Phần 16

Nhìn lại việc thi tú tài ở Việt Nam trước 1975 (I)

Việc thi cử ở nước ta đã có một truyền thống lâu đời truyền lại. Miền Nam sau này việc thi cử phần nào cũng tiếp nối cái tinh thần của truyền thống ấy.Thật vậy, nước ta đã có gần 20 thế kỷ dùng chữ Hán kể từ thời Bắc thuộc. Và 10 thế kỷ chữ Nôm đánh dấu thời kỳ tự chủ.

Việc thi cử tính ra cũng được ngàn năm.

Cái truyền thống ấy được Nguyễn Hiến Lê viết lại như sau:

“Ở nước ta hiện nay, số hậu duệ của giai cấp ấy kể ra cũng còn được kha khá, nhưng số người còn giữ được nếp nhà thì hiếm đấy; và tôi nghiệm thấy người nào giữ được cũng có vài nét chung rất dễ nhận ra: không ham danh lợi, chăm nom sự dạy dỗ con cái, yêu nước, thích văn chương, chuộng nghề dạy học và hình như có khiếu dạy học nữa.”

(Trích Mười câu chuyện văn chương, Nguyễn Hiến Lê, trang 82).

Phải chăng truyền thống đó sản sinh ra những người thầy như giáo sư Hoàng Cơ Nghị, Trần Trọng Kim, Dương Quảng Hàm hay như thi sĩ Đông Hồ mà lúc chết học trò khắc trên bia hai câu thơ như sau:

Ân sâu nghĩa nặng tình dài

Khóc thầy, khóc mãi, biết đời nào nguôi?

Cũng Nguyễn Hiến Lê viết về thầy Dương Quảng Hàm trong cuốn Hồi ký của ông:

“Tất cả học sinh trường Bưởi không ai không trọng thầy vì vậy. Mà các bạn đồng sự Pháp, Việt cũng quỳ thầy nữa. Thật đáng tiếc, thầy không thọ, mất trong những ngày đầu cuộc kháng chiến ở Hà Nội.”

(Trích Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, trang 65).

Giáo dục miền Nam đã tiếp nối cái truyền thống kính trọng ông thầy ấy. Ở miền Bắc thì họ mang thầy ra tố khổ như trong bài viết của Trần Huy Liệu: “Bóc trần quan điểm thực dân và phong kiến trong quyển “Việt Nam Sử Lược” của Trần Trọng Kim” (Tập san sử địa, số 6, 1955).

May là cụ Dương Quảng Hàm đã chết sớm.

Và họ bắt học trò phải “Quyết tâm thực hiện lời dạy của Hồ Chủ tịch và Thủ tướng Phạm Văn Đồng” (Tập san sử địa, số 4, tháng 11, 12-1955, Hà Nội).

Trước đó, khoa cử còn thiếu, các đời Đinh, Lê về trước chưa có thi cử. Việc tuyển chọn người chỉ là tùy tiện, không câu nệ, nhưng lại cũng không có phép tắc gì.

Kể từ năm 1072, đời Lý mới mở khoa thi chọn người tài ra giúp nước.

“Con đường tìm người tài giỏi, trước hết là khoa mục, phàm muốn thu hút người tài năng, thì người làm vua một nước không thể nào không có thi cử”

(Trích Lịch Triều Hiến Chương loại chí (LTHCLT) của Phan Huy Chú, phần mở đầu chương Khoa Mục Chí).

Cái mục đích mở khoa thi đã rõ ràng: Chọn người có tài. Nhưng chọn bao nhiêu? Chọn thế nào?

Đó là cả một vấn đề. Việc thi cử thời xưa còn nhiều điều bât cập như: Cái học từ chương quá, tỉ lệ thi đỗ quá thấp. 1000 người lấy một. Có sĩ tử đã để cả đời đi thi mới đỗ. Ông Đoàn Tử Quang tham dự cả thảy 21 khóa thi từ năm 20 tuổi. Cứ ba năm thi một lần, mãi đến năm 83 tuổi mới thi đỗ. Ông nội Ngô Tất Tố 7 lần đi thi, bố Ngô Tất Tố sáu lần, phần ông Tố hai lần đi thi.

Mặc dầu thi cử khó khăn, nhưng tổ chức thi cử rất nghiêm ngặt. Luật lệ nghiêm minh như ông Đỗ Nhuận viết vào năm 1484:

“Việc lớn trong chính trị của Đế Vương, chẳng gì gấp bằng nhân tài… Khoa cử các đời thịnh nhất là đời Hồng Đức, cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người công bằng, đời sau không thể theo kịp.”

(LTHCLC, phần Khoa Mục Chí).

Chỉ cần giữ lại mấy chữ: Lấy rộng rãi, cách chọn người công bằng. Đời sau không sánh kịp.

Nếu nhìn lại việc thi cử ở miền Nam, tôi chỉ thấy việc thứ nhất còn chưa ổn, việc thứ hai có lẽ cũng không thua gi việc thi cử đời Hồng Đức cả. Trừ giai đoạn chót của VNCH, việc thi cử xem ra có một số trường hợp bê bối. Đã có dư luận đồn thổi về tình trạng con ông cháu cha, kẻ có tiền của.

Sau này đến đời vua chúa triều Nguyễn, phép tắc thi cử cũng vẫn nghiêm ngặt như vậy. Nhà vua xem xét từng li từng tí việc học của các sinh viên trong trường Quốc Tử Giám.Ta hãy nghe lời phê phán vừa nặng nề vừa cho thấy mối quan tâm của vua Minh Mạng đối với tương lai giáo dục ra sao. Năm 1837, vua ra chỉ dụ:

“Thế mà nhìn lại các học quan chỉ biết chiếu lệ thường khảo hạch cho có, gọi là đã làm xong chức vụ, còn quy trình giảng dạy thi lên lớp, tiến bộ ra sao, trình độ học sinh như thế nào, không lưu ý tới, thì bảo sĩ tử gắng sức ở chỗ nào.”

(Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ - Bộ Lễ - Q.192: Học Hiệu).

Thât ra miền Nam có khá nhiều kỳ thi: Thi tiểu học, thi nhập học lớp đệ thất các trường công lập, thi Trung Học Phổ thông dành cho các lớp đệ tứ và thi tú tài 1 và 2. Ở đây chưa kể việc thi trên Đại Học, thi tuyển vào trương chuyên nghiệp như Quốc Gia Hành Chánh, Đại Học sư phạm, các trường Kỹ sư (Phú Thọ) Điện, Công chánh, v.v...

Việc thi cử phần đông tiến hành tốt đẹp.

Tôi chỉ đưa ra một tỉ dụ. Việc thi vào đệ thất các trường công lập khó mà tránh khỏi một số trường hợp quen biết gửi gắm. Nhất là tại các tỉnh. Cho dù có gửi gắm cũng không phải là ăn tiền hay hối lộ. Có thể chỉ vài trường hợp cá biệt, đơn lẻ. Vì thế vẫn bảo đảm được chất lượng thi cử. Bằng chứng rõ ràng tỉ lệ các học sinh trường công thi đỗ thường cao hơn trường tư nhiều vì có sàng lọc rồi. Nếu trường tư thi đỗ đạt tỉ Lệ 20% thì trường công, tỉ lệ thí sinh thi đậu tú tài là 75% đến 85% hoặc hơn thế nữa.

Nếu tuyển sinh đệ thất không minh bạch thì kết quả thi đỗ tú tài ở trường công tỉ lệ thi đỗ đã khác.

Có nhiều lớp, toàn thể học sinh đều thi đỗ. Đặc biệt một lớp ban B, trường Petrus Trương Vĩnh Ký, vào năm 1970, toàn thể học sinh đều thi đỗ hạng Bình trở lên. Dĩ nhiên, cũng có trường hợp nhà trường dồn học sinh giỏi vào cùng một lớp. Sau này, lớp học này có nhiều học sinh xuất sắc được học bổng, đi du học và thành tài. Và một trong những học sinh ưu tú ấy, hai lần đỗ tú tài 1 và 2 hạng ưu, điểm trung bình toàn bộ các môn phải từ 16 trở lên và hiện nay ngoài công việc chỉ huy ở sở, anh đang giữ trọng trách với một tổ chức phi lợi nhuận.

Việc học còn từ chương

Việc này, Nguyễn Trường Tộ (1830-1871) ngay từ năm 1867 đã phê phán thẳng thừng và dứt khoát, ông viết:

“Nhìn lại sử học của ta ngày nay, 1867, những điều thầy dạy, những điều trò học, toàn là những chuyện xa xưa. Lúc nhỏ thì học văn từ, thơ phú, lớn lên ra làm việc thì lại thấy luật-lịch-binh-hình… Xưa nay, trên thế giới chưa từng nước nào có nền học thuật như vậy... Nếu đem cái công phu cả đời đem tâm trí ra trau chuốt chữ nghĩa mà học những việc hiện tại như trận đồ, binh pháp, đắp thành giữ nước, sử dụng súng ống thì có thể chống được giăc...”

(Trích Nguyễn Trường Tộ - Con Người và Di Thảo, Trương Bá Cần, trang 76, NXB Tp. HCM, 1988).

Rất tiếc những lời cảnh báo về cái học từ chương, “toàn những chuyện xa xưa” không được vua quan để ý tới và kéo dài cho mãi đến bây giờ.

Mặc dầu việc phê phán của Nguyễn Trường Tộ nhằm vào thời kỳ còn nặng nho học, nhưng cái tinh thần ấy vẫn còn rơi rớt lại sau này. Chẳng hạn trong chương trình tiểu học của miền Nam sau này. Học trò tiểu học phải học thuộc lòng các bài địa lý, lịch sử, cách trí. Học thuộc lòng ra rả như cuốc kêu. Kể thật cùng tội. Các lớp trung học, nhất là ban Vạn vật thì Vạn vật cũng là môn học thuộc lòng, môn học đào luyện trí nhớ tốn bao thì giờ công sức mà xét ra ít hữu dụng. Các môn sử ký, địa lý trong cách giảng dạy, trong cách chấm điểm còn nặng tính từ chương, thiếu óc phê bình, thiếu nghị luận. Ngay các bài giảng văn cũng được diễn giải một chiều, ước lệ, có bài bản sẵn, ít đi ra ngoài thông lệ, ít sáng tạo, thiếu cách đặt lại vấn đề, thiếu phản biện.

Nói chung là còn vướng mắc nhiều tinh thần lệ thuộc. Lệ thuộc người xưa, lệ thuộc sách vở và ngay cả lệ thuộc vào ông thầy.

Các lớp dạy luyện thi cho thấy học trò lệ thuộc vào ông thầy như thế nào.

Và đây là một lời dạy khuôn vàng thước ngọc:

“Các người lại không bắt chước người đời xưa sao, hay là chỉ lấy tiếng ư? Học trò tranh nhau mài gọt, gây dựng nhân tài, để làm việc nước, có vậy mới không phụ ý trong việc học, hậu đãi người hiền, mọi người đều phải kính cẩn tuân theo.”

(Trích Đại Nam Thực Lục chánh biên).

Đại NamThực Lục chánh biên là sách ghi chép sử triều Nguyễn từ Gia Long đến Đồng Khánh, chia làm nhiều kỳ, mỗi kỳ là một đời vua. Có tất cả 6 kỳ.

Cái học lệ thuộc thầy, lệ thuộc “cours” còn tồn tại ngay ở các đại học. Sinh viên thi đỗ chỉ cần thuộc cours của giáo sư giảng trong lớp.

Thi cử lấy đỗ khá khắt khe.

Tiêu biểu cho sự khắt khe này là hình ảnh Vân Hạc trong Lều Chõng của Ngô Tất Tố, một sĩ phu tài tuấn, có lương tri, có tài học mà lận đận với thi cử. Nó là bản cáo trạng đối với tổ chức lề lối học hành và thi cử thời xưa, lãng phí nhân tài và chất xám của đất nước.

Người viết đã truy tìm một số kết quả các kỳ thi Trung Học Phổ Thông và tú tài sau 1954 để cho thấy việc thi cử là khắt khe quá. Nhưng kết quả tìm tòi còn chưa được như ý muốn.

Năm 1950, đại học văn khoa Sài Gòn, ở đường Garcerie nay là Phạm Ngọc Thạch mới có 50 sinh viên theo học và 50 dự thính viên. Trường Khoa Học mới có 14 sinh viên đậu chứng chỉ P.C.B, 2 sinh viên đậu S.P.C.N, 3 sinh viên đậu toán đại cương, 2 sinh viên đậu vật lý đại cương. Năm 1954-1955 có 13 bác sĩ, 11 dược sĩ, cử nhân luật 159 và rất tiến bộ đã có 135 người đậu chứng chỉ khoa học.

(Trích Địa chí Văn hóa TPHCM, trang 743-745)

Một học sinh giỏi nhất lớp ở ngoài Bắc vào năm 1948, vậy mà trong học bạ của anh, không có điểm số nào anh đạt trung bình. Xem và đọc để thấy nó vô lý như thế nào!!!

Giỏi nhất lớp, thông minh mà điểm chưa đạt trung bình? Và đây là nhận xét của giáo sư Dương Thiệu Tống, người đã còn giữ học bạ này của học trò gửi cho làm kỷ niệm. (gs Dương Thiệu Tống, trường Trung Học kiểu Mẫu, Thủ Đức)

Ông nhận xét như sau:

“Điểm nhận xét đầu tiên của tôi là điểm số các môn học ngày xưa sao lại thấp đến thế, ngay cả đối với học sinh đứng nhất lớp như các thí dụ trên đây.

(Trích “Suy Nghĩ về giáo dục truyền thống và hiện đại”, Dương Thiệu Tống, nxb Trẻ, trang 279-281)

Nhưng câu nhận xét sau đây của giáo sư Dương Thiệu Tống thật hơi lạ.

“Vậy phải chăng các thầy giáo chúng tôi ngày xưa không bị áp lực bởi thi đua đạt thành tích nên có thể cho điểm trung thực hơn? Phải chăng chúng tôi quá khắt khe với học sinh? Hay là học sinh ngày nay giỏi hơn xưa quá nhiều? Tôi xin phép dành các câu hỏi này cho các đồng nghiệp và các trường học của chúng ta suy ngẫm và tìm giải đáp.”

(Trích như trên)

Giáo sư đã cho phép dành cho đồng nghiệp tìm ra giải đáp thì tôi xin được thưa với giáo sư như thế này. Giáo sư là thầy của nhiều thế hệ mà bản thân người viết bài này có thể chỉ là hàng con cháu. Giáo sư đã đi du học Hoa Kỳ mang về cái bằng Tiến sĩ giáo dục mà vấn đề cho điểm như trên, giáo sư lại thối thác không cho một giải đáp.

Thưa giáo sư, trồng cây thì phải có quả. Trồng tốt sẽ cho quả tốt. Trồng người cũng gần như vậy. Dạy học thì trò đi thi phải đỗ. Không đỗ thì phần trách nhiệm không nhỏ là do thầy, do chương trình, do xã hội. Điểm phi lý đến nực cười là cho điểm thì đều dưới trung bình mà lại đứng đầu lớp. Không lẽ học trò đều dốt cả? Cho dù thế nào đi nữa thì không có lý nào điểm thì kém, dưới trung bình trong khi lời phê của giáo sư thì nào là giỏi, thông minh, đáng khen. Như vậy thì nên căn cứ vào điểm hay vào lời phê? Lời phê như thế có phản ảnh đúng trình độ học sinh hay không? Giải pháp là xét lại thang điểm và thay đổi thái độ chấm bài, nhất là bài văn, cần kèm thêm các câu hỏi giáo khoa hay trắc nghiệm như sau này Bộ giáo dục Việt Nam Cộng Hòa đã đem ra áp dụng.

Thực ra khó khăn do thi cử và giáo dục thì ở đâu cũng có. Mỗi thời mỗi khó khăn khác. Như tỉnh Québec mà tôi đang ở. Mỗi năm dành 13 tỉ đô la dành cho giáo dục, vậy mà nhiều học trò trung học, ngay cả đại học còn viết đầy lỗi chính tả. Ngay ông Thủ tướng trong bài diễn văn đọc về cải cách giáo dục, người ta tìm ra được 13 lỗi phạm lớn:

“N’est–ce pas le premier ministre Jean Charest, qui dans un discours à l’Assemblée nationale, affirmait vouloir poursuivre ses efforts” pour améliorer la qualité de notre langue commune, le francais” alors qu’il remettait aux journalistes un texte comptant une douzaien de fautes majeures...” (Trích “Le grand mensonge de l’éducation”, Luc Germain, Luc Papineau, Benoit Séguin, trang12).

Phải chăng ngay cả ông Thủ tướng Charest trong một bài diễn văn đọc trước Quốc Hội khẳng định trong nỗ lực tiếp tục “Cải tiến phẩm chất tiếng nói chung của chúng ta là tiếng Pháp,” vậy mà, chính ông Thủ tướng đã phát cho các nhà báo một bản diễn văn trong đó tính ra có đến 13 lỗi phạm lớn.

Kinh nghiệm đi chấm thi tú tài 2 các bài Triết hay luận Pháp Văn, Anh Văn cho thấy hệ số bản thân người chấm, hệ số tin cậy và sai số do hai giám khảo chấm, cách nhau trung bình hai điểm, có khi là 4 điểm. Thường trước khi bắt đầu chấm, giám khảo ngồi thảo luận “thang điểm”. Phần này thì cho bao nhiêu điểm, phần kia bao nhiêu điểm. Sau đó cộng lại các điểm đã cho. Sự sai biệt giữa hai giám khảo chấm cũng một bài là từ hai đến ba điểm, có khi 5 điểm cho thấy việc chấm thi thiếu công bằng, thiếu khách quan. Giả dụ bài Triết ban C, hệ số 4. Cách nhau 3 điểm, nhân 4 trở thành cách nhau 12 điểm. Quá bất công cho học trò, vì nhiều khi chỉ cần một điểm là đủ đỗ?

Kinh nghiệm bản thân khi tôi thi tú tài 2 ban C, chọn Pháp Văn làm sinh ngữ một. Bài thi bắt buộc là một bài luận văn chương Pháp chọn trong các tác giả thế kỷ 19 như Victor Hugo, Alfred de Vigny, Lamartine, Chateaubriand, v.v... Sinh ngữ 2 là anh văn thì gồm có một bài luận luân lý. Cả năm đã học theo chương trình như thế. Nhưng nghe tin đồn là năm nay, giáo sư Nguyễn Văn Lúa, giáo sư Pháp Văn đại học Văn Khoa xuống chấm thi. Không ai bảo ai, một số học sinh sợ ăn điểm một hai gậy của giáo sư Lúa bèn trốn ông, chọn Anh Văn làm sinh ngữ một.

Tên sao trùng với người thế. Gặp ông là lúa đời rồi. Ông nổi tiếng hung thần đánh rớt học trò. Vậy mà được đồng nghiệp kính nể. Anh Văn vốn tôi đã chẳng giỏi gì, phần lớn thời gian tự học lấy trong “Butterfly”. Giọng đọc anh văn thì thầy còn đọc trật huống chi trò. Sang Mỹ này vừa chẵn 30 năm mà nói Mỹ vẫn chưa hiểu!!! Sau bài luận văn chương ép uổng đó, từ đó đến nay, tôi không hề dám viết một câu tiếng Anh nào nữa, mặc dầu việc biên khảo hiện nay, phần lớn, tôi đều dựa trên sách viết bằng tiếng Anh.

