Phần 21

Đâu là chỗ đứng của văn hoá Việt Nam (I)

Bờm là... thằng Bờm (I)

Đâu là chỗ đứng của văn hoá Việt Nam (I)

Nguyễn Văn Lục

Văn hoá vẽ trên hang động

Con người thời tiền sử homo erectus cho đến con người thời đại hôm nay có những bước đi dài, trải qua nhiều thời kỳ biến động và tiến hóa không ngừng. Sự tiến hóa đó chỉ con người mới có được bởi vì con vật thì dừng lại ở giai đoạn hái lượm và dẫm chân tại đó.

Nếu dựa trên tiêu chí đồ dùng thì con người đã trải qua các thời kỳ đồ đá, tiến xa hơn nữa là thời kỳ đồ Đồng. Đồ Đồng là cột mốc đánh dấu con người bứt ra khỏi giai đoạn tiền sử, để bước vào giai đoạn khởi đầu của văn minh nhân loại. Ở Việt Nam, người ta nói đến Văn hoá Đông Sơn.

Nhưng mới đây, có “ông” tác giả Vô Danh kết luận “khơi khơi” là Việt Nam đã từ thời kỳ đồ đá, rồi đồ đồng và nay bước sang thời kỳ đồ... đểu. Sách vở, tài liệu không thấy nói có thời kỳ văn minh đồ đểu này bao giờ?

Có thể “ông” tác giả Vô Danh nhầm chăng? Việt Nam nước tôi đang suy thoái, lạm phát nhiều mặt, nhất là mặt giáo dục và đạo đức. Có thể nói rằng Việt Nam từ thời kỳ đồ đồng chuyển sang thời kỳ ... đồ nát. Cái gì cũng nát bét, nát như tương... Như nát nhà, nát cửa, nát đất, nát người, nát đạo lý, nát tôn giáo, nát kinh tế.

Có giai thoại kể lại rằng ông Bùi Giáng có thói quen sau 1975 cứ vác một tảng đá trên lưng. Có lần có người thắc mắc: Thưa thầy, tại sao thầy cứ vac đá làm chi cho cực? Bùi Giáng trả lời “rất Bùi Giáng”: Tau không đeo đá thì tau đã bay khỏi đây rồi.

Dưới con mắt Bùi Giáng, con người miền Nam đang ở thời kỳ đồ đá, con người miền Nam đang chịu sức đè nặng của chủ nghĩa cộng sản chưa biết kéo dài đến bao giờ?

Nếu xét về mặt tinh thần, mặt văn hóa thì văn minh nhân loại bắt đầu từ thứ văn hóa vẽ trên hang động. Thật vậy, ngày nay, người ta còn tìm thấy nhiều bức vẽ thời tiền sử trong các hang động. Hoặc vẽ đàn bà có chửa mà trần truồng, hoặc loài thú bị găm một cái tên vào bụng.Và người ta tìm cách lý giải (interprétation) các bức vẽ, các huyền thoại ấy. Thật vậy, chỉ một vài nét vẽ nghuệch ngoạc, người sơ khai đã ghi được những ước muốn, những giấc mơ của họ. Phải chăng đó là những giấc mơ thần thoại được tìm thấy ở thời kỳ nguyên thủy? Chữ nghĩa cộng sản gọi thời kỳ nguyên thủy này là thời kỳ “chiếm hữu nô lệ”. Họ cứ “sáng tác” ngôn ngữ một cách vô tội vạ. Y thức nông nô và ý thức đấu tranh giai cấp nô lệ làm sao có thể xuất hiện từ thời kỳ nguyên thủy được?

Nhưng điều chắc chắn là con người biết vẽ trước khi biết viết. Ngôn ngữ tượng hình có trước ngôn ngữ viết trừu tượng. Chứng minh cho thấy trẻ con ngay từ nhỏ, độ 2, 3 tuổi đã biết vẽ nguệch ngoạc, đôi khi “vẽ bậy’ không cần ai chỉ dạy. Trẻ vẽ theo cái cái năng tính của nó với nhiều ý tưởng, hình thù, hình ảnh rất quái lạ.

Có thể nói vẽ là thế giới của trẻ con. Từ đó có thể suy đoán là giữa trẻ con và người sơ khai có điểm giống nhau: tính hồn nhiên sơ khai.

Theo giáo sư Trần Ngọc Ninh, trong sách Cơ cấu Việt Ngữ, trẻ con trước khi tập nói, biết nói thì đã nói bằng cách “phun mưa”, một thứ tiền ngôn ngữ. Nhưng “phun mưa” có ý nghĩa gì thì thực tình chưa ai biết chắc chắn được.

Trẻ con thường phải trải qua thời kỳ “nói ngọng” nữa. Nói ú a, ú ớ, nói không ai hiểu được. Chẳng biết tại sao, các “quan chức” nhà nước cộng sản khi phải tuyên bố điều gì khó giải thích, khó nói thì họ đều “nói ngọng”, nói ú a ú ớ như con nít vậy.

Những bức vẽ trên các hang động này như nói ở trên thường vẽ hình đàn bà khỏa thân, khá mập mạp, khỏe mạnh – thường không có hình đàn ông – nét vẽ đàn bà với đầy đủ sinh thực khí, bao giờ bụng cũng có chửa, đít to, hông bạnh ra, vú to, hai cặp đùi như hai cái cột nhà hay như đùi voi. Ngay những bức vẽ phụ nữ thời Trung cổ ở Âu Châu cũng vẽ những người đàn bà thật mập mạp, phốp pháp.

Không có hình ảnh đàn bà nhỏ con hoặc gầy yếu như bây giờ. Phải chăng cái quan niệm về cái đẹp của phụ nữ thời tiền sử, thời Trung cổ đã theo đổi theo thời gian? Những hình vẽ có thể nói lên hai điều: đàn bà phải khoẻ mạnh, mập mạp là con vật “để giao hợp” với vú to, đít to nhưng đồng thời “để đẻ” với bụng chửa. Hai hình ảnh đó phải đi đôi và gắn liền vào nhau. Mặc dầu vẽ đầy đủ chi tiết của sinh thực khí, nhưng nó không có ý dâm tính, không có ý “chọc” mắt thiên hạ. Như đã nói ở trên, người hoang dã có tính hồn nhiên sơ khai, một thứ trân quý nhất trên đời này vì nó thường biến mất sau khi con người trở thành người văn minh.

Nói cho rõ hơn nữa, hình vẽ của người sơ khai là một thứ tín ngưỡng sơ khai, tín ngưỡng phồn thực, xiển dương việc sinh đẻ là lẽ sống của đời sống (culte de fécondité). Sự chết là thường trực, cuộc sống là mong manh trước muôn vàn thử thách và đe doạ của thiên nhiên. Chỉ còn một lối thoát cho con người là sinh đẻ thật nhiều. Trọng trách đó được trao cho người đàn bà và chỉ đàn bà có thể làm được. Tất cả nhân loại nói chung đều trông chờ, gửi gắm vào cái sinh thực khí của người phụ nữ. Nhiệm vụ thật cao đẹp. Vì thế, theo thần thoại, ước vọng người đàn bà là mong được “giao hợp” nhiều để nhờ đó “đẻ” nhiều. Mà “giao hợp” chỉ là để đẻ. Do đó, đẻ đem lại phúc lộc cho xã hội, thêm đông người (Culte de fécondité). Cho nên “ giao hợp” mà không đẻ là mất nết.

Ở ngoài Bắc ngày nay, người ta cũng tìm thấy tục thờ sinh thực khí. Như ở Yên Báy, có tục thờ 4 khối tượng nam nữ, tạc hình chồng lên nhau, ôm lấy nhau mà dương vật to quá cỡ. Nhưng chỉ là một giao phối nhằm ước vọng “sòn sòn năm một”. Người ta cũng thấy ở chùa Bà Banh, có tượng nữ thần lõa lồ mà ai đến lễ bái đều lấy cái gậy chọc vào âm vật (xem Đỗ Lai Thúy, Tín ngưỡng phồn thực nhìn từ góc độ văn hóa). Chọc vào là để mong muốn có con. Nhưng chọc khơi khơi để nghịch ngợm là thứ “mất dậy”. Nhất là ngày nay một số hình ảnh Porno được dàn dựng, phổ biến trên mạng là phi văn hóa, phản lại tín ngưỡng phồn thực.

Mặc dầu, Văn hóa vẽ trên hang động thường rất “hoang dã”, có thể rất tục mà không dâm, rất cụ thể, nhưng lại là linh thiêng. Cũng vậy, văn hóa tín ngưỡng tôn giáo về ông A dong và E và, thủy tổ loài người bao giờ cũng vẽ hai người khỏa thân. Sau này, con người không hiểu ý nghĩa linh thiêng đã vẽ thêm bà E và có tóc thật dài che kín bộ phận sinh dục. Còn ông A dong vì không có tóc dài nên đành chịu nấp sau một bụi cây. Thật tội cho ông và ép ông quá. Tệ hơn nữa, vẽ thêm hai cái lá, ông cầm một lá, bà cầm một lá che kín bộ phận sinh dục. Vẽ như thế là phản bội lại sự thực, phản bội lại tiền nhân, một hình thức nhạo báng ý nghĩa tín ngưỡng cuả việc giao hợp. Đã vẽ như thế thì tại sao không “lố bịch” thêm một bực nữa là lá của ông thì che cho bà và lá của bà thì che cho ông? Để ở truồng mới là tự nhiên, là “đạo đức”. Con người đời sau khi che chắn là đã có ý thức tội lỗi, là có tà nẩy mầm trong đầu.

Sự suy vi của tín ngưỡng phồn thực bây giờ, chính là phim sex. Phim sex cũng phô bày sinh thực khí, đôi khi còn “ xâm thêm” hoa lá cành chung quanh là “mất tự nhiên”. Cái gì không tự nhiên là mất đạo đức. Nhất là phụ nữ cởi truồng mà bụng không chửa là “ vô đạo đức”.

Một cuộc cách mạng văn hóa đạo đức về tính dục ngày nay, không phải là phát sinh ra cái mới, mà là quay trở về cái cũ, cái nguyên thủy. Trong đó có sự tôn trọng phẩm giá vai trò người phụ nữ trong mối quan hệ âm-dương.

Có âm dương, có vợ chồng

Dẫu từ thiên địa, cũng vòng phu thê.

(Cung oán ngâm khúc)

Đàn bà được bán sang Đài Loan không phải vì mục đích làm vợ, làm mẹ chính là việc làm bất nhân, vô đạo đức của chính quyền Cộng Sản. Xã hội Việt Nam bây giờ là một xã hội liệt nhân tính, thua xa xã hội thời tiền sử. Những hình vẽ đàn bà có chửa trên hang động xét cho cùng có một giá trị tinh thần, giá trị đạo đức hơn xã hội cộng sản bây giờ.

Chỗ nào của nền văn hóa Việt Nam bây giờ khi người phụ nữ trở thành món hàng để xuất khẩu, thua cả xã hội nông nô thời hoang dã?

Văn hoá truyền khẩu

Một bước tiến nữa của nhân loại là dùng tiếng nói để trao đổi. Con vật chỉ có thứ ngôn ngữ độc thanh là kêu. Văn hóa nói chính là văn hóa truyền khẩu. Nó cao hơn văn hóa vẽ một bực, vì nó đa dụng biểu đạt được nhiều điều hơn.. Văn hóa truyền khẩu được truyền đạt qua các câu truyện cổ tích, nhất là các câu truyện huyền thoại hay thần thoại dân gian như các Thần Núi, Thần Gió, Thần Lửa, Thần Nước.

Theo giáo sư Trần Ngọc Ninh, huyền thoại, thần thoại là thứ di ngôn của Tiên tổ để lại. Nó gửi một sứ điệp “ gần như không lời”. Ý nghĩa của nó thì chỉ nên nhận “nguyên con” mà chẳng nên phẩm bình như Huyền thoại Hùng Vương, Âu Cơ hay Phù đổng thiên vương, sự tích bánh dầy, bánh chưng v.v... để lại. Khi nào đưa ra những phẩm bình Mao Tôn Cương về huyền thoại là “hiếp dâm” huyền thoại do bệnh vĩ cuồng hay bệnh đa ngôn lý luận hẹp hòi.

Huyền thoại có tính cách biểu tượng mà không thiếu tưởng tượng. Cho nên, đòi hỏi, căn vặn về nguồn gốc, về sự thật của huyền thoại là không cần thiết. Chẳng hạn, ai lại mất công đòi hỏi nguồn gốc câu chuyện thánh Gióng? Cái thực và cái phi thực chộn vào nhau mà không có gì là nghịch lý cả.

Einstein mặc dầu là một nhà bác học có viết: “Giữa kiến thức (knowledge) và trí tưởng (Imagination) thì tưởng tượng quan trọng và tốt hơn nhiều”

Các huyền thoại ấy rất quen thuộc, đến trở thành lẽ sống còn của người xưa. Bên ta thường là những thần quen truyện gươm dao như thần Kim Quy, Thánh Gióng. Thánh Gióng là hiện thân của thần Lạc Long, một huyền thoại có từ đời Hồng Bàng. Trong nước có nạn binh đao. Dân chúng vô cùng cực khổ kêu gọi thần Lạc Long xuống cứu: “Bố ơi, Bố ở đâu mà để giặc giết chúng con” . Thần Lạc Long hiện ra trong lúc mưa bão bảo rằng: “ Đó là vì dân Việt đã chia rẽ và ươn hèn, nhưng ba năm nữa thì sẽ có thần tướng xuống cứu.”

