh ngữ chính được áp dụng tại một số trường Thiên Chúa giáo thuộc hệ thống La San cũng như hệ thống các trường bà sơ có gốc gác dòng mẹ ở Tây đã kéo dài trong nhiều năm.Lúc đầu không nói làm gì, nhưng việc nó được duy trì và kéo dài trong nhiều năm trong một tình thế đất nước và lịch sử đã sang trang là một trái chiều khó chấp nhận. Điều đó nó tố cáo một thái độ chậm lụt, không thức thời, trì trệ và thiếu tinh thần dân tộc.

Trong khi các trường Thiên Chúa giáo khác trên toàn miền Nam không ở trong quỹ đạo La San thì vấn đề dạy tiếng Việt đi theo hướng chung của hệ thống giáo dục toàn miền Nam. Kể từ đó, nhiều trường học Thiên Chúa giáo được mở ra trên khắp Việt Nam, nhất là sau 1954 đã không ở trong quỹ đạo của hai trường đó. Và cũng tạo được những thành quả không kém.

Riêng hệ thống trường Tây Thiên Chúa giáo, họ dễ dàng tạo được uy tín trong giới trung lưu thành thị. Ai có tiền của, có địa vị xã hội, bất kể thành phần tôn giáo nào, đều muốn cho con theo học tại các trường trên và thường phải trả một giá học phí cao. Nó tạo ra hai hệ thống giáo dục, một cho con nhà dân giả, một cho giới thượng lưu, có tiền có của. Sỉ số học sinh các trường này tăng vọt lên mức trần 2000 học sinh mỗi năm. Có con học ở đây thì yên tâm nhiều bề và không khỏi có niềm hãnh diện thầm kín của bậc làm cha mẹ.

Rồi từ đó, hai hệ thống trường Nam và Nữ ấy vẫn giữ độc quyền “quy chế trường tây”.

Sau này, tại Sài Gòn, chỉ còn lại hai trường duy nhất dạy chương trình Pháp là trường Marie-Curie để dạy trung học và 2 trung tâm giáo khoa Colette và St-Exupéry để dạy tiểu học.

Như thế, có đến hai hệ thống giáo dục trung tiểu học: một hệ mà tuyệt đại đa số là trường Việt, một thiểu số còn giảng dạy bằng tiếng Pháp. Ở bậc đại học, chỉ còn lại hai nơi vẫn duy trì giảng dạy bằng tiếng Pháp: Đó là Viện Đại học Đà Lạt và trường Y khoa Sài Gòn.

Chúng ta không bàn đến trường Y hhoa Ở Hà Nội lúc đầu vào năm 1902 khi mới thành lập. Việc giảng dạy bằng tiếng Pháp là điều đương nhiên phải như thế trong chế độ bảo hộ.

Chúng ta cũng không đề cập đến những năm từ 1947-1954 dưới thời các chính phủ Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Phan Long, Trần Văn Hữu,Nguyễn Văn Tâm, Bửu Lộc vì bản thân những vị này theo Tây. Ngay trong Hiệp định Élysée có điều khoản ghi, “ Bộ Quốc gia Giáo dục Việt nam sẽ tổ chức một nền giáo dục từ tiểu học đến đại học. Tiếng Pháp được ưu đãi và sẽ là tiếng công dụng ngoại giao ở Việt Nam, được dạy ở bậc tiểu học và bắt buộc dạy từ trung học trở lên.” (Trích “Viêt Nam máu lửa”, Nghiêm Kế Tổ, trang 151.)

Nhưng những cơn gió chính trị đã có lúc quét người Pháp ra khỏi vùng ảnh hưởng ở Việt Nam dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim. Trong khoảnh khắc, quân Pháp nhường chỗ cho quân Nhật và Tổng Tư Lệnh Nhật tuyên bố, “ Người Nhật trao trả độc lập cho Việt Nam để cùng nhau lập khối Đại Đông Á.”

Bảo Đại trao trọng trách cho Trần Trọng Kim lập chính phủ ngày 17-4-1945.

Trong một tình thế cực kỳ cam go với nạn đói đang hoành hành tại Bắc Việt, ông Hoàng Xuân Hãn vẫn đưa ra chương trình cải tổ giáo dục ở Huế cùng với quý ông như Nguyễn Dương Đôn, Nguyễn Huy Bảo, linh mục Nguyễn Văn Hiền, Tạ Quang Bửu, Ưng Quả, Nguyễn Thúc Hào, Phạm Đình Ái, Đào Duy Anh và Ngô Đình Nhu, v.v... Ông Hoàng Xuân Hãn đưa ra chương trình cải cách giáo dục bằng cách dùng tiếng Việt làm ngôn ngữ chính trong giáo dục Việt Nam .

Mặc dầu chính phủ Trần Trọng Kim chỉ đứng vững sau mấy tháng. Chương trình Hoàng Xuân Hãn vẫn là Kim Chỉ nam cho các chương trình giáo dục sau này.

Hoàng Xuân Hãn cũng là người đã thực hiện được cuốn Danh từ khoa học. Điều đó cho thấy rằng những viện cớ việc chuyển ngữ các danh từ khoa học là điều bất khả thi chỉ che dấu một sự ngụy biện trá hình của một tình trạng vọng ngoại và vong bản.

Khi đã quét sạch bóng dáng người Pháp ra khỏi xứ này thì không có bất cứ lý do nào chính đáng để biện hộ, như giữ gìn phẩm chất giáo dục, được nữa. Tiếng Việt của người Việt, cho người Việt, giữ gìn trong sáng tiếng Việt là bổn phận người Việt, v.v...

Trường Đại học Đà lạt còn có thể chấp nhận được việc giảng dạy bằng tiếng Pháp, vì toàn bộ các giáo sư là các linh mục người ngoại quốc mượn từ bên Giáo Hoàng Chủng viện Pio 10 sang dạy cho sinh viên Đại Học Đà Lạt (trừ hai ba giáo sư người Việt).

Nhưng còn trường Y khoa Sai gòn, ngoài một số các giáo sư người Pháp, phần lớn còn lại là giáo sư người Việt. Giáo sư người Việt có đủ khả năng dạy Y Khoa bằng Việt được không? Đó là câu hỏi đặt ra cần có câu trả lời.