Nói theo kiểu giáo sư Dương Thiệu Tống, nói Mỹ nó không hiểu thì nó dốt hay mình dốt? Giáo sư Dương Thiệu Tống còn viết bài: Trẻ Chưa Ngoan, Nguyên nhân? Tôi thấy ông thật thà quá. Nguyên nhân chính là cộng sản mà ông cứ nói đâu đâu?

Ông Cụ Vương Hồng Sển trong cuốn Hơn nửa đời hư có kể đi dự thi concours để làm việc cho Pháp, thi mãi không đậu. Ông viết:

“Kỳ nầy, chua cay là rớt số Một, khít nút với người đội sổ. Gặp thầy bói tên Trần Thúc Sanh, coi tay và coi tướng, nói mình về già tốt phúc, năm nay không đậu vì tiểu nhơn ám hại, muốn đậu phải liều như đánh bài thua. Nhưng mình vẫn nhất quyết “Không liều như đánh bài,” chỉ còn tự trách còn óc mê tín, tin dị đoan và vẫn đi xem bói.” Cuối cùng ông kết luận: “Cám ơn đã được thi rớt.”

(Trích Hơn Nửa Đời Hư, Vương Hồng Sển, trang 226-228).

Nói chuyện với mấy vị giáo chức lớn tuổi, họ thường ân hận là trong đời đi dạy, họ đã chấm điểm ngặt nghèo qua. Vì mình mà có đứa phải đi lính, có đứa biết đâu vì thế chết ngoài mặt trận.

Sau đây là kết quả các kỳ thi tú tài 1 và tú tài 2 vào niên khóa 1954-1955 cho thấy kết quả thí sinh thi đỗ là bao nhiêu của hai chương trình Việt và Pháp lúc bấy giờ.

Một vài nhận xét

Tú tài Việt

Đây là năm cuối cùng của việc thi cử trong hệ thống giáo dục của Pháp.

■ Nên nhớ rằng, chính phủ quốc gia chỉ mới công bố chương trình thi lấy bằng Trung Học Phổ thông đệ nhất cấp kể từ 1950. Khóa 1, tháng sáu/1950, khóa 2 vào tháng 9/1950.

■ Vì thế không lạ gì số học sinh trường Việt dự thi ít hơn trường Pháp đến gần một nửa. Điều đó cho thấy việc học chỉ dành cho những người có tiền của, loại con ông cháu cha khác hẳn kỳ thi năm 1955-1956. Trường Petrus Ký, Gia Long mới chỉ bắt đầu mở các lớp đệ thất dạy chương trình Việt, nhưng vẫn duy trì một số lớp chương trình Pháp.

■ Tỉ lệ tú tài 1: thí sinh thi đỗ tú tài 1, Việt Nam, kỳ 1 là 25% cộng cả hai kỳ là 35%. Thấp.

■ Tỉ lệ thí sinh bỏ dự thi tú tài 1, kỳ 2, rất cao. Điều đó cho thấy, người giỏi thì đỗ ngay kỳ đầu, người không học, sau khi thi thử kỳ đầu, không đậu đã bỏ luôn, không dự kỳ khóa hai. Đáng nhẽ phải có hơn 800 dự thi khóa hai, chỉ còn hơn 500 dự thi khóa hai. Đã có khoảng 300 người bỏ cuộc. Cho dù thi lại, tỉ lệ thi đậu chỉ hơn 10% so với kỳ đầu là 25%.

■ Tỉ lệ tú tài 2: Những người thi tú tài 2 đều giỏi vì đã được sàng lọc trong kỳ thi tú tài 1. Vì thế tỉ lệ thi đỗ rất cao so với tú tài 1. 70%. Số lượng những người tham dự kỳ thi tú tài 2, khóa hai cũng rất cao, chỉ vắng mặt vài chục người, vì họ tin rằng họ có thể thi đậu nên không bỏ cuộc.

■ Tỉ lệ thi Trung học đệ nhất cấp đậu cao, đến hơn 50%.

■ Những con số thi cử này sẽ thay đổi nhiều trong các năm tới khi có số đông học sinh di cư vào Nam cũng như các trường trung học mở ra khắp nơi.

Tú tài Pháp

■ Nhận xét thứ nhất là thi tú tài Pháp gay go và khó đỗ hơn tú tài Việt. Vì họ chỉ thi có một kỳ, không có kỳ 2. Tỉ lệ thí sinh thi đậu chỉ đạt 20- 25%. Vì thế sau này không lạ gì, nhiều học sinh đổi sang trường Việt học thi cả hai kỳ thi Việt Pháp. Tại trường Cao Bá Nhạ, gần đường Cống Quỳnh, Trần Hưng Đạo, có một trung tâm luyện thi dành cho học sinh chương trình Pháp thi tú tài Việt. Ai là người đã học trong hai lớp này?

■ So sánh hai bảng thì kết quả thi cử Việt Nam cho đỗ nhiều hơn thí sinh người Pháp. Phải chăng học sinh Việt Nam học giỏi hơn người Phảp, chăm hơn người Pháp? Tôi nghiêng về lý do giám khảo Việt Nam chấm rộng hơn giám khảo Pháp.

Và đó phải coi là một ưu điểm, tiến bộ về phía giám khảo Việt Nam.

Thi cử qua các kỳ thi tú tài 1 và 2 ở miền Nam là công bằng vì tổ chức chặt chẽ và vì lương tâm nhà giáo.

Tôi còn nhớ thời đó, học sinh VNCH học dữ lắm. Điều kiện trường ốc và sách vở cũng như hoàn cảnh thuận tiện hơn thời XHCN, hơn nữa chương trình học tập trung vào trí thức chứ không có chính trị, thế nhưng năm nào cũng vậy, tỷ số thí sinh thi đậu tú tài I và tú tài II chỉ cỡ 30% là cao lắm rồi. Chương trình trung học của VNCH là chương trình trung học của Pháp, hồi đó tôi không hiểu sao học sinh VN sang du học ở Mỹ thường học giỏi, nhưng bây giờ sang đây thì tôi mới hiểu, trình độ high school của Mỹ làm sao sánh được với trình độ của Pháp.

Thi toán để lấy bằng GED (bằng tương đương trung học của Mỹ, và tương đương với Tú Tài 2 của VNCH) nó cho giải toàn là toán cộng trừ nhân chia và phân số (toán thấp hơn toán thi tiểu học của VNCH ngày xưa), may ra có vài bài toán thì xử dụng đặt phương trình bậc nhất của lớp 8 VNCH. Trong khi thi tú tài II của VNCH thì toán phải nói là loại toán basic của chương trình kỹ sư bên Mỹ và trong đó còn có những lắt léo nữa. Lý Hóa cũng vậy, các môn GE thì VNCH cũng chất lượng không kém gì chương trình Mỹ. Do đó sang tới Mỹ tôi mới hiểu vì sao nhiều thằng Mỹ tốt nghiệp high school rồi mà không biết giải phương trình bậc 2. Chẳng qua vì trường Mỹ nó cũng dạy qua loa, rồi cho lên lớp, nên tôi thấy nhiều thằng Mỹ đần độn hết cỡ thợ mộc. Ở Mỹ người ta giỏi chỉ là một số, một thành phần được gia đình đưa vào học trong những trường good, những trường công giáo mà thôi. Có nhiều người ngày nay đang sợ đưa con vào học trong những public high school của Mỹ, vì tự do quá nên thanh niên Mỹ trở nên hư đốn và hút sách.

Tú Tài... ôn cố tri tân.. được đọc bài viết của tác giả NVLuc, rồi đến góp ý của ông Tàng. nmq cũng xin góp chut chút dư hương Giáo dục ngày xưa// Ngày xưa ở Hà nội, thời kỳ 1944/45, các trưòng học, đa số đóng cửa vì Chiến tranh, vì cách mạng mùa Thu. Giáo dục trở lại với Hanội; tiểu học từ 09/1947. Trung hoc thì qua 1948, cả hai chương trình Pháp và Việt.

Thi Tú tài I và II gồm có hai phần; phan I là thi viết, gồm có Văn(litterature),Triết(Philo/Tt II), langue(sinhngữ), Toán(math), Physique va Chemistry(Lý hóa). Phần Vấn đáp, cũng gồm Văn,Sinh, Toan, Ly-Hoa, Su, Địa.. Trước hết phần thi viết phải; 1/ không có bài nào bi 0 điểm, sau khi cho điểm, nhân hệ số(coefficient), cộng lại phải đạt số điểm trung bình trở lên, cũng có năm, vì bài khó, hội đồng (jurie) phải họp lại, đổi giám khảo chấm bài, rồi hạ bớt vài điểm, gọi là điểm "vớt", thường không quá 4% của tổng số, để có sĩ số khả dĩ được qua Vấn đáp. Đồng thời cũng niêm yết số thí sinh tuy trượt, nhưng có đủ điểm(khoảng 75% điểm chính) để thi kỳ hai.

Sau khi có tên trên bảng "phong thần" trúng tuyển thi Viết, thí sinh được một ngày để sửa soạn vô thi Vấn đáp. Thi Vấn đáp thì đỡ khổ hơn; vì, nếu may mắn gập được thầy quen thì.. nhất. Thế nhưng đôi khi cũng dễ "toi mạng" như trường hợp(GS HCNghị/ thí sinh HTNga) ..cô em gái vô thi vấn đáp, gặp ông anh giáo sư Giám khảo, tiêng khó để đời. Tất cả bài thi Vấn đáp đều phải có điểm. Vấn đáp không có điểm vớt. Sau khoảng một tuần là có niêm yết chính thức loan báo kết quả số thí sinh trúng tuyển Tú tài.. khoá... với tổng số điểm với chữ G(giỏi), B(bình), BT.(Pháp thì; TB, B, AB,..)

.... đau quá đòn hằn, rát hơn lửa bỏng, tủi bút tủi nghiên, hổ lều hổ chõng.. (Tú Xương).

xin kể tiếp những gi còn sót...trong trí nhớ...

Chương trình Tú tài được chia làm bốn(4) ban; 1/Sinh ngữ. 2/Khoa học B.Sciences pure. 3/ Khoa hoc A Sciences naturelles, còn gọi là Vạn vật, có lẽ nay là Biology. và chót là 4/ Cổ ngữ(Hán văn). Khổ nhất là Sử, vì ngoài Sử VN lại còn cả Sử thế giới, Công dân giáo dục... Địa cũng vậy. Đến TT2 thì sợ nhất là Triết, thời kỳ nmq đi thi, không có ông Giám khảo nào ghét bỏ thí sinh cho nên, thí sinh thường hay được 1(một) điểm để lót đường,nhưng cũng chẳng có thí sinh nào được trên 3 điểm ngay cả khi chọn lựa thi ban Triết... các thầy rất thông cảm cho thí sinh về môn này. Căn cứ trên thực trạng của các kỳ khảo thi Lục cá nguyệt mà bộ Giáo dục tuyển chọn các Giáo sư để ra bài thi cho thí sinh. Thời đó, các đề thi thường trích hay tuyển chọn ra từ Journal Math của Liên hiệp Pháp, đôi khi từ những bài toán hay trong Brachet, Lebose, G.Eve, Lamirand, Triết thì từ Foulqiet, Cuvilliêr.. Thòi đó chưa có Math moderne hay Calculus như bây giờ.

Bước lên Đại học, đường mây thênh thang, sức học đồng đều, cả một khung trời rộng mở.. hết./.

Công nhận anh Đào công Khai nói đúng .Tôi không hiểu tại sao trình độ toán ở highshool Mỹ thấp đến như vậy So với Pháp và VNCH thì thua xa. Hồi còn đi học ờ Việt Nam,để chuẩn bị thi Tú tài ban Toán,phải cố giải hết các bài toán khó của nhà xuất bản Trường Thi,sách toán của Thầy Nguyển văn Phú,trong đó có nhiều bài toán là đề thi củ của Pháp và mấy thuộc địa của Pháp.Những bài toán này thì học sinh high shool Mỹ chỉ có ngồi cắn bút.

Hồi mới qua Mỹ,có cô cháu gái đang học lớp 12 giải một bài toán không nỗi ,nhờ tôi làm giúp.Làm xong khen đáo để,nhưng tôi trả lời hơn 30 năm đi lính,đi tù,đi kinh tế mới có cầm lại sách toán đâu,chẵng qua là bài toán quá dễ.

Trong nhà tôi,mấy đứa con qua Mỹ từ lúc học mẩu giáo đến nay có đứa ra trường đại học,có đứa đang học đại học mà về môn toán thì kém lắm

Bác DA10 nói đúng đấy. Toán trung học ở Mỹ có “dở” hay không là tùy trường, và tùy học sinh. Ở Mỹ người ta cho rằng có những môn khác quan trọng hơn tóan.

Tôi không biết trình độ trung học Pháp như thế nào nên không dám so sánh với Mỹ như bác Đào Công Khai đã làm. Nhưng tôi nghĩ nền giáo dục ở Mỹ tổ chức rất khác so với Việt Nam. Thí dụ, chưa hẳn học sinh Mỹ “cắn bút” với những bài thi tóan tú tài của Pháp cách đây 50 năm bởi vì học sinh Mỹ dốt, nhưng bởi vì họ không dạy và học như dân Pháp. Dân Mỹ thực nghiệm nên không dạy và bắt học trò học những môn trừu tượng như tóan trung học theo chương trình Pháp cách đây 50 năm (không hiểu bây giờ Pháp đã thay đổi chưa, và cũng chưa thấy Pháp qua mặt Mỹ về trình độ đại học và con số khôi nguyên giải Nobel khoa học)

Ở Mỹ, tiêu chuẩn tối thiểu cho học sinh cho bậc trung học ở Mỹ khá thấp so với thế giới. Nhưng nếu chỉ học đủ mức tiêu chuẩn để có bằng trung học, thì tiêu rồi. Học đủ tiêu chuẩn như vậy thì chỉ được nhận vô những trường cao đẳng cộng đồng (community college) hay đại học xòang xòang. Muốn vào những đại học giỏi, thì học sinh cần phải vượt lên trên tiêu chuẩn tối thiểu rất nhiều.

Tiêu chuẩn tối thiểu bậc trung học Mỹ thấp, nhưng “tối đa” của họ lại không có giới hạn. Ở trung học Mỹ, hầu như trường nào cũng có những lớp AP (advanced placement) để dạy các em trên có trình độ cao hơn tiêu chuẩn tối thiểu. Nếu học trò giỏi quá tới mức nhà trường không có thầy có lớp, thì hầu hết các cao đẳng cộng đồng gần nhà sẵn sàng nhận các em dưới 18 tuổi vào học các lớp tại đại học. Đừng lo Mỹ dốt. Giỏi cỡ nào cũng có trường dạy (trừ khi không thèm học như mấy tay siêu phàm Bill Gate, Paul Allen)

Ở đại học, họ cũng tổ chức như vậy. Đại học Mỹ cũng thượng vàng hạ cám. “Vàng”, là những trường Ivy League, Standford, Columbia, vân vân… “cám” là những trường cao đẳng gần nhà ai học cũng được nếu học xong trung học hay có GED. (nhưng đừng nghĩ học trường local là dở. Tiến sĩ Đinh Việt nhà mình, thứ trưởng Bộ Tư Pháp, khi mới xong trung học, vì không đủ điều kiện tài chánh, chỉ học ở trường “cám” Cal State Fullerton trước khi transfer vào “vàng” Harvard)

Bác Đào Công Khai so sánh GED của Mỹ với tú tài VN chưa đúng mấy. Nếu một học sinh chỉ có bằng GED thì không vào được những đại học 4 năm? GED là tiêu chuẩn thấp nhất cho trung học, là cơ hội cuối cùng cho những học sinh dốt không qua nổi trung học (hay kém may mắn không có cơ hội học cho xong, thí dụ, vì những lý do cá nhân, vì lỡ mang bầu trong khi đi học, hay vào tù vì băng đảng, trộm cắp… ở Mỹ chuyện này thường lắm). Có bằng GDE thì cũng … chẳng làm được gì, trừ chuyện được phép ghi danh học trường cao đẳng cộng đồng (community college), hay vào quân đội đeo lon binh nhì.

Bởi vì giõi hay dở, tuỳ nơi, tuỳ chổ, tuỳ người!...

VN ngày xưa dạy ra sao em không nhớ (chỉ nhớ ông cậu than lấy được cái bằng tú tài, chằn ăn, trăn quấn, thức muốn mờ con mắt), nhưng Mỹ ngày nay nó dạy có đứa mới 11 tuổi đã tốt nghiệp college 2 năm, ra trường 4.0 straight A! (Moshe Kai Cavalin), có đứa mới 17 tuổi đã là college Professor (quên tên)

Lên đại học thì em hơi rành, ở mấy cái trường công, đại đa số là Mỹ...bơi không hè, lâu lâu mới thấy một hai anh xuất sắc. Nhưng qua trường tư, nhất là mấy cái trường chuyên ngành, mới...bay hồn trước sức học của các anh Mỹ, anh nào cũng siêu quần bạt tuỵ cả! Có anh mới năm thứ ba, đã tự mình chế được một chiếc xe chạy bằng ánh sáng mặt trời, mang ra Memorial drive, Massachusetts, cãnh sát phải huýt còi, chận đường cho anh ta biểu diễn (86-87 gì đó)

Cái học ở VN ngày xưa là cái học từ chương, giõi toán chỉ để...giựt le lối xóm thôi. Học ở Mỹ, mới là thực dụng. Ai mà giõi, trường lớp, xã hội giúp tới bến, tha hồ có cơ hội lên đời, cơm no, bò cỡi (nhưng xin đừng quên VC đang tàn phá quê hương, mà phải cố gắng cho bằng một phần trăm của anh Lê công Định, ấy mới đáng quí

Đồng ý 100% với anh BD, về cái học ở VN và cái học ở Mỹ. Tuy nhiên , lão cũng có vài nhời để biện bạch cho "cái học của người VN" ... sở dĩ chúng tôi chỉ như "con vẹt" là vì "cơm còn chưa có đủ ăn" đi học thì "thày đọc tới đâu, trò chép tới đó, tiền đâu mà mua sách.." (như tôi chẳng hạn học thi tú tài ban B thì lượm lại mấy cuốn sách tiếng pháp của ông anh năm 1953-1954 mà lấy tự diển ra tra từng chữ rùi mò mẫm mà giải cho nó hết gần 3 ngàn bài (tác giả Lebosse' và ReUnion Professeur) khi lên đại học thì nhà trường cho thực tập cái gì thì hay cái đó, làm gì có tiền mà mua mí cái khác để về nhà "ráp chơi"Còn ở Mỹ hả, họ đâu có nghèo như tụi tôi nên "học và hành" họ làm song song. 10 năm làm việc trong phòng thí nghiệm tui thấu hiểu cái buồn của người trí thức khoa học nước Nam ta lắm... mong bạn thông cảm chứ nếu "dư giả " như ai thì "thanh niên VN là gương sáng cho thế giới soi chung đó" bạn mình. Cứ nhìn vào cái học về "vi tính" ngày nay thì thấy, học sinh VN chỉ có thua ..."cọp" thôi (Cũng lấy thí dụ bản thân Tàng, hùi mới qua Mỹ, đêm thì đi nhặt rác trong cái Công ty , ngày rảnh rỗi thì mình cũng mò vô cái College cộng đồng học bậy bạ ba cái "Visual Basic ..." chơi cho biết với người ta .... khi viết mí cái programe bài tập về mortgage hay về payment cho mua trả góp xe, mình thì dốt tiếng Mỹ, nhưng viết theo trí nhớ về mấy cái công thức số học , học năm 1954 để đi thi tiểu học ...ủa mà sao nó hỏng có trật tí nào cả ....làm ông thày hơi ngạc nhiên vì ổng chưa dạy mà ???)hay sau đó viết programe cho mấy cái máy CNC mình dùng hình học không gian và lượng giác học để đi thi tú tài 1 từ năm còn cụ Diệm.. ấy vậy mà cũng chẳng bao giờ máy chạy bị trouble cả ..... Âu có lẽ mình thuộc loại Con Ông Cháu Cha nghèo lõ đít chăng ???? Đừng chê thanh niên Việt, quí vị ơi .. chỉ vì cai chữ " NGHÈO" mà nó vậy thôi ....Bác Sĩ VN (thời VNCH thôi nha) mổ sẻ đâu có thua thằng Tây thằng Tầu nào đâu ....

