Nhìn Lại Sử Việt 3

Tham vọng viết lại lịch sử Việt Nam: Trường hợp Thụy Khuê (7a)

Posted on June 1, 2016 by editor1 Comment

Nguyễn Văn Lục

mm

Trước đây, thời Việt Nam Cộng hoà, giáo sư Trương Bửu Lâm đã bày tỏ một mơ ước: Có một nền sử học Quốc Gia. Ông nhận thấy môn sử học ở Việt Nam trong các trường trung học bị coi nhẹ.

Nhìn lại sử Việt | Tham vọng viết lại lịch sử Việt Nam: Trường hợp Thụy Khuê (7a)

Jean-Baptiste Chaigneau và chiếu phong quan của Hoàng đế Gia Long , 1802. Nguồn:  Văn khố Chaigneau

Quan đại thần Jean-Baptiste Chaigneau Nguyễn Văn Thắng và chiếu phong quan của Hoàng đế Gia Long , 1802. Nguồn: Văn khố Chaigneau

Thầy giáo không chuyên nghiệp và sử học là môn học để dạy trám chỗ. Ước mơ của ông Trương Bửu Lâm chưa bao giờ thành hiện thực thì xảy ra cảnh mất miền Nam.

Sử học kể từ đó trở thành công cụ tuyên truyền. Nói chung thì sử học Việt Nam hiếm có cơ hội là tiếng nói độc lập. Ngay cả khi độc lập rồi thi cũng là tiếng nói của vua chúa, của kẻ cầm quyền.

Tuy nhiên phải nhìn nhận những nỗ lực cá nhân vẫn có. Những tiếng nói thốt lên từ đáy vực cũng như tiến rên vang bày tỏ khát vọng sự thật vẫn không thiếu.

Những bậc đàn anh đáng kính vẫn là những gương soi cho thê hệ sau như trường hợp sử gia Trần Trọng Kim.

Sau này ở hải ngoại vẫn cần được đánh giá lại đúng mức trong trường hợp nhưng người cầm bút viết sử như Tạ Chí Đại Trường, Nguyễn Phương và Nguyễn Khắc Ngữ. Trong số ấy Nguyễn Khắc Ngữ là thiệt thòi hơn cả vì sách tài liệu của ông it được phổ biến lại thêm yểu mệnh!

Trong thời gian gần đây, nhiều tác giả khác cũng đã lên tiếng! Cùng với sự xuất hiện của ông Nguyễn Quốc Trị là bà Thụy Khuê. Cạnh đó còn có bộ sách nhiều tập của Lê Mạnh Hùng cũng cùng một tham vọng: Nhìn lại Sử Việt.

Như vậy sử Việt là có vấn đề? Đương nhiên rồi. Chẳng những cần nhìn lại mà viết lại nữa!

Hai tập tài liệu của ông Nguyễn Quốc Trị và Lê Mạnh Hùng, tôi chưa có điều kiện đọc hết nên không thể có ý kiến.

Thụy Khuê sau nhiều năm cũng nhận thấy có một nhu cầu viết lại sử nên bà đã viết một tài liệu biên khảo nhan đề Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long, viết năm 2015 và được Diễn Đàn Thế Kỷ cho đăng.

Tập tài liệu khá dầy, giới hạn khoảng thời gian từ năm 1777-1802, gồm chừng 4-5 trăm trang đánh máy và chia ra làm nhiều chương.

Mỗi chương đề cập đến một tác giả, hầu hết là người ngoại quốc, đặc biệt là các thừa sai người Pháp. Hoặc là các sử gia, nhà ngoại giao.

Như Alexis Faure, tác giả cuốn Monseigneur Pigneau de Béhaine, Évêque d’Adran, Paris 1891.

Hay cuốn A voyage to Cochinchina của John Barrow, nhà ngoại giao, Luân Đôn, 1806.