Vấn đề dạy tiếng Việt ở Đại học là trách nhiệm của các khoa trưởng, viện trưởng mà không bị bất cứ chi phối nào từ thẩm quyền cao hơn.

Đối với riêng môn Triết học ở miền Nam ngay từ thời Đệ nhất Cộng Hòa, dưới sự “bảo trợ” của luật sư Đào văn Tập đã soạn được một cuốn sách mỏng (256 trang) in và tái bản hai lần gọi là Danh Từ Triết Học. Tham vọng của nhóm soạn thảo là thực hiện được một cuốn tự điển danh tiếng như tự điển Lalande của Việt Nam. Nhóm này gồm LM. Cao Văn Luận, Đào văn Tập, Nguyễn Văn Trung, Trần Văn Tuyên và Linh Mục Xuân (Corpet). Nhưng chẳng may luật sư Đào Văn Tập mệnh yểu, cả chương trình thực hiện Bộ Bách khoa Tự Điển không có cơ hội thực hiện.

Ngoài ra, linh mục Trần Văn Hiến Minh, một mình, đã soạn được bộ Từ Điển Danh từ Triết Học và Thần học, in photocopy. Cuốn sách dày hơn 400 trang, mỗi trang vào khoảng 13 danh từ được dẫn giải theo nghĩa từ nguyên và các nghĩa khác nhau tùy theo mỗi triết gia. Công chung có hơn 5000 ngàn chữ.

Không có thứ chữ nào dù là khoa học, dù chuyên môn lại không thể không chuyển ngữ được. Nếu chưa chuyển dịch được thì tạm để nguyên chữ.

Cái vấn đề là chuyển ngữ cái đầu trước khi chuyển ngữ.

Hội chứng Hậu thuộc địa do sư muốn duy trì tiếng Pháp nó gợi nhắc đến các chính Phủ Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Văn Tâm, Trần văn Hữu thời 47-54. Nhưng nó không thể chấp nhận được sau năm 1955 vì nó chứng tỏ sự lạc hậu lỗi thời và thiếu chính trị. Tại Viện Đại Học Huế, có mở thêm phân khoa Y khoa vào năm 1959 và ở nơi đây đều được dạy hoàn toàn bằng tiếng Việt khi giáo sư là người Việt. Sau này đại học Minh Đức cũng dạy bằng tiếng Việt một cách suông sẻ.

Vậy thì Y khoa Sài Gòn lấy lý do gì để biện minh cho việc cứ dạy tiếng Pháp mặc dầu biết rằng một số không nhỏ sinh viên học chương trình Việt sẽ không nghe kịp, không hiểu kịp. Tôi không trả lời thay cho ai được và trách nhiệm tinh thần của người thầy dạy là truyền đạt. Nếu không truyền đạt được thì ý nghĩa việc giáo dục là gì!

Cái tinh thần gò bó ấy, cụ Trần trọng Kim gọi là tinh thần Học Phiệt, “Ở xã hội ta ngày nay có một hạng người, nghe nói đến nước mình thì ngây ngây ngây như người ngoại quốc; sử nước mình không biết, tiếng nói nước mình thì chỉ biết qua loa, đủ dùng trong sự giao thiệp hằng ngày.” (Trích Nguyễn Văn Y, “Nhà Giáo”, Sài gòn, 1973, trang 132.

Và cộng sản đã lợi dụng dịp tranh chấp này đưa ra những luận điệu về hùa trong tờ Hồn Trẻ như sau:

“Vấn đề đấu tranh đòi chuyển ngữ ở Đại Học Y Khoa được Hồn Trẻ làm hậu thuẫn, đăng nguyên văn nghị quyết 5 điểm của “Ủy Ban vận động chuyển ngữ đại học và chống trường ngoại quốc ở Việt nam và Hồn Trẻ bình luận:

“Sau các buổi hội thảo về vấn đề chuyển ngữ, sinh viên Y Khoa đã biểu lộ quyết tâm đẩy mạnh vấn đề làm chuyển biến một hiện tượng chậm tiến và nô lệ hãy còn tồn tại. Tuy nhiên công việc hãy còn dở dang vì ý kiến bảo thủ của một số giáo sư viện cớ nào là nếu học tiếng Việt thì sinh viên sẽ kém ngoại ngữ, nào là việc dạy sẽ khó khăn. Hồn trẻ thấy tất cả mọi lý do nêu ra đều không có lý do. Chỉ có một lý do độc nhất là có một số người cho đến nay vẫn còn mang nặng đầu óc nô lệ, không nô lệ chính trị mà nô lệ tư tưởng, nô lệ mặc cảm, hay mang các bệnh lười, chỉ theo thói quen mà không chịu cải tiến.

Hồn Trẻ cương quyết đứng về phía anh em sinh viên và sẽ ủng hộ đến cùng”.

(Trích “Trui rèn trong lửa đỏ”, Tập Ký sự truyền Thông Thành Đoàn, tập 1, trang 140.)

Việc tranh chấp tại trường Y khoa giữa hai khuynh hướng theo Pháp và theo Mỹ

Việc tranh chấp giữa hai nhóm theo Pháp và theo Mỹ đã được giáo sư Trần Ngọc Ninh nhắc tới với những lời giải thích còn chưa được rõ ràng.

Người ta còn nhớ là ngay từ tháng 10/1958, giáo sư Jason đã làm một bản phúc trình “Report on proposed medical Center for Viet Nam” về các vấn cơ sở, nhân viên và học trình. Sau nhiều buổi thương thuyết giữa Mỹ và các giáo sư trường Y khoa đã không đem lại kết quả cụ thể gì.

Lý do tại sao không đem lại kết quả gì thì không được rõ.

Chú thích: Mỹ có nhiều tổ chức khác nhau nhằm hỗ trợ Việt Nam về giáo dục như các cơ quan: USAID United States Agency for International Development), phụ trách quản lý giáo dục, cấp học bổng, đào tạo sinh viên. AID (Agency for International Development): Lo đào tạo trí thức, cán bộ giáo dục U.S.I.S. (United States Information Service) Sở thông tin Hoa Kỳ trắc nhiệm các sinh hoạt văn hóa, thư viện, dạy tiếng Anh, v.v... Cho đến năm 1969, có 469 người được đi du học tại Mỹ. Tổng số sinh viên Y, Nha, Dược năm 1973-1974 là 2610.