Ciao.

TC tui thử dựa vào ký ức, đưa ra vài điểm để các bác tiện so sánh:

các chương trình Trung học Phổ thông tại Việt nam trước 75 thì bắt buộc tất cả các học sinh học cùng một chương trình giống nhau cho đến cuối lớp 9. Sau đó, học sinh tự lựa ban học từ năm lớp 10 (A= Vạn vật, B= Toán, C=văn, Triết), rồi cũng thế, tất cả các học sinh theo cái ban mình đã lựa đó mà cùng học một chương trình bắt buộc lên hết bậc trung học với hai kỳ thi là Tú tài phần nhất và Tú tài Phần hai (Bạc 1 & Bac. 2). Âm nhạc và hội hoạ chỉ là học cho ...dzui! Để nhấn mạnh vào sự chuyên học, thì điểm của các môn học còn được nhân với một "hệ số", thí dụ ban A thì điểm môn Vạn vật nhân với hệ số 3, hóa, Vật Lý nhân với hệ số 2, Đối với ban B thì điểm các môn Toán nhân với hệ số 3 ...đại khái là vậy.(Không nhớ chính xác)

Khoảng năm 70-71 gì đó, chương trình học đã bỏ kỳ thì Tú Tài phần thứ nhất, chỉ còn kỳ thi Tú Tài phần thứ hai. Nói nghe thì như dễ hơn, nhưng thực ra thì ai thì hỏng kỳ thi Tú tài duy nhất thì đi lính, được cấp bậc Trung sĩ thay vì chuẩn úy như trước (vì có Tú tài bán phần) Đến năm 72-73 thì chương trình giáo dục kỹ thuật toán cũng giảm bớt ba9`ng cách có chế độ miễn thi Tú tài kỹ thuật toán phần thứ nhất, ai đạt điểm cao thì được cấp chứng chỉ tốt nghiệp. Ai không đủ điểm thì mới phải thi.

Lên Đại học thì thi vào các trường rất khó, Ai thi hỏng thì đi lính (làm chuẩn úy!)

Được vào học thì cắm đầu học các môn trong nghành học chuyên sâu (hầu như khhông có các môn GE gì hết). Học trình đòi hỏi sinh viên chỉ cần thuộc nằm lòng các điều được dạy cũng đã phờ phac. (Chữ dùng bấy giờ là "gạo bài"). Ai không thi được vào đâu cả thì ban A, B, C gì cũng hoặc là vào trường Luât khoa. hoặc là vào trường Văn khoa. Mỗi năm học lại có thi cuối năm, phờ phạc gấp đôi! Ai hỏng lại đi lính!

Học xong bậc đại học, với số người tốt nghiệp ít ỏi mỗi năm trong tất cả các ngành, nên hầu như ai cũng có việc làm tốt chờ sẵn, du làm việc gì cũng ít nhiều ở vị trí chỉ chỏ, rất là "đã đã" (được ngồi mát, ăn bát vàng), đáp ứng với nguyện vọng và sự đầu tư củA mẹ cha, cho bỏ những ngày "tụng bài". Kiến thức cập nhật? Siêng thì chớ, làm biếng thì khỏi cần bon chen chi cho lắm, người ta vẫn gọi mình là ông Bác sĩ, ông Kỹ sư, ông giáo sư,...kể luôn cả bà "dzợ" của mình cũng được "ăn theo", được kiu bằng bà này bà kia, oai thí mệ nội...phè cánh nhạn, an tâm ngồi trong hàng ngũ "trí thức" của một nước đang ...phát triển!

Ngược lại, dường như hệ thống giáo dục bậc trung học của Hoa Kỳ thì dựa vào nguyên tắc trang bị cho học sinh một kiến thức phổ thông nên áp dụng tiêu chí cung ứng kiến thức phổ cập và cung ứng cơ hội.

Bởi vậy, ở bậc Trung học người ta không chú tâm lắm đến việc đòi hỏi học sinh học chuyên sâu một môn học nào. Họ chỉ đòi hỏi học sinh phải học một số lớp trình độ rất cơ bản (base line), rồi thêm vào đó học sinh có quyền tự chọn lựa các môn học khác, cộng thêm một số lớp tuỳ năng khiếu và ý thích cá nhân, miễn đáp ứng một số tín chỉ nhất định nào đó là được cấp chứng chỉ tốt nghiêp. (Diploma)

Vì thế có những học sinh lựa chọn học thêm nhiều các môn khoa học hơn, có những học sinh khác thì học nhiều các môn nhân văn, hay các môn thể thao, rồi tất cả cũng được tốt nghiệp. (Miễn là cộng lại đủ tín chỉ để tốt nghiệp)

Tuy vậy, đối với các học sinh có năng khiếu, sở thích và học giỏi các môn học nào đó thì vẫn có các lớp chuyên cao, và các trường chuyên cao để đáp ứng nhu cầu này. Dù là khoa học, hay nhân văn, hay thể dục.

Quan trọng là có sự giúp đỡ của các giáo viên khải đạo (Counselors) và phụ huynh, nhờ đấy các học sinh sẽ dần dà tìm ra năng khiếu để phát triển, và định hướng cho việc lựa ngành học tập, lựa chọn chức nghiệp sau này.

Cho nên, nhìn chung, thì nếu chỉ tách riêng để so trình độ môn toán học hay khoa học của các học sinh Mỹ so với các nước khác thì trình độ trung bình có vẻ thấp hơn, nhưng ngược lại là sau khi ra khỏi bậc trung học thì học sinh Mỹ có khả năng định hướng cho tương lai bản thân hơn về việc chọn lựa các ngành theo học tại đại học, hoặc học nghề tại các đại học cộng đồng, hoặc tại các trade school (hay đi lính làm binh nhì theo Bác Khánh đăng :))

Lên đại học thì khác hẳn, chương trình học đòi hỏi cho các ngành khoa học hoặc nhân văn đòi hỏi sinh viên trong hai năm đầu tiên phải lấy đủ các lớp GE (General education) tương thích với ngành học (Major), rất chuyên sâu vào hai năm cuối của chương trình.

Học xong bậc đại học, tạm gọi là vậy, thì đi kiếm việc, vào việc là phải động tay chân, động não, làm việc thí ...mệ ngoại! Rồi phải học thêm ...từa lưa, để cập nhật kiến thức, và để thăng tiến. Hơ hỏng lè phè, là tụt hậu, nếu gặp lúc tình hình kinh tế khó khăn, công ty làm ăn lỗ lả, v..v... là hãng có dịp giảm người, các "con nhạn là đà" này hẳn được "ưu tiên" phát giấy hồng (pink slip) trước! Được ngẫng mặt làm công dân một nước tiên tiến, nhưng đến là toát mồ hôi cục!

Cái Đạo Học là cốt ở Chân Thực Thành Tâm và Công Bằng .

--Thành và Thực : Học cái gì có ích lợi thiết thực cho dân trí nước nhà nhứt . Học điều gì văn minh tiến bộ của thời đại nhứt .

Nước VN hiện nay , người sanh sôi nảy nở ngày càng đông . Mà đất đai vẫn vậy . Lại thêm nạn tàn hại môi sinh ,phá rừng lấn biễn .Đua nhau làm giàu , bất kể tương lai sinh thái ra sao . Trời ban cho cái vốn , phải biết kiệm tiện mà sanh phương lập nghiệp ra thêm . Đằng này , bọn người tham lam quỉ quái ngu ngốc ăn chơi, cứ cái vốn sẳn Trời cho mà gậm nhấm đục khoét bào mòn. Thử hỏi của báu nào chịu thấu ???

Người VN xưa nay dân thường, cuộc sống gắn liền với chén cơm , hũ gạo . Tại sao không học cách chế biến thức ăn từ nhiều nguồn thực phẩm khác nhau ? Nấu một nồi cơm , vừa mất thì giờ , tốn củi , tốn điện v.v...Đời sống khu vực Tiền Giang Hậu Giang , kinh rạch chằn chịt . Ruộng vườn trồng trọt chăn nuôi là nhiều . Vậy sao không học cách chế tạo ra cái máy phục vụ nông nghiệp cho nhiều , phục vụ lợi ích giao thông thuỷ lộ cho khá ? Đó chỉ là vài thí dụ nhỏ về cái Thực trong học vấn .Và v.v...

Học phải Thực , mà còn phải Thành . Thành là không được dối trá láo khoét . Lịch Sử có sao , dạy vậy . Rút ra bài học quí giá , nhằm un đúc tinh thần ái quốc thương nòi . Chứ không nhằm tự kiêu tự đại cho nhóm nhỏ đảng phái của mình .

--Đức công bằng : Học đi liền với thi cử . Thi cữ là cữa ngõ tuyển nhập nhân tài giúp nước sau này . Thi cử phải tuyệt đối công bằng cho tất cả mọi công dân , không phân biệt sang hèn , lý lịch .Đi thi ,ai làm bài trúng là đậu , làm bài hay thì đổ cao . Vậy thôi . Ra đề , chấm thi phải tuyệt đối vô tư và kín đáo . Kẽ nào gian lận trong thi cữ phải bị trừng phạt nặng , để làm gương .

Có như thế ,hoạ may nền học thuật nước nhà mới khởi sắc . Người đi học mới có chổ cậy dựa mà phát triễn tài năng .

Kl: Một nước VN Mới về sau này , thiết nghĩ phải chọn cách Giáo Dục cho phù hợp với thực trạng đất nước và trào lưu Tự Do Dân Chủ của Thế Giới . Bên cạnh các trường Cao Đẳng Đại Học , hệ thống Huấn Nghệ , Huấn Nghiệp phải mỡ rộng khắp nước và được cổ vũ mạnh mẽ . Người VN có câu : Nhứt nghệ tinh nhứt thân vinh .

NÓI VỀ VIỆC TỔ CHỨC THI TÚ TÀI (Phần 1)

*Lúc đó tôi là công chức của bộ Giáo dục, với chức vụ là trưởng ban Nội dịch, phụ trách bảo vệ an toàn, an ninh cơ sở và vệ sinh cho 2 building. Trên lầu là Nha Tiểu học. Tầng trệt gồm nha Trung học, Nha Khảo thí, ban Thanh tra trung học và phòng Kế toán.

Các giám đốc đều biết tôi và tôi cũng biết họ. Tôi có làm việc với cụ Đàm Xuân Thiều và ông Phạm Tấn Kiệt là 2 giám đốc trước, sau của nha trung học. Làm việc với ông Đặng Trần Thường và Nguyễn Văn Linh là 2 giám đốc trước sau của nha Khảo Thí.

Nhân viên của tôi vcó 2 người, là bác lao công già và chị lao công goá phụ của tử sĩ.

1* SOẠN VÀ BẢO MẬT ĐỀ THI.

1.1.

Đề cử các thanh tra trung học vào ban soạn đề thi.

Những thanh tra TH được đề cử vào ban soạn đề thi. Làm việc theo khả năng của từng giáo sư bộ môn.

1.2.

“Cấm trại” và cô lập.

Trước ngày thi 1 tuần lễ hay 10 ngày gì đó, ban soạn đề thi tập trung vào làm việc trong 1 phòng. Và kể từ ngày đó, họ hoàn toàn bị cô lập với “thế giới bên ngoài”. Nghĩa là không được về nhà. Làm việc, ăn và ngủ tại chỗ.

Không ai được phép vào phòng làm việc của họ. Giám đốc nha Khảo thí cũng không dám bén mãng đến gần phòng đó.

Chỉ có tôi là người được tiếp xúc và giúp đở họ, cho nên tôi cũng bị cấm trại luôn.

1.3.

Việc đề nghị đề thi.

Thông thường thì mỗi năm, nha Khảo Thí có công văn gởi đến các giáo sư phụ trách bộ môn lớp 12, đề nghị ra đề thi. Tất cả đều được bảo mật.

Những đề thi đó không nhất thiết phải được chọn làm đề thi. Nó chỉ là những bài căn bản, sát với chương trình học, để làm tham khảo.

Như vậy, trước mắt các thanh tra là những đề thi của 2 hoặc 3 năm về trước. Họ có thể chọn 1 đề nào đó hoặc ra 1 đề thi mới.

1.4.

Thực hiện đề thi.

Các thanh tra tự đánh máy vào giấy sáp (Stencil), tự quay Ronéo, cắt đề thi, cho vào phong bì, niêm khằng và đóng dấu vào khằng.

1.5.

Số lượng đề thi.

Đề thi cung ứng cho mỗi phòng thi trên toàn quốc. Mỗi tỉnh có 1 Hội đồng Giám thị (HĐGT) bao gồm nhiều trung tâm thi, (mỗi TTT là 1 trường học.). Mỗi TTT có nhiều phòng thi. Do đó, số lượng đề thi rất lớn, rất nhiều.

Đề thi của mỗi tỉnh được đựng trong những cái rương nhôm, có 2 khoá, có niêm phong.

1.6.

Di chuyển đề thi.

Mỗi tỉnh có 1 Hội Đồng Giám Thị (HĐGT) bao gồm nhiều Trung Tâm Thi (TTT). Các chức vụ Chủ tịch, Phó chủ tịch và thơ ký HĐGT đều do bộ Giáo dục/Nha Khảo thí đề cử. Trên nguyên tắc là do các giáo sư từ các tỉnh khác đến. Các giám thị phòng thi thì do các giáo sư và giáo viên ở địa phương phụ trách

NÓI VỀ VIỆC TỔ CHỨC THI TÚ TÀI (Phần 2).

HĐGT sẽ tập trung tại Nha Khảo Thí để nhận các rương nhôm đựng đề thi và cùng đi theo các rương đề thi bằng công xa hoặc bằng máy bay.

Mọi di chuyển đề thi đều phải có xe của cảnh sát dẫn đường và hộ tống.

Các toà hành chánh tỉnh phải lập 1 toán cảnh sát đến tận phi trường để bảo vệ đề thi về đến toà tỉnh. Đề thi và HĐGT thường đến tỉnh 1 ngày trước ngày thi, ấn định chung cho toàn quốc.

Toà tỉnh cung cấp chỗ ăn, chỗ ở cho HĐGT.

1.7.

Di chuyển bài thi của thí sinh về Sải Gòn.

Sau khi thi xong, HĐGT sẽ mang bài thi của thí sinh toàn quốc về Sài Gòn để các Hội Đồng Giám Khảo (HĐGK) chấm thi. Bài thi cũng được bảo vệ nghiêm nhặt trên đường về.

2* HỘI ĐỒNG GIÁM KHẢO. (H ĐGK)

Bài thi của thí sinh toàn quốc được đem về Sài Gòn để chấm điểm. HĐGK gồm có Chánh, Phó chủ khảo, Thư ký và các giáo sư bộ môn lớp 12 trên toàn quốc về Sài gòn để chấm thi.

2.1.

Việc chấm thi.

Các bài thi được rọc phách trước khi giao cho giám khảo chấm điểm. Một bài thi được chấm 2 lần, do 2 giám khảo khác nhau. Điểm thi không viết trên bài thi, mà chỉ viết trên 1 tấm phiếu rời, chỉ có số ký hiệu mà thôi. Và thư ký giữ những phiếu điểm đó.

2.2.

Cộng điểm và viết chứng chỉ thi đậu.

Bài chấm xong, ráp phách, cộng điểm và thành lập 1 bảng danh sách thí sinh thi đậu. Các thư ký viết chứng chỉ và ký tên ở phần "người lập chứng chỉ". Chánh chủ khảo ký tên trên chứng chỉ.

Tùy theo số điểm mà thí sinh được xếp hạng, "Thứ", Bình Thứ, Ưu, Tối Ưu".

Chứng chỉ thi đậu được chuyển về Nha Khảo Thí để dán hình và đóng con dấu của Nha Khảo thí.

Thí sinh ở Sài Gòn thì đến Nha KT lảnh chứng chỉ. Thí sinh ở tỉnh thì đến các trường Trung học địa phương ngận lãnh.

2.3.

Các phụ cấp.

* Phụ cấp vãng phản (Feuille de Route) dành cho những người đi công tác trên 10 Km. Được tính theo ngày đi và ngày xong công tác trở về địa phương. Cơ quan hành chánh địa phương chứng nhận ngày đi, ngày đến, đi và về.

* Phụ cấp chấm thi. GK chấm bao nhiêu bài thì nhận bao nhiêu tiền. Mỗi bài 11.50 đồng năm 70's. Nhưng thực tế thì, bộ GD thường cho con số chung của mỗi người là 1200 bài. Những thư ký không chấm bài cũng được hưởng 1200 bài.

Trong thời gian thi cử, người lo âu nhất là Giám đốc Nha Khảo thí. Bởi vì, bất cứ 1 nhân viên nào ở đâu đâu đó trên toàn lãnh thổ VNCH mà làm bậy, gian lận...thì GĐ nha KT là người liên đới chịu trách nhiệm. Trước hết là đám nhà báo đến tìm hiểu, phỏng vấn, điều tra...

Việc bảo mật và các biện pháp bảo vệ kỳ thi được tốt đẹp còn rất nhiều chi tiết tỉ mĩ, cặn kẻ không có thể trình bày ra hết ở bài viết nầy được.

Nguyễn Tiền Giang

E rằng có sự nhầm lẫn....

Trong bài viết, tác giả có ghi chú (hàng chữ nhỏ) về địa chỉ Văn hoá TP/HCM.. thời còn là thuộc địa của Pháp con đường có tên là Garcerie, đến thời kỳ thủ tướng TVHữu.. được đổi tên la Duy Tân.1954; (trường Đai hoc Hà nội; gồm đủ bộ Văn khoa, Dược khoa, Y khoa, dọn vô Saigon và tạm trú nhờ các dãy nhà của Trung học Petrus Ký). Sau khi lấn chiếm miền Nam, ngay đợt đổi tên các đường như Tự do/Đồng khởi.. Pasteur/Nguyễn thi Minh Khai hay như Trương minh Giảng/ Nguyễn van Trỗi, Nguyễn huỳnh Đức/Huỳnh van bánh.... Duy Tân được mang tên mới la Phạm ngoc Thạch..