Phải chăng, đây cũng là lời cảnh báo bây giờ đối với bọn thực dân mới? Quả ba năm sau, ở làng Phù Đổng, thuộc Bắc Ninh ngày nay, có hai vợ chồng, tuổi 60 mà chưa có con.. Người vợ ra đồng, thấy một vết chân người rất to lớn bèn ướm thử chân mình vào, từ đó thụ thai, rồi sinh một bé trai.

Việc thụ thai do chỉ so chân là dấu hiệu của một sự an bài sắp xếp định mệnh rất thần linh. Việc so chân, ướm thử như cái cớ cho sự thụ thai rất biểu tượng. Đó là một hình thức thụ thai vô nhiễm hay là một thứ thác sinh, mượn tay con người để làm việc thần thánh? Chẳng biết có nên so sánh với việc bà Maria trong đạo Thiên Chúa thụ thai mà còn đồng trinh không?

Sau đó cậu bé làng Phủ Đổng lớn lên như thổi, cỡi ngựa phun ra lửa, chém giết quân giặc đến gãy gươm, phải nhổ tre bên đường làm vũ khí giết giặc. Sau đó vị thần cưỡi ngựa đi thẳng lên núi Vệ-Linh, tục gọi Núi Sóc, cởi áo vua ban như nhà văn Vũ Ngọc Phan mô tả: “Giết xong quân giặc, viên tướng cởi giáp bỏ nón bên đường, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay thẳng lên trời”.

Phải chi Việt Nam bây giờ kiếm ra được một ông Thánh Gióng để đương đầu với cộng sản Tầu thì hay biết mấy. Chuyện xưa tích cũ mà ứng nghiệm cho ngày hôm nay.

Sau đây, xin dẫn chứng một mẩu về các thần của Việt Nam như Thần Gió:

“Chẳng hạn Thần Gió thường hình dạng kỳ quặc. Thần không có đầu. Bảo bối của thần là một cái quạt mầu nhiệm. Thần sẽ làm gió nhỏ hay bão lớn lâu hay mau tùy theo lệnh của Ngọc Hoàng. Những lúc Thần gió phối hợp với Thần Mưa có khi cả Thần Sét nữa cùng hoạt động là những lúc đáng sợ nhất. Thỉnh thoảng Thần xuống hạ giới đi chơi vào những buổi tối trời. Đó là những lúc giữa đồng bằng tự nhiên nổi lên trận gió xoáy, dân gian thường gọi là thần cụt đầu.”

(Trích lược khảo thần thoại Việt Nam, Nguyễn Đổng Chi).

Ở đây xin lạm bàn Mao Tôn Cương của người trần mắt tục về các ông thần này Chúng ta để ý là Thần Gió không có đầu. Có vẻ ham chơi. Thần cũng thích đi chơi, nhất là chọn đi chơi buổi tối. Nhưng nếu đi ban ngày thì Thần gió chỉ nghịch ngợm, trêu chọc thôi. Chẳng hạn đến gần phụ nữ bất đồ dở nón ra coi mặt, tốc váy lên coi bên trong có gì lạ. Kể ra thì không được rồi.

Nhưng Thần Gió dù sao có vẻ trẻ con, thích nghịch ngợm, quấy phá. Nhưng lúc Thần đóng vai người lớn thì Thần Gió trở thành kẻ đa tình, đa dục. Thần Gió lén lút, vụng trộm, sờ bậy đến nỗi thiếu phụ phải trách nhẹ nhàng “Chồng ai xa vắng, gió vào chi đây”. Thần Gió lúc này chẳng khác gì cán bộ cộng sản, “mất dậy” quá. Nhưng trách như thế có quá trễ chăng? Vả lại có ai lại đi trách việc làm của thần bao giờ? Trách thì trách, mọi việc đã trễ, mọi truyện có thể đã xong rồi.

Đọc lại các câu truyện truyền khẩu, các câu truyện thần thoại trong kho tàng văn hóa nói để lại. (Thật ra , câu truyện cổ tích, câu truyện huyền thoại thời xưa được truyền lại là do được kể lại, chứ không phải để đọc. Cái hay là được nghe kể lại. Đọc tự nó mất vui đi nhiều). Tôi nhận ra một điều ở trên Trời, các Thần không thiếu thức gì. Từ tiền bạc đến phú quý cao sang đều có đủ. Chưa kể thần thánh được miễn dịch bệnh tật lẫn chết chóc. Họ bất tử. Họ được miễn trừ 4 thứ khắc nghiệt trên đời này là: sinh, lão, bệnh, tử. Vậy mà họ vẫn thiếu một thứ gì đó. Kiếm mỏi mắt trên Trời không có. Đó là gái đẹp. Thật ra cũng có các thiên thần, cũng có các nàng tiên nữa với xiêm y lộng lẫy, nhưng hình như các cô gái đẹp đó không có khả năng sinh lý. Chỉ như búp bê, để ngắm thôi.

Có lẽ vì thế, Thần nào cũng lợi dụng có dịp để xuống ở dương gian này. Xuống là có chuyện, đi lục lạo đủ nơi chỉ vì đàn bà đẹp. Trong truyện thần thoại: Tiếng Hát Hà Ô Lôi. Ông Thần mê gái đẹp phải giả dạng làm chồng người ta, bắt chước từ hình dạng, tiếng nói, cử chỉ, tính nết để tối đến đánh lừa người phụ nữ có chồng đi xa. Thât công phu quá.

Cho nên, câu chuyện huyền thoại có thể chỉ là mượn tay thần thánh để thỏa mãn truyện dân gian, chuyện con người, truyện thế tục. Nhưng đã là con người thiếu vắng đủ thứ thì huyền thoại và thần thoại vẫn là những giấc mơ cần thiết như liều thuốc ngủ an thần, tại sao hà cớ gì mà xóa bỏ? Huyền thoại là thế giới đẹp, thế giới mơ ước của loài người, nhất là trẻ con.

Phải chăng mất đi những câu truyện cổ tích, mất đi cái ý thức về huyền thoại, mất đi cái thơ ngây, mất đi những giấc mơ thần thoại. Con người chỉ còn lại một cuộc sống vô vị chua chát và chán nản.

Ngày nay, hình ảnh các ông thần này mỗi ngày mỗi nhạt đi. Chẳng ai muốn nhắc tới nữa. Nhắc tới đôi khi chỉ là làm bậy.

Chẳng hạn, huyền thoại về truyện trầu cau hay truyện bánh dầy, bánh trưng cũng năm trong cái lý lẽ âm dương dựa trên những thực tế như gạo nếp, lá chuối, lạt buộc đồng thời dựa trên vũ trụ quan của người Tàu như Trời tròn, Đất vuông.

Việc hôn nhân tự nhiên nay được biểu tượng bằng lễ nghi, phép tắc, cưới xin, biếu xén của xã hội làng xã..Việc giao cấu không còn có ý nghĩa bừa bãi, loạn luân mà có phép tắc, được nhìn nhận bởi xã hội.

Tục ấy tốt đẹp, có giá trị đạo đức và xã hội. Nhưng khi mà Việt Nam bây giờ, mới đây tổ chức lễ hội đền Hùng thì nó biến thành một trò lố bịch, phạm thượng. Với đà tiến bộ, ngày nay xu hướng đa thần rút lại thành xu hướng độc thần, chỉ còn lại độc nhất một vị thần được tôn kính: Đó là thần Tiền. Thần tiền ở Việt Nam bây giờ là thứ thần vạn năng hơn nhiều. Làm mưa làm gió. Muốn hại ai thì hại, muốn bỏ tù ai thì bỏ tù. Muốn cho sống thì được sống, muốn cho chết thì phải chết. Nhất là muốn chơi gái thì chơi, khỏi phải đóng giả vờ làm chồng người ta như trong truyện Hà Ô Lôi nữa.

Nếu thần thoại là thế giới phi thực của văn hóa truyền khẩu mà các nhà nhân chủng học gọi chung là “Tư tưởng hoang dã”. Những tư tưởng hoang dã (pensées sauvages) đã được un đúc, kết tinh, truyền thừa nơi người sơ khai thành một chuỗi hệ thống tư tưởng mà họ đã tuân thủ, sống và tin tưởng vào đó. Họ sống chết với nó. Nó có bậc thang giá trị của nó bất khả tranh cãi, bất khả lý luận. Không ai có thể nói đúng hoặc sai, vì nó không nằm trong phạm trù đúng hoặc sai. Nó không thể so sánh, vì thế, nó không thua cũng không kém, cũng không hơn tư tưởng của xã hội được gọi là văn minh. Nó chỉ khác mà thôi. Nhất là Khác thứ văn hóa chửi.

Văn hóa chửi là mặt trái của thần thoại, mặt trái của con người. Thần thoại thăng hoa, tưởng tượng bao nhiêu điều tốt đẹp. Chửi ngược lại là hạ giá, lột trần sự thực đến bôi bẩn. Những người ưa chửi, thích chửi đều là những Từ Thức sau khi trở về thế giới người, bất mãn, chán nản. Họ biết quá nhiều ngay cả những điều không cần biết.

Nói cho cùng cái thực tiễn nhất của văn hóa nói, văn hóa truyền khẩu biến dạng là Văn Hóa Chửi. Không chửi thì thôi mà đã chửi thường mang cái sinh thực khí như cái Linga và cái Yoni của mình ra như vũ khí tối hậu.

Huyền thoại và thần thoại sống trong tương quan xã hội tình, xã hội đẹp. Nó nâng cấp giá trị đời sống lên. Có ý nghĩa hơn, đẹp hơn. Đời đáng sống hơn, chìm đắm trong huyền thoại, sống với huyền thoại, chính là bản chất tính người của các con người thời hoang dã.

Cái khác nơi xã hội hoang là họ “ không biết chửi’, cùng lắm chỉ biết trả thù khi ai đó đã không tuân thủ các tư tưởng hoang dã của họ.

Các tư tưởng hoang dã nay chỉ còn sót lại nơi các dân tộc thiểu số.

Cho nên văn hóa chửi chỉ xuất hiện nơi xã hội người văn minh mà thôi. Văn minh thì biết chửi, văn minh thì biết hạ nhục thay vì dùng bạo lực sức mạnh. Họ dùng bạo lực ngôn ngữ.

Trong khi đó văn hóa chửi hạ thấp con người xuống, bẻ gẫy phá xập tương quan người-người. Chửi bơi ra cái xấu nhất có thể tưởng tượng ra được. Và đây là một ví dụ để hình dung ra muôn một:

“Nếu mày có trót dại bắt con gà của bà, nghe bà chửi mà không khôn hồn thả nó ra, mà cả nhà, cả ổ mày cứ húc đầu vào ăn cho đầy miệng, thì bà cứ cho chúng mày ăn cái máu l... rớt l.. của bà đây này... bà thì cứ.. dứt cái lông l... thứ 8, bà chẻ tạm làm tư, bà trói cổ cái ông tổ năm đời mười đời nhà mày lại, bà vẫn thừa cái nút hậu...”

Xã hội CS từ những năm sau 1954 là một thứ văn hoá trù dập, văn hoá chửi đúng nghĩa. Theo ông Bùi Tín, chửi như đánh hôi, đánh hội đồng, đánh a dua, đánh theo gậy chỉ huy, đánh theo com măng. Ví dụ như đánh 60 nhà văn trong Nhân Văn Giai Phẩm, đánh liền tù tì trong ba năm liền từ 1956-1960. Nạn nhân của Văn hóa chửi là Tạ Đình Đề, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Hữu Đang. Ông Bùi Tín hạ một đoạn như sau:

“Đó là cảnh đánh hôi, đánh hội đồng, sôi nổi nhất trong làng văn theo gây chỉ huy đảng. Có người sau này không thấy mặt nhau nữa... Tình bạn chấm dứt. Cay đắng. Ngậm ngùi...” Ông viết tiếp “cái cơ chế này nó là một bộ máy không hồn, không thần kinh, không tim gan và trí tuệ. Nó lặng lẽ không thương tiếc, nghiền nát hết mọi trở ngại trên đường đi của nó. Khi ra tù, họ có cách khóa mồm các vị, và họ giữ chìa khóa. Tài nghệ, họ siêu đến vậy đó.” (Trích Mặt Thật, Hồi ký chính trị của Bùi Tín, từ các trang 144-147)

Không ai hiểu người cộng sản cho bằng người cộng sản. Ông Bùi Tín có đủ tư cách để phê phán chế độ ấy từ bên trong, hiểu thấu rõ bản chất chế độ ấy mà những người ngoài cuộc như tôi chỉ ngồi mà thu nhận, lắng tai nghe.

Mọi việc giống như một con dao hai lưõi. Vì thế, mỗi người dân Việt Nam bây giờ đều là những người mất gà cả. Cho nên văn chương truyền khẩu ở Việt Nam bây giờ rất thịnh hành. Không làm gì được thì người dân chửi. Chửi bóng chửi gió, chửi bằng vè, bằng thơ. Nếu các nhà văn hóa sau này cố công sưu tập lại thì có thể viết thành sách được.

Văn hoá ẩm thực và văn hoá cầu tiêu

Bài này, người viết đã tự ý bỏ phần văn hóa chữ viết, một sản phẩm đặc thù của các xã hội văn minh để chỉ nói đến vấn đề ẩm thực và hệ quả của nó. Theo nhà nhân chủng học Claude Lévy-Strauss, khi nghiên cứu về những sắc dân Nambikwara (ở vùng rừng nhiệt đới Brazil – DCV), ông nhận ra cơ thể con người các sắc dân ấy có ba nhu cầu thể lý là: Ăn, sự bảo tồn, và sự tái sinh sản.

Tranh vẽ trong hang động đời sống người ở Bhimbetka phía Nam Bhopal (India).

Nguồn: bdabhopal.nic.in

Tượng thời đồ đồng ở Châu Á

Nguồn: otago.ac.nz

Cảnh một gia đình sắc dân Nambikwara nằm ngủ (Brazil).