Cuốn khác của Montyon, Exposé Statistique du Tonkin de la Cochinchine, du Cambodge, du Tsiampa, du Laos, par M. M-N sur la Relation de M. de la Bissachère. Mission dans le Tunkin 1811, Luân Đôn

Tiếp theo là cuốn sách của Bissachère, La Relation sur le Tonkin et la Cochinchine de Mr de la Bissachère do Charles B. Maybon viết lời giới thiệu, Paris 1920.

Cuốn khác của Maybon, cuốn Histoire moderne du pays d’Annam, 1920.

Nguồn:  Plon-Nourrit et Cie (Paris) 1920

Nguồn: Plon-Nourrit et Cie (Paris) 1920

Và cuối cùng là chương, Học giả Cadière và tập san Đô Thành Hiếu Cổ.

Phần còn lại là mỗi chương, mỗi phê phán một nhân vật người Pháp đã cộng tác với Bá Đa Lộc như Le Brun và Puymanel, De Forcanz và Le Brun, rồi Olivier De Puymanel và Laurent Barisy, Jean Baptiste Chaigneau Nguyễn Văn Thắng.

Cũng cần nói thêm là trong phần mở đầu trước khi vào sách, bà Thụy Khuê đã dành ít trang để giải thich về Nhu cầu viết lại lịch sử thời Pháp thuộc.

Theo bà, sở dĩ có nhu cầu cầu ấy vì các sử gia như Louis Eugène Louvet (1838-1900) với cuốn La Cochinchine Religieuse, Paris, 1885 cũng như cuốn L’Empire d’Annam của Charles Gosselin, Paris, 1904 là những tác giả người thực dân Pháp nên thường có quan điểm bênh vực cho chính sách của thực dân Pháp và thường cực lực lên án các vua quan triều Nguyễn.

Ngoài ra bà còn liệt kê các sử gia Việt Nam kể từ Trương Vĩnh Ký đến Trần Trọng Kim rồi Phan Khoang, Nguyễn Thế Anh, Tạ Chí Đại Trường, Nguyễn Khắc Ngữ. Bà cho rằng những vị này đều sử dụng tài liệu của Pháp nên bà xếp họ vào loại “sử gia thuộc địa”.

Đặc biệt, chương 2, bà Thụy Khuê dành để giới thiệu Bộ sử Nguyễn Văn Tường của ông Nguyễn Quốc Trị mà bà trân trọng viết,

Sách của Nguyễn Quốc Trị. Nguồn: NQT

Sách của Nguyễn Quốc Trị. Nguồn: NQT

“Bộ sử Nguyễn Văn Tường của Nguyễn Quốc Trị là một công trình nghiên cứu thận trọng và chi tiết, mở đầu cho một khuynh hướng tìm lại và đọc lại lịch sử Việt Nam.”(1)

Cảm tưởng của tôi là bộ sử của Nguyễn Quốc Trị như một chỉ dẫn hay một cảm hứng cho bà Thuỵ Khuê khi viết tài liệu này.

Sau đây, chúng ta thử xem tham vọng viết lại lịch sử của bà có đạt được không?

Vấn đề sử quan và cảm tưởng của một người đọc

Sử quan của người viết sử thường là cớ sự cho sự bất đồng. Tránh được sự bất đồng này là điều khó khăn nhất trong việc nghiên cứu sử học. Nguyên tắc này tỏ ra thích hợp trong trường hợp bà Thụy Khuê

Nhưng người ta lại không thể viết sử mà lại không có quan điểm? Viết không thể không có chủ đích? Viết không thể không có một lối nhìn. Viết là một dự phóng, cho nên viết luôn luôn bao hàm cái dụng ý của người viết. Muốn viết gì và viết cái gì. Tại sao viết và tại sao không viết.

Tôi viết bài này với tư cách một người đọc, nhờ đó tránh được nhiều yêu sách của việc phê bình.

Cảm thức đầu tiên khi đọc tập tài liệu này là khả năng thuyết phục của tác giả Thuỵ Khuê là yếu. Viết như tác giả khó mà thuyết phục ngay cả đối với loại độc giả dễ tính.

Tác giả để lộ ra nhiều sơ xuất, kẽ hở có thể tránh được và không tránh được. Tác giả có lẽ cần xem lại mình trong