Đại học Văn khoa dọn đến đường Duy Tân khoảng năm 1956, trước đó là bót Cảnh sát quận Ba, trước bùng binh con Rùa, trông sang nhà máy lọc và trữ nước cho Saigon. Phía sau, cạnh bên Duy Tân/Trần quý Cáp/Phan đình Phùng là trường Kiến Trúc. Trước 1954... Đại học Văn khoa ở đường lê thánh Tôn Hà nội.

..... trả lại em yêu...khung trời đai học... con đường Duy Tân .. cây cao bóng mát... một chút nhớ quên,

.... bao giờ trở về... Hết

Nếu trí nhớ của tôi không bội bạc tôi thì hình như Văn khoa ở trên đường Đinh Tiên Hoàng, bên cạnh là Nông Lâm Súc, bên kia đường đối diện là trường Dược. Còn "Trả lại em yêu ..." lại gần trường Luật, góc Trần Qúy Cáp và... Trả lại em yêu... Tôi nghĩ bài hát muốn nói trường Luật. Vì con đường Trần Qúy Cáp tôi vẫn thường đi hàng ngày, ra hồ con Rùa, qua Thống Nhất....., hay từ Duy Tân đổ ra Hiền Vương để về...nhà.

Thôi đừng nhắc nữa. Tim bắt đầu nhói đau rồi.

Trường Văn khoa, như đã thưa, lần dọn đầu tiên ở miền Saigon là dọn về số 3 Duy Tân. Trường Luật ở số 7 Duy Tân, và trường Kiên trúc ở mặt đường Phan đình Phùng. Cho đên khoảng thời gian 63-64 gì đó, khi Tiểu đoàn canh gác dinh độc lập trả lại hai dãy nhà lầu, lúc đó chưa thông đường Albêrt 1er(Dinh Tiên hoàng) tới Nôrodom (Thống nhất) cho Đô thành. Bộ Giáo dục được ưu tiên để mở rộng nên phá dãy tường ngăn, để thông qua Thống Nhất và Văn khoa lại dọn từ 3 Duy Tân về đầu đường Dinh Tiên hoàng.

Riêng con đường Duy Tân còn có một dấu tích "nằm ăn vạ" của sư ông Thích trí Quang ở clinique của bác sĩ Tài. ./

Xin chào tái ngộ các bác

Tôi cũng xin góp vài chi tiết còn nhớ được về trụ sở phân khoa Văn của đại học Sài Gòn.

- Ở số 3 Duy Tân tôi nhớ có bảng đề: "Đại Học Sài Gòn", có lẽ đó là trụ sở chính của ĐHSG vậy. Nhưng số 3 Duy Tân có thể đồng thời là địa chỉ của phân khoa Văn lúc đầu, như bác NMQ viết.

- Cũng chắc chắn là một thời gian sau '54, Văn Khoa dọn về đường Lê Thánh Tôn, trên thửa đất thời Tây là Khám Lớn Sài Gòn.

Thoạt đầu, vao năm 54, đó là một trong những địa điểm tiếp đón những người miền Bắc di cư '54, chủ yếu là sinh viên. Trong số những sinh viên & giáo chức di cư từ Hà Nội vào, trong số có Nguyễn Sĩ Tế, Trần Thanh Hiệp, Doãn Quốc Sĩ, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền... Những vị này đã họp nhau lại thành một nhóm văn nghệ, chủ chốt của nhóm Sáng Tạo...

Đây cũng là nơi phát xuất của những cuộc biểu tình "chống cộng" đầu tiên, như những cuộc đuổi đánh phái đoàn Việt Cộng, khiến trưởng phải đoàn Hà Văn Lâu - ở khách sạn Majestic - phải nhờ chính quyền VNCH bảo vệ mới toàn mạng...

- Sau đó - khoảng 1 năm sau - sinh viên & giáo chức di cư ở địa điểm đó được chuyển về ở Đại Học Xá Minh Mạng mới hoàn thành. "Khám lớn Sai Gòn" được sửa sang, để trờ thành địa chỉ chính của "trường" Văn Khoa.

- Sau ngày đảo chánh 1963, thành Công Hòa - đường Thống Nhất - nơi đồn trú của Lữ Đoàn Phòng Vệ Tổng Thống Phủ, bi giải tán - trở thành một "campus" của Đại học Sài Gòn, gồm các phân khoa Văn, Dược... cũng như trường Nông Lâm Súc...

- Lúc đó, mảnh đất "trường Văn Khoa cũ" được dùng cho những sinh hoạt văn hóa khác nhau, kể cả nơi triển lãm những nhà tiền chế kiểu mẫu - nhưng căn nhà này sau thành trụ sở của hội Họa Sĩ Trẻ, đoàn Văn Nghệ Sinh Viên Học Sinh Nguồn Sống v.v.

"Quán Văn" - nơi TCS va KL tung hoành một dạo - cũng tọa lạc trên mảnh đất đầy "văn hóa" đó!

Remember to remember...

Tổ chức chặt chẽ, có phương pháp, có nề nếp trong thi cử là yêu tố quyết định trong thi cử. Cá nhân muốn gian lận cũng khó mà gian được. Chẳng hạn chuyển đổi người địa phương đi nơi khác là yếu tố quan trọng hàng đầu. Phân biệt tổ chức Hội đồng giám thị và Hội đồng giám khảo. Không cho phép bất cứ quan chức địa phương nào, từ Tỉnh trưởng đến người quân cảnh dính dáng xa gần tới Hội đồng giám thị giám khảo. Hai hội đồng ấy từ trung ương gửi xuống biệt lập với quan chức địa phương. Địa phương chỉ có bổn phận bắt buộc cung cấp phương tiện. Chánh chủ khảo đến làm việc là mọi chuyện phải được sắp xếp sẵn sàng cho họ như phương tiện di chuyển như máy bay quân sự, xe cộ, lính canh gác thùng đề thi, an ninh tại các trường thi.

Chẳng hạn để tiết lộ thùng đề thi do trách nhiệm ông Tỉnh trưởng thì việc trước tiên là ông tỉnh trưởng phải đổi đi chỗ khác.

Tổ chức ấy được tiến hành như sau:

Nha Khảo Thí

Nha khảo thí là nơi đầu não làm việc suốt quanh năm nhằm mục đích tổ chức hai kỳ thi trung học Phổ thông và 4 lần thi tú tài 1 và 2. Cơ quan này chia ra nhiều bộ phận riêng rẽ, biệt lập như tổ chức các Hội đồng Giám thị và giám khảo, phân phối điều động các giám khảo, giám thị. Sài Gòn vì là trung tâm nên nơi đây còn chia ra nhiều Hội Đồng như Hội Đồng ban B, ban C và D, Hội Đồng ban A. Các tỉnh thì có các Hội Đồng Giám khảo như Huế, NhaTrang, Cần Thơ, v.v… Hội Đồng Giám Thị thì tổ chức tại các địa phương như các tỉnh Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Hội An, Quảng Trị, v.v... Khi các thí sinh thi xong thì bài thi và hồ sơ của Hội Đồng Giám Thị được chuyển tất cả về Huế.

Nhưng bộ phận quan trọng của Nha Khảo Thí là hội đồng ra đề thi. Bộ phận này nằm chót lót trên lầu 3 của Nha Khảo Thí.

Người ta gọi đùa là một vương quốc thi cử. Nội bất xuất, ngoại bất nhập.

Trung bình mỗi môn có hai giáo sư trung học có kinh nghiệm phụ trách. Họ có bổn phận cân nhắc kỹ lưỡng từng câu hỏi giáo khoa, từng bài thi sao cho đúng. Không có kẽ hở như có thể để học trò hiểu lầm câu hỏi hay có thể có hai cách trả lời, v.v... Hoặc đề tài cần vừa trình độ học trò, không quá khó. Có nhiều năm, bài toán ra quá khó, nhiều học trò giỏi cũng ngắc ngư. Báo chí phản ứng dư luận rùm beng. Riêng đề thi ban Triết, nhiều vị không dám tự mình đề xướng ra một đề thi mới và thường chọn các đề thi có bài luận giải đáp trong sách Foulquié cho chắc ăn. Vì thế, các giáo sư cũng lấy các đề thi và bài luận trong sách này dạy cho học trò. Không có “học tủ” đâu, vì có đến 4, 5 cuốn Foulquie với hàng trăm bài mẫu.

Sau khi đã quyết định chọn được đề thi rồi, các vị ấy phải tự mình đánh máy, tự mình quay ronéo, tự mình để vào các phong bì. Niêm phong lại. Phong bì đóng khằn bằng xi. Phòng đề thi được bảo mật, có người canh gác, có hệ thống an toàn riêng để tránh sự đột nhập của người lạ. Tất cả tổ chức khắt khe như vậy chỉ nhằm mục đích bảo đảm an toàn cho việc thi cử được bảo mật tối đa, giữ được công bằng.Tuy nhiên tổ chức bảo mật khắt khe đến đâu đi nữa vẫn có yếu tố con người.

Vì thế, vấn đề còn lại vẫn là cá nhân, tư cách người thầy.

Điều đó chính là rường cột của một nền giáo dục chân chính.

Nhân cách người thầy qua thi cử.

Chắc các vị lớn tuổi một tý còn nhớ câu chuyện giáo sư Hoàng Cơ Nghị, giáo sư toán đã đánh rớt cô em gái tài giỏi của mình. Chẳng những không cho đỗ mà còn “trù ếm” đánh rớt oan. Sau này, cô tức khí bỏ đi Pháp học mà bằng cấp chẳng những không thua gì anh, còn vượt trội.

Không ai có thể đòi hỏi một giám khảo như ông Hoàng Cơ Nghị. Nhưng đó là một tấm gương.

Cứ lấy kinh nghiệm bản thân cho thấy, trong suốt cuộc đời đi chấm thi, tôi chưa hề thấy một lần, dù là thứ học trò ruột dám mở lời nhờ cậy. Tuyệt đối không. Tôi vừa nói chuyện hỏi thăm một cháu trai hồi đó đi thi đỗ hạng bình, tôi nhớ lại trong nhà, chắc cũng có nhiều cháu con các chị đi thi, vậy mà chú hay cậu nó có giúp được gì không? Trong nhà còn không giúp được làm sao giúp được người ngoài? Nếu có 2000 ngàn vị giám khảo trên toàn quốc mà mỗi người có độ hai ba “con gà,” vị chi là có 6000 thí sinh được chạy chọt, được điểm cao thì còn gì giá trị việc thi cử nữa?

Cứ nghĩ như thế để thấy tổ chức thi cử nghiêm chỉnh và nhân cách người giám khảo là hai yếu tố tạo cho các kỳ thi ở miền Nam trước 1975 đã đạt được sự công bằng cho mọi thí sinh.

Cuộc đời thầy giáo ở đâu cũng thế phần đông nghèo, bổng lộc không có, chức tước cũng không. Cùng là bạn học, dù chỉ là một thiếu úy, nếu nó không dại dột sắm hòm tô bia cho mình, biết đâu có ngày nó lừng lững lên đến Tá Tướng. Cùng đỗ tú tài, đứa học Đại Học sư phạm, đứa học Quốc gia hành chánh. Lương bổng ngạch giáo sư có nhích hơn bên Quốc gia Hành chánh. Vậy mà một ngày nào đó không xa. Ông bạn Quốc gia hành chánh cứ lên như diều như trường hợp ông Nguyễn Bá Cẩn. Chẳng may không lên, nếu nó lanh lợi một chút cũng có xe cộ, nhà cửa, vợ đeo hột soàn... Nó đi xe hơi, đánh bạc ăn bạc trăm bạc ngàn. Mình đi xe đạp hoặc xe gắn máy, đánh mạt chược cò con, được thua đáng giá chục tô phở.

Ấy là chưa kể để giữ an ninh cho gia đình, hoặc phú quý sinh lễ nghĩa, nó lập phòng nhất, phòng nhì, phòng ba, phòng bốn. Trong đời tôi, chỉ một lần thấy một ông giáo có phòng nhì mà thôi.

Nói thế chỉ có ý nói nhà giáo ít có cơ hội làm điều xấu. Tôi có bạn là Quốc Gia Hành Chánh, nay nghiên cứu sử ưu thế hơn “sử gia” mà lúc ở hành chánh chẳng biết tơ hào, sơ múi gì. Có rất nhiều người như thế. Người hiền lương ở đâu cũng có thể là hiền lương được.

Nhưng người đời theo thói thường trọng nhau khinh nhau ở chỗ đó.

Nhà giáo suốt đời dậm chân tại chỗ, không lên mà cũng không xuống, “không có tương lai.” Cái uy tín thầy giáo không ai ban phát cho ông được. Tự ông mà có.

Ông vì thế cũng không cần xin sỏ bất kỳ ai.

Trường hợp các nhà Giáo như Hoàng Xuân Hãn, Trần Trọng Kim là hi hữu của thời trước. Trong Nam có cụ già Hương thì nghiệp cầm phấn chỉ là lúc ban đầu . Nhưng cái background nhà giáo đã làm nền, đánh bóng cho cuộc đời chính trị của cụ sau này.

Mặc dầu sống thanh bạch, các thầy giáo miền Nam, trung và tiểu học, nhất là tiểu học có quyền ngửng đầu để thấy rằng thi cử cũng như giáo dục là điều còn lại duy nhất giúp cho người miền Nam thấy hơn miền Bắc.

Miền Nam có thể thua miền Bắc để mất miền Nam. Nhưng nền giáo dục ở miền Nam dù còn chập chững thiếu sót mà thực tế ngày nay cho thấy vượt trội rất xa miền Bắc cộng sản cả về chất lượng đào tạo và phẩm chất đạo đức.

Tất cả những ai đã đỗ đạt ở miền Nam vì thế đều có quyền tự hào là mình đã xứng đáng đỗ như thế. Và chỉ cần nhìn những người Việt Nam ở hải ngoại đã có thể học lại, có thể đỗ đạt ở nước ngoài không thua bất cứ di dân nào. Và tất cả chúng ta đều có quyền hãnh diện với chính mình và hãnh diện vì đã được đào tạo trong một môi trường giáo dục lành mạnh, nhân bản và đạo đức ở miền Nam Việt Nam.

Cụ thể là có khoảng 2800 dược sĩ hiện nay đang hành nghề tại hải ngoại.(Trích Danh sách dược sĩ Việt Nam trên thế giới Tự Do, xuất bản năm 1997).

Và có khoảng 2600 bác sĩ đủ loại cũng đang hành nghề khắp nơi trên thế giới. (Trích Danh sách Y sĩ Việt Nam trên thế giới Tự Do, 1997).

Còn lại biết bao nhiêu kỹ sư, giáo sư, Quốc Gia Hành Chánh cũng đã tạo được chỗ đứng cho họ ở xứ người.

Về phía đồng bào tỵ nạn đi từ miền Bắc hoặc đã ở các nước Đông Âu với tư cách sinh viên du học sau khi các nước cộng sản Đông Âu sụp đổ, đã có bao nhiêu người đã đỗ đạt và thành công ở xứ người? Tôi sợ rằng con số là ít ỏi. Hiện nay các di dân đi từ miền Bắc đang gây nhiều trở ngại cho các nước Đông Âu và họ tìm cách tống xuất những người Việt trên về lại Việt Nam vì rất nhiều lý do.

Nền giáo dục đào tạo do cộng sản cầm đầu và chính quyền cộng sản có trách nhiệm gì về những thành phần sống bất hợp pháp này? Phải chăng nó chỉ là hậu quả tất yếu của một chính sách giáo dục phi nhân bản mà những thành phần di dân từ miền Bắc nay phải gánh chịu hậu quả?

Nói ra đây không phải để so bì với các anh chị em đó, nhưng cần nói thẳng là do hậu quả cách đào tạo và nền giáo dục dưới chế độ cộng sản đã quá yếu kém về mọi mặt.

Vậy mà họ dám viết phê phán nền giáo dục của VNCH như sau:

“Mỹ và chính quyền Sài Gòn cố gắng kết hợp mọi Triết học cũ xưa với Triết học mới nhất nhồi nhét những thế hệ thanh thiếu niên “lý tưởng quốc gia” giả hiệu, “thế giới tự do”, làm cho họ chạy theo lối sống thực dụng, hoặc sợ hãi sức mạnh nước ngoài, rồi bi quan, yếm thế, an phận.”

(Trích Địa chí văn hóa... trang 768).

Những vụ bê bối trong thi cử ở miền Nam

Mặc dầu vậy, vẫn có những vụ bê bối không tránh được và người viết không ngại vạch áo cho người xem lưng. Không phải để bôi xấu gì mà để cho thấy trong cái tốt có cái xấu.

Cá nhân tôi xin thú thật thì tôi cũng đã làm nhiều việc bê bối thời trẻ. “Tôi hư trong bụng tôi biết.” Ôi tuổi trẻ sao mà mệt thế! Chuyện gì cũng dám làm. Vậy mà đụng đến thi cử là bàn tay như rụt lại, không dám xé rào thò tay vào. Điều gì đã làm cho người tuổi trẻ biết tôn trọng, biết giữ gìn “nhân cách” của mình, một cái nhân cách mà so với một Hoàng Cơ Nghị là thua một trời một vực?

Nhưng dù gì thì cũng vẫn là con người. Việc gian lận thi cử cũng vẫn xảy ra ‒ thời nào cũng có- và điều đó không có gì lạ.

Nếu đời hết tham lam thì biết đâu chúng ta đã có cơ hội ngồi chung bàn với Phật? Và có dịp bắt tay ông Thánh Phêrô lừng lững vào Thiên Đàng?

Trong truyện đời xưa, ông Trương Vĩnh Ký kể truyện đút sáp vào đít hối lộ cho cọp ăn cũng kể là thâm thúy.(Ý của Vương Hồng Sển). Trong Hồi ký Nguyễn Hiến Lê viết:

“Năm đó, tôi thi xong môn chính tả buổi sáng tin chắc là rất ít lỗi mà qua được môn đó, tôi sẽ đậu. Buổi chiều, bỗng có tin là đầu bài bị tiết lộ nên bỏ, sáng hôm sau thi lại. Nghe nói kẻ tiết lộ đầu bài là một học sinh ban tú tài bản xứ trường Bưởi được thống xứ Bác Kỳ yêu vì giỏi Pháp Văn.

(Trích Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, trang 144)

Việc thi cử như trên dù có sơ xuất cũng chỉ thu gọn vào phạm vi cá nhân mà không có tính cách “đại trà” như hiện nay ở Việt Nam.

Tôi nêu ra đây một vài vụ việc, nêu cả danh tánh, trong đó có những người tôi cũng biết. Nêu ra dể chứng tỏ một thứ trong sáng, transparency, cần thiết mà không có một chút ác ý cỏn con nào. Câu chuyện nay đã vào quá khứ, nói ra như một bằng chứng cần phải nói thôi. Và xin lưu ý, cả hai vụ nêu ra đây đều xảy ra thời Đệ Nhị Cộng Hòa của miền Nam Việt Nam. Lúc đó kỷ cương, kỷ luật học đường ‒ do chiến tranh một phần, nhưng do những người lãnh đạo miền Nam lúc đó phẩm chất đạo đức yếu kém, sự có mặt của người Mỹ tạo ra những xáo trộn xã hội không tránh khỏi, thêm nhiều nhố nhăng chạy theo đồng tiền ‒ Và chuyên gì đã xảy ra thì phải xảy ra thôi. Có nhiều trường hợp chỉ là tin đồn thì chúng tôi không xét đến như có đường giây nọ, giây kia ở tỉnh Biên Hòa.