Nguồn: Claude Lévi-Strauss

Chẳng cần biết có phải là người Indiens hay không. Trên cõi đời này, ăn vẫn là lẽ sống còn của con người. Primum vivere. Sống trước đã. Người viết có gặp một thuyền nhân trên một chuyến vượt biển đến Indonesia. Nghe kể lại những nỗi kinh hoàng của hơn 70 thuyền nhân trên chiếc tàu nhỏ. Không còn một giọt nước. Số người trên chiếc tầu nhỏ cứ chết dần. Người vừa mới chết được thuyền nhân khác dùng dao để rạch xem có hút được tý máu nào từ người vừa mới chết không? Không, nguời mới chết đã chết khô nên không còn có giọt máu nào nữa. Một quả chanh lúc ban đầu được trả giá bằng những viên kim cương. Rồi tham lam tranh dành nhau quá, quả chanh đã rơi tõm xuống biển. Chỉ còn hơn 30 người đã sống sót để đến được bờ biển Nam Dương.

Đói thì bất kể ăn gì cũng được. Miễn là để sống còn.

Trận đói năm Ất Dậu, người ta đã gặp gì ăn nấy. Thịt chuột cống, lá, vỏ cây, ngay cả thịt người.

Theo Tảo Hoài trong bài “nạn dân đói” báo Thanh Nghị số 104: Không còn gà, vịt, lợn chó nữa. Tất cả đều bị chủ ăn thịt hết. Một sự im lặng rùng rợn bao phủ làng xóm.

Theo tạp chí Trung Bắc, số chủ nhật, 169.

Vào đầu năm 1945, những hàng rào dâm bụt trụi hết lá, củ chuối ở miền châu thổ bị đào bới hết nên đã có người buôn củ chuối từ miền Trung du mang về bán với giá 150 đồng một tạ.

Phần Phủ Thống sứ Tây đã phải ra thông cáo như sau: “cấm chuyên chở hoặc bán chuột sống hay chuột chết, chuột chưa nấu chín hoặc đã nấu thành món ăn.” Hết thịt chuột thì đến thịt người. Theo sở cảnh sát Hải phòng cho biết rằng có một lần cảnh binh bắt được hai tên đương giết một đứa trẻ trong nghĩa trang An-Dương ở ngoại ô Hải phòng. Vì sợ làm hoang mang dân chúng nên chính quyền không dám đem vụ đó ra xử công khai.

Nói chi đến cái đói của người tù cải tạo sau 1975.

Hiện nay, không có dân tộc nào trên thế giới ăn như dân Việt Nam. Họ ăn đủ thứ, ăn bất cứ cái gì, ăn bất cứ ở đâu, bất kể ngày đêm. Ăn tất cả những con vật nào biết đi, biết bò, biết bơi, biết bay. Ăn tất cứ con vật nào có lông hay không lông, có da hay không da, có vẩy hay không có vẩy, bốn chân hay hai chân cũng ăn tuốt. Ăn bất kể con vật nào là giống cái hay giống đực, đi bằng bốn chân hay hai chân.

Trên trời không còn chim bay. Dưới nước cá không còn lội. Trong rừng không còn dê, nai, gấu, sư tử, voi, không còn rắn độc hay không độc.

Con người Việt Nam ăn cả gỗ đá, cả đất, ăn khoáng sản, ăn ciment, ăn dầu khí.

Con mèo, con chó trong nhà mạng sống như chỉ mành treo chuông. Các loài động vật hai chân, có vú bị đem bán, đem thuê, làm đĩ.

Nghĩ tới mà khủng khiếp. Đó là thời kỳ mạt cho giống người. Khốn thay phải làm người mà là người Việt Nam, cái mà Hà Sĩ Phu gọi văn vẻ là khủng hoảng nhân cách.

Mặc dầu vậy, xã hội con người nào cũng biến việc ăn uống thành một thứ văn hóa ẩm thực trong cách nấu nướng, trong cách sinh hoạt, trong cách ăn cách uống. Có dân tộc ăn bốc, ăn đũa, ăn có thìa muỗng. Rồi không thiếu những hội hè, đình đám, giỗ tết, lễ hội linh đình. Đôi khi, người ta biến ăn uống thành thứ “đạo ăn”.

Có rất nhiều lễ Hội. Và có Lễ Hội là có ăn uống, nhất là ở miền bắc như các Lễ hội Lim, Hội Phù Giày, lễ hội chùa Bút Tháp, lễ Hội chùa Thầy, lễ hội chùa Keo, Thái Bình, lễ hội chùa Tây Phương, lễ hội Phủ Giày, lễ hội Đền Độ, Bắc Ninh. Nơi đây là quê hương của Nam Cao bố đẻ ra Thị Nở, Chí Phèo. Chắc mai đây, người ta sẽ tìm ra chỗ dấu vết “cái đêm hôm ấy” đêm gì, cái đêm, cái nơi mà Thị Nở vô tình đã nằm ngủ tênh hênh ra đấy để cho Chí Phèo của Nam Cao... (không phải Chí Phèo Bolsa).

Mỗi địa phương lại có những đặc sản của mình như Cốm Nguyên Ninh, bánh đậu xanh Hải Dương, Cốm Vòng, nhãn Hưng Yên, nhãn Cót, chả nướng Ghềnh, món Rươi Hà Nội, chả cá Lã Vọng... Ở Huế người ta không nghĩ ra món gì đành nói tới cơm Hến, cơm Âm phủ.

Cá bống kho tiêu (Pepper-Oil Simmered Sandy Goby).

Nguồn: kikirice.blogspot.com

Trong Nam, ông Trần Trọng Trí viết “6 độc chiêu, đặc sản Nam Bộ” (Tắc kè xào lăn, Chuột xào xả ớt, Cháo đậu xanh nấu với rắn hổ đất, Dơi quạ hấp chao, Ba khía ngâm muối, Cá bống kho tiêu – DCV).

Sơn Nam viết:

Thực chất biến dạng của các món ăn Nam Bộ và kết luận bằng câu nói của Lâm Ngữ Đường: “ Tình yêu đất nước là sự thương nhớ, thèm thuồng món ăn mà cha mẹ cho mình ăn lúc mình nhỏ tuổi”.

Phần vua chúa thì dĩ nhiên việc ăn uống cầu kỳ và phức tạp lắm. Nồi niêu, đũa bát, tăm xỉa răng phải vót riêng. Cái tăm có đầu to như cái đũa, một đầu vót nhọn. Nguyễn Đắc Xuân, có họ hàng bà con hầu hạ trong cung nên được nghe kể lại cách ăn uống trong nội. Khó tin gì vào anh này, vì thành tích là vua khoác lác và nói phịa.

Chẳng hạn, các vua triều Nguyễn dùng khoảng 35 món mỗi bữa. Món ăn đựng trong các vịm, bọc giấy, có đề tên món ăn dán bên ngoài. Vua ăn được gọi là “ngự thiện”. Thường vua xơi một mình. Người hầu cho vua ăn được gọi là “chầu thiện” Nhiều món cũng thường, rất địa phương như dưa món, ruốc sả, rau muống chấm nước tương. Ăn không hết thì vua ban thưởng cho các quan, các cung tần vua đặc biệt sủng ái. Món ăn cho vào quả sơn và cho lính rước đến nhà quan lại được nhận.

Địa phương nào có món ăn đặc sản cũng dân cúng vào trong triều. Chẳng hạn muốn ăn cá Anh Vũ ở Việt Trì. dân làng mang cá về, phải tách mang cá ra, rồi nhét bông tẩm rượu vào mang cá, sau đó lấy bèo sắp nước lên mình cá để cá vẫn được tươi. Sau đó cá được bỏ vào bẹ chuối túm lại. Phần cá, “ nhấm nháp” rượu đến say lừ nằm yên không quẫy, không cựa quậy nằm trên lưng ngựa chạy thấu tới Kinh đô. Vào tới Kinh, cá được dâng lên vẫn còn tươi.

Quả là công phu và cầu kỳ.

Nói về ăn, tôi vẫn thích thú khi đọc nhà văn Phạm Duy Tốn viết trong truyện “Sống chết mặc bay” để thấy cái mặt trái của bọn chức việc ăn trên đầu trên cổ dân nghèo, tàn bạo đến dã man, ty tiện tranh dành đến thô bỉ mà quên rằng miếng ăn là miếng nhục.

Ăn thì phải bài tiết ra. Ăn nhiều thì ỉa nhiều. Có thể đây là phần kết thức để nói về cái mà người viết gọi là có một nền “Văn hóa cầu tiêu”.

Văn hóa cầu tiêu

Những kỷ niệm đến trở thành nỗi kinh hoàng, nỗi ghê tởm sau này mỗi khi nhớ lại là những cầu xí đổ thùng ở Hà nội. Nghĩ đến mà ghê tởm biến thành những cơn ác mộng ban đêm. Mùi hôi thối nghẹt mũi. Nhưng cũng cố mà quen được. Nhưng có cái không thể nào quen được. Một đàn nhặng sà xuống, bay lên, lượn tứ tung, tiếng bay vù vù. Quấy rầy không ít. Phải mau mau ra khỏi chốn này. Hầm cầu tiêu được làm quay ra mặt đường phố để tiện cho phu đổ thùng mỗi sáng. Ngồi trong cầu tiêu hôi hám, nhìn xuống là hố phân lúc nhúc những con bọ. Hằng trăm, hằng nghìn con, lổn ngổn bò lên như một đoàn quân xông tới, leo lên bệ cầu tiêu. Đó là nỗi khiếp sợ ám ảnh suốt đời một đứa bé. Sợ quá. Hãi quá.

WC công cộng ở Việt Nam

Nguồn: farm1.static.flickr.com

Vậy mà có một lần, một lần duy nhất trong đời, nhìn thấy một người, một linh mục gốc người Gia Nã Đại đã có lần một trong đám trẻ ấy đánh rơi một cái bút máy xuống hố phân. Nó khóc. Ông đã chẳng mắng, từ tốn cởi áo chùng, chỉ còn chiếc quần đùi. Mình đầy lông lá như loài vượn. Ông rạp mình với cánh tay dài, mò trong thùng phân để kiếm ra được chiếc bút. Ông kiếm ra được. Điểm một nụ cười ngây ngô khờ khạo. Những người như ông kiếm ra được một cũng không phải dễ. Các Hiền triết Hy Lạp thời xưa, đốt đuốc đi tìm người.

Phải chăng thay vì rước đuốc Thế vận. Hãy đốt cho thật nhiều đuốc lên để tìm cho ra một cán bộ Cộng Sản là người tử tế? Chỉ cần vài người trong bọn chóp bu là người tử tế đủ cứu nước Việt Nam ra khỏi vũng lầy mất nhân cách làm người hiện nay.

Sự việc ông linh mục Canada mò thùng phân ấy để tùy mỗi người suy nghĩ.

Thưở bé, ở Hà Nội, tôi nhìn thấy từng đoàn người, sáng sớm tinh mơ, khi mặt hồ còn mù sương, chút giá lạnh sương đêm. Họ xêp hàng một, như một đội binh, lũ lượt những người gánh phân phần lớn là đàn bà, nhịp nhàng, kĩu kịt, im lặng gánh những gánh phân ra ngoài thành phố. Trên mặt gánh đề những tàu lá dong để phân đừng sóng ra ngoài... Hay những xe bò chở phân lóc cóc ra khỏi thành phố cất đi những xú uế. Hình ảnh tương phản là những gánh phân đó ra khỏi thành phố đến các khu trồng rau trở thành phân bón theo một chu trình sinh hóa khép kín: ăn, ỉa, ăn lại. Thiên nhiên không có gì mất đi. Cũng không có gì là thừa. Trở ra là xú uế. Trở vào là cái hương hoa, cái tinh khiết, cái tươi mát của rau trái hoa quả tươi cung cấp cho thành phố.

Cái văn hóa cầu tiêu đó là một ám ảnh không vui của một xã hội nghèo đói, chậm tiến và nhẫn nhục.

Sau này, đọc Tô Hoài, hình như trong Cát bụi chân ai. Ông đi “thực tế” ở thôn quê. Sáng sáng “tranh thủ dậy sớm” để đi gắp phân cho đúng kế hoạch. Phải dậy sớm, dạy đúng tầm kẻo người khác gắp hết phân. Sớm quá không được vì chưa có người ra đồng, trễ quá cũng không xong vì người khác gấp trước... Những người buôn bán phân còn lấy tay quệt vào thúng phân đưa lên mũi ngửi để phân biệt phân tốt hay phân xấu. Phân xấu là phân của nhà nghèo thường chỉ có bã, ít mùi. Phân nhà giầu thì “ phẩm chất tốt”, mùi nhiều, sền sệt.

Khủng khiếp thay. Và khốn nạn thay kiếp con người.

Và cho đến nay, tôi bảo đảm là nhiều nơi ở miền bắc cũng chưa ra khỏi nền văn hóa cầu tiêu ấy.

Cuộc di cư khỏi miền Bắc là một giải thoát. Ít ra là đối với người viết bài này. Kể từ đó, hết cảnh ngồi cầu xí đổ thùng. Hết ruồi nhặng. Hết hôi thối gớm ghiếc. Nhất là hết phải nhìn những đàn dòi lúc nhúc. Hết rồi. hết thật rồi.

Nhà cầu ở miền Nam, ngay từ những năm 1954, đã có nước dội sạch sẽ. Dù sống ở một hẻm con phố nghèo, chật chội đường Bùi Viện.

Ôi hạnh phúc thay vì đã thoát ra khỏi cái nền văn hóa cầu tiêu. Hôi thối và nhục nhằn, dơ bẩn và tối tăm.