Cái thế chính trị của người Pháp không còn nữa. Dựa vào yếu tố gì để ngả theo Pháp? Và trên thực tế, Pháp đã giúp được gì cho trường Y khoa: vấn đề đào tạo nhân sự, cung cấp giáo sư, cung cấp dụng cụ y khoa, trường sở, tài liệu sách vở?

Đã có thêm bao nhiêu giáo sư tốt nghiệp từ Pháp về? Những xung khắc đối đầu giữa hai phía giữa giáo sư trẻ và giáo sư già đã được giáo sư Trần Ngọc Ninh xác nhận rõ tính chất của cuộc tranh chấp:

“Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng là sự tranh chấp quyền hành giữa các nhân viên giảng huấn trẻ và nhóm giáo sư già giữ quyền hành trong trường qua Hội Đồng Khoa. Nhóm trẻ trách rằng nhóm già chèn ép và ngăn chặn sự tiến thủ của các người trẻ (…) Nhóm trẻ quy tụ lại trong sự trách móc rằng nhóm già chịu ơn của thực dân Pháp nên cố duy trì ảnh hưởng của Pháp ở trường Y Khoa. Những người không muốn đi vào chính trị nói rằng các ông già bảo thủ.

Các giáo sư không tuyên bố lập trường, nhưng có ý trách rằng bọn trẻ theo Mỹ một cách quá khích.

Về phía Hoa Kỳ, tuy có một chương trình y khoa mới do Giáo sư J.M May thảo ra với sự đóng góp của giáo sư Việt Nam. Nhưng từ Wagshington có những áp lực để bỏ chương trình ấy mà theo chương trình của một trường y khoa Hoa Kỳ để cho sự trao đổi giáo sư được thuận tiện.

Cuộc tranh chấp lên đến cao độ đi đến việc bãi nhiệm khoa trưởng là giáo sư Phạm Bửu Tâm và bầu lên một ủy ban gồm 5 người để điều hành việc trường. Đó là các bác sĩ Ngô Gia Hy, Trần Anh, Nguyễn Ngọc Huy, Nguyễn Thế Minh và Lê Minh Trí.

Tôi là người mà sự học đã hoàn toàn ở Pháp. Tôi cũng chủ trương ít ra là trong một thời kỳ chưa biết bao lâu là phải đào tạo một lớp nhân viên giảng huấn ưu tú theo con đường hẹp của các kỳ thi tuyển.”

(Trích “Một chút lịch sử Y Khoa Đại Học Đường Sài Gòn”, 1954-1975, giáo sư Trần Ngọc Ninh, trang 155-156.)

Giáo sư TNN đã khẳng định, đó là tranh chấp quyền hành. Như vậy là đủ rồi.

Linh mục Cao Văn Luận cũng đã tiết lộ việc tranh chấp tại Y Khoa Sài Gòn như sau:

“Người thứ nhất tôi đến tìm là ông Costler, phó giám đốc cơ quan Viện trợ Hoa Kỳ. Ông tỏ vẻ hiểu biết và cho tôi biết rằng Hoa Kỳ có thể giúp đỡ Việt Nam rất nhiều về Khoa Học Kỹ thuật, nhưng không thể giúp gì cho y khoa được. Từ ba năm nay, Hoa Kỳ cũng muốn giúp đỡ y khoa Việt Nam phát triển, nhưng vì sự cạnh tranh giữa hai khuynh hướng Pháp và Mỹ nên đành bó tay”.

Tôi hứa với ông ta là trong đại học y khoa Huế, tương lai vấn đề cạnh tranh ảnh hưởng giữa Pháp và Mỹ sẽ không thành vấn đề. Ông hứa sẽ nghiên cứu sự yêu cầu giúp đỡ của tôi và sẽ thông báo sau”.

Sau đó, Lm Cao Văn Luận đã đi gõ cửa tòa đại sứ Pháp. Đây là nội dung cuộc trao đổi giữa hai bên:

“Nơi thứ hai mà tôi tìm đến là tòa đại sứ Pháp. Ông tham vụ tòa đại sứ Pháp trả lời cho tôi biết rằng chính phủ Pháp hiện đã dốc các nỗ lực giúp cho đại học Y khoa Sài gon và thấy khó có thể giúp thêm cho đại học y khoa Huế, vì vậy không thể hứa điều gì ngay lúc này, nhưng sẽn nghiên cứu và cho biết sau”.

(Trích Cao Văn Luận, “Bên giòng lịch sử”, trang 11-12)

Theo như lời tiết lộ của ông Costler là sự tranh chấp kéo dài từ ba năm nay, tức là bắt đầu khoảng năm 1955. Và người Mỹ thất vọng vì không giúp gì được cho Y khoa Sài Gòn nên cũng không có ý định giúp Y khoa Huế. Phần Tham vụ tòa đại sứ Pháp cho biết đã tốn công của để giúp Y khoa Sài Gòn nên không đủ phương tiện giúp y khoa Huế.

Qua viên Tham vụ tòa đại sứ Pháp, người ta thấy rõ ràng cánh giáo sư thân Pháp đã chọn lựa dứt khoát đứng về phía Pháp và chiếm được ưu thế, hất cẳng Mỹ ra ngoài.

Cũng theo giáo sư Trần Ngọc Ninh:

“Kinh nghiệm của Mỹ đã thất bại khi trường Harvard giúp trường Đài Loan, trường California ở San Fransisco giúp trường Djakarta là hai thí dụ lớn nhất, là hai thất bại điển hình. Chúng tôi cũng không muốn thất bại, nên ông Khoa trưởng Phạm Biểu Tâm, thay mặt Hội Đồng Khoa, đã từ chối trường Illinoi, từ chối trường Seattle, từ chối mấy trường khác nữa và đưa ra lời đề nghị hợp tác với Hội Y Sĩ Hoa Kỳ để nhờ Hội tuyển mộ hộ Giáo sư tham quan trên căn bản cả nước cho trường của chúng tôi.