– Vụ thứ nhất liên quan đến hai giám khảo Nguyễn Hữu Lễ và Phạm Kiều Tùng. Việc này xảy ra ở Vĩnh Long do có lộ đề thi trước và giám thị đã bắt được và truy ra manh mối từ hai vị giám khảo trên. Hồ sơ nội vụ đã được phúc trình về bộ giáo dục dưới thời bác sĩ Nguyễn Lưu Viên và Nguyễn Danh Đàn. Hồ sơ được chuyển cho Thanh tra đặc biệt. Vụ này có liên quan đến một người cháu của ông Trần Văn Văn và vì thế bà Trần Văn Văn có can thiệp, gọi điện thoại cho vị thanh tra, nhưng vị thanh tra cứ thẳng mà làm. Và cho biết rằng không có bổn phận trả lời bà. Kết quả là hai vị giám khảo bị vi phạm kỷ luật trường thi, bị đổi đi nơi khác. Vụ này thật ra chỉ là do tình cảm cá nhân như liên hệ bà con họ hàng chứ không phải là làm tiền hay tham nhũng. Ảnh hưởng xấu có giới hạn rõ ràng và có thể giảm khinh được theo cái lối xử sự của người mình.

– Vụ thứ hai liên quan đến một giáo sư toán dạy Petrus Trương Vĩnh Ký, ông Cam Duy Lễ, sau về làm trong nhóm ra đề thi. Gia đình một phụ huynh học sinh đã bỏ một số tiền ra mua đề thi của ông giáo sư này. Đề thi chắc để bảo mật chỉ giao cho thí sinh này trước vài tiếng. Nhưng thí sinh này tham muốn gỡ lại số tiền đã bỏ ra bèn bán đề thi. Chẳng mấy chốc mà đề thi được tiết lộ cho nhiều người. Ông giáo sư này bị điều tra, bị hoàn trả về sở nhân viên và để làm gương cho những người khác, ông bị đưa ra tòa.

Dù sao, việc này đã gây một tiếng xấu trong ngành giáo dục không ít.

Các Hội Đồng Thi

Phần này viêt theo trí nhớ, có thể có một hai tiểu tiết thiếu sót, xin được thông cảm.

Để bảo đảm cho các kỳ thi đạt được kết quả mong muốn. Nguyên tắc của bộ giáo dục miền Nam là điều động các giám khảo từ địa phương này sang địa phương khác. Giám khảo ở Huế thì vào Nha Trang và ngược lại. Các giám khảo các tỉnh lẻ cũng bị điều động đi nơi khác. Mặc dầu tốn kém và khó khăn di chuyển. Nhiều địa phương mất an ninh, bắt buốc phải dùng phương tiện máy bay và lúc đó phải nhờ bên quân đội đảm trách việc di chuyển các giám khảo. Nguyên tắc di chuyển giám khảo ra khỏi địa phương của họ đã được duy trì từ năm 1955 đến 1975 và đem lại kết quả khá mỹ mãn.

Có các vị giáo sư lão thành cho hay hồi 1955-1956, số thí sinh còn ít, bài thi rọc phách rồi giám khảo được phép mang về nhà chấm. Vậy mà đâu có chuyện gì xảy ra?

Việc coi thi và chấm thi là hai bộ phận riêng biệt.

Các giáo sư trung học phải đảm trách hai nhiệm vụ một lúc: Vừa là giám thị vừa là giám khảo. Từ đó phân chia ra hai hội đồng: Hội đồng giám thị để coi thi, hội đồng giám khảo để chấm thi.

1. Hội Đồng Giám Thị

Công việc của Hội Đồng Giám Thị là tổ chức các kỳ thi viết tại các tỉnh nhỏ như Phan Thiết, Đà Lạt, Lâm Đồng, Vũng Tàu, Di Linh, Quảng Ngãi, Long Xuyên, Rạch Giá, v.v...

Nghĩa là học sinh ở đâu thi tại đó.

Báo chí trong nước hiện nay cho tin, các học sinh phải thuê nhà trọ để ứng thi chẳng khác gì các sĩ tử thời Nho Học là bao nhiêu. Trên thế giới chắc chỉ có Việt Nam hiện nay làm như vậy.

Ban Chủ tịch Hội Đồng thường có ba người: Một chủ tịch hội đồng, một phó chủ tịch và một thư ký. Các chức vụ chủ tịch, phó chủ tịch thường do các hiệu trưởng hay các giáo sư có thâm niên trong nghề đảm trách. Tại địa phương, các ông phó tỉnh Trưởng, trưởng ty tiểu học ‒ Không có Hiệu Trưởng, vì hiệu trưởng, cũng được điều động đi nơi khác ‒ giúp sắp xếp lo liệu về hành chánh, điều động an ninh quân đội hay cảnh sát nếu có canh gác thì phải ở ngoài khuôn viên nhà trường. Các ông giám thị, tổng giám thị lo liệu sắp xếp chỗ ngồi theo số báo danh.

Đề thi đã được gửi tới tòa Tỉnh trưởng và Tòa tỉnh trách nhiệm cho người canh gác hòm bài thi, nếu cần. Cho dù có gan trời, các ông ấy cũng không dám đụng đậy vào các bao bì đề bài thi này.

Đến ngày thi, ông chủ tịch hoặc ông phó chủ tịch Hội đồng thi đến tòa tỉnh làm biên bản nhận bao bì bài thi. Tòa tỉnh cho xe quân cảnh hộ tống xe của Hội Đồng thi đến các hội đồng thi giao bài.

Đây là lần đầu tiên trong đời nhà giáo có tý oai dựa hơi tỉnh trưởng, đi xe có “lính hầu,” tiền hô hậu ủng.

Phần thư ký hội đồng có bổn phận sắp xếp các giám thị địa phương là các giáo viên tiểu học kèm theo một giáo sư từ chỗ khác đến. Nghĩa là mỗi phòng thi gồm hai giám thị. Giám thị 1 là giáo sư trung học, giám thị 2 là giáo viên tiểu học. Bên ngoài, mỗi hành lang có thêm một giám thị hành lang là một giáo sư để kiểm soát chung cả hành lang.

Trước giờ thi các giám thị xem bảng sắp xếp đi về phòng thi đã được chỉ định kèm theo một hồ sơ các giấy tờ cần thiết cho mỗi phòng như biên bản. Đúng giờ thi, các giám thị hành lang sẽ mang phong bì đề thi được gián kín giao cho các giám thị mỗi phòng.

Tổ chức rất chặt chẽ, nhiệm vụ được phân chia rõ ràng. Bao nhiêu năm vẫn thế, ít có sự thay đổi. Vai trò càc giám thị là giáo viên địa phương có hơi tế nhị như gặp thí sinh quen biết hoăc họ hàng. Nhưng thật sự không có vấn đề, vì còn có giám thị 1 có nhiệm vụ kiểm soát tất cả. Chưa kể còn giám thị hành lang.

Tờ giấy thi phát cho thí sinh làm có chữ ký của hai giám thị. Không có chữ ký của họ là bất hợp lệ. Cho nên tráo bài thi là truyện khó có thể xảy ra.

Hết giờ thi, nhiệm vụ của giám thị là thu bài xếp theo thứ tự vần, đánh số mật mã ở ô vuông trên mỗi bài thi. Phía ngoài ghi số thí sinh có mặt. Số đó là mật mã của sấp bài. Bài sau đó, được buộc chặt đóng thùng, gửi máy bay về Hội Đồng Giám Khảo.

Công việc của Hội Đồng Giám Thị kể là xong. Số phận học sinh nay nằm trong chính những xâp bài mà họ đã làm và nhất là trong tay các vị giám khảo.

Thế là hết một mùa thi đối với học trò.

Công lao khó nhọc cả năm trời quyết đinh trong mấy tiếng đồng hồ, kéo dài trong mấy ngày. Phù du như ảo ảnh. Đôi mắt tuổi trẻ nay ánh lên nỗi niềm lo âu và tin tưởng. Sự mong đợi và sự hy sinh vô bờ bến của bậc làm cha mẹ. Làm sao nói hết cho ra lời. Họ chỉ mong con cái thi đậu.

Nỗi niềm đó kéo theo tâm sự của cả miền Nam mỗi khi đến mùa thi.

Phần ông thầy, người viết bài này, đi chấm thi xong ở một nơi nào đó, vội về thăm một vòng xem đứa nào đỗ, đứa nào rớt. Nhiều quá, không nhớ hết. Tất cả trách nhiệm 12 lớp đệ nhất vừa công vừa tư. Chỉ mong chúng đậu nhiều. Đậu nhiều thì thầy mừng và không khỏi hãnh diện. Có nước mắt mừng vui và chia sẻ. Kỷ niệm vào một buổi trưa nắng, trong nhà học trò đang mở tiệc, ông thầy xuất hiện đột ngột, chỉ kịp hỏi vài câu đủ làm nên những cảm xúc và kỷ niệm nhớ cả đời.

Đó cũng là ý nghĩa cuộc đời ông thầy.

Nhưng cho dù tổ chức thi cử có chặt chẽ thế nào đi nữa, người ta vẫn có thể gian lận. Tôi không chối cãi điều đó. Nhưng điều mà tôi nghĩ rằng, tổ chức thi cử ở miền Nam được tốt đẹp không hẳn ở tổ chức chặt chẽ.

Thi cử chặt chẽ và đàng hoàng là do con người của nhà giáo.

Tôi đã nhìn lại một số bậc đàn anh để thấy rằng nơi những người thầy ấy không có chỗ cho điều xấu có chỗ cư ngụ. Nhân cách họ bày tỏ một sự trong sáng không tì vết. Nhìn họ, nhìn con người họ nhìn phong cách họ, không một ai dám mở lời xin xỏ.

Xin vinh danh họ. Những người đã đào tạo nên những thế hệ học sinh sau này thành người.

2. Hội đồng giám khảo

Đây là công việc quan trọng nhất, quyết định số phận học trò. Công việc chấm thi, cộng điểm, lên danh sách kéo dài cả tháng trời. Rất thận trọng, rà soát lại từng thí sinh một.

Nhiều khi công việc chấm thi đến mệt mỏi và chán chường. Phải nhẫn nại để cố gắng đừng chán nản. Nhất là công việc cộng điểm được chia ra từng nhóm để làm việc.

Nếu chấm ở Huế thì có dịp thưởng thức cái nóng gió Lào. Cái nóng chảy mỡ. Những bữa cơm cay sè thanh đạm với những cuộng rau sống xanh và đắng ngắt. Những tô canh cá bống cay xè, điểm tô bằng một hai con cá hiếm hoi như bơi lội tung tăng. Những đĩa thức ăn Tiểu, Trung, Đại đến là ít ỏi và cạnh đó là một lô ăn mày ngồi chực săn để vét tý canh thừa cơm cặn.

Huế đồng nghĩa với nghèo trong những bữa ăn. Nghèo đến tội nghiệp. Nhưng thiếu nữ Huế vẫn giữ nếp nhà, vẫn cố che dấu tất cả trong những tà áo dài. Ngay cả những người bán hàng quà rong cũng ăn mặc tươm tất.

Đó là phong cách Huế.

Gái Huế vẫn kín đáo và mở phơi trong biện chứng khép mở, chờ đợi, đón nhận và sẵn sàng. Ngoài những người con gái Huế ra, Huế còn gì để nói? Nói về Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường chăng? Hay nói về các phong trào tranh đấu?

Không có gì đẹp và có thể so sánh được với tà áo Huế. Không ở đâu có những mái tóc chải mượt và đôi con mắt của người con gái Huế ngồi bên mạn thuyền.

Nó gửi gắm nhiều thứ lắm.

Thôi thì cũng phải quay về với bài thi. Bài thi được rọc phách. Thường ông Phó chủ khảo đánh số mật mã. Mật mã trên phần phách phía trên và mật mã trên phần bài thi. Sau này chấm xong, ráp hai phần đó có số mật mã giống nhau là được.

Mỗi bộ môn có chừng độ 7, 8 giám khảo. Chấm lâu và mất nhiều thì giờ nhất là môn Triết. Có một trưởng ban cho mỗi môn. Mỗi giám khảo chấm bài nhận xấp bài đã ghi mã số bên ngoài bìa như xấp 25 bài, sẽ ghi xấp 25. Trước khi chấm phải họp lập thang điểm để thống nhất việc cho điểm. Bài cho điểm cao, bắt buộc phải đưa cho một giám khảo khác chấm lần thứ hai, sau đó cộng lại cho trung bình. Rất tiếc, đáng nhẽ bài cho điểm thấp quá cũng cần có chấm lại lần thứ hai cho công bằng.

Sau khi các giám khảo chấm xong. Vấn đề còn lại có tính cách hành chánh như là ráp phách, cộng điểm. Ngay việc cộng điểm cũng cần hai người, đọc điểm lên, rồi cộng, rồi so sánh, rà soát lại để tránh cộng sai.

Công việc tổ chức khá là chặt chẽ.

Hết những giờ làm việc căng thẳng và mỏi mệt ra đến cổng trường là bị đám đông bu lại, hỏi thăm tíu tít, hốt hoảng lo âu. Hầu hết những câu hỏi không trả lời được đành tìm cách thoái thác cho xong. Công chúng chờ đợi, trẻ già người lớn, đứng đông nghẹt trông ngóng trước cổng trường. Càng gần đến ngày công bố kết quả, bầu khí như sôi sục hẳn lên. Lại chờ đợi. Họ đổ xô đến các giám khảo, hỏi thăm tin tức, dúi những mảnh giấy nhờ vả xem kết quả dùm.

Đúng là không khí mùa thi cử có lẽ chỉ nhìn thấy ở Việt Nam.

Vô ích, chẳng ai có thể làm gì cho họ được. Bầu khí đó nói lên tầm quan trọng của mùa thi. Nhất là cuối thập niên 1960, sau tết mậu thân. Tương lai tuổi trẻ như thế nào có thể đổi khác khi những mảnh giấy in ronéo đuợc dán lên.

Thi cử và tương lai tuổi trẻ gắn liền vào một. Đó là cái ý nghĩa nhất trong mùa thi cử.

Đầu thập niên 1960, lúc bấy giờ còn có kỳ thi vấn đáp nữa. Thêm một thứ rào cản vô ích và thừa thãi.

Nó chẳng để làm gì. Nếu không muốn nói nó vô tích sự. Chẳng kiểm soát được khả năng và học lực của học sinh. May mà các kỳ thi vấn dáp đã bị bãi bỏ.

Thêm tí với hai bạn "trẻ ???"...câu "không thày đố mày làm nên" là đúng nhất trên cõi đời này đối với những người học sinh thời chúng tôi, chúng tôi kính thày, thân bạn không bằng những lời tung hê suông như bây giờ họ vẫn hô hào. Riêng cá nhân tôi khi nghe tin thày nằm viện (bây giờ cô đã 87 tuổi xuân rồi) lòng cảm thấy nôn nóng và điện đi khắp năm châu kêu bạn cũ tìm mọi cách để "an ủi " cô ... chúng tôi còn sốt sắng hơn cả người thân gia đình cô ... còn bạn tui ôi nó quí làm sao, những người học chung từ đệ thất thì tới giờ gặp là "mày, mày, tao tao" dù cho trước mặt đàn cháu nội ngoại ...

Mặc dù còn non trẻ, nhưng nền giáo dục VNCH đã giúp tôi thành người, tôi rất tự hào là người trí thức được đào tạo dưới mái trường của nước VNCH và đạt được cái mảnh bằng của bộ quốc gia giáo dục nước VNCH cấp ... Nước Mỹ, nước Pháp có thể không công nhận giá trị văn bằng của tôi để cho tôi một cái job ... nhưng với bất kỳ một người ngoại quốc nào khi họ giao tiếp với tôi họ đều phải công nhận chúng tôi có căn bản giáo dục cả về chất lẫn về lượng .... Kết quả này phải nói là 30% là nhờ các thày, cô 30% là nhờ vào xã hội nước VNCH cá nhân tôi cố gắng 40% .....

Cám ơn Ông NVLục và Ông NTG đã chi tiết ra cho chúng tôi biết cách thức tổ chức thi cử của thời VNCH ... Tuy nhiên theo tôi nhớ lại thì những chuyện bê bối trong thi cử và học đường (trò đanh thày) chỉ xảy ra sau ngày nền đệ nhất CH bị sụp đổ (lúc đó tui đang ở đại học nên chỉ nghe tin đồn và đọc trên nhật trình)....

Thi ơi là thi, sinh mi làm chi ..la la la .. nghĩ lại thấy sao mà vui quá là vui, nhất là cái buổi tối nằm ôm cái radio transistor nghe đọc danh sách trúng tuyển khi nghe được số báo danh và tên cuả mình la la la la .....

Xin góp thêm về vụ bà HTNga, em gái ruột của GS HCNghị....

đó là khoảng thời gian 1949-50, kỳ thi Bacc Complet. Sau khi trúng tuyển phần thi viết, các thí sinh sửa soạn thi phần Vấn đáp(Orale), ngôn ngữ sử dụng: Pháp ngữ. Bà HTNga vô thi vấn đáp môn Physique(Vật lý).,với giám khảo Gs HCNghị... bà Nga, một học sinh xuất sắc về Physique classe Terminale. Không có ai nghĩ rằng HTNga lại bị "echouee"/rớt. Thày Nghị, khi đứng dạy ở lớp, thày giảng rất kỹ, tận tâm, thế nhưng thày rất tỉ mỉ; và câu hỏi mà bà Nga rút trúng lại là một cái Remarque của một Reciproque trong sách Physique của Lamirand. Sau này, thày có giải thích; học thì phải suy nghĩ, hiểu cho cặn kẽ.... Sau khi bị rớt, ba Nga qua Pháp, học và thành tài tại Pháp. Hết. ./.

Bê bối, lộ đề thi hoặc ăn tiền để cấp bằng... tôi nghĩ ở đâu cũng có. Và VNCH dĩ nhiên là có, và đã từng bị báo chí phanh phui từ thi tiểu học đến thi tú tài. Tuy nhiên những tai tiếng đó nó không trở thành tai tiếng mang tính chất uy tín cho cả một nền giáo dục vì những vụ đó mang tính cách cá nhân, hoặc nếu có tổ chức thì cũng chỉ vài ba người trong nội bộ là cùng, và cái số lượng của nó cũng quá nhỏ so với những nền giáo dục khác. Vấn đề là ở lương tâm của những người công chức trong một chế độ. Khác hẳn với vấn nạn trong nền giáo dục XHCN của VC, lý lịch chính trị trở thành một trở ngại trong việc học hành, và tiền bạc đút lót đã trở thành một điều kiện hầu như ai cũng phải tự hiểu để hy vọng có được bằng cấp hoặc một chỗ ghi danh trong trường đại học. Tôi cũng có một người cousin làm trong cơ quan giáo dục và khảo thí của ty giáo dục một tỉnh ở VN dưới thời VC và anh ta đã bị gài bẫy để bị giết bằng một tai nạn giao thông vì không đồng ý cho con của vài cán bộ cao cấp VC trong tỉnh đó passed kỳ thi tốt nghiệp phổ thông năm đó.

Còn giáo dục ở Mỹ...? Chính tôi lúc mới đến Mỹ cũng có cái ..."bệnh" giống quý vị. Cái gì ở Mỹ cũng phải NHẤT. Chính trị Mỹ cũng nhất, quân đội Mỹ cũng nhất, chính phủ Mỹ cũng nhất, kinh tế Mỹ cũng nhất, hàng hóa, giáo dục Mỹ cũng nhất... cả gái Mỹ cũng "đẹp" nhất...!!!