Ra Huế nhiều lần. Người viết có đi thăm các lăng tẩm trống rỗng. Chỉ có xác nhà vô hồn, vô nghĩa của các vua triều Nguyễn bởi vì người ta ăn cắp sạch sành sanh. Không thấy dấu vết một cái nhà xí, một chỗ để phóng uế. Hóa ra, ngay trong chỗ sang trọng nhất của vua quan nhà Nguyễn. Vua cũng không có một cái nhà cầu, một chỗ để tắm.

Hóa ra người ta chỉ nghĩ đến cái ăn, cái mặc. Ăn cho ngon, mặc cho đẹp nhưng ỉa vào đâu?

Sau này, có lần đọc truyện ngắn của ông Vương Văn Quang. Truyện Chuyện Xóm Tôi. Ông ném tôi vào một thế giới nhơ nhớp, khốn nạn của giống người. Tôi giận ông lắm. Ông viết nhơ nhớp chịu không nổi. Chỉ có cứt là cứt. Như một thứ Nguyễn Huy Thiệp. Ông lại làm cho tôi khó chịu một lần nữa. Những khu chung cư ở Hà Nội. Đông đúc. Chật chội. Dòm ngó. Dơ bẩn. Nhỏ nhen. Ì xèo chửi bới. Bần tiện. Trộm vặt. Thù vặt. Xỏ lá. Chửi đổng. Đểu cáng. Ích kỷ. Địa ngục. Kiếp người. Khốn nạn. Lưu đầy.

Nhân vật truyện của Vương Văn Quang, ông Tư Râu, ỉa bậy, tối tối gói vào giấy, quẳng vào khoảng sân chính, công viên giữa chung cư. Có người bắt gặp. Tư Râu thù vặt lần sau, lấy cứt chét vào lỗ chìa khóa nhà người đàn bà ấy. Hãy nghe ông thì thào:

Tớ lấy phân tớ, nhét vào lỗ khóa cửa nhà hai đứa chúng nó. Thể nào tra chìa mở cửa xong, đút chìa khóa vào đâu đó, rồi cứ thấy mùi cứt thoang thoảng trong nhà mà không biết ở đâu... Ha... ha... ha... Ông Tư Râu cười rung rinh chòm râu và mái tóc đã ngả muối tiêu.

(Ngưng trích).

Làm sao con người có thể sống trong một xã hội phi văn hóa đến như thế?

Nay thì các cầu tiêu dùng cho khách du lịch đã sang trọng hơn nhiều. Nhưng hãy nghe một khách du lịch viết lại một chuyến đi:

“ Nhà vệ sinh phải sắp hàng, nhìn ra phía trước có vẻ lộn xộn thì ra khách phải bỏ lại giầy dép ở bậc tam cấp và chỉ dùng dép riêng ở nhà vệ sinh. Một anh Tây ba lô lẹ tay buộc giầy trên quai chiếc ba lô trước khi mang dép vào nhà vệ sinh... Tôi cũng hơi lo ngại nhưng không kịp phản ứng vừa sợ mất giầy, vừa sợ phải mang đôi dép ướt nhèm nhẹp của nhà vệ sinh.

Hết trích.

Thật là quái gở.

Nhưng còn quái gở hơn thế nữa. Các lễ hội vừa kể trên, chỉ có tính cách trang trí tuyên truyền, trống rỗng nội dung. Có lễ hội như lễ hội đền Độ, có khoảng 40 chục ngàn người lũ lượt về tham dự. Nhưng chỉ có dăm nhà vệ sinh cho con số 40 ngàn người.

Tôi có đi thăm văn miếu để sống lại và mường tượng ra các tiến sĩ, nhân tài của đất nước với các bia đặt trên lưng các con rùa. Khi về, đi ngang qua một bức tường bao quanh văn miếu. Tôi vội đi thật nhanh, vì mùi xú uế, khai nồng nặc giữa nắng sau buổi trưa.

Tôi thấy thất vọng quá, ngao ngán không biết phải nói làm sao.

Cứ thử tưởng tượng xem sự dơ dáy thối tha như thế nào?

Hà Nội tôi thế đấy. Đất nước tôi như thế đấy.

Tôi đang sống ở ngoại quốc. Xa Việt Nam lắm. Tôi không ngửi thấy mùi gì cả. Một phi trường ở Mỹ có khi có một triệu lượt hành khách lên xuống trong một năm. Một triệu lần đi cầu xí... Xin cho biết phải cần bao nhiêu cầu tiêu? Tôi chỉ biết, chưa ở đâu phải xếp hàng để vào Restroom. Quý vị có khi phải chờ xếp hàng để mua một miếng bánh mì. Nhưng xếp hàng đi Restroom thì không.

Tôi đến một nhà hàng Ý ở trung tâm một thành phố thấy có hai ngã restroom., một cho bên đàn ông và một bên đàn bà. Nhưng đặc biệt có một cửa ở giữa có hình vẽ cả đàn ông đàn bà. Tôi hỏi một người bồi trong nhà hàng. Anh ta hỏi ngược lại tôi. Mày có phải Gay không?

Ở một lối đi trong một Mall rộng lớn, tôi nhìn thấy bảng chỉ dẫn đến cầu tiêu công cộng như sau: Kualampur, Malaysia 9081 miles bên cạnh hướng chỉ vào Restroom. Không ghi miles. Bảng chỉ dẫn hướng khác ghi: Hồng Kông, China 7539 miles. Tokyo 5783 miles. Moscow, Russia 6173, Los Angeles, Ca 356 miles. Quý vị thử đoán xem, tôi đang đứng ở đâu trên nước Mỹ?

Chỉ có một điều, Restroom ở Mỹ sạch sẽ thơm tho hơn Văn Miếu và các nhà hàng ở Hà Nội? Bao giờ thì Hà Nội vượt ra khỏi nền Văn hoá cầu tiêu?

Bờm là... thằng Bờm (I)

Nguyễn Văn Lục

Về văn học cổ truyền: Xin hãy để Bờm vẫn là ... thằng Bờm

Tôi đã có dịp so sánh và nhận xét hai tập san Sử Địa của hai miền Nam Bắc vào trước 1975. Bài viết sau đây, xin được nhấn mạnh và nhận xét về các câu truyện huyền thoại, truyện cổ tích của dân tộc VN đã bị các nhà phê bình văn học, các nhà viết sử miền Bắc bôi bác như thế nào.

Hẳn nhiên, bây giờ họ đã đã không nghĩ và viết như thế nữa. Hẳn nhiên, nhiều người cũng không còn muốn nhìn nhận những điều “tồi tệ” mà họ là tác nhân, đã xẩy ra cách đây hơn nửa thế kỷ. Có thể họ đã có cái nhìn khác và không khỏi hối tiếc cho cái thời đen tối của một thòi kỳ văn học đã qua.

Tưởng rằng thời kỳ đen tối ấy sẽ qua đi và không bao giờ trở lại.

Nhưng cho đến bây giờ, cả nước dù có 634 cơ quan báo chí, có 68 đài phát thanh với tổng số 15000 nhà văn, nhà báo.

Nó vẫn chỉ có một tiếng nói duy nhất, một thông tin đồng dạng, đại diện cho 15000 nhà báo. Nói ngoa ngôn, nhưng thực tiễn thì người ta chỉ cần một tờ báo, một bộ biên tập là đủ.

Cho 83 triệu dân.

Và chủ nhân ông là hai người: Ông Đỗ Quý Doãn, đại diện chính quyền và ông Trương Tấn Sang, đại diện đảng.

Hiện nay, đảng và chính quyền đã đề ra một nguyên tắc bất di bất dịch cho tất cả báo chí: “Báo chí, xuất bản nước ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật.

Nguyên tắc này như một cái rọ hay như một cái thòng lọng lúc nào cũng sẵn sàng thắt cổ báo chí.

Nguyên tắc này áp dụng năm 2008 cũng là những nguyên tắc được áp dụng hơn nửa thế kỷ trước.

Chỉ cần nêu ra trường hợp mới đây như tin ông Võ Văn Kiệt từ trần đã 24 giờ, nhưng các báo VN đã im lặng. Ngoài nước, chỉ cần sau 5 phút. Mọi người đều biết tin. Trong nước không ai biết.

Chỉ trường hợp báo mạng duy nhất là tờ Vietnamnet đưa tin:

Được tin buồn nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt đã từ trần hồi 6 giờ 40 sáng ngày 11/06/2008, Vietnamnet xin trân trọng giới thiệu bài viết.

Nhưng chỉ mấy giờ sau, lời loan tin đã trở thành: Vietnamnet xin trân trọng giới thiệu bài viết. Bỏ hẳn đoạn loan tin ông Kiệt từ trần.

Tình trạng thông tin báo chí của VN là như thế. Nó sẽ tiếp tục như thế mãi khi chính quyền cộng sản còn tồn tại.

Như chỉ thị mới đây của ban bí thư trung ương đảng cộng sảnvn, mang chữ ký của ông Trương Tấn Sang quy định rõ: Tổng biên tập và cơ quan chủ quản của mỗi tờ báo phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về những bài báo liên quan tới các đề tài “nhạy cảm”. Đề tài nào là nhạy cảm? Và khi gọi là nhạy cảm thì phải viết như thế nào? Phải tự mình kiểm duyệt, tự mình phải cắt bỏ.

Nghĩa là biết làm báo sạch. Thứ báo mà các người làm báo chỉ là chuyên viên chùi đồ đồng hay những đứa trẻ đánh giày có bổn phận đánh bóng đôi giày chế độ. Đất nước hiện nay đang trên đà tụt dốc suy thoái, lạm phát mà lý do chính là tình trạng tham nhũng thất thoát hàng vạn tỷ đồng mà vẫn không thể kiếm ra được một thủ phạm tham nhũng. Cuộc sống vẫn tiếp tục một cách bình thường như không có chuyện gì xẩy ra cả.

Đó là bi kịch của Việt Nam hiện nay. Thản nhiên sống, sống bình thường như thể không có chuyện gì xẩy ra cả.

Thế cho nên hiện nay, cung cách làm văn học, cung cách phê bình, cung cách thông tin, cung cách viết bài theo chỉ thị đã một thời ngự trị tại miền Bắc trước đây như thế nào, nay nó trở lại nguyên hình.

Thật khổ cho người làm báo VN quá. Bởi vì không có tự do báo chí, không có tự do con người. Nên không có tất cả.

Nhớ lại thời ấy, những Trần Đức Thảo, Nguyễn Đổng Chi, Đào Duy Anh đã phải cúi mình làm tôi tớ cho bọn người không có văn hóa mà trình độ có thể vừa ra khỏi tiểu học, ép mình viết ra những điều đáng lẽ họ không nên viết.

Vậy mà họ đã phải viết. Trần Thanh Mại yêu cầu gọi Thằng Bờm là em Bờm, Trần Đức Thảo cũng không làm khác được, cũng một điều em Bờm. Nào ai dám gọi khác? Bây giờ, không cần bom đạn hủy diệt của Mỹ, đất nước VN đã bị một bọn người tham lam kéo giật lùi hàng nửa thế kỷ của tiến bộ và phát triển so với bất cứ láng giềng nào của mình. Góc tối văn học với bao nhiêu che khuất phiền lụy đến giờ phút này cũng chưa mở ra hết. Một số nhà văn trước khi chết đã dám viết ra.

Nhưng vẫn chưa đủ. Góc sáng thì chưa thấy đâu. Đốm sáng thì có, vụt lên rồi tắt cứ như người chạy đua yếu sức. Cứ cung mực này, văn học trong nước khó có cơ hội vươn lên cùng người khác.

Không có tự do thì không có sáng tác văn học, cứ tiếp tục chìm đắm trong mê sảng về những hào quang không có thật và bằng lòng tự mãn với những cảm quan thư lại kiểu Hội Nhà Văn, thiếu chất sáng tạo với một thứ ngôn ngữ văn học đã được sàng lọc, được chưng cất kỹ càng.

Nghĩ mà giật mình. Càng nghĩ càng ngao ngán. Đất nước nay do một tập đoàn những người lãnh đạo như một bầy kên kên sâu xé xẻ thịt.

Vậy mà xem ra, giai cấp lãnh đạo vẫn chưa chịu mở mắt ra mà nhận ra những sai lầm nghiêm trọng của họ.

Thời nay, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Kinh tế đã phát triển, xã hội đã thay đổi. Tình trạng mất tự do trong giới nhà văn, nhà báo xem ra không có mấy thay đổi và không có dấu hiệu cải tiến gì.

Cũng may là hiện nay còn có hệ thống báo điện tử nhờ đó, một số nhà văn, nhà báo trong nước có chỗ xả “xu páp”.

Bài viết này hóa ra vẫn cần thiết như một nhắc nhở. Cần thiết như một cảnh báo.

1. Tham vọng dùng chủ nghĩa Mác Xít để giải lý lịch sử, văn học

Đây là tham vọng có thật, xẩy ra thật. Rất máy móc và rất thô kệch trì độn, ít lắm từ 1955 đến 1975. Là hễ nói đến văn học hay chính trị là phải chèn cho bằng được hai chữ Mác Xít vào. Mác nói thế này, Mác bảo thế kia. Mác như một thứ bảo kê kiến thức. Nói theo Mác là đúng. Nói khác là có “vấn đề”. Rồi dùng mũi nhọn chủ nghĩa Mác đề cắt nghĩa lịch sử. Cắt nghĩa thế nào, ngay cả vo tròn bóp méo cốt làm sao cho đúng khuôn thước của Mác. Đó là một hiện tượng Mác học rất thịnh hành sau 1954. Nhưng đó chỉ là thứ Mác để sơn phết bên ngoài, bên trong rỗng tuếch. Chẳng hạn trong suốt gần 50 số báo Tập San Sử địa miền Bắc, tôi không thấy một bài nghiên cứu tìm hiểu, phê bình nghiêm chỉnh nào về học thuyết Mác về phương diện lý thuyết, về lịch sử hay về lý thuyết kinh tế của Mác.