Tôi hiểu rằng Hội Y Sĩ Hoa Kỳ (AMA) chưa bao giờ làm công việc ấy, chưa bao giờ có thể nghĩ rằng có thể làm cái việc ấy. Các ông nói là một phiêu lưu, tôi nói là một thách thức.

Tôi dứt lời thì Ủy ban xin rút ra để họp riêng trước khi ra mắt báo chí, và sau đó yêu cầu tôi cùng họp báo với họ. Trung tướng Humphreys cũng ngồi vào bàn. Ủy ban công khai tuyên bố sự cộng tác của Hội Y sĩ Hoa Kỳ vào việc cải tổ giáo dục y khoa tại Việt Nam.

Trường thuốc mới được khánh thành một năm sau và là sự nghiệp độc nhất có thể làm cho nhân dân Hoa Kỳ hãnh diện được ở Việt Nam.”

(Trích “Trần Ngọc Ninh”, Ibid., trang 31-32)

Giáo sư Trần Ngọc Ninh không cho biết những lý do gì đã khiến giáo sư Phạm Biểu Tâm năm lần bảy lượt từ chối tất cả sự giúp đỡ của các trường đại học Hoa Kỳ.

Có thể cho đến nay cũng ít ai có may mắn biết rõ những nguyên nhân chính của sự từ chối này! Có thể suy đoán là các vị giáo sư có trách nhiệm trong Hội Đồng Khoa đã chọn Pháp như một người tài trợ chính cho trường Y Khoa.

Tôi không biết những lý do bên trong tại sao lại từ chối, nhưng với tư cách một người dân thường chẳng có liên quan gì đến trường Y khoa. Tôi cảm thấy tiếc hùi hụi, chúng ta đã bỏ mất nhiều cơ hội để cho các sinh viên hoặc bác sĩ đi tu nghiệp tại nhiều trường Đại học danh tiếng trên đất nước Mỹ. Chúng ta kêu thiếu nhân viên giảng huấn (96 người). Nhưng chúng ta lại từ chối những cơ hội bằng vàng cho sinh viên đi tu nghiệp.

Cho nên sự chọn lựa Pháp là một chọn lựa thiếu chính đáng, không đếm xỉa quyền lợi của sinh viên Y Khoa cả.

Nhưng sau đó, sự tranh chấp vượt ra khỏi khuôn viên đại học Y khoa trở thành một vấn đề chính trị. Thủ tướng Trần Văn Hương chỉ định người học trò cũ của mình là bác sĩ Lê Minh Trí (Y khoa bác sĩ, 1926, 96 Phan Đình Phùng, Sài Gòn) làm tổng trưởng giáo dục. Việc bổ nhiệm này nhằm thay đổi và cải tiến trường Y Khoa trong chiều hướng thân Mỹ và nhận sự tài trợ của Mỹ. Nhưng chỉ sau 4 tháng nhậm chức, ông bị cộng sản sát hại.

Xin ghi lại lời tường thuật của những tên khủng bố cộng sản:

“Đến năm 1968 lại xuất hiện một tên tay sai có tầm cỡ hơn: Bộ trưởng Giáo Dục và Thanh Niên Lê Minh Trí. Là một trí thức tay sai đế quốc Mỹ (...) Hắn đòi giải tán các tổ chức hợp pháp của sinh viên, học sinh. Hắn cũng đã chủ trương chiếm và tiến tới dẹp bỏ trụ sở Tổng hội sinh viên ở số 4 Duy Tân. Trừng trị kịp thời con rắn độc này là một nhiệm vụ chính nghĩa, quang vinh. Ban quân sự Thành Đoàn được Thành Ủy giao cho nhiệm vụ vinh quang ấy. Đồng chí Ba Tung, phó ban đội trưởng tiếp đánh. Ba Tung cùng với Ngô Văn Thừa khẩn trương bám sát nhận mặt, nghiên cứu quy luật đi về của hắn. Ba Tung đề xuất cách đánh: xử dụng lựu đạn, bỏ thuốc nổ cực mạnh C4 của Mỹ ném vào xe lúc chúng đang chạy đến ngã tư - có tốc độ giảm. Phương án tác chiến được nghiên cứu và xác định rất khoa học. Để có lựu đạn, Ba Tung phải làm hai cái đồng hồ điện kiểu của lực lượng võ trang Thành Đoàn và đưa cho vợ mang lên tận Hốc Môn đổi cho đơn vị biệt động huyện Ba Tung có được hai quả M.6 mừng quá. Ngày 6 tháng 1 năm 1969, lúc 7 giờ 50, một trong hai quả lựu đạn ấy nổ ngay trong xe của tên Lê Minh Trí, lúc xe của nó chạy trên đường Nguyễn Du rẽ qua đường Hai bà Trưng

Tôi được xem tấm hình bác sĩ Trí bị ám sát. Ông nằm trên đường, mặc áo chemise trắng lỗ chỗ vết màu trên người, thắt cà vat, nằm vắt chân chữ ngũ xem như hãy còn tỉnh. Cạnh đó đã có quân cảnh cầm súng đứng gác. Nhưng chưa thấy xe cứu thương tới. Đưa vào nhà thương thì đến chiều ông chết. Người tài xế cũng chết ngay tại chỗ. Riêng người cận vệ chỉ bị thương nhẹ.

Hai ông Thiệu-Kỳ cũng như Thủ tướng Trần văn Hương sau đó đều đến phúng điếu. Ông Hương khóc cho người học trò cũ uổng mạng. Về phía Mỹ, có đại sứ Bunker. Cái chết của bác sĩ Lê Minh Trí, Trần Anh là những mũi tên tẩm thuốc độc giết hai ba mạng người một lúc, nhưng cũng nhờ đó dịu bớt một mối đau thương của Y Khoa Sài Gòn.

Quả thực đã có một thời nhiễu nhương không đáng do những Hội chứng Hậu Thuộc Địa để lại tạo ra những tranh chấp của một xu hướng bảo thủ và một xu hướng muốn đổi mới!