Đó là cái bệnh của tôi vì sau quá nhiểu năm để tìm cách đi vượt biên, mãi mới lọt được đây, cho nên tới đây thì cái gì tôi cũng cho là nhất đối với tôi. Quả thật trong 6 tháng đầu, khi chưa hiểu rõ xứ này thì tôi vẫn tưởng những điều tôi nghĩ là đúng. Nhưng sống lâu ở đây mới hiểu đúng được ở đây. Càng ngày càng thấy Mỹ nó cũng ăn hối lộ nhiều chứ, Mỹ cũng bất công và phi pháp nhiều lắm chứ, Mỹ còn đứa bệnh hoạn về đầu óc hơn dân Á Châu nhiều, có nhiều kiểu giết người kỳ lạ và man rợ đâu kém gì dân Á Châu? Về giáo dục thì tôi thấy có chuyện ăn tiền để cấp bằng nữa, nhưng họ che giấu kỹ lưỡng và không xẩy ra nhiều mà thôi. Trong vấn đề Welfare thì chuyện bất công và đút lót có nhiều rồi. Trong y tế thì chuyện lợi dụng ăn gian medicare của chính phủ cũng nhiều hơn nữa. Trong vấn đề xin việc làm tôi thấy rõ có sự kỳ thị, mặc dù trên giấy tờ thì cơ quan nào cũng ghi lớn hàng chữ không kỳ thị tuổi tác, chủng tộc... Đó chỉ là đòi hỏi của luật pháp Mỹ, còn việc thực hiện thì những điều đó chỉ có tính cách tương đối và không đầy đủ.

Tôi thấy sách báo Mỹ cứ chê chế độ VNCH không đủ dân chủ, công bằng, tham nhũng,... quân đội VNCH chỉ là phụ thuộc (chủ lực trong chiến tranh VN là quân đội Mỹ, chiến tranh VN là chiến tranh của Mỹ), quân đội VNCH lười biếng không chịu chiến đấu chống cộng... Bây giờ tôi đang sống ở Mỹ, và thấy rằng về phương diện dân chủ thì mỗi nước có những hoàn cảnh khác nhau, trong lúc Mỹ đang chê VNCH là thiếu dân chủ và công bằng thì ngay bên nước Mỹ họ không cho Mỹ đen được ngồi ở những hàng ghế phía trên của xe Bus, trong khi bên VNCH không bao giờ kỳ thị màu da như thế. Ngay cả TT Mỹ bị ám sát, nhưng cơ quan an ninh Mỹ vẫn bưng bí

Ngay cả việc TT Mỹ bị ám sát mà cơ quan an ninh Mỹ vẫn cố bưng bít những thế lực Mafia phía sau lưng cái chết của TT Kennedy, rồi thằng em ông ta nếu không chết thì chắc chắn sẽ đắc cử TT vào năm 1968, thế nhưng vụ án đã bị ém nhẹm luôn.

Cho đến vụ O.J Simpson, rõ ràng tòa án Mỹ đã bị thế lực tiền bạc chi phối, rồi đến vụ kiện TT Clinton tôi thấy chính quyền Mỹ nó thối nát không thể tưởng tượng nổi. Tự nhiên để bọn mafia xử dụng biết bao nhiêu tiền công quỹ làm trò hề trước luật pháp Mỹ chỉ vì ông TT có một cô bồ khi chưa làm TT. Tiền thuế dân đóng để chính phủ Mỹ nuôi mấy thằng luật sư làm biết bao chuyện vô duyên như thế. Cũng may mà ông Clinton thắng kiện vụ nó, nếu không thì lịch sử Mỹ không biết sẽ còn thúi tới cỡ nào.

Còn về giáo dục Mỹ thì tôi đồng ý ở đây chính phủ bỏ tiền nhiều vào ngân sách giáo dục, cho nên người dân có nhiều cơ hội hơn ở những nước khác. Nhưng về chương trình giáo dục thì chưa chắc đã hiệu quả hơn những nước kém ngân sách GD hơn Mỹ. Cứ mang 2 đứa high school ở Mỹ và nơi khác ra để so sánh sẽ thấy. High school là một trình độ cơ bản của người Mỹ (tôi không dám nói trình độ college hay university đâu, tỉ số dân Mỹ tốt nghiệp cái khoản đó không trên 30% đâu mặc dù có nhiều chương trình college không đáng để học, họ mở ra dài dòng để kiếm tiền của chính phủ), Cứ thống kê dân Mỹ gốc Mễ là thấy liền, sắc dân này ít nhất chiếm 1/4 đến 1/3 dân số Mỹ, nhưng trình độ High School (Mỹ) của sắc dân này chưa đến 20%. Cộng thêm Mỹ đen nữa, chính cái khoản này nó kéo thụt lùi nền giáo dục của Mỹ.

Muốn khá thì phải tự tìm trường mà học, để chính phủ nó nhét vô học chung trường với Mễ hoặc Mỹ đen thì không khá được. Nói về mặt khá của giáo dục ở Mỹ thì cũng nhờ nó nhiều tiền, nó thu hút được nhân tài trên khắp thế giới về đây, họ trở thành bác học của Mỹ, họ trở thành giáo sư đại học của Mỹ. Phần nhiều họ được hấp thụ bởi những truyền thống phương xa, hoặc những chương trình giáo dục căn bản cũ ở nước khác rồi.

Công nhận nền giáo dục của Mỹ (nhất là high school) hơn ở VN về lượng (tiền bạc và các môn học, đi học còn được nhà nước cho ăn bữa lunch nữa), nhưng về phẩm thì chưa chắc; chương trình (nói chung) thấp quá nên Mỹ cứ phải nhận học sinh khắp nơi đến học đại học để Mỹ với mục đích sau này Mỹ sẽ xử dụng họ luôn.

Ác cảm thì có lâu rồi, ngay từ hồi còn nhỏ khi chưa có nhiều kiến thức chính trị như bây giờ tôi đã được nghe những ông thầy tôi chửi Mỹ (dưới mái trường VNCH). Và ngay từ đó tôi đã có những khách quan về chính trị, không nhắm mắt ca ngợi Mỹ và cũng không ghét cay ghét đắng VC như những gia đình Bắc 54...

Qua thời gian tôi thấy ác cảm đó là một sự đúng đắn, nhưng có thời gian tôi ca ngợi Mỹ nhiều nhất và nhiệt tâm nhất là sau 75 khi còn ở VN dưới chế độ VC. Cho nên bạn bè thường gọi tôi là một thằng "chung thân bất mãn". Sau GP thì chỉ ca ngợi Mỹ một cách âm thầm và biểu lộ trong số những người thân thiết với nhau thôi, làm sao dám phô ra cho người bình thường khác biết; bề ngoài thì lúc nào cũng ca ngợi Bác và Đảng... Tôi còn đi làm VC nữa mà. Sau này đi vượt biên bể mới trốn luôn.

Cho tới khi tôi vượt biên lọt tới Mã Lai thì hào khí ca ngợi Đế Quốc Mỹ vẫn còn mạnh lắm, cho dù lúc đó tôi đã bị Mỹ bắt thanh lọc rồi thân nhân ở Mỹ phải sang tận Mã Lai đút lót mới lọt được để sang tới Mỹ. Tới đó thì tôi mới chỉ nghĩ rằng Mã Lai cũng có tham nhũng (tôi biết rõ Cao Ủy Liên Hiệp Quốc không dính dáng tới tiền bạc đút lót của thân nhân tôi) vì thân nhân tôi đút lót cho thằng xếp của Task Force Mã Lai, nó ký giấy cho tôi đậu thanh lọc.

Khi đi định cư thì tôi phải xây dựng cho mình một lý tưởng tốt để xây dựng một tương lai tốt chứ... nhưng dần dần tôi thấy nước Mỹ không đúng với những điều nó thường tuyên truyền cho tôi khi còn ở VN và dưới thời chiến tranh. Nó là lãnh đạo Thế Giới Tự Do? Sorry, nói về chính trị thì nó là lãnh đạo thế giới Tư Bản, thế giới Mafia thì đúng hơn. Những sách báo của nó mô tả về chiến tranh VN phần nhiều sai sự thật và tuyên truyền cho VC. Đây không phải là nhận xét riêng của tôi mà là mâu thuẫn của tất cả những người tị nạn CSVN đối với xứ Mỹ.

Tôi không tin những thống kê của Mỹ, cũng như những sách báo tuyên truyền của Mỹ nhất là về chiến tranh VN. Cho nên quý vị tin rằng 80% dân Mỹ gốc Mễ có bằng trung học thì đó là quyền của quý vị. Tôi có những giác quan của tôi, và tôi không bao giờ tin những thống kê như thế là đúng. Tôi chỉ tin vào chính mình, bạn bè tôi nó cũng là Mễ mà, đa số tụi nó chưa học xong Trung Học, bao nhiêu dân Mễ trong những hãng xưởng tôi gặp hàng ngày và tiếp xúc thấy có đứa nào đáng trình độ high school đâu?

Còn trên đại học, tôi đã thấy trong một trường UC ở Cali, dân Mễ đếm được mấy thằng? Bên những ngành kỹ sư thì đa số là dân Á Châu như Tàu, Ấn Độ, Vietnamese cũng có lai rai không thua số lượng Mỹ bao nhiêu, sau Á Châu là dân Trung Đông. Đa số dân Mỹ tụi nó học bên ngành xã hội, luật khoa, hay là psychology...

Trong sở làm chỉ có một số Mỹ cũng tạm thông minh, nhưng nhiều thằng tôi thấy tôi khinh nó kinh khủng. Người Mỹ gì mà ngay cả lịch sử Mỹ nó cũng còn kém hơn mình, chỉ giỏi mấy thứ chơi game, uống rượu và gái gẩm mà thôi. Báo chí Mỹ thì tôi cũng biết rõ mức độ khả tín của tụi nó được chứng minh qua cách ca ngợi VC trong chiến tranh VN!

Chẳng nghe bác nhắc đến " cậu em" hàng xóm lân cận của Mỹ làm em cũng hơi buồn buồn . Qua cuộc khảo sát của PISA, học trò bậc trung học của Canada cũng " not bad" , không dám luôn số 1 số 2 trong bảng nhưng cao hơn Pháp và Anh là cái chắc ! Thôi cứ để em "nổ " chút đi nha , " mình không khen mình " thì ai khen mình đây :)))

Canada cũng không có các cuộc thi hạch sách toàn quôc như thi trung học , tú tài .Xem ra ở cai xứ " ù lì" này , bọn nhỏ lè phè qúa chừng ... Nhà Truờng , nhà nuớc " XHCN dzăng minh" này chủ truơng giáo dục học sinh trở thành con nguời TỐT cho xã hội nhiều hơn đào tạo con nguời GIỎI , không thúc đẩy cạnh tranh điểm số hay thứ bậc trong học tập .Ấy thế mà trình độ học sinh tuổi 15 ( lớp 9 & 10 , căn bản cho các bậc giáo dục sau này ) không dở so với thế giới mới lạ chứ !

Thành phần xã hội , Mỹ và Canada không khác biệt gì mấy . Sắc tộc có đủ : đen , đỏ , vàng , nâu ; đủ mọi thành phần kinh tế xã hội ... Truờng tư , truờng đạo , truờng công đều có thành tích tuơng đuơng không chênh lệch .

Các cụ đồ ngày xưa lấy chỉ nam : " Tiên học lễ , hậu học văn " , ấy thế mà hay .

Lớp tuổi teenagers mà có ý thức phân biệt , phán đoán đuợc " xấu và tốt" trong cuộc sống phức tạp này và muốn trở thành con nguời TỐT ... thì ba cái lí luận toán học, khoa học v.v... qúa ư là đơn giản , phải không ?

Chính phủ CS VN có một thời chủ truơng HỒNG hơn CHUYÊN trong giáo dục , chủ truơng đào tạo con nguời TỐT cho chế độ ....đưa đến sự lụn bại của nền giáo dục VN . Nguyên nhân chính là TỐT cho " chế độ cầm quyền " không sản sinh đạo tạo con nguời TÔT cho xã hội , chiều huớng phát triển xã hội trái chiều với cái chung của thế giới , đã trở thành chính sách NGU DÂN ! Nay chính quyền CSVN muốn cải tổ giáo dục ... thúc đẩy CHUYÊN .... Khi thày không TỐT , trò ngu ngơ ... biết bao tệ nạn trong giáo dục xảy ra , rõ ràng nhất là hiện tuợng "BÁN CHỮ" của các thày cô.. dạy tại lớp lơ mơ để mỏ lớp dạy bồi duỡng , phụ đạo ... làm kinh tế !Rồi đến BÁN BẰNG , MUA BẰNG ...

Các bạn sống tại nuớc ngoài thừa biết trong phỏng vấn tìm việc làm đặc biệt với các học sinh vừa tốt nghiệp chưa có kinh nghiệm ... nguời ta không thèm tìm hiểu " anh có văn bằng gì, điểm tốt nghiệp anh bao nhiêu , chuyên môn anh cỡ nào " nhưng nguời phỏng vấn chỉ muốn tìm hiểu bản chất con nguời " nguời TỐT hay nguời không đuợc TỐT" qua tiêu chuẩn "Vui vẻ , hài hoà , lạc quan , tích cực " .... soft skills đó mà !!!!

Xin bổ túc thêm. Thật ra Mỹ khi xin việc làm hầu như ít khi nào nhòm ngó đến văn bằng, kể cả bằng cử nhân nói chi đến HS, dù là trên nguyên tắc họ đòi hỏi phải có trình độ HS, ĐH, etc... Thường có rất nhiều cơ quan, công ty tuyển người đều có cái test riêng cho nhân viên tuỳ theo từng bộ phận, chức vị. Pass được cái test, anh mới được cho vào interview, cho nên muốn có việc làm vấn đề chính là phải pass cái test cho position đó, đánh bại tất cả các candidates khác qua interview, cái bằng là ... chuyện nhỏ.

Mỗi nước có philosophy về trình độ và bằng cấp khác nhau. Học sinh tốt nghiệp HS Mỹ khi thi so sánh với QT có thể thấp điểm hơn vì Mỹ không chủ trương nhồi nhét kiến thức gạo cho học sinh Trung học mà quan tâm đến đào tạo một người biết cách tìm kiếm nguồn information, cách giao tiếp và mưu sinh trong xã hội nói chung nhiều hơn là chỉ thuộc lòng những chuyên môn từ sách vở. Tuy nhiên, những học sinh giỏi và có những mục tiêu serious cho một chuyên môn nào đó vẫn có những lớp honor rất cao và khó, đào tạo từ khi còn Trung học.

"Your choice" là tính chất của Mỹ.

Đúng vậy mt .Tui có thời gian đi làm anh phát thơ Mail Carrier.Người VN mình làm trong ngành Bưu Điện Mỹ US Postal Services cũng khá nhiều . Mail Clerk , Mail Handler or Mail Carrier v.v...

Cứ mỗi 2 năm thì có một kỳ thi tuyển Exam (những năm 90s) . Họ không đòi hỏi mình trưng ra bằng cấp gì ráo . Ai muốn thi cũng được . Bài thi chú trọng đến trí nhớ memory phải thật tốt ,cộng với phải lanh tay lẹ mắt . Vậy thôi . Cái khó là ,sau khi đủ điểm từ 75% trở lên , lại cứ nằm trong watting list chờ chừng nào cần thì gọi đi interview . Chằng ăn trăn quấn nhứt ,là cái giai đoạn inter này đây . Có 4 người cùng phõng vấn mình . Họ hỏi tới tấp , mình phải trã lời nhanh và dứt khoát .

Tui nhớ hoài , có bà Mỹ hói tui : Nhà ở Hoa Kỳ có người nuôi chó , mà chó rất dữ . Vậy , nếu đi phát thơ mà gặp chó nhào ra ...cắn thì làm sao ? Tui tá hoả , Well cái đã , suy nghĩ như chớp . Tui trã lời : Theo kinh nghiệm của tui ở VN trước đây,gặp chó dữ là tui ...ngồi xuống thật lẹ . Con chó stop tấn công ngay ! Bà Mỹ bả cười , bả nói tui mà ngồi xuống như vậy là con chó ở Mỹ nó ...chụp luôn . Bởi vì chó được huấn luyện ...bắt trộm .

Vậy mà hay hong bằng hên nghen, kỳ đó tui được họ mướn . Sau này kễ lại cho mấy người đi trước trong nghề , họ nói tui trả lời ...trật lất , nhưng hên là không có nói động tới con chó . Nếu nói mình phản ứng lại như ...đạp cho nó một đạp là coi như xong , mình out . Mỹ ,cấm đánh thú vật .

Qua được kỳ interview , cũng mới 80% đoạn đường . Lại còn phải qua một cuộc thi test driving , theo tiêu chuẫn của ngành Bưu Điện Mỹ . Khó giàn trời .

Kl:Rất nhiều ngành nghề ở Mỹ , nộp đơn xin việc mình có hay không có bằng cấp họ đều chấp nhận . Quan trọng là kinh nghiệm tay nghề . Và nhất là phải trải qua một cuộc sát hạch khá gay go của đơn vị mình xin việc .

VIỆC BẢO MẬT VÀ CHỐNG GIAN LẬN KỲ THI TÚ TÀI.

*** Thừa giấy vẽ voi. Tôi thấy bài nầy mới có 12 ý kiến, cho nên, tôi viết thêm để quí vị nào có dư thì giờ đọc để tham khảo. Và xem coi có những kẻ hở nào để gian lận hay không***

1* TỔNG QUÁT.

1.

Những điều tôi viết đây là vào thời gian của những năm 70’s, khi mà ông Nguyễn Văn Linh làm giám đốc Nha Khảo Thí.

2.

Thời đó, tôi làm trưởng ban Nội dịch hay là Tạp dịch, mà tiếng Tây gọi là Planton hay là “culi”. Tiếng Việt là Tống thư văn, tùy phái hay là lao công.

Bảo vệ an toàn và vệ sinh là đi kiểm tra việc tắt đèn, tắt quạt, tắt nước, và làm sạch sẽ phòng ốc sau giờ tan sở.

Tôi giúp các thanh tra soạn bài thi trong việc chăm trà chăm nước, cà phê cà pháo và việc ăn uống….

3.

Thời điểm đó chỉ còn có 1 kỳ thi Tú tài mà thôi.

4.

Cũng thời điểm đó, các Hội Đồng Giám Khảo (HĐGK) chỉ đặt tại Sài gòn. Các giáo sư làm giám khảo (GK) trên toàn quốc VNCH đều phải về Sài Gòn để chấm thi.

2* CÁC BIỆN PHÁP VỀ VIỆC BẢO MẬT

2.1.

Biện pháp chung.

Các rương nhôm đựng đề thi từ SG đi đến các tỉnh và đựng bài thi từ các tỉnh về SG đều có 2 khoá, có niêm phong và luôn luôn do các Hội đồng Giám Thị cùng đưa đi, cũng như cùng đem về.

2.1.1.

Đề thi và bài thi luôn luôn được cảnh sát hộ tống và bảo vệ.

2.1.2

Mỗi lần mở rương hoặc đóng rương, hoặc bàn giao, đều phải có biên bản chứng thật các niêm phong ở trong tình trạng hợp lệ và tốt.