Nhưng chỉ thấy người ta trưng dẫn Mác để giải thích truyện này truyện kia một cách tùy tiện.

Không thể đem tiêu chí, con mắt của người bây giờ để suy đoán truyện đời trước một cách áp đặt.

Nguồn: DCVOnline.net

Lại phải mất bao nhiêu năm tháng chữa căn bệnh Mác học này? Chế độ miền Bắc cộng sản là chế độ quanh năm ngày tháng lo sửa sai. Nhưng hết sửa sai, rồi lại sai, tiếp tục sai, tiếp tục sửa sai, sửa mãi và cứ thế tiếp tục sai mãi? Sửa sai lả một cách bào chữa, che dấu tội phạm mà không có kẻ phạm tội, không cần pháp luật hay công lý. Tôi lần đọc lại Nghị quyết của Hội Đồng chính phủ về kết quả sửa sai cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức như sau:

“Hội đồng chính phủ trong phiên họp tháng 6, 1958 đã nghe Ủy Ban cải cách ruộng đất Trung ương báo cáo về việc căn bản hoàn thành công tác sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức.

Hội đồng chính phủ đã nhận định rằng:

Hiện nay công tác sửa sai đã căn bản hoàn thành và có kết quả tốt, căn bản đạt yêu cầu. Kết quả tốt của công tác sửa sai có tác dụng xác định và củng cố thắng lợi của cải cách ruộng đất. Những xích mích tạm thởi trong nội bộ nhân dân đã được giải quyết một cách thỏa đáng. Tình hình nông thôn đến nay căn bản đã được ổn định”.

Đọc đoạn văn trên cho thấy chính sách cải cách ruộng đất có sai lầm. Sai lầm thế nào không ai biết và cũng không có một ai trách nhiệm về sai lầm ấy.

Đó là chính sách Huề cả làng.

Tham vọng Mác xít hóa về văn học diễn ra như sau:

● Về lịch sử: Người cộng sản có tham vọng “làm cho mọi người thấy rõ được cái dĩ vãng vẻ vang của dân tộc, giúp cho nhân dân thấy rõ tổ quốc của mình là vĩ đại, dân tộc mình là anh hùng”. Vì thế, họ đã biên soạn: Sơ thảo lịch sử Việt Nam, trọn bộ. Lịch sử 80 năm chống Pháp, Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh, Tìm hiểu lịch sử phát triển xã hội Việt Nam, Tài liệu tham khảo về Cách mạng cận đại Việt Nam, 12 quyển, Cách mạng Tây Sơn. Kể như họ đã viết lại lịch dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác. Chẳng hạn các cuộc nổi dậy thời phong kiến hay thời thực dân đều gài đặt giới nông dân là nguyên nhân khởi phát và chủ động như các bài viết: Phong trào nông dân hay phong trào dân tộc, Lịch sử Thủ đô và lịch sử dân tộc. Trong bài Lịch sử Thủ đô kết thúc cuối cùng của bài viết là:

Ngày 19/08/1945, giữa nhà Hát Lớn Hà Nội, trung tâm của thủ đô yêu quý, dựng lên lá cờ đỏ sao vàng năm cánh ghi ngày độc lập đầu tiên của đất nước sau ngót 100 năm bị thực dân Pháp đô hộ... Thủ đô tưng bừng trong rừng cờ đỏ sao vàng thì giặc Pháp gây sự ngày 19/12/1946.

Lịch sử đã bị bóp méo. (Trích thư của Ban nghiên cứu Văn Sử điạ Việt Nam ở Hà Nội, ngày 25 tháng 7 năm 1958, Tập san Sử địa số 48 - tháng 8, 1958).

● Về Văn học cổ: Có Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam, quyển 1 và 2. Tục ngữ và dân ca Việt Nam, quyển 1 và 2, Lược khảo về thần thoại Việt Nam, Truyện cổ Việt Nam, Văn học trào phúng Việt Nam, Truyện tiếu lâm Việt Nam, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Nguyễn Trãi Quốc âm thi tập, Khảo luận về truyện Thạch Sanh. Cạnh đó còn không biết bao nhiêu bài viết tham luận chung quanh các giá trị văn chưong cũ như các bài của Trần Thanh Mại: Bài giảng ca dao cổ kéo theo các cuộc tranh luận chung quanh truyện Thằng Bờm, truyện Trê Cóc, truyện Thạch Sanh, truyện Tấm Cám, truyện Chử Đổng Tử, truyện Lục súc tranh công, truyện Trạng Quỳnh, v.v...

Bên cạnh đó còn có những bài viết liên quan đến Truyện Kiều của Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Trần Tế Xương, v.v... Chẳng hạn bài: Đoàn Thị Điểm với chinh phụ ngâm hay là tác phẩm văn học chống chiến tranh của Văn Tân (Tập san Sử Điạ số 19). Ngoài ra Họ còn lên án những tác giả có tư tưởng hữu khuynh như Trương Tửu, Phan Khôi, Trần Trọng Kim, Trần Đức Thảo, v.v...

Tất cả các loạt bài phê bình trên đều dựa trên quan điểm Mác Xít như Văn Tân viết:

“Ở đây cũng như ở nhiều chỗ khác, bao giờ chúng tôi cũng coi công tác vận dụng quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác vào việc nghiên cứu và biên soạn lịch sử văn học là một công tác khó khăn và phiền phức... Những luận điểm phản động, xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lê Nin cuả Trương Tửu trong Mấy vấn đề Văn học sử Việt Nam chỉ mới là những luận điệu phản động lộ liễu nhất ở phần ấy.Tư tưởng phản động của Trương Tửu cũng biểu hiện trắng trợn hơn ở phần thứ hai quyển Mấy vấn đề ăn học sử Việt Nam. (trích Văn Tân, Tập san sử điạ, tháng 9-1958)

Việc phê bình các nhân vật lịch sử hay các sự kiện lịch sử, người cộng sản có thói quen sai lầm là tách rời sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử và cả người viết sử ra khỏi hoàn cảnh lịch sử. Thậm chí còn đưa ra những tiêu chuẩn quá cao về sự hy sinh, về lòng yêu nước của nhân vật lịch sử. Chẳng hạn phê phán Phan Thanh Giản đầu hàng Pháp, họ cho Phan Thanh Giản là một người yếu hèn, biểu tượng của giai cấp phong kiến, vua quan triều đình. Mà không xét đến điều kiện lịch sử khách quan của thời kỳ đó. Thời đại nào thì đẻ ra nhân vật lịch sử thời đó. Một thời đại lịch sử do những điều kiện khách quan chi phối chỉ có thể đẻ ra những nhân vật lịch sử nhất định, biểu tượng cho thời kỳ đó. Như Lỗ Tấn viết:

“Sinh ra ở thời này mà muốn viết tác phẩm cho thời sau, con người như thế chỉ tạo ra cho mình một ảo ảnh không thể thực hiện được trong thế giới hiện tại.”

Cho nên, không thể đem tiêu chí, con mắt của người bây giờ để suy đoán truyện đời trước một cách áp đặt được. Nhận xét về sự thắng bại của Quang Trung, họ dễ dàng suy diễn rằng do các phong trào nông dân nổi dạy đã góp phần trực tiếp vào cuộc chiến thắng Đống Đa của người anh hùng áo vải.

Cứ như thế mà họ viết lịch sử. Cứ như thế mà lịch sử bị bóp méo, xuyên tạc. Cứ như thế mà dùng văn hóa như một công cụ cho một chính quyền, cho một thể chính trị. Tình trạng văn học như thế chẳng khác gì một canh bạc văn học, chơi xong rồi dẹp bỏ, bày canh khác. Canh bạc ấy vẫn đang tiếp diễn và còn tiếp diễn.

2. Tham vọng giải thích Huyền thoại, truyện cổ tích dưới lăng kính chủ nghĩa Mác

● Bài viết cuả Nguyễn Đổng Chi: Nguyễn Đổng Chi, một người viết rất có thẩm quyền về lãnh vực truyện cổ tích và huyền thoại. Nhưng qua bài: Ý nghĩa truyện Chử Đổng Tử cách viết của cụ đã khác. Thiếu khách quan vì viết về hùa. Xin tóm tắt câu truyện Chử Đổng Tử. Truyện này được trích dẫn trong sách Lĩnh Nam trích quái với đề mục Đầm một đêm, (nhất dạ trạch) do Trần Thế Pháp sưu tập, ông sống vào khoảng cuối đời Trần). Cũng như đa số các truyện truyền kỳ khác, truyện này truyền lại từ thời cổ, không tránh khỏi bị nhiều lớp bụi thời gian phủ lấp, che mờ thực tại nội dung của truyện lúc ban đầu. Nó được truyền thừa kể lại, thêm bớt, gia giảm tùy thuộc người kể truyện. Chỉ biết rằng câu truyện xoay quanh công chúa Tiên Dung, con gái vua Hùng Vương thứ ba. Ở làng Chử Xá, có người tên Chử Đổng Tử, con Chử Cù Vân. Nhà bị một trận cháy mất sạch, hai cha con phải chung nhau một cái khố. Khi cha chết muốn nhường lại cái khố cho con. Chử Đổng Tử không chịu không nỡ để cha chết truồng, dùng chiếc khố độc nhất đó liệm cha để mà chôn. Ngày ngày đi bắt cá, ngâm mình nửa người dưới nước để bán cá hoặc xin ăn. Kịp khi công chúa Tiên Dung đi qua. Chử Đồng Tử sợ hãi chui vào bụi rậm, lấy cát mà phủ lên người. Công Chúa Tiên Dung lại muốn tắm nên sai người quây màn ngay chỗ bụi lau có Chử Đồng Tử. Khi công chúa dội nước, cát trôi đi để lộ thân hình trần truồng của Chử Đồng Tử. Công Chúa ngạc nhiên, hỏi cớ sự, hồi lâu mới rõ và bảo: Tôi vốn có ý định không lấy chồng, nay bỗng nhiên gặp anh như thế này, chắc có trời xui khiến, bèn cho áo quần và tính làm vợ chồng. Vua Hùng nghe tin nổi giận nói với mọi người rằng: con gái ta không kể danh tiết, hạ giá với kẻ nghèo hèn, còn mặt mũi nào trông thấy ta nữa. Từ nay mặc kệ nó muốn đi đâu thì đi, không cho về cung. Tiên Dung không dám về cung bèn cùng chồng về mở chợ buôn bán sinh nhai.

Câu truyện kể là đẹp, lãng mạn và không thiếu tính cách nhân bản. Đọc truyện này nhắc nhớ tới truyện Trương Chi. Nó bày ra nghịch cảnh, trớ trêu, khúc mắc mà thực tế trên đời vị tất đã là có thật.

Dù khúc mắc, nhưng nó lại đơn thuần, tự nhiên và rất người. Nhưng dưới mắt của Nguyễn Đổng Chi thì đây là: sự xung đột giữa tình yêu và quan hệ giai cấp, của hai giai cấp cực đoan. Lý giải đi xa hơn thế nữa: Tình yêu đã thắng quan hệ giai cấp. Thật là một cuộc nổi loạn, một hành động “cách mạng”... Biên giới của giai cấp đã phân định rõ không thể nào vi phạm đuợc. Và cụ Nguyễn Đổng Chi kết luận:

Truyện Chử Đổng Tử là một công trình sáng tác có giá trị của nhân dân lao động. Nó được tô điểm sửa chữa lần cuối cùng trong giai đoạn xã hội phong kiến. Nó có một giá trị nhân đạo sâu sắc: thù ghét lễ giáo đạo đức của giai cấp thống trị xâm phạm đến quyền sống của con người.

Và cụ khẳng định: Ý nghĩa của truyện Chử Đổng Tử là tình yêu đã thắng quan hệ giai cấp. Tháng 10/1956.

Một vài nhận xét.

● Nhận xét thứ nhất: Đây không phải là một sáng tác của một cá nhân nào. Cho dẫu do một cá nhân đi nữa thì truyện đã thay đổi từng thời kỳ, đã được cải biên tùy thuộc vào người kể hơn là người sáng tác ra câu truyện. Cho nên gọi là một công trình sáng tác tác tập thể cũng không hẳn là sai.

Cụ Nguyễn Đổng Chi căn cứ vào nội dung câu truyện giả thiết rằng người sáng tác phải thuộc thành phần nông dân, không thể thuộc giai cấp quý tộc, quyền quý đuợc: Nó là của nhân dân lao động vì một lẽ rất dễ hiểu là suốt truyện nó phản kháng chế độ xã hội đã kìm hãm con người. Đó chỉ là một suy luận giả định, không đủ thuyết phục. Việc sáng tác vì vậy có thể do giới quan quyền, giới quý tộc đã sáng tác. Bằng chứng là Lĩnh Nam trích quái là do một người có tên tuổi, thuộc giới có ăn học, có chức phận là Trần Thế Pháp sưu tập.

● Nhận xét thứ hai là cụ Nguyễn Đổng Chi đã dùng những chữ của thời đại bây giờ như cách mạng, xung đột giữa quan hệ giai cấp, nhân dân lao động, văn học của quần chúng, giai cấp đối lập để giải thích nội dung truyện. Những thuật ngữ này chỉ có thể hiểu được trong bối cảnh của cuộc cách mạng tháng 10 ở Liên Xô mà thôi. Đưa nó ra khỏi bối cảnh xã hội ấy, nó không có nghĩa gì nữa. Ý thức về giai cấp và về giai cấp đấu tranh chỉ có thể hiểu được trong một xã hội phát triển về kinh tế, về kỹ nghệ từ thế kỷ 19 và không thể áp đặt xa hơn nữa.