Quả thực đã có một thời như thế

Đám ma Cộng Sản

Khi biết mình ngu dại

Tóc trên đầu bạc phơ</FONT

Ngày 24/12/2009 Tin Nhà nhận được cuốn sách mà nhiều người trông đợi, cuốn Những câu chuyện về một thời, Chứng từ của một giám mục, Phao Lô Lê Đắc Trọng. Tin Nhà đã có dịp giới thiệu một số trích đoạn tập sách này rồi.

Cuốn sách với lời đề tựa của Tgm Ngô Quang Kiệt nhân ngày lễ xá tội vong nhân, năm 2009 như sau:

“Đó là một phong thái của một cuộc đời dày dạn kinh nghiệm trải qua cuộc sống gần 100 năm, qua 2 thế kỷ với biết bao thăng trầm không chỉ của bản thân mà còn của giáo hội, đất nước và dân tộc. ( …) Tập sách Đức cha Phao lồ gửi lại cho (chúng) ta như một lời từ biệt cuối cùng, như một kỷ vật nhớ đời nhưng đồng thời cũng như một nhắn nhủ trước lúc lên đường, kín đáo như ngài vốn thế.”

Quý bạn đọc có thể hỏi mua theo địa chỉ Tòa soạn Diễn Đàn Giáo dân, Email: toabaodđgd@yahoo.com

Giỗ Ni sư Trí Hải (1938-2003)

Sáng nay, thứ hai, 28/12/2009, khoảng ngót nghét 200 người, phần lớn là bạn bè và môn sinh đã kéo nhau về Hóc Môn dự đám giỗ Ni sư Trí Hải, viên tịch ngày 07/12/2003 cùng với sự ra đi của các tì kheo Ni Tuệ Nhã và sa di Ni Tuệ Phúc trong một tai nạn xe hơi.

Ni sư Trí Hải vốn là thế hệ chúng tôi, lớn lên và trưởng thành ở miền Nam. Thế hệ tuổi trẻ miền Nam hãnh diện về “những ngày tháng không quên” và sẽ chẳng bao giờ quên cái thời mà con người ít ra còn biết vui, biết buồn, biết yêu, biết mộng mơ, ham học lẫn ham chơi. Nhưng cũng còn biết biết bất mãn, biết băn khoăn trăn trở về cuộc chiến, biết sống làm người tử tế và tối thiểu còn có chút hy vọng lên đường.

Tên thật của Ni sư là Công Tằng Tôn nữ Phùng Khánh. Ngoài phần sinh hoạt, viết và dịch thuật Phật giáo, Phùng Khánh đóng góp một phần không nhỏ vào “cái nhìn và cảm nghiệm Phương Đông”, một hướng nhìn mới mẻ thay cho triết học Hiện sinh đã trở thành quen thuộc và trở thành nhàm chán vào cuối thập niên 1970. Phùng Khánh đặc biệt giới thiệu “ngọn gió phương Đông” của văn hào Hermann Hess.

Công bằng mà nói, người đầu tiên giới thiệu Herman Hess là dịch giả tài hoa Vũ Đình Lưu với cuốn Narziss und Goldmun, Đôi bạn chân tình, 1962. Đây là cuốn sách mà thời kỳ đó tôi đọc một cách say mê thích thú về nội dung triết lý câu truyện, nội dung tôn giáo cộng với một văn phong tài hoa đầy chất thơ và ảo diệu ngôn ngữ. Tôi mong mỏi những người trẻ sau này nên tìm đọc cuốn này để thấm ướt ý nghĩa cuộc đời trong vai trò một nhà tu khổ hạnh và mặt kia một “gã lang thang” trong cuộc sống trần thế. Cũng vậy, nên tìm đọc Câu chuyện của dòng sông (Siddhartha, Hermann Hesse, 1922) để thấy một nhà văn Đức nhìn Đạo Phật trong cái chiều sâu thẳm nó như thế nào.

Xin đọc thêm bài: 20 năm Văn học Dịch miền Nam của Nguyễn Văn Lục có dành một chỗ cho Phùng Khánh, Phùng Thăng ..

Nói về ngôn ngữ, nhất là ngôn ngữ triết học và nhất là ngôn ngữ thi ca thì khó có ngôn ngữ nào vượt qua được tiếng Đức, ngay cả tiếng Pháp.

Phùng Khánh cùng với Chơn Hạnh cùng dịch Sói đồng hoang và nhất là cuốn Câu chuyện của dòng sông cùng với em gái là Phùng Thăng, nxb An Tiêm 1967.

Rồi cứ thế, 10 năm sau khi Vũ Đình Lưu dịch Đôi Bạn chân tình, Phùng Khánh cũng dịch lại cuốn đó với tựa đề sách sát với nội dung hai nhân vật chính trong truyện là Nhà khổ hạnh và gã lang thang (Sau này, nxb Hội nhà Văn đã tái bản đến 4 lần mà tiền bạc đưa một cách tùy tiện cho Phùng Khánh. Phùng Khánh nhận miễn cưỡng và có than họ đưa bao nhiêu thì được bấy nhiêu, có đưa là may rồi).

Tôi viết đến đây, muốn đòi công đạo cho bà, mong Nxb Hội Nhà Văn làm ăn giàu có, tiền tỉ, trả lại một số tiền đền bù gửi về Hóc Môn vì các môn sinh của bà đang xây chùa còn thiếu nhiều tiền. Ăn cắp của ai cũng đành, nhưng ăn cắp của Phùng Khánh thì không được, mặc dầu bà không cần.

Tiền ấy cha con Nxb Hội Nhà Văn cho vào đầy một tay nải, kéo nhau về Hóc Môn, đến thắp hương bái lậy, ngỏ lời xin lỗi với tư cách một nhà văn đối với một nhà văn, xin lỗi trước mộ phần Phùng Khánh được xây trước sân chùa coi như một lời tạ lỗi muộn.

Và sau này tiếp nối sau đó vô số tác phẩm khác của Phùng Khánh ra đời như Ảo Hóa, Đường đi không gió, Lòng sao lạnh.