2.2.

Tại phòng thi.

2.2.1.

Hai giám thị. (GT)

Trên căn bản là họ không quen biết nhau, Không biết ngày mai ai sẽ cùng gác thi chung với mình và cũng không biết được là sắp tới họ sẽ coi thi ở phòng nào hoặc làm việc ở văn phòng.

2.2.2.

Thí sinh. (TS)

1* Trước giờ thi, thí sinh phải đem tất cả tài liệu, sách vở, túi xách, mủ nón, áo mưa…đem lên để trước lớp gần bàn GT.

2* Thí sinh phải ngồi ngay vào chỗ có đánh số ký danh bằng phấn trên mặt bàn.

3* Thí sinh phải để Phiếu báo danh có dán hình trước mặt mình.

2.2.3.

Giám Thị coi thi.

GT coi thi phải làm những việc theo thứ tự như sau:

1* Ký tên vào tờ giấy làm bài của thí sinh. Ký tên vào tờ giấy nháp có 2 màu khác nhau.

2* Phát giấy làm bài thi cho TS. Giấy nháp của 2 TS ngồi gần nhau phải khác màu với nhau.

3* Hướng dẫn thí sinh việc điền tên họ và nhớ điền số báo danh vào. Nhất là dặn TS không được viết trên phần có gạch chéo trên tờ giấy của trang 2, 3 và 4. Vì đó là cái “Phách” sẽ bị cắt đi.

4* GT kiểm tổng số thí sinh tham dự và chuyền bảng danh sách để TS ký tên là hiện diện dự thi.

5* GT đi đến từng TS, dùng phiếu báo danh có dán hình để kiểm lại phần lý lịch và nhận diện.

VIỆC BẢO MẬT VÀ CHỐNG GIAN LẬN KỲ THI TÚ TÀI. (Phần 2)

6* Khi kiểm tra xong, GT giữ luôn phiếu báo danh và đem để lên bàn GT.

2.2.4.

Thí sinh nộp bài thi.

1* Trường hợp TS bỏ giấy trắng, muốn nộp bài và ra về trong giờ đầu. Việc nầy không được chấp nhận. Vì để ngăn ngừa việc mang đề thi ra ngoài cho những người có khả năng giải đề thi, rồi sau đó tìm cách ném trở lại phòng thi.

2* Sau khi chuông reo bắt đầu thi, thì cổng trường thi đóng kín lại. Không cho bất cứ ai ra khỏi trường thi.

3* TS, từng người một đem bài thi của mình lên nộp. GT lấy phiếu báo danh trên bàn, để đối chiếu và nhận diện một lần nữa. Rồi nhận bài và trả lại phiếu báo danh.

TS nào không nộp bài, thì phiếu báo danh vẫn còn nằm trên bàn GT. Việc nầy để ngăn chận khiếu kiện là các hội đồng thi làm mất bài của TS.

4* Ngay sau khi thu nhận đầy đủ các bài thi của TS, thì GT phòng thi phải nộp bài thi cho nhân viên được cắt cử nhận bài thi ở HĐGT của Trung tâm thi. Để tránh việc tráo bài có thể xảy ra.

Phụ chú.

Hội đồng Giám thi không có đánh số mật mã trên các bài thi của TS. Đó là công việc của Hội đồng Giám khảo.

2.3.

Tại Hội Đồng Giám Khảo. (HĐGK)

1* Các hội đồng A1, A2, A3,…B1, B2, B3…CD1, CD2…đặt tại các trường công lập ở SG. Các chức vụ chánh, phó chủ khảo thường là do các hiệu trưởng trường lớn trong nước đảm nhận.

2* Trước khi rọc phách các bài thi, số mật mã được đánh ở phần phách và phần dưới của tờ giấy làm bài. 2 số trên và dưới phải giống nhau. Mục đích là để căn cứ vào đó mà ráp phách cho đúng.

3* Việc chấm thi. Mỗi 1 GK nhận 1 xấp bài (25 bài) và chấm điểm theo hướng dẫn của Nha Khả Thí và của sự nhất trí giữa các GK. GK cho điểm bài thi vào 1 tờ giấy rời chỉ có mật mã và không có viết gì vào tờ giấy thi cả.

Một bài thi được chấm 2 lần do 2 GK khác nhau. Như vậy, mỗi xấp bài có 2 phiếu điểm rời nhau. Nếu 2 người chấm bài có số điểm chênh lệch nhau trên 4 điểm, thì bài thi đó được giao cho 1 GK thứ 3 chấm lại.

4* Cộng điểm từng bài thi.

Cộng 2 số điểm của 2 GK, chia cho 2 để lấy điểm trung bình. 2 GK cùng cộng điểm cho 1 bài thi. Một người cộng, 1 người kiểm soát, thay phiên nhau. Cả 2 cùng ký tên.

5* Cộng điểm các môn thi.

Ráp phách lại. Căn cứ vào số mật mã mà ráp phách lại. 2 GK làm việc chung với nhau. Một người đọc điểm, 1 người ghi điểm. Một người cộng điểm, một người kiểm soát. Thay phiên nhau mà làm. Ký tên vào phần hành của mình.

6* Điểm tối thiểu để được đậu. Nha Khảo Thí sẽ thông báo số điểm tối thiểu để thi đậu.

Quân nhân tại ngũ được hưởng 1 số điểm, thường là 10 điểm để được thi đậu.

7* Danh sách thí sinh trúng tuyển. Căn cứ vào số điểm để thi đậu, 1 danh sách TS trúng tuyển được đánh máy vào giấy Stencil và quay Ronéo. Chánh, phó chủ khảo và thư ký HĐGK ký tên vào danh sách.

VIỆC BẢO MẬT VÀ CHỐNG GIAN LẬN KỲ THI TÚ TÀI. (Phần 2. Tiếp theo)

8* Viết chứng chỉ. Căn cứ vào danh sách trúng tuyển, thư ký viết tay vào giấy chứng chỉ thi đậu Tú Tài. Thư ký ký tên vào phần “người lập chứng chỉ”. Chánh chủ khảo ký tên vào C/C.

9* Tất cả hồ sơ thi cử đều gởi về Nha KT. Riêng C/C thi đậu, thì Nha KT chỉ làm công việc dán hình TS vào C/C và đóng con dấu của Nha KT.

Cuộc thi hoàn tất, thì HĐGK tự động giải tán.

10* Thỉnh thoảng có người khiếu nại, đòi được xem điểm các bài thi, thì nha KT hẹn 1 thời gian đủ để lục lại hồ sơ. Chỉ ghi lại điểm của các bài thi, chớ không ai có quyền sửa đổi hoặc chấm lại những bài thi đó.

Ngoài ra, còn có những chi tiết khác về việc bảo mật và chống gian lận khác nữa trong kỳ thi Tú tài như trong thời gian đã nói trên.

Tú Tài I.B.M.

Cho đến lúc này, người viết không nắm chắc được việc thí nghiệm thi trắc nghiệm, còn gọi là tú tài IBM là do khuyến cáo của Mỹ hay do các vị đi du học ở Mỹ về đề nghị. Điều chắc chắn là thử nghiệm tú tài IBM đã bị một số viên chức và báo chí lên tiếng phản đối. Sự phản đối này hiểu được vì bất cứ cải cách nào về phương diện gíáo dục đều gây phản ứng trái ngược. Nhưng xem ra phản ứng của dư luận có phần yếu ớt và cuộc thi trắc nghiệm bậc tú tài vẫn được tiến hành cho đến 1975.

Có thể các câu hỏi trắc nghiệm lúc đầu chưa hoàn chỉnh. Báo chí mang các câu hỏi đó ra bình phẩm và chê trách. Nhưng cái xu hướng thi trắc nghiệm là điều không thể không làm.

Cái lợi thứ nhất là tránh cho học sinh khỏi bị rơi vào cái bẫy may rủi với chỉ một bài toán hay chỉ một bài luận duy nhất. Các câu hỏi dàn trải suốt cả chương trình không cho phép học sinh “học tủ.” Các câu hỏi đòi hỏi trí nhớ nhưng cũng đòi hỏi trí thông minh tránh tình trạng “học gạo.”

Áp dụng thi trắc nghiệm chỉ là làm những điều mà các nước tân tiến đã thi hành từ lâu rồi.

Bên cạnh đó vẫn còn duy trì bài luận để học sinh vẫn có thể vận dụng óc suy luận tổng hợp, khả năng trình bày biện chứng, v.v...

Cái lợi trước mắt là học trò thi trắc nghiệm nay có thể được điểm cao. Tỉ số đậu có khá hơn và các học sinh đậu bình hay bình thứ là thường.

Câu chuyện thi trắc nghiểm kể như mới đi những bước đầu dọ dẫm thì miền Nam bị rơi vào tay cộng sản. Chế độ không biết gì về phương pháp thi trắc nghiệm nên dẹp bỏ luôn.

Chế độ giáo dục mới giống loài tôm lúc nào cũng cựa quậy, nhưng là đi những bước lùi, giống như loài tôm hùm luôn luôn đi lùi. Ý tưởng mà tôi lấy lại của Umberto Eco trong cuốn sách của ông: À reculons, comme une écrevisse. Giật lùi giống như loài tôm hùm.

Tôi đã có kinh nghiệm chấm thi trong cả hai chế độ. Khoảng tháng chín 1975, tôi được điều động đi chấm thi tuyển vào lớp 10. Chấm xong là hết. Từ đó, tôi không còn biết số phận các bài chấm đó ra sao nữa?

Đấy sự khác biệt nó từ chỗ ấy. Ôi những con tôm hùm giáo dục của người cộng sản. Con tôm hùm giáo dục nó tiến lên bằng những bước đi lùi.

Đối với con tôm hùm, tiến có nghĩa là lùi. Tuổi trẻ bây giờ trả giá cho những chính sách sai lầm trong giáo dục từ đó đến nay. Vậy mà họ dám viết như thế này:

“Sài Gòn ‒ Thành phố Hồ Chí Minh với những kinh nghiệm giáo dục sâu sắc, cả thành tựu lần thất bại, chắc sẽ trở thành môi trường thuận lợi nhất cho một nền giáo dục và đào tạo con người vừa có nhân cách vững vàng, vưa có chuyên nghiệp, khoa học tiên tiến.”

(Trích Giáo Dục ở Sài Gòn, trong Địa chí văn hóa, trang 748).

Vài kỷ niệm nhỏ về thi cử

Ai thích thì đọc, không đọc thì cứ bỏ qua nhé. Năm ấy, tôi cùng với Trương Ân, bạn học cũ thời sinh viên, nay là hiệu trưởng Quy Nhơn đi coi thi ở Phan Thiết. Trương Ân người phốp pháp, mặt đỏ gay như chú Ba Tàu. Tính nết vui vẻ, hồn nhiên, năng động, tháo vát, nhiệt tình, có lòng, đi đến đâu đem không khí vui nhộn đến đó. Được rất nhiều bạn bè đồng nghiệp quý mến từ thời đi học. Anh đã mất vì đột quỵ ở Paris khi còn trẻ. Trương Ân là chủ tịch Hội đồng thi, còn tôi là tà lọt của Trương Ân. Viết mấy dòng này, tôi muốn thân tặng các cựu học sinh Cường Để Quy Nhơn và em gái Trương Ân và chồng là Tích. Chúng tôi đáp máy bay quân sự từ phi trường Nha Trang đi Phan Thiết. Khoảng đường Nha Trang ‒ Phan Thiết tuy ngắn, nhưng kém an ninh nên đành dùng máy bay. Tôi đoán là loại máy bay của Úc Đại Lợi. Trên máy bay không có ghế ngồi. Chúng tôi ngồi bệt xuống sàn, chen chúc với tủ bàn ghế, rương hòm đủ thứ. Nóng bức như lò lửa. Chắc là có sĩ quan nào dọn nhà đổi ra Phan Thiết chăng. Gần đến nơi, phi công lái máy bay như biểu diễn, nhào xuống như tụt dốc, phải bám chắc lấy thân máy bay. Sợ hết hồn vía.

Hồn nhiên và vui tính như Trương Ân cũng không có bụng nào mà cười được. Đến nơi, quần áo xốc xếch, tóc tai bù xù, người nhễ nhại mồ hôi thì đã có ông Trưởng Ty tiểu học ra đón. Ông “mẫn cán” thế này chắc có truyện nhờ vả rồi. Xe đưa chúng tôi về nhà Tùng, cũng là bạn học cũ, hiệu trưởng Phan Thiết đi coi thi chỗ khác. Nhà Tùng giàu có, nhà mới quá đẹp, khang trang, mát mẻ.

Thôi đúng như là đi nghỉ hè.

Nghỉ một chút, rửa mặt mũi xong thì ông trưởng ty vào đề mời ba chúng tôi đi ăn cơm tối. Trương Ân “lão luyện” trong nghề nên từ chối rất khéo. Tưởng yên, ai ngờ chiều tối, một hiệu ăn Tầu chở bàn ghế tới bầy tiệc ngay tại nhà. Không có cách nào khác đành chịu trận ngồi ăn. Trong bàn tiệc có thêm mấy người, trong đó có hai cô giáo và một giáo viên trẻ, con trai ông Trưởng ty.

Chúng tôi ăn uống vui vẻ. Không một chữ nhắc đến thi cử. Nhân tiện đó, mấy cô giáo mời chúng tôi, bữa sau đến nhà ăn cơm. Chúng tôi hoan hỉ không thắc mắc.

Buổi sáng thi cử diễn ra bình thường. Chỉ có điều tôi nhận ra giáo viên, con trai ông trưởng ty lại coi ở một phòng khác. Xem xét lại, tôi biết là có sự nhầm lẫn.Tôi nhẹ nhàng nói nhỏ với anh ấy về lại phòng thi mà anh đã được chỉ định. Cũng hơi ngượng. Sáng hôm sau thì có sao quả tạ xảy ra cho tôi. Tôi đi rảo qua hành lang. Chỉ cần đi thoáng qua là biết ngay cô cậu nào đang “quay film.” Đầu cứ cúi gằm xuống là có chuyện. Tôi vào phòng và nhận ra “thủ phạm” dấu bài quay dưới vạt áo dài ở đùi. Tôi đến gần, cúi xuống nói nhỏ với em nữ sinh cất “bửu bối” đi và tránh không để em bị xấu hổ. Không biết vì sao, em hối hả lấy miếng giấy cho vào miệng nhai phi tang, đồng thời nói to là tôi bắt oan em. Em nói to, bù lô, bù loa làm câu chuyện thành lớn. Tôi bối rối, luống cuống rồi đành lấy bài thi của em. Dằng co dằng lại chẳng ra làm sao cả. Cuối cùng thì em thả ra và nhận tờ giấy thi mới. Tôi cầm tờ giấy làm bài đi về văn phòng Hội Đồng thi. Em hoảng tưởng tôi làm biên bản. Khổ thế, tôi lấy để vứt đi thôi. Em bỏ phòng thi, chạy theo tôi vừa nói lải nhải. Một điều tối kỵ không cho phép làm là ra khỏi phòng thi như vậy. Lại ồn ào, hình như có khóc lóc. Mọi người, các thư ký văn phòng ngoái nhìn. Nói mãi em mới chịu về. Tôi trở lại phòng thi của em, tức giận. Nhờ giáo viên ghi vào phách là: Thí sinh gian lận. Ký tên.

Buổi trưa ra về, em đón tôi tại cổng trường ra chiều tuyệt vọng không năn nỉ nữa và hét to trước khi bỏ đi: Thầy ác quá, sau này không có con. May là lời nguyền rủa của em không ứng nghiệm. Sau này, tôi có hai con trai và có cả hai bàn tọa bình thường. Tôi im lặng không nói gì để cho em rủa và xỉ vả. Nhưng buồn.

Cho đến bây giờ nhắc lại vẫn thấy buồn. Và tự nhiên còn hối hận vì nặng tay với em. Thôi thì cho xin lỗi. Trong đời đi dạy, niềm vinh hạnh đến cho tôi thì đầy không có chỗ chứa. Nhưng bên cạnh đó, có những ân hận việc này, việc nọ nhiều khi chẳng đáng mà vẫn còn ân hận như mắng nặng một em nữ sinh, dĩ chí có lần tát vào má một nữ sinh trước mặt đông đảo học trò. Ân hận này sao nguôi.

Bữa cơm tối tại nhà các cô giáo thật vui. Trừ Trương Ân có vợ là Hoa, chúng tôi đều độc thân. Buổi tối về nhà. Trương Ân lôi trong cặp ra một bản nhạc có nhan đề: Hãy trả lời em đi anh... Hãy trả lời em đi anh. Hắn mở đĩa nhạc trong nhà và nói, con X nó mê cậu rồi và nó nhờ mang bản nhạc này về tặng cậu. Thế rồi hắn rống lên theo cô ca sĩ đang hát như thể đó là mối tình của anh ta với cô X. Bản nhạc sến ơi là sến. Sau 4 ngày thi cử, chúng tôi ra phi trường về lại Nha Trang. Không biết ai đó tặng ba đứa mỗi đứa một túi sắc trong có cá mực, nước mắm nhĩ. Và mỗi người không quên nhận một lô giấy ghi tên học sinh, số báo danh, v.v...

Hãy trả lời em đi anh, (Trần Thiện Thanh, Đào Duy, Nhật Bằng) – giọng ca Thanh Thuý.

Điều bất ngờ đến ngạc nhiên là X theo ra phi trường từ lúc nào, đứng sẵn ở một góc, mắt đỏ hoe. Tội nghiệp. Tôi đã vứt tất cả đám giấy tờ vì một lẽ giản dị là nhiệm vụ của tôi đã chấm dứt, tôi chẳng có thể làm việc gì cho ai cả. Tôi không có chân trong Hội đồng thi ở Nha Trang vì đây là kỳ thi tú tài 1. Tôi có muốn gian lận cũng không được. Và tôi cũng đã không có dịp trả lời thư mà X đã gửi cho tôi.

Sau này X trở thành nhà văn. Phải chăng bắt đầu từ những giọt nước mắt tiễn đưa?

Mùa thi ở Huế, sau tết Mậu Thân 1968

Mậu thân xong, tôi lấy vợ trong hoàn cảnh đất nước mà tương lai không sáng sủa gì. Tôi nhận Sự Vụ Lệnh ra Huế chấm thi. Lại một tháng trời đăng đẳng, sống chung với gió Lào. Huế, nơi mà những năm trước tôi phải chứng kiến những cảnh rối loạn chính trị không mấy vui.

Nhiều lúc tôi ghét Huế lắm. Ra là buồn, về đôi khi cũng vương buồn. Trong khi xuống Cần Thơ, đi tuốt xuống miệt Long Xuyên, Rạch Giá vẫn thấy lòng thảnh thơi, ăn uống thoải mái. Đến và đi nhẹ nhàng. Chẳng biết tại sao, chẳng hề có dịp nào quen biết một cô gái.

Từ phi trường về đến thành phố, nét hoang tàn đổ nát vẫn không dấu diếm được. Những tàu lá chuối tả tơi rách nát. Những cây bị cắt đứt ngang đoạn. Những mái nhà tôn tróc nóc. Con đường dẫn vào Huế bụi mù.

Đôi mắt con gái Huế buồn tang tóc. Những “con đường tình nhân” ở Huế thưa bóng người. Vắng bóng xe đạp đi hàng đôi.