● Nhận xét thứ ba là cần căn cứ vào chính nội dung, căn cứ vào lời nói của công chúa Tiên Dung để hiểu câu truyện như thế nào? Việc găp gỡ Chử Đổng Tử trong một hoàn cảnh éo le được công chúa chấp nhận dễ dàng chỉ vì: Nay bỗng nhiên gặp anh thế này, chắc có Trời xui khiến. Anh hãy dậy tắm rửa đi. Chử Đổng Tử sợ, từ chối thì công chúa nói: Đây là do Trời tác hợp sao anh lại từ chối? Và rồi hôn lễ cừ hành ngay trên sông. Đã do Trời xui khiến thì còn e ngại gì đến phân biệt giàu nghèo, truyện danh tiết, truyện tiếng tăm, truyện lễ nghi phép tắc rườm rà hay lời thị phi của người đời. Câu truyện tưởng chừng như khó gỡ, khó giải quyết, nhưng nay đã vịn vào lý do Trời định thì mọi chuyện được hoá giải.

Và đó chính là tâm thức người xưa cũng như lối hành xử, tin vào Trời của họ. Khi bị vua cha vây hãm, công chúa cũng chỉ có một lối hành xử duy nhất là tin vào Trời. Công chúa nói: Tất cả mọi việc đều do Trời chứ không phải ta. Ta đâu dám cự lại phụ vương. Sống và chết đều nhờ Trời. Ta có bị phụ vương giết cũng không oán hận.

Chủ nghĩa Mác Xít xuất hiện chưa đầy một thế kỷ, đem chủ nghĩa ấy nhằm giải thích truyện đời xưa là một cưỡng đạt thô bạo khó chấp nhận được.

Truyện thằng Bờm

Không hiểu sao, câu truyện thằng Bờm trở thành câu truyện tranh luận sôi nổi, ngay cả triết gia Trần Đức Thảo cũng nhập cuộc.

Bài phê bình câu truyệnThằng Bờm do Trần Thanh Mại khai pháo trong một bài viết: Giảng văn về ca dao cổ của nông dân tranh đấu, trong đó Trần Thanh Mại phân tích ba bài: Con mèo mà trèo cây cau, Thằng Bờm và Mười cái trứng. Riêng bài Thằng Bờm gây được một dư luận khá sôi nổi.

Nhưng trước hết xin đăng lại toàn bộ bài thơ Thằng Bờm cho tiện theo dõi.

Phú ông xin đổi nắm xôi, Bờm cười.

Nguồn: hoidap.7sac.com

Thằng Bờm

Thằng Bờm có cái quạt mo,

Phú ông xin đổi ba bò, chín trâu.

Bờm rằng, bờm chẳng lấy trâu,

Phú ông xin đổi ao sâu cá mè.

Bờm rằng bờm chẳng lấy mè,

Phú ông xin đổi một bè gỗ lim,

Bờm rằng bờm chẳng lấy lim,

Phú ông xin đổi con chim đồi mồi.

Bờm rằng bờm chẳng lấy mồi,

Phú ông xin đổi nắm xôi, Bờm cười.

Bài thơ dễ hiểu và đơn giản chỉ có thế. Mục đích có thể chỉ để cười. Kể từ lúc có câu chuyện Bờm, dân gian thêm một truyện cười, truyện giải trí. Nhưng dưới mắt ông Trần Thanh Mại, bài thơ đã trở thành:

“Một bài thơ tiêu biểu cho tinh thần nông dân đấu tranh chống phong kiến, địa chủ áp bức, bóc lột, biểu lộ rõ rệt lòng tin tưởng của giai cấp ở một thắng lợi hoàn toàn. Vì tên “địa chủ” phú ông đã thất bại trong âm mưu lừa bịp Bờm bằng nhũng lời hứa hẹn mơ hồ: ba bò chín trâu, ao sâu cá mè, một bè gỗ lim, con chim đồi mồi. Và sau cùng nó đã phải ngã gục, quỳ gối đầu hàng, tức là đưa hòn xôi thiết thực để lấy cái quạt mo. Nó còn biểu lộ rõ rệt ý thức của giai cấp bần cố nông về trí tuệ của mình, lực lượng của mình, lòng tin tưởng của giai cấp ở một thắng lợi hoàn toàn, thế nào cũng đến thắng lợi trong cuộc đấu tranh lâu dài, đánh đổ uy thế của địa chủ cường hào gian ác để tự mình giành nắm lấy ưu thế chính trị và kinh tế trong một xã hội công bằng, hợp lý hơn.

Xin trích đoạn tiếp sau đây về nhân cách, hình dạng Bờm và xin cố giữ nghiêm chỉnh. Đừng cười. Nay ông đề nghị để trân trọng Bờm, không được gọi là thằng Bờm. Vì chỉ bọn địa chủ mới gọi nông dân là thằng mà phải gọi là anh Bờm, chú Bờm hay “Em” Bờm. Ông tán rộng thêm về cái bề ngoài của Bờm. Bờm là một em bé cố nông, 10, 12 tuổi, có một chòm tóc đặc biệt, “bất khuất” trên đầu, vòng lên như cái bờm ngựa. Theo ông, cái tên này, riêng nó đã bao hàm cả giai cấp tính ở trong: bình dị, thực tế.

Và ông Trần Thanh Mại đánh giá bài Thằng Bờm là:

“Một bài thơ kiệt tác của nông dân lao động, một hòn ngọc đẹp nhất, sang nhất của chuỗi ngọc thi ca Việt Nam. Nó là một quốc tuý văn chương.”

Lời nhận xét của ông Trần Thanh Mại thật là cường điệu. Bao nhiêu chữ, bao nhiêu ngôn từ xa hoa vô nghĩa. Chỗ nào là đấu tranh lâu dài, chỗ nào là địa chủ bóc lột, chỗ nào là cường hào gian ác? Nó không còn là một bài phê bình văn học. Nhưng là một bản án địa chủ, phong kiến như trong thời kỳ cải cách ruộng đất. Nó toát ra ra một không khí đấu tranh một mất một còn giữa địa chủ và giai cấp nông dân qua nhân vật Thằng Bờm.

Câu chuyện huyền thoại về Thằng Bờm đang tự nhiên, đang dí dỏm, đang vô tư của một đứa trẻ con biến thành câu truyện người anh hùng đấu tranh giai cấp. Thằng Bờm bỗng chốc trở thành em Bờm ngọt xớt.

Tự nhiên mất vui, mất hết ý nghĩa.

Trần Đức Thảo nhập cuộc với bài: Tìm hiểu giá trị văn chương cũ. Phần một, ông Trần Đức Thảo đề cập đến Lập trường giai cấp và quan điểm lịch sử. Theo ông: chúng ta coi mọi tác phẩm đời phong kiến với con mắt người cách mạng ngày nay, đứng trên lập trường bây giờ. Tuy nhiên, ông cho rằng: Người nông dân ngày bấy giờ có thể tố cáo tội ác của địa chủ, nổi dậy, đánh đổ một lớp cường hào ác bá và quý tộc phản động, nhưng chưa thể quan niệm một cuộc cách mạng triệt để phản phong, tiêu diệt giai cấp địa chủ. Ở chỗ khác, ông lại tự dối và đi ngược lại ý tưởng của chính ông khi ông viết rất hay và chính xác như sau:

“Nhận xét về tác phẩm đời xưa, chúng ta không thể nào tách rời hoàn cảnh lịch sử và điều kiện hẹp hòi của xã hội cũ”.

Ở phần chót, ông viết:

“Nhưng dưới cái vỏ tôn ti trật tự, đã phát hiện đời sống thực sự trong xã hội phong kiến, tức là một cuộc đấu tranh không ngừng giữa một bọn kẻ cướp lòng tham không đáy và nông dân lao động bắt buộc phải bảo vệ từng giờ từng phút điều kiện sinh sống tối thiểu”.

Tôi có cảm tưởng, người ta chỉ mượn câu truyện Thằng Bờm như một cái cớ để phô diễn quan điểm tranh đấu giai cấp mà thôi. Cũng như mượn câu truyện: con mèo mà trèo cây cau, trù ểm cho mèo chết (mèo đại diện cho tầng lớp phong kiến địa chủ). Hay câu truyện về Mười cái trứng.

Nhưng có lẽ ngạc nhiên và lý thú nhất là phần ý kiến bạn đọc, trong đó có ý kiến cuả ông Ngô Quân Miện. Theo ông Ngô Quân Miện thì nội gọi Bờm là thằng, địa chủ được gọi là phú ông cho thấy Bờm bị khinh miệt, phú ông được trọng nể. Cũng theo ông Miện, những đề nghị vô lý của phú ông chỉ cho thấy sự xỏ lá và khinh miệt Bờm, có nghĩa là khinh miệt nông dân. Diễu Bờm chán rồi, phú ông thẩy ra một nắm xôi. Bờm khoái trá vồ lấy ăn. Câu truyện kết thúc ở đấy.

Ngay cả ý kiến của Ngô Quân Miện cũng chỉ là lời bàn Mao Tôn Cương, không phải là cách nhìn nghiêm chỉnh vể truyện cổ như phần trình bày sau này.

Truyện Trê Cóc, truyện Tấm Cám, truyện Thạch Sanh, truyện Lục Súc tranh công

Chúng tôi đã trình bày, phân tích vài truyện cổ ở trên, thiết tưởng thế cũng đã đủ. Vì những truyện cổ như Trê Cóc, Tấm Cám hay Thạch Sanh cũng được giải thích dựa trên quan điểm giai cấp đấu tranh nên không có gì khác biệt cả.

Chẳng hạn, trong truyện Thạch Sanh được nhận xét là:

Trần Thanh Mại (1908-

Thạch sanh chống quý tộc bóc lột và áp bức?

Nguồn: DCVOnline.net

“Dưới hình thái thần thoại, nó đã phản ánh được khá chân thực và sâu sắc nhiều nét sinh hoạt cốt yếu của xã hội phong kiến, nó lại đã nói lên được những ý nghĩ tâm lý, nguyện vọng thâm thiết của nhân dân lao động chống quý tộc bóc lột và áp bức”

Nhận xét về truyện Trê Cóc được viết:

“Trê Cóc là một truyện ngụ ngôn đầu tiên nói đến cảnh chia rẽ ở nông thôn Việt Nam do cường hào, địa chủ, quan lại gây nên. Bọn cường hào địa chủ, quan lại ung dung sống trên sự chia rẽ ấy. Trê Cóc đã vạch cho người ta thấy những sự thật hãi hùng ấy của xã hội Việt Nam dưới thời phong kiến và cả Pháp thuộc nữa”

Nhận xét chung

Huyền thoại, truyện cổ tích, truyện dân gian là nét đặc trưng của bất cứ nền Văn hóa cổ nào.

Nền văn minh Hy Lạp cũng như nền văn minh Ai Cập được coi là cao nhất trong số các nền văn minh của thế giới. Nhưng văn minh Hy Lạp lại được coi là cái nôi của Huyền thoại. Từ Hy Lạp chạy sang Ai Cập trong đó bao gồm Mesopotamy cổ đại với các nền văn minh sáng chói nhất với các đế quốc Assyrie và Babylonne chạy sang pre-Columbian hay vùng rừng rậm nguyên sơ Amazon.

Ở đâu cũng có mặt của huyền thoại trong nếp sống cổ xưa.

Có thể nói, huyền thoại là là nếp sống, nếp nghĩ, nếp sinh hoạt của con người thời cổ.

Huyền thoại là hơi thở của đời sống con người cổ xưa.

Những huyền thoại đó đã được tích lũy, cải biên, kể lại, truyền đạt hết thế thế hệ này sang thế hệ kia từ vài trăm năm trước niên lịch. Những câu truyện huyền thoại cũng như các câu truyện cổ tích lâu đời nhất được ghi nhận từ 900 năm đến 800 năm trước thiên niên kỷ.

Và hằng ngàn năm như thế, con người ta không phải chỉ nghe kể về những huyền thoại mà sống huyền thoại. Huyền thoại là chính họ, là đời sống và ý nghĩa đời sống của họ, trong đó quá khứ hiện tại trộn vào nhau là một. Tất cả những câu truyện huyền thoại hoặc truyện dân gian đó nhằm giải thích cắt nghĩa về sự sáng tạo ra thế giới này, về các thần thánh ngự trị, về linh hồn hoặc về những biểu hiện thiên nhiên trong trời đất như nắng, mưa gió bão hay nguồn gốc vật tổ và nhất là cái chết và thế giới bên kia.

Như đối với các dân tộc người thiểu số ở Việt Nam. Hầu hết các câu truyện huyền thoại của người Tây nguyên bàng bạc trong đời sống của họ với đủ các loại thần của họ. Những con người Tây nguyên ấy là nhân chứng về quá khứ của con người.

Họ chỉ cho chúng ta biết ngày xưa chúng ta là như thế nào. Từ đêm tối của thời Thái cổ, trải qua hàng ngàn năm, các di vật và di ngôn của tiên tổ thông qua qua các câu truyện huyền thoại đã để lại một gia tài văn hóa của người Việt.

● Di vật thứ nhất, nhờ các khai quật của khoa cổ sử đã lôi ra ánh sáng những di tích vật chất và mở đầu cho các thời kỳ trung thạch Hòa Bình, Bắc Sơn, Sa Huỳnh, rồi kỹ nghệ đồ Đồng Cổ Loa, Đông Sơn. Đất đã ấp ủ, gìn giữ các di tích đó trong nhiều thế kỷ và nay hé lộ trao lại cho chúng ta.