Đọc nhan đề cuốn sách Đường đi không gió lòng sao lạnh thật sự tôi muốn được đọc tập sách này.

Phùng Khánh chẳng những có công với Phật giáo đã đành. Bà có chỗ đứng trong gia tài văn học miền Nam. Rất tiếc trong Tổng quan văn học miền Nam, Võ Phiến không coi các tác phẩm dịch thuật thuộc thể loại Văn học miền Nam.

Vì thế chiếu văn học miền Nam thiếu tên Phùng Khánh. Thiếu tên Vũ Đình Lưu. Nhân lễ giỗ Phùng Khánh, chia sẻ với những người đồng hành với Phùng Khánh ngay cả trong phạm vi chính trị là hai vị Thích Trí Siêu và Tuệ Sĩ.

Tôi có hỏi thăm lễ giỗ hôm nay có hai vị đó về không? Chắc bận không về được.

Thôi hẹn giỗ năm sau, hai vị nhớ về.

Bao giờ đám ma chế độ cộng sản?

Tôi thường liên lạc đều đặn với bạn bè ở Việt Nam. Mới đây, nhân dịp Noel, một người bạn đã viết, “Sống ở Việt Nam bây giờ không có gì là an toàn cả.” Một người khác viết, “thật kinh hoàng.”

Họ không biết nói gì thêm được nữa. Giữa một biển người đang chen chúc nhau để sống, mạng sống một con người là một điều vô nghĩa.

Trong cái cảnh bát nháo ấy, ta mới hiểu ra được một chân lý muôn đời: “Khi có độc tài bạo lực thì có sức đề kháng tiêu cực chống lại bạo lực bằng cách nói KHÔNG.”

Đó là vũ khí của kẻ yếu, nhưng lại có sức hủy diệt khôn lường.

Nó biểu trưng một sức đề kháng dội ngược lại một chế độ độc tài, một lối phản kháng của cá nhân trở thành phản kháng vô thức tập thể của đám đông. Nó như dòng thác lũ sói mòn, cuốn phăng tất cả chế độ ấy.

Sức đề kháng của vô thức tập thể ra ngoài sự kiểm soát của chính cá nhân và sự kiểm soát của trật tự xã hội. Hết rồi cái thời chính sách “nắm bao tử” đã biến con người thành “thuần hóa” tới mức hết khả năng phản kháng.

Theo ý của bài khảo luận Gía của tự do luôn luôn cao của tác giả Trần Nhu gửi.(Trần Nhu là một nhà văn sống trong lòng chế độ CS, bị tù 20 năm sau sau thời kỳ Nhân Văn Giai phẩm, hiện ông cư ngụ tại San Jose từ năm 1982).

Sức đề kháng ấy biểu hiện rõ nét qua sự đề kháng tiêu cực về những luật lệ, những cấm đoán.

Việt Nam hiện nay là xã hội có nhiều luật lệ nhất nhì thế giới, nhưng pháp luật ấy đã bị xuyên thủng từng ngày, bị người dân vô hiệu hóa. Dân không thi hành luật, nhà nước bất lực mau chóng đưa ra luật lệ mới.

Nhưng luật pháp chỉ hữu hiệu khi được tuân hành. Bằng không thì luật sẽ đẻ ra luật đến độ rối mù không biết đâu mà theo nữa.

Thực tế ở Việt Nam cái gì cấm thì người ta làm. Càng cấm càng làm. Càng cấm càng vô hiệu quả.

Các lệnh cấm ấy hầu hết hiện nay đang xảy ra ở Hà Nội và khắp nơi, xuống tới từng địa phương. Luật không được tuân thủ trở thành vô hiệu quả nên dân chúng xài “luật rừng” để tự xử lý, tự thay thế pháp luật .

Đó là thứ “pháp luật đen” như một thứ “quyền lực đen” từ đó hình thành một xã hội đen.

Chẳng hạn chính quyền cộng sản đã cấm bán hàng rong ở Hà Nội đã từ mấy chục năm nay. Nay vẫn vậy, vẫn cấm vẫn bán, đuổi đầu này thì xuất hiện đầu kia.

Nhà văn Huỳnh Dũng Nhân trong tập truyện Tôi đi bán tôi đã viết như thế này:

Việc lấn chiếm vỉa hè Hà Nội đã ô nhiễm toàn bộ không khí Hà Nội. Song đáng tiếc anh bạn tôi thống kê không xuể vì tốc độ giấy bút điều tra không thể nhanh bằng tốc độ lấn chiếm vỉa hè (...)

Ngày xưa kẻ sĩ về ở ẩn, ngày nay kẻ sĩ về bán quán.

Muốn vậy phải có quán. Phải chiếm lấy mặt tiền, phải cho thuê mặt bằng.

Rõ ràng, đây là thời kỳ “cực thịnh” của ngành thương nghiệp, nhưng ác thay lại là “thương nghiệp nhân dân.” Mức sống người dân khá lên từ những cái ghế, cái bàn xập xệ ở quán, từ những thúng mủng, gồng gánh trên vai mà có một thời chúng ta đã ra sức “ giải phóng đôi vai.”

Có thể nào xã hội đi lên từ những tủn mủn ấy?

Hà Nội đang trở mình, trăn trở lột xác lớn lên .. Nhưng cùng lúc ấy khối lượng người không việc làm đang cầy nát các vỉa hè cũ kỹ để tìm kế sinh nhai”

Trích tập truyên Tôi Đi Bán Tôi, Huỳnh Dũng Nhân, trang 117.

Cấm đổ rác thì rác đổ tràn lan

Cá nhân xả rác, nhà xả rác, cái gì bẩn thì vứt ra ngoài đường. Rác cá nhân, rác công nghiệp. Công ty thì xả xà bần, nước thải như trường hợp sông Thị Vải.

Cạnh đó là những rác thông tin, rác báo chí, rác văn hóa, rác học đường, rác buôn bán, rác giao thông, rác kinh tế, rác chính trị và cuối cùng là rác con người.