Nghỉ ngơi xong ra phố, đi một vòng. Những con đường như Trần Hưng Đạo, áo dài Huế nay không thấy thướt tha nữa.

Vết đổ nát vì bom đạn vẫn còn in đó chưa kịp sửa chữa hay không sửa chữa vì chủ nhân đã dọn đi vào Sài Gòn.

Huế đã có những mất mát không bao giờ lấy lại được. Ai phải chuộc lại cho những cái mất mát ấy?

Học trò Huế gian lận dễ sợ hơn các nơi khác. Cả con trai, con gái. Họ phải sống còn mà. Họ gian lận không dấu diếm, bắt được thì năn nỉ. Con gái thì nước mắt lưng tròng. Ai nỡ làm gì, đành ngoảnh mặt quay đi.

Lòng đã nản. Chấm thi như là “phóng sinh,” tôi cho rộng rãi hơn giám khảo khác đến hai ba điểm. Cứ có một vài ý là có điểm. Cho điểm rộng, chấm nhanh. Rồi bỏ ra phố. Nhiều giám khảo khác nhìn với ánh mắt thiếu tôn trọng.

Hoàn cảnh đất nước như thế còn có can đảm gò lưng từng phân ly nửa điểm để làm gì? Tôi nghĩ tôi hiểu biết đất nước hơn những giám khảo cù lần kia. Tôi có cái lý bắt từ chuỗi cảm nghiệm từ cuộc sống mà mặt đất đang rung lên từng hồi của bom đạn và chết chóc. Chẳng còn nghĩa lý gì nữa. Tôi như sờ thấy, giáp mặt với chiến tranh. Tôi sợ và thù ghét chiến tranh.

Trong chiến tranh, cái gì cũng có thể được. Tout est possible.

Điểm của tôi là điểm của thời chiến, điểm của thời kỳ bom đạn. Thay vì những viên đạn, tôi cho điểm rộng hy vọng có một người khỏi chết vì bom đạn.

Cũng như những lần ra Huế trước, tôi gặp một cô giáo viên cùng coi chung phòng. Tạm gọi tên cô là N. Tôi và N. nói chuyện tương đắc, mặc dầu N. hầu như không nói câu nào cả. N. nói truyện bằng những mỉm cười, bằng ánh mắt, bằng những thỏa thuận ngầm của cả con người N. N. nhẹ nhàng, N. kín đáo, nụ cười chúm chím, môi hồng phơn phớt. Tôi ghét chỗ ấy đậm mầu. Tôi không cắt nghĩa tại sao.

Chúng tôi đã đi dạo buổi chiều ở một chỗ có nước rất êm đềm, rất ngọt nào đó. Mát dịu hẳn lên. Tôi nhìn N. qua làn áo dài mỏng thấy được nét trinh nguyên, tinh tuyền của N. Nếp quần dài au lên tuổi con gái. Không một tì vết. N. đi nhẹ nhàng, cẩn trọng từng bước. Không nói năng. Lâu lâu một tiếng dạ nhỏ. Ánh mắt ngước nhìn tinh nghịch. Cái đẹp nhất của người con gái để ta tôn thờ là nét trinh nguyên ấy. Lòng mềm đi khi nghĩ đến điều ấy khi nghĩ về N. Chẳng bao giờ còn những cảm giác như thế nữa. Chẳng bao giờ gặp những cảm giác như thế ngoài Huế. Gặp nhau chỉ có mấy ngày coi thi. Nhưng N. đã đi với tôi nhiều buổi chiều xem ra tin cẩn lắm. Chúng tôi có cảm tưởng quen nhau từ kiếp nào. Còn đi nhiều nơi không nhớ hết. Chúng tôi cứ đi thế thôi. Có lần đi trên một loại xe hàng như xe thùng, vuông, mầu trắng bẩn. Đi đâu không nhớ. Chỉ biết đi. Nắm nhẹ tay nhau truyền cảm giác chẳng nói năng gì mà nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ ấy. Tôi còn nhớ vài nốt mụn trứng cá tuổi dậy thì phía má trái, phấn son không che hết của N.

Tôi thích nhất là N. biết ngượng ngùng. Rồi một bữa, N. bạo dạn mời tôi đến nhà ăn cơm tối. Hình như chỉ có hai mẹ con. Nhà neo đơn lắm, thanh bạch không dấu nổi. Mẹ N. soắn sít đến tội nghiệp không dấu được nỗi mừng cho con gái. Phần tôi đã có vợ. Tôi làm gì được?

Như thể những người phụ nữ chân chính nhất như N. bao giờ cũng nhận những phần thiệt thòi về mình.

Tôi rời xa Huế mà không có lấy cái địa chỉ. Sao N. có thể dại khờ đến như thế. Không biết trao tay một cái địa chỉ để liên lạc. Thế còn tôi thì sao?

Một sáng chủ nhật trong cái tuần lễ cuối cùng ở lại Huế, tôi lần mò lên nhà thờ Phủ Cam. Đường buổi sáng còn vắng người. Hai bên đường không còn một dấu vết đổ nát. Đã đến giờ lễ rồi. Tôi len lén ngồi dưới cuối dãy nhà thờ như một người khách xa lạ. Tiếng cầu kinh vang vang. Nhưng đến cái kinh: Lạy Chúa tôi, tôi ở dưới vực sâu kêu lên Chúa tôi thì giọng đọc kinh dần không còn bình thường nữa. Càng ngày nó càng biến thành những tiếng nỉ non, rồi tiếng rên xiết ứ trong cổ họng. Cả nhà thờ trắng xóa một mầu tang từ trên xuống dưới. Sao chết nhiều thế. Không trừ ai, không trừ nhà nào.

Huế tang thương. Huế giết Huế. Tôi rời Huế với những ý nghĩ đen tối như thế. Tôi vứt bỏ lại đằng sau những chuyện thi cử và muốn chạy trốn khỏi Huế.

Tôi ra trụ sở hãng máy bay Air Viet Nam để trở về Sài Gòn. Hết một tháng mệt mỏi. Hình bóng N. lúc tỏ, lúc nhạt. Tôi đã vô tình không hỏi nàng về những ngày tết Mậu thân vừa qua.

Quầy bán vé cũng chỉ loe ngoe người. Không có đến quá 5 người. Còn sớm quá chăng? Tôi tạt qua bên kia đường, phía chợ Đông Ba thấy bầy bán nhiều nhãn lồng Huế. Tôi mua vội ít chùm tính làm quà cho gia đình. Mua xong mới thấy hố, vì bà bán nhãn không có túi ni lông để đựng. Tôi vào đại một cửa hàng bán tạp hóa thuộc loại sang hỏi mua túi ni lông. Cô bán hàng lắc đầu không có bán. Nhưng nghĩ thế nào, cô bắc ghế trèo lên những kệ bán áo chemise bầy trong tủ kính. Cô lấy xuống hai chiếc và tháo gỡ bao ni lông ra. Cô đưa cho tôi và không tính tiền. Tôi ái ngại vì chiếc áo có giá là vì có vỏ ni lông bao bên ngoài. Tôi đã nán lại và nói chuyện hỏi thăm cô. Cô cho biết ba cô có tiệm trên đường Gia Long hay Lê Thánh Tôn gì đó. Tôi cho địa chỉ và không chờ đợi có dịp gặp lại được cô.

Về Sài Gòn, bẵng đi một thời gian, tôi nhận được điện tín nhắn tôi ra phi trường đón cô. Quá đột ngột mà tôi lại vừa cưới vợ. Tôi đành thất hẹn với cô.

Tôi nợ những người con gái Huế nhiều lắm. Đây là lần thứ hai, tôi mong muốn tuyệt vọng gặp lại N và cô. Cô có đẹp không nhỉ? Nói đẹp thì ai tin. Nhưng thưa, cô xinh đẹp và quý phái lắm, người cao mảnh khảnh. Nhưng đẹp xấu lúc này để làm gì?

Mỗi mùa thi đối với tôi là một mùa kỷ niệm và mùa tình ái. Mỗi lần bước lên máy bay đi về từ Huế thì hình như máy bay nặng thêm.

Hoàn cảnh đất nước như thế còn có can đảm gò lưng từng phân ly nửa điểm để làm gì? Tôi nghĩ tôi hiểu biết đất nước hơn những giám khảo cù lần kia. Tôi có cái lý bắt từ chuỗi cảm nghiệm từ cuộc sống mà mặt đất đang rung lên từng hồi của bom đạn và chết chóc. Chẳng còn nghĩa lý gì nữa. Tôi như sờ thấy, giáp mặt với chiến tranh. Tôi sợ và thù ghét chiến tranh.

Đồng ý với tác giả trong quan niệm này, nhưng tác giả quên một điều là với sự rộng tay của tác giả về điểm thi chính là cái mốc để giúp cho chính quyền có nhiều cán bội hạ tầng trong việc điều hành đất nước thời chiến. Còn nói rằng cho đậu nhiều thì bớt đi một sinh mạng (random) là lối suy nghĩ "thiển cận" tôi có anh bạn quen, anh vào trường Phú thọ năm 1962, nhưng anh tính toán rất kỷ, sức học của anh thì không thua ai, tuy nhiên anh không dại gì mà lên lớp, năm nào anh cũng double, vì luật "động viên" cho phép hoãn dịc mà, chúng tôi đều từ giã mái trường năm 1966 riêng anh thì tới năm 1970 mo.... Miền Nam VNCH cần rất nhiều cán bộ có học lực tầm trung (tốt nghiệp tú tài) ... cũng chính nhờ có cái tỉ lệ đậu khá cao của tú tài IBM mà sau ngày mất nước ngành giáo dục đã giúp cho rất nhiều cô cậu có cái job sống cầm chừng .... tôi hoàn toàn đồng ý với tác giả về việc bắt cọ học sinh quay bài ở Phan Thiết, chẳng có gì phải ân hận cả, nếu như không vì cái đó mà lập biên bản cấm thi cô ta. Nêú có ai từng học ở Luật Khoa Saigon đều biết Giáo sư Lê quế Chi, thí sinh trong phòng thi mà chỉ quay đầu hoặc gằm mặt là ông sẽ tới ngay bên cạnh và lên cảnh cáo rất lớn tiếng (ông lại là người gốc Quảng, nên giọng nói của ông gây ấn tượng cho mọi người) ..... Còn chuyện cô N, của tác giả thì đó cũng là lẽ thường tình ở xã hội VN lúc đó, nếu không thì tác phẩm của Chu Tử với câu nói "đừng gọi anh bằng "chú" làm sao được ghi vào "guines ' của đám học sinh chúng tôi ....

Xin góp thêm chút hiểu biết...

Năm 1968, vì chiến sự, thời gian hoc bị gián đoạn, cho nên vụ Thi Tú Tài IBM trở thành đắc cách. Nhanh, tiên, gọn, và câu hỏi dàn trải đầy đủ. Tuy nhiên cũng có tính cách cầu may, va người ngoài cuộc đã có câu vè....... Tú tài Mậu thân, Cử nhân Nhâm tí...

Trước thòi kỳ 1954 các đề thi về Khoa hoc như Toán, Lý Hoá.. với Toán của Hình hoc Euclide thì nếu Giáo sư nào chăm, theo dõi hoc sinh sát cánh, cũng sẽ viết ra được một bài toán hay, hàm súc và bao biên đầy đủ chương trình; thí dụ bài toán số 74 của Lebosse cho TT1, chỉ cần 5 câu hỏi là gồm đủ cả Geo pure, như lieu geometric(quỹ tích ? ), một câu về Trigo, một câu về coefficient angular, một câu về function hyperbollic(bao biên cho Đại số(Algebra).... TT2 cũng vậy, từ càc bài toán trong Brachet, hay trong Annals Maths....Chưa kể đến các bài toán đã được soạn cho các kỳ thi suất sắcLHP hay Quốc tế (Concours general). CG thường dài, vì thòi gian thi là 6giờ và phải là hoc sinh suất sắc của trường, được ban Giám học trường chọn làm đại diện cho trường để dự thi.

Physíc cũng vậy, sự phối hợp của Quang (Optic) với Điện(DC, AC/(TT2)), với Nhiệt(thermo), ít khi Gs nào cho pha thêm chút Hoá(Chymie Minerale& Organic.) .

nmq viết ra, vì để cùng ôn lại chút kỷ niệm của một thời mực tím, cặp da... đi xe đạp .../

Suốt hai trang sách, bác viết về thành tích của các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám rồi Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu. Bác quên mình để ca tụng người khác rồi chăng? Không đâu. Đến ông già bác mà còn bị cho de vì không đóng góp gì cho sự vẻ vang của bác, các vị Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám... đâu có thể được ca tụng khơi khơi, vô vị lợi như thế được. Bác chịu kể thành tích của họ chẳng qua chỉ để làm mình nổi bật thêm. Đến trang 10, bác oang oang khoe rằng mình khôn ngoan, sáng suốt hơn cả bốn vị, hơn từ lúc bác mới mười lăm tuổi! Bác viết:

“Đó là tình trạng trong nước và ngoài nước, khi Chủ tịch Hồ chí Minh còn là người thiếu niên mười lăm tuổi. Người thiếu niên ấy đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào. Lúc bấy giờ anh đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Anh đã tham gia công tác bí mật, nhận công việc liên lạc. Anh khâm phục các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của một người nào. Vì:

- Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương, anh nhận điều đó sai lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương.

- Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì "đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau".

- Cụ Hoàng Hoa Thám còn thực tế hơn, vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp. Nhưng theo lời người ta kể thì cụ còn nặng cốt cách phong kiến.” ( trang 10)

Cậu Nguyễn Tất Thành lúc 15 tuổi thông minh tài giỏi cỡ nào rồi ta sẽ nói vì trong sách có ghi lại nhiều bằng cớ. Nhưng bác xấc láo với tiền nhân đến độ khoe mình sáng suốt hơn họ từ lúc còn niên thiếu thì bác ngu và phét lác quá. Hai chữ "phong kiến" bác mới học được sau này, sau khi được bọn Cộng sản Nga Tầu dạy dỗ. Mới nứt mắt ra thì chữ nghĩa kiến thức đâu mà chê bai các cụ Hoàng Hoa Thám, Phan Đình Phùng, lại còn hồ đồ chê cụ Hoàng "theo lời người ta kể"! Già như bác ngày gần chầu tổ mà thở ra cái giọng ấy cũng đã can tội hỗn láo rồi. Chê cụ Phan Chu Trinh sai lầm trong cách xử sự với Pháp nhưng bản thân bác lại từng năn nỉ Pháp và bị lừa xiểng liểng nhiều phen. Chê cụ Phan Bội Châu nhờ Nhật giúp là "đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau" nhưng chính bác thì lại còng lưng cõng rắn Nga, Tầu và một chủ nghĩa Cộng sản gớm ghiếc về nhà, thành ra bác "đuổi hổ cửa trước, rước hàng tá hùm beo, rắn rết cửa sau". Thế mà bác lại ngồi viết sách chê tiền nhân là kém sáng suốt, lại còn chê bằng lời nhô con Nguyễn Tất Thành mới 15 tuổi, ra cái điều là ngay lúc hỉ mũi chưa sạch, bác đã sáng láng hơn các bậc tiền bối rồi! " . Trich từ Chân Dung Bác Hồ cũa KIỀU PHONG .

Sau năm 75 , học sinh học và noi gương đạo đức cũa một tên súc sanh mất dạy như tên tên HCM , hỏi làm sao đạo đức không suy đồi .

"Mỗi mùa thi đối với tôi là một mùa kỷ niệm và mùa tình ái. Mỗi lần bước lên máy bay đi về từ Huế thì hình như máy bay nặng thêm." Em nghĩ đúng là ...một thời vang bóng, le lói quá xá, "quá đã"!

Nhiều ông thì các cụ mần ruộng, ở nhà húp cháo, để dành mớ tiền cho con mua sách vở, vài chiếc quần xà lỏn, miệng ...lâm râm khấn vái Trời Phật để nó thi đậu, trở thành các cậu Tú, cho đỡ khổ - chí ít chính cuộc đời nó, rồi hàng xóm cũng vui lây - bỏ công "lên tỉnh" học vài chữ! Còn ông Lục thì ...bước lên máy bay ...lo máy bay sẽ nặng hơn vì lại "quơ" được thêm một O Huệ! Đúng là tiểu tư sản! hehehe...

_____

Hổm rày em chỏng tai nghe quý vị kể về cái "sự học" vào thời VNCH cũng rất hay. Hay vì, tụi em sanh ra là nhờ ơn bác và đảng cho cạp đất, cạp bo bo trường kỳ kháng chiến! Dzọt qua đây, tụi em mới thấy quý cái mạng sống của chính mình hơn ai hết! Mình không lo "take care" cho chính mình, bản thân của mình thì ai lo cho mình đây (?) Thế nên, tụi em cũng phải tập cầm cái chổi để quét dọn ở những cái chem. plants. Cám ơn quý vị "từng trải" đã khuyên lơn ...học đại đi, không thành nhơn, cũng thành súp bờ vái ...giời! hehehe...

Em nghĩ, Việt Nam mình chịu ảnh hưởng Đạo Khổng "...bán tự vi sư" cũng nhiều cái hay để học lắm! Hay vì biết kính trên nhường dưới, khuôn sáo nhiều, v.v... thì lại sanh ra ...thừa giấy vẽ cọp! Cọp nhiều thì phải có hưu để mần thịt! Mà hưu thì rất nhiều, nỗi cái khu ...nhà bè nước chảy chia hai... suốt ngày nghiền cải lương, thì tha hồ cho cọp mần trời mần đất ...hehehe

Bây giờ xin phép cho em được sérieux chút đỉnh: trong bài góp ý của ông NK Đăng (phần II) cũng đúng 100% là vì nền Giáo dục của Mỹ không làm cho tuổi trẻ mất sức đi- thi cử tú tài - để đánh đổi cả cuộc đời trai trẻ trong mấy tiếng đồng hồ thôi sao vậy nè!? Tại sao không để sức mà chống chọi với sóng biển suốt cả cuộc đời còn lại (?). Một thí dụ ...giản đơn, í quên, đơn giản: tỉ lệ giảm sút "productivity" của các học sinh sau khi đã mất sức vì quanh năm suốt tháng chỉ biết ...gạo bài mà quên đi trong cái cuộc đời ô trọc này, còn có social skills nữa, còn mặt trời mọc, mặt trời lặn ?? Rồi nào là sanh ra bệnh tật, khủng hoảng v.v...Tỉ lệ các học sanh ĐNÁ rụt rè, hổng dám ý kiến, ý cò nhiều, so sánh với đám học sanh Mỹ v.v...

Dài dòng quá, túm lợi: nên khích lệ các học sanh đừng rầu quá, vì ...trượt tú tài anh đi Trung sĩ...

Kinh nghiệm cá nhơn, khi em được coi mớ dân mần ruộng, đang cầm chổi quét rác trong những cái chem. plant là: Các quan nhớn khi thuê người sao đó thây kệ mấy ông; làm ơn cho em mấy thằng lính mới, học bạ thuộc loại cuối sổ cũng được, nhưng phải biết yêu nghề, yêu ruộng, nhất là phải có óc sáng tạo v.v... Nhưng quan trọng hơn là phải yêu người, yêu đồng bào và ...NÔ vixi...hehehe

Chứng chỉ Tú tài

Nguồn: DCVOnline