● Di vật thứ hai là từ thuở nào, thuở ngàn xưa, không định được ngày tháng, hay nguồn gốc, các câu truyện huyền thoại hay truyện cổ tích đã được truyền tụng lại trong dân gian như di ngôn văn hóa của các bậc tiên tổ để lại. Như huyền sử đời Hồng Bàng. Các dân tộc như người Mường có Lang Đa Cần, người Thái có Tào Ngân, người Mán có Phù Huy. (Xem thêm Tuyết xưa của Trần Ngọc Ninh). Các huyền thoại đó đều muốn nói tới nguồn gốc thủy tổ tộc Việt? Nào đẻ 100 trứng hay từ một trái bầu đẻ ra 100 con người như trong huyền thoại Tây nguyên.

Chúng ta ngày này có nên mất công sưu tầm sử liệu, đào xới, khảo cổ để đi tìm sự thật về nguồn gốc không? Sự thật 100 trứng sẽ cho biết được điều gi? Về mặt huyền thoại, tôi khẳng định là không. Bởi vì người ta sống huyền thoại mà không nhất thiết phải tra hỏi về huyền thoại. Huyền thoại có giá trị tượng trưng, giá trị biểu hiện nằm trong cơ cấu quá khứ - hiện tại - con người vượt ra khỏi nhãn giới lý giải. Cho nên, tôi không thấy là cần thiết phải đi tìm cho bằng được xem truyên Tấm Cám sinh ra ở làng nào, năm nào. Trong Tập san Sử địa, số 39 tháng Tư, 1958, ý kiến đóng góp cho rằng Tấm Cám sinh ra ở làng Thuận Quang, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc ninh, chính là quê hương của Tấm Cám, ngay cạnh đường số 5. Rồi cách ga Phú Thuỵ chừng 300 thước, còn một ngôi chùa là chùa Bà, thờ Bà Tấm, bà Cám. Dân địa phương còn chỉ cho thấy giếng Bống, nơi Tấm nuôi Bống, nào là ngàn dâu, nơi Tấm hái dâu và gặp vua. Giả thuyết của ông Phong Châu nêu ra còn rất nhiều nghi vấn và hoang đường.

Tìm hiểu làm gì cho hoài công.

Cách duy nhất là chỉ cần biết nội dung câu truyện Tấm Cám mà không cần thiết truy tìm nguồn gốc, một điều không cần làm và không nên làm.

Rất nhiều người đã nghi ngờ, đã tìm cách lý giải huyền thoại theo cách luận lý, khoa học bây giờ và đã không ngần ngại cắt bỏ, gọt rũa lại huyền thoại.

Họ đã thất bại.

Xenophon và Platon đã làm như thế.

Bên Á Châu thì Khổng Tử chỉ chú trọng san định lại Kinh Thi, Kinh thư.

Cho nên, cần khẳng định là càng không thể sửa, san định hoặc gán ghép vô bằng các quan điểm chính trị như Mác Xít để lý giải huyền thoại và truyện cổ tích.

Đó là bóp méo và giết chết thần thoại phá hủy “cơ cấu ý nghĩa” của huyền thoại.

Như Jacques Dournes viết:

“Nếu phải hiểu để mà có thể yêu, thì lại phải yêu để mà có thể hiểu. Yêu và kính trọng nữa. Phải yêu cuộc sống gian khổ và bình dị, phải yêu thiên nhiên tinh khôi và say mê vẻ đẹp của nó, phải yêu cái không khí đầm ấm của căn nhà sàn và hơi nóng tỏa ra từ bếp lửa của nó, phải yêu khu rừng ngo và đêm đầy trăng”… Mà đấy là cả một bài thơ và một cuộc sống, nằm ngoài thời gian, nó không chỉ chăm chăm vào quá khứ… Đêm bên bếp lửa đã tàn. Ai nấy đều im lặng. Câu chuyện của cụ Già làng đã hòa tan vào cái lặng thinh sâu thẳm của đêm .. Trong bếp lửa ủ, ngọn lửa không còn bốc lên, đến lượt khói cũng tan dần và lẫn vào các đồ vật trong căn nhà. Chẳng mấy chốc, bình minh đã dát bạc bầu trời còn mờ tái và khiến các đỉnh núi long lanh ngũ sắc

Một buổi sáng mới đang bắt đầu.

L'HOMME ET SON MYTHE, Jacques Dournes

Nguồn: alapage.com

Một đoạn trích khác:

“Nó là than hồng trong bếp lửa đêm trong căn nhà sàn, đêm hôm trước được cụ Già Làng thổi bùng lên, khi cụ cảm nhận ra cái bình minh mà cụ còn chưa nhìn thấy. Đốm lửa ủ dưới lớp tro tàn của các thế hệ suốt lịch sử sẽ được khêu lên lại để làm hồi sinh một ngọn lửa mới, không chỉ cho thế hệ hệ trẻ “hiện đại” vốn không biết đến những hiểm nguy của một ngọn lửa quá nóng chói, mà là cho cả căn nhà, vừa vẫn thấm đậm được cái truyền thống xưa cũ vừa cảm nhận ra được cái buổi ban mai mới mẻ này.” (Trích lại trong Miền đất huyền ảo, Jacques Dournes, phần Mào đầu, từ trang 11-13)

Ôi đẹp và thơ mộng biết bao những đêm huyền thoại bên bếp lửa tàn!!! Xin một lời cảm tạ J. Dournes.

Người cộng sản đang quét sạch cái bếp lửa tro tàn ấy của những đêm huyền thoại linh thiêng, cao cả và đượm tình con người.

Sau 1954, sinh hoạt văn học miền Bắc đẫm mầu Máx xít. Cái gì cũng mang con dao Mác Xít ra mổ xẻ, pha chế. Vứt bỏ những cái không đáng vứt bỏ, tôn sùng những cái không đáng tôn sùng như lời nhận xét của một Chế Lan Viên.

Truyện Huyền thoại, truyện cổ tích mang tính huyền thoại là những viên đá quý bị vứt bỏ để chỉ giữ lại những hòn sỏi.

Và để đạt được mục tiêu đó, họ đã chẻ sợi tóc làm tư hay nói như nhà văn Nguyễn Bất Tuân (tức Nguyễn Tuân), trích lại trong Văn nghệ sĩ miền Bắc như tôi biết của nhà văn Xuân Vũ, cụ Nguyễn viết: “Thật là kỳ quặc, người ta sợ hãi những cái không đáng sợ, cấm những cái không đáng cấm, người ta dùng kính hiển vi đi tìm vi trùng chống đối”.

Thật mỉa mai thay. Một Trần Đức Thảo mà cũng phải uốn lưỡi không ngượng miệng gọi theo Trần Thanh Mại là “Em Bờm”. Trần Đức Thảo viết trong bài nhận định Thằng Bờm của ông như sau: “Cuộc giằng co quyết liệt giữa hai bên lại được biểu diễn một cách kín đáo, nhưng chính xác trong những câu có đi có lại giữa “Em Bờm” và “tên” phú ông”.

Còn đâu một Trần Đức Thảo xuất chúng đã một thời tranh luận tay đôi với J.P. Sartre trong 5 buổi tranh biện tại Paris thuở nào.

Không gọi theo như thế là không được, là khinh miệt giới nông dân.

Tôi nghĩ rằng, để nắm bắt và hiểu được huyền thoại và các câu truyện nêu trên cần được nhìn lại dựa trên những căn bản kiến thức về huyền thoại học (Mythology) hay về Nhân Chủng học (Anthropology).

Thật vậy, trong Nhiệt đới buồn hoang (Tristes tropiques) của Claude Lévy-Strauss sẽ cho thấy rằng người tiền sử, người cổ sơ, họ cũng có hệ thống giá trị, hệ thống tư tưởng của riêng họ. Đó là thứ cơ cấu huyền thoại mà ông gọi đó là thứ tư tưởng hoang dã (Pensées sauvages). Thứ tư tưởng hoang dã này tạo thành nếp sống, nếp nghĩ, nếp sinh hoạt của người thô sơ. Tự nó các tư tưởng hoang dã có giá trị cho chính nó. Nó được nhìn nhận bởi người thô sơ mà không đặt vấn đề đúng hay sai, hơn hay kém so với tư tưởng của xã hội văn minh. Đọc truyện cổ, đọc huyền thoại là để chia xẻ, đẵm mình vào không khí huyền thoại chứ không phải để tìm cách giải hoặc huyền thoại (Demystification) hay diễn giải huyền thoại, nhất là không “pha chè” dạy đời.

Càng không bao giờ cho phép bất cứ ai mang Ông Mác vào để cắt nghĩa huyền thoại.

Thật vậy, chỉ cần đọc bài Tấm Cám có thật ở Việt Nam hay không? Tôi nghĩ rằng, họ đã sa lầy không tìm được phương hướng khi tìm hiểu huyền thoại cổ.

Cũng sa lầy và thô thiển như thế khi đọc bài viết: Thử tìm tài liệu Việt Nam trong ngữ ngôn. Trong đó, tác giả bài viết có đề cập đến tín ngưỡng phồn thực hay tục thờ Sinh thực khí (Cult of Linga), một thứ tin tưởng rất dân gian thịnh hành ở Ấn Độ, Trung Quốc, người Chàm và người Việt Nam. Phía người Trung Quốc cho thấy trong 8 quẻ của kinh Dịch, có quẻ hào dương (-) chỉ sinh thực khí đàn ông và hào âm (- -) chỉ sinh thực khí đàn bà.

Lẽ âm dương là thế, trật tự điều hoà là thế.

Cũng vậy, nếu ai có dịp vào ghé thăm Musée Chàm ở Đà Nẵng sẽ thấy người Chàm có nhiều pho tượng đá có hình giống như cái thuyền tán đặt ngửa - chỉ cái âm hộ (DCVOnline) của đàn bà - và ở trên là một cái chày - chỉ dương vật (DCVOnline) của đàn ông.

Có gì là lạ ở những hình tượng đó không?

Ở ngoài Bắc, có làng Khúc Lạc, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ, có lễ vào ngày 26 tháng giêng, người ta đẽo 36 cái hình sinh thực khí, một nửa, 18 cái là đàn ông, một nửa là đàn bà.

Vậy mà tác giả bài đã viết như sau:

“Ở xứ ta cũng có tục thờ sinh thực khí. Cái tục dã man của chúng ta từ đời xưa ấy chẳng những chỉ rớt lại trong ngữ ngôn mà nó còn biểu hiện ra thực sự đến trước Cách mạng tháng 8 không lâu mấy”.

Vậy là nhờ cách mạng tháng 8, tục lệ dã man ấy mới bị dẹp bỏ. Thật ra, nó chẳng có gì là dã man cả, nó chỉ thể hiện ước muốn sinh con đẻ cháu cho đầy nhà. Chẳng những không dã man mà còn rất lành mạnh, tốt đẹp nữa.

Về vấn đề chiếm hữu nô lệ

Trong việc lý giải các câu truyện huyền thoại, các tác giả ngoài Bắc thập niên 1950 thường có thói quen định chế hóa là ở Việt Nam thực sự có chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến và cuối cùng có cuộc tranh đấu giai cấp giữa nông dân và địa chủ?

Để giải thích sự tiến hóa của lịch sử loài người nói chung và VN nói riêng, người cộng sản đã máy móc áp dụng các thời kỳ xã hội công xã, từ tiền nô lệ, rồi nô lệ chuyển sang chế độ phong kiến. Nhưng câu hỏi đặt ra là có thời kỳ nô lệ ở Việt Nam giống như trong các xã hội cổ Hy Lạp, La Mã hay không?

Câu trả lời rõ rệt là hiện nay không có bất cứ tài liệu nào nói về vấn đề này. Trước đây, ông Đào Duy Anh, trong bài viết: Có thời kỳ chế độ nô lệ trong lịch sử Việt Nam không? Dựa trên mối quan hệ về ruộng đất của xã hội người Mường, ông chứng minh rằng có thể có, cũng có thể không có chế độ nô lệ ở Việt Nam. Ông Nguyễn Đổng Chi ngược lại qua bài viết: Truyện thần thoại Mường có thể chứng minh sự tồn tại chế độ chiếm hữu nô lệ trong lịch sử Việt Nam hay không? dựa trên một tác giả Trung Quốc, ông Đồng Thư Nghiệp, để cho rằng trong lịch sử Việt Nam đã có thời kỳ chiếm hữu nô lệ.

Cuộc tranh cãi chấm dứt ở đó và không đi đến đâu, vì chẳng có bất cứ điểm tựa lịch sử nào để bấu víu vào. Nhưng xem ra, người ta vẫn mặc thị là có chế độ ấy cho phù hợp với cắt nghĩa của người Mác Xít cho rằng các xã hội đi từ chế độ thị tộc, tiến sang nô lệ rồi phong kiến.

Theo tôi, ở Việt Nam cùng lắm có chế độ nô lệ gia trưởng. Có nghĩa là có một người đứng đầu một thị tộc, một “Già làng” theo “tinh thần Hộ” của một đại gia đình. Đại gia đình đó đôi khi mở rộng đến tất cả người trong làng. và những thành viên khác trong thị tộc hay trong làng ấy làm việc cho người đứng đầu. Trong đó, mối tương quan giữa họ có thể là tương quan huyết thống, dòng họ, thân tình, có kính nể hoặc tương quan người nhà có trên có dưới mà không phải tương quan bóc lột, khai thác. Trong mối tương quan đó, người ta làm việc là làm cho nhu cầu gia đình, cho gia tộc mà không phải để sản xuất thặng dư để buôn bán. Vì thế, số lượng người làm nô lệ còn rất ít và hiếm hoi.

Hơn nữa, chưa có buôn bán phát đạt - thời còn nhỏ, tôi còn thấy các phiên chợ nhằm mục đích trao đổi là chính - chế độ tư hữu tài sản còn yếu, mọi sinh hoạt đều đượm tính tôn giáo, ngành nghề chưa phát đạt. Nơi các dân tộc Tây nguyên, một ngưòi thợ rèn chế ra được các vật dụng bằng sắt được coi là người anh hùng khai sáng (Xem them Miền đất huyền ảo của Jacques Dournes).