Nhà nước càng bất lực thì các lệnh cấm càng nhiều trở thành kinh dị. Như cấm mặc áo ba mảnh, cấm lấn chiếm vỉa hè, cấm người có ngực lép điều khiển xe máy … Xe máy số lẻ chỉ được phép chạy ngày lẻ, xe máy số chẵn chạy ngày chẵn. Cấm trai gái hôn nhau chỗ công cộng.

Để thực hiện các lệnh cấm trên thì phải tuyển hàng ngàn, hàng vạn nhân viên “đội chống hôn”, hàng ngàn “chuyên viên đo ngực” ?

Kết quả là tôi nhận được những hình ảnh cuối năm không phải chỉ trai gái hôn nhau mà hình ảnh một cô gái đứng trên xe máy và cởi chuồng, hở hết cả cửa mình cho mọi người coi. Cô tươi cười hãnh diện và không thấy xấu hổ.

Cô gái cởi chuồng không phải vì muốn cởi chuồng, nhưng là một phản kháng tiêu cực, vô thức của cả một xã hội đề kháng tiêu cực.

Đó là cái nguy cơ phá sản mất còn của xã hội Việt Nam bây giờ.

Thật quái đản. Trong tương lai, ai có thể mường tượng ra xã hội Việt Nam nó như thế nào? Phải chăng nó trở thành một nền văn minh xa mạc,(Civilisation désertique) trong tình trạng hỗn mang mà sự tranh đấu sống còn, man dại, cơn mê điên cuồng, với quy luật rừng?

Nói một cách trí thức thì đó đó là một xã hội “Bất tuân phục”. Nhưng xét về mặt xã hội thì đó là một xã hội đang lao mình vào sự tự sát tập thể làm tan hoang đất nước này .

Nhà nước Cộng sản Việt Nam dù đã sử dụng tối đa bạo lực để đàn áp các trí thức, các nhà văn bất đồng chính kiến, các tôn giáo, v.v... Họ có thể thành công về mặt này.

Nhưng xem ra cho thấy họ bất lực trước một xã hội bất tuân phục tập thể như một dòng thác lũ không gì ngăn chăn được.

Phần nhà nước, họ mất khả năng quản lý “Người” của đất nước này rồi.

Phần tôi bây giờ, cứ nghĩ đến Việt Nam là tôi sợ. Không phải sợ chính quyền mà sợ tương lai đất nước này sẽ đi về đâu?

Bao giờ người dân cử hành một đám ma chế độ cộng sản? Hy vọng đam ma cũng lịch sự, đầy đủ nghi lễ như trong các đám ma cộng sản Liên Xô, Đông Đức vậy.

Về đám ma một người cộng sản

Tin nhà nhận được lá thư quen thuộc của nhà văn Ng.T.L. từ trong nước gửi sang, đề ngày 26/12/2009 như sau:

Thưa anh

Bữa sáng nay, trời ấm lại, tôi thấy dễ chịu, tối nay trời bỗng lành lạnh, tôi thấy người bải hoải khó chịu.

Đây là bệnh của trời hay bệnh của người?

Vì thế, mấy hôm nay, tôi ít vào mạng, nhưng tôi vẫn cố gắng theo dõi những bài viết của anh trong Tin Nhà.

Có một vài độc giả có ý kiến về lá thư tôi viết cho anh. Nhưng ở tuổi tôi lúc này, thú thực làm một việc thú nhận như Tô Hải tôi cũng không làm được. Nhớ lại những năm tháng trước đây, nhà văn như chúng tôi nghèo đến không thể nghèo hơn được lấy đâu tranh đấu. Bùi Ngọc Tấn kể lại trong Viết về bè bạn kể trường hợp Dương Tường, Châu Diên phải bán máu. Khi bán máu thành công, Dương Tường đãi bạn bè bằng một bữa bia hơi Cố Tân. Uống xong, Phát bốc một câu xanh rờn:

Hôm nay, tao uống máu thằng Tường.

Chuyện có thật. Đau xót lắm anh ạ.

Để thay cho lời thú lỗi, tôi gửi tặng anh bài thơ của một người bạn cán bộ cao cấp nay đã nghỉ hưu. Thơ có thể không hay, tên tuổi cũng không cần, nhưng ý thì đậm đà như lời trối trăn, như thể có tôi trong đó:

Có một nàng áo đỏ

Đi về phía chân trời

Nàng vui vầy ở đó

Bỏ lại một mình tôi

Rồi khi nàng trở lại

Tôi vẫn đang ngóng chờ

Khi biết mình ngu dại

Tóc trên đầu bạc phơ

Chúng tôi đều mang tâm trạng như thế cả đấy anh ạ. Chỉ không nói ra thôi. Nhưng cho dù có muốn nói thì cũng chẳng tiện nói. Không phải sợ bắt bớ gì, tuổi này bắt vào tù chỉ tốn cơm tù của nhà nước.

Nói thật ra một cách “lắc đầu.” Cán bộ, đảng viên sợ nói vì mất một chỗ nằm nhỏ nhoi trong nghĩa địa. Chỗ nằm nhỏ nhoi trước cõi về lại đâm là nỗi trăn trở nhất của chúng tôi ở tuổi này.

Anh hiểu cho, ai cũng cần một chỗ nằm cho tươm tất anh ạ.

Bây giờ chúng tôi đi đám cưới thì ít, đám ma thì nhiều.

Ai thì cũng phải chuẩn bị chỗ để về, một chỗ hiếm hoi và vô cùng khó khăn so đo với số 7, 8 triệu dân Sài Gòn mà nay phần lớn phải thiêu cho tiện và đỡ tốn kém. Đừng nói đến cảnh phải năn nỉ chạm tới thẩm quyền cao để cho phép nằm hay không cho phép nằm.

Đảng vẫn nắm đầu chúng tôi ngay cả lúc nằm xuống.

Tôi chẳng có gì phải dấu diếm anh cả, vì bản thân tôi cũng sợ như vậy. Như tôi đã có lần kể cho anh trong một thư đã lâu là bọn Trung Ương Đảng trèo cao thì chỉ có một ước mơ: Khi sống có được nhà biệt thự nằm trong khu Hoàng Diệu, gần Ba Đình và khi chết thì được có tên trên một đường phố Hà Nội như các tên đường Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Duẩn, v.v...