Các sắc dân Thượng, người Tây nguyên ở Việt Nam như người Bahnar, Rongao, Sêđăng, Giarai, Eđê, hay Noang khi một người thiếu nợ, khi phạm một lỗi lầm, khi đánh nhau bị thua có thể bị bắt làm “nô lệ”. Nhưng ai cũng thích tự do nên trả hết nợ thì được tha, không còn bị bắt làm nô lệ nữa.

Nhiều khi, vị đứng đầu ấy cai quản “nô lệ” mang tính chất quyền uy tôn giáo hay luân lý hoặc tinh thần hơn là quan hệ kinh tế như trong các xã hội có chế độ nô lệ thực sự La Mã, Ai Cập v.v...

Các gia đình Việt nam nghèo đói thường cũng phải mang bán con cho các gia đình giàu có. Như thế có thể hiểu là có chế độ nô lệ không?

Cũng không nữa. Nếp sống khó nghèo, nhưng sự sống thì chất phác, đơn thuần, mộc mạc, thô ráp gần bản năng sinh tồn không cho phép người ta nghĩ đến một ý thức về bóc lột giữa chủ và “nô lệ”. Thằng Bờm là thằng Bờm sống gần bản năng sinh tồn hơn bất cứ thứ gì khác. Những điều gán ghép cho Bờm như ý thức về giai cấp, ý thức về bóc lột là những giải thích vô bằng.

Tương quan giữa họ với nhau vẫn là tương quan ân huệ, biết ơn giữa kẻ thi ơn và người được thi ơn. Sự nghèo đói đến cùng cực, sự thiếu học thức, xã hội nông nghiệp trong tình trạng sản xuất thô thiển không cho phép người ta nghĩ xa hơn cái bụng đói, nói chi nghĩ đến truyện bóc lột. Trong Ba người khác của nhà văn Tô Hoài, ông nói đến cái cảnh:

“Ngoài chợ tỉnh cũng bày bán trẻ con nhan nhản như bán chó. Tôi dự một cuộc đấu địa chủ. Có người rễ (để chỉ bần cố nông coi như rễ chính trong việc cải cách ruộng đất) bị đói đã lâuquá, đúng lảo đảo, hét một tiếng rồi lăn ra chết” (Trích Ba người khác, Tô Hoài trang 30)

Cho nên, dùng học thuyết Mác để cưỡng ép cho rằng ở VN có chế độ nô lệ là thiếu kiến thức văn hóa, hồ đồ và nông cạn.

Chế độ phong kiến

Đây cũng là cái đích nhắm của người cộng sản mà tôi có cảm tưởng bất cứ cái gì không phải cộng sản thì là phong kiến. Phong kiến trở thành một danh từ “khung" trong xã hội để chỉ thị cái gì xấu xa, độc ác, bóc lột, gian xảo, giàu có, nịnh bợ, hách dịch, ra oai, bắt nạt, dâm loạn, vô luân v.v...

Chế độ phong kiến là một thứ ngôn ngữ khẩu hiệu bao gồm tất cả tính chất lạc hậu xấu xa vừa kể trên.

Như trong bài viết : Truyện Thạch Sanh, Trương Tửu viết:

Dưới hình thái thần thoại, nó đã phản ảnh được khá chân thực và sâu sắc nhiều nét sinh hoạt cốt yếu của xã hội phong kiến. Đây là quá trình đấu tranh không ngừng của hai lực lượng xã hội đối kháng nhau: quý tộc và bình dân... Chúng ta kết luận rằng: Truyện Thạch Sanh là tiếng nói của nhân dân lao động Việt Nam thời phong kiến.

Trần Đức Thảo viết:

“Chúng ta coi mọi tác phẩm đời phong kiến với con mắt người cách mạng ngày nay. Trong thời phong kiến, nông dân không ngừng đấu tranh chống chế độ áp bức bóc lột, nhưng những cuộc đấu tranh đó không thoát khỏi hệ thống phong kiến nói chung..tuy nhiên tư tưởng của người nông dân trong phong kiến chưa thể thóat khỏi ý thức hệ phong kiến, tuy luôn luôn vẫn chống phong kiến..Mâu thuẫn giữa nông dân với phonbg kiến còn bị kìm hãm trong phạm vi phong kiến... Không thể đòi hỏi nông dân dứt khoát với giai cấp phong kiến, tức là thủ tiêu chế độ phong kiến..Ví dụ ba bài ca dao như bài Con mèo, Thằng Bờm.. biểu diễn tinh thần phản phong của nông dân...”

Nhưng thời phong kiến là thời nào?

Chữ phong kiến mà các tác giả như Trần Đức Thảo dùng cho người ta có cảm tưởng chế độ phong kiến tồn tại rất lâu đời ở Việt Nam. Như thế, chắc hẳn không phải chữ phong kiến mà người Âu Châu hiểu. Chữ này thật ra mới xuất hiện từ thế kỷ 17, ở bên Âu Châu thời Trung cổ để chỉ thị những lãnh Chúa và những thái ấp cũng như chư hầu của họ. Họ có tiền của, có quân đội riêng như một tiểu quốc.

Một định nghĩa như thế về chế độ phong kiến sẽ không bao giở tìm thấy ở Việt Nam.

Bởi vì ở Việt Nam không có tầng lớp quý tộc, quyền quý, giàu sang và cũng không có lãnh chúa cũng như chư hầu.

Phong kiến hiểu theo người Việt Nam chỉ hạn hẹp vào từng lớp địa chủ và tá điền. Địa chủ có nhiều ruộng có thể cho cấy rẽ hoặc cấy thuê và nếu không chu toàn trả đủ nợ có thể bị xiết nợ, mất nhà, mất cửa hoặc phải bán con.

Dưới mắt người cộng sản, họ phải khai trừ, triệt tiêu giai cấp địa chủ. (Vì ở Viet Nam chưa có tầng lớp tư sản bóc lột như trong nhận định của Lenin về vấn đề này). Chỉ thị của Lenin năm 1919, trong đại hội đảng những người cộng sản phương Đông viết như sau:

“Ở đây, trước mắt các đồng chí có nhiệm vụ mà trước kia chưa hề đề ra cho những người cộng sản toàn thế giới, đó là nhiệm vụ: dựa vào lý luận và thực tiễn bao quát của chủ nghĩa cộng sản, các đồng chí trong khi áp dụng vào những điều kiện đặc biệt mà các nước Châu Âu không có, phải biết áp dụng lý luận vả thực tiễn đó vào điều kiện nông dân là quần chúng chủ yếu, điều kiện cần giải quyết nhiệm vụ đấu tranh không phải chống lại tư bản, mà chống lại những tàn tích của thời Trung cổ” .

Vì ở Việt Nam kinh tế và xã hội còn sơ sài, chưa có giai cấp tư bản, giai cấp địa chủ trở thành nạn nhân bất đắc dĩ với vô số tội ác tìm thấy trong văn chương cổ cũng như trong thực tế nông nghiệp.

Hãy nghe Tô Hoài kể trong Ba người khác, nghe xong đến rởn tóc gáy, rụng rời không tin được:

“Ban ngày, anh đi cày, tối tắm rửa sạch sẽ rồi vào giường cả đêm phải ngậm bòi thằng địa. Thằng địa bị bệnh tim la, mút đến nửa đêm cũng không hết được mùi tanh nhức óc. Cả hội trường ào ào đả đảo địa chủ gian ác.. đả đảo... Còn anh ấy nghẹn ngào nức lên không nói tiếp được nữa” Trích Ba người khác, Tô Hoài, trang 10)

Và đây là một phiên tòa cải cách ruộng đất:

“Hôm ấy, Đình phải điệu ra tòa xử công khai. Cũng như những phiên tòa giữa trời ở các xã. Một cái bãi liền chợ, đông nghịt cả hàng huyện kéo đến trường đấu. Trên hàng người, những chiếc đòn ống vát đầu tua tuả lên như nắm chông... Từng đợt hô khầu hiệu ồn ào bốn phía làm cho Đình xanh xám. Đình bị trói giật cánh khủy, mỗi bước cứ khuỵ xuống, hai bên dân quân lại lôi xềnh xệch. Trưóc dãy bàn xử án. Mấy tấm cót ken nối nhau, dài hang chữ hắc ín: Đả đảo việt gian phản động Nguyễn Văn Đình. Bên cạnh một cọc che tươi, còn cả chòm lá phơ phất được cắm xuống, đất mới loang lổ chung quanh.. Đình bủn rủn ngã gục không gượng lên được nữa. Bởi vì Đình lại đã trông thấy khuất sau chiếc quan tài ghế dài, các đại biểu ngồi, trang trí tết lá dừa lưa thưa, hai người vừa khiêng ra một chiếc quan tài gỗ gạo tươi còn lướp tướp trắng bệch. Đình đã biết cả..Mấy báng súng tống vào lưng, đẩy đình ngồi tựa vào cái cọc tre ấy.. Mốt chiếc thừng luồn vào nách, buộc néo lên cọc, giữ cho Đình khỏi ngật ngưỡng. Xung quanh mỗi lúc một phẫn nộ. Chốc chốc, bốc lên hàng loạt tiếng hô, đứt quãng cả tiếng người đương nói trên loa..Anh đội nói:” Mặc kệ, không cần trật tự, cho quần chúng thỏa lòng căm thù”. Tiếng ai như tiếng thằng Vách quát: “A ha. Chúng nó mặc tất cả quần áo vào người để khỏi phải bị tịch thu đấy. Lột ra, lột hết ra. Tao có quần rồi, tao cần thêm một cái áo, đứa nào lấy cho tao”.

Tôi lấy ý kiến giai cấp nông dân, xin hỏi tên Nguyễn Văn Đình tội gì?

Tội chết, tội chết...

Đình bị kéo đứng thẳng, ngay ở cái cọc tre ấy, dân quân xúm lại thiết chiếc thừng bó giò cả chân tay, cả người. Lúc mặt Đình đã buộc tấm vải thâm thì cỗ quan tài gỗ trắng nhởn cũng được hai dân quân khiêng ra, mở nắp sẵn, đặt cạnh. Nhung Đình đã li bì không biết gì nữa.

Nhưng số Đình chưa phải chết, vì đúng lúc ấy, một ông cán bộ ở trên về nói với mấy vị quan tòa rồi vào trước loa Micrô, thong thả vang lừng:

Thưa toàn thể đồng bào, giai cấp nông dân huyện ta, tôi bí thư, đại diện đoàn uỷ khu về truyền đạt một chỉ thị quan trọng của Trung Ương. Tôi thông báo để đồng bào rõ, kể từ giờ phút nhận được lệnh này của khu, các đội cải cách, đội phúc tra, đội chỉnh đốn tổ chức đình chỉ tất cả các vụ xử bắn. Tòa án phải thi hành đúng pháp luật nhà nước, yêu cầu triệt để thi hành”.

Đình may mắn thoát chết trong gang tấc. Đó là hình ảnh rõ nét cuộc CCRĐ đã xẩy ra ở miền Bắc.

Đó cũng là hình ảnh rõ nét trong các bài tham luận, phê bình văn học nhằm tố cáo địa chủ được gán cho hai chữ Phong kiến. Đó cùng là những nét được viết lại một cách sống động trong truyện Ba người khác của Tô Hoài.

Cái bệnh Mác Xít học đã làm tiêu hao bao nhiêu công trình sáng tác văn học để trở thành bài viết tuyên truyền thấp và rẻ tiền? Đã đánh tụt giá trị tài năng bao nhiêu nhà văn trở thành những kẻ viết theo, nói theo? Nhưng trong số ấy, có những người thẳng thắn, cương trực, không nói theo. Nhân dịp tổ chức khóa học 18 ngày về đường lối cải cách chống tệ sùng bái cá nhân đang diễn ra ở Liên Xô. Lợi dụng dịp đó, trong Giai phẩm mùa thu, tập 1, trong bài Phê bình lãnh đạo Văn nghệ cụ Phan Khôi đã thẳng thắn nhận xét:

“Người ta làm cho tôi cảm thấy qua việc ấy rằng nước Việt Nam ngày xưa, triều đại là triều đại Thiệu Trị, Tự Đức, cái nguồn văn chương là Tứ thư Ngũ kinh, còn nước Việt Nam ngày nay cũng là triều đại gì đó, chỉ khác cái nguồn văn chương là Mác Xít”.

Và Phan Khôi kêu lên: “cụ Đồ Chiểu ơi, cụ đồ Chiểu, tôi còn làm gì được nữa”. Nhân Văn Giai phẩm cũng trong tình hình lúc bấy giờ đã lợi dụng cất lên tiếng nói trung thực.

Nhưng chẳng được bao lâu, giờ ra chơi đã điểm. Trống vào lớp xếp hàng đã đánh. Học trò lại ngoan ngoãn xếp hàng vào lớp.

Làm gì được nữa khi mà mọi người đều phải nói to lên rằng: “Chủ nghĩa Mác Lê nin là chủ nghĩa duy nhất đứng đắn”.

Và Hoàng Cầm chỉ còn một con đường trú ẩn:

Rúc đầu vào nách vợ

Hút hít như chó con

Trong khi đó thì

Diễn văn cót két chân giường mới …

Tượng jatalinga, thế kỷ thứ X, của văn hoá Champa còn lại ở Mỹ Sơn gần Hội An

Nguồn: wikimedia.org

Tô Hoài

Nguồn: saga.vn

Cửa đền như âm hộ - Văn hoá Champa thế kỷ XI-XII: Đền Bánh Ít (Silver tower) phía bắc Quy Nhơn

Nguồn: 50megs.com