Thấp và nhỏ bé hơn thì giấc mơ là 2 mét vuông trong nghĩa địa. Sống sở dĩ đã không dám ra lời chỉ vì cố bám lấy 2 mét vuông trong nghĩa địa lúc chết. Khổ và nhục thế đấy anh ạ.

Anh thử nghĩ coi, Sài Gòn với sấp sỉ 10 triệu dân. Sống đã không có đất để sống, một miếng đất khi chết thì tính làm sao đây? Thời xưa nghèo đói chỉ mong có cái chiếu thay cho cỗ quan tài. Còn đất thì thể nào cũng có, cùng lắm chôn nhờ đất ruộng .

Ngày nay, chết là một vấn đề lớn liên quan đến cả đời người vì không có đất mà chôn.

Cái cảnh người sống đuổi người chết là có thật..

Các ngôi mộ gia đình bà con của tôi đã hai lần phải bốc, di dời từ Nghĩa Địa Đô Thành ra Nghĩa Địa Bình Hưng Hòa và nay nghe nói nghĩa trang Bình Hưng Hòa 2 sắp bị giải tỏa.

Cách đây vài tuần, tôi đã đi dự đám tang một nhà văn thành phố có hơn 40 năm tuổi đảng.

Ông may mắn được chôn ở Nghĩa Trang thành phố. Nghĩa trang liệt sĩ thì dành cho bộ đội. Nghĩa Trang thành phố thì dành cho các viên chức nhà nước cao cấp, Nơi mà TBT Nguyễn Văn Linh, Huỳnh Tấn Phát nằm ở đấy. Tại đây có nhà quàn đàng hoàng, có đầy đủ lễ nghi quan cách dành cho một đứa con của Đảng. Hàng hơn trăm vòng hoa, câu đối, hoa cườm nối đua nhau để trong nhà quàn đến không còn chỗ. Để một thời gian rồi dọn đi nhường chỗ cho các vòng sắp tới, chỉ chừa lại những vòng thuộc lãnh đạo. Cứ nườm nượp người ra người vào của mọi cơ quan, ban ngành, hội nọ, hội kia.

Đủ những lời phân ưu. Đủ mọi thứ chức tước, đủ mọi mề đay, đủ mọi lời ca tụng, đủ kèn trống, đủ bá quan văn võ, đủ mọi thứ cho một vinh quang trần thế khi ra đi.

Kể cũng đáng anh ạ.

Tin Nhà xin trích dẫn bổ túc thêm đám tang của người cộng sản như trường hợp Dương Văn Đầy sau đây:

“Dương Văn Đầy, bí danh Bảy Không, nguyên bí thư Đoàn Ủy sinh viên. Thủ Trưởng B11 Thành Đoàn. Chủ tịch UBND quận một, Tp. HCM. Giám Đốc công ty du lịch Tp. HCM (Saigon Tourist). Năm 1998, Ba Đầy bị đột quỵ ngay trong một phiên họp tại Văn Phòng công ty Du lịch Sài Gòn.

Chú thích thêm: Chức vụ cao nhất của Dương Văn Đầy chỉ tương đương một thứ quận trưởng một quận mà được quàn tại nhà Hữu Nghị là tuyệt đỉnh vinh quang rồi. Nhưng Dương Văn Đầy chỉ là chủ tịch UBND quận một, vì trong dịp tết Mậu thân 1968, Dương Văn Đầy được bộ Xã Hội cấp cho giấy đi lại “được ra vào vùng chiến sự, kể cả lúc giới nghiêm và thiết quân luật”, không biết có phải vì thế mà Dương Văn Đầy bỏ ra làm giám đốc du lịch hay không?

Linh cữu được quàn tại nhà Hữu Nghị thành phố. Trước quan tài Đầy, má Hợp Phố (Một người đã chứa chấp cán bộ cs trước 1975) vừa khóc vừa rầy, ““Đầy ơi ! Mày còn trẻ, còn làm được nhiều việc. Tại sao mày đi sớm trước tao? Tao không lạy mày đâu!”

Má Hợp Phố cắm ba cây nhang rồi về. Lúc đó má Hợp Phố đã 78 tuổi”

Trích Giữa Ngàn thác lũ, Hoàng Đôn, trang 386.

Thư Ng.T.L. (tiếp theo)

Đám tang người bạn văn của tôi cũng rình rang như mọi đám tang của các quan chức đảng. Nhưng đặc biệt có thuê thêm đội kèn Tây mà nghe nói do các giáo xứ đạo tổ chức. Lúc quan tài được khênh ra khỏi nhà quàng thì đội kèn tây “chơi” một bài rất hùng tráng, bài Cầu sông Kwai. Chơi xong, công việc vẫn chưa chuẩn bị xong, họ chơi tiếp một lần nữa. Trẻ con, người hàng phố được dịp đứng chặt hai bên đường. Ông nhạc trưởng, đội mũ két được dịp trổ tài vừa đi vừa tung gậy như nhạc trưởng của ban kèn trống của Tây vậy. Trống và não bạt đánh vang trời như một đoàn quân sắp ra trận.

The bridge on the river Kwai, Mitchell William Miller, 1957

Cảnh kẹt xe kẹt cứng. Tiếng còi xe inh ỏi trộn lẫn tiếng kèn, tiếng trống.

Coi bộ mệt, đội kèn Tây đổi bài như thể nhạc classique của Schubert hay Chopin gì đó, tôi không rõ. Đi một đoạn ngắn trước khi lên xe ra nghĩa địa, đội kèn Tây chơi bài, Ai đưa em về, “Đêm nay, ai đưa em về, đường khuya sao trời lấp lánh”

Tiếp đến là bài Lâu Đài tình ái, Anh sẽ vì em làm thơ tình ái ...

Tử tế lắm mới thấy họ chơi bài của Trịnh Công Sơn “Cát bụi”. Hóa ra nhạc họ Trịnh lại hữu dụng cho những đám ma bây giờ!

Tôi kể bấy nhiêu chuyện này, chắc bên ấy các anh cười lắm. Nhưng đấy là văn hóa bây giờ đấy. Văn hóa đám ma của đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Xin hẹn anh vào thư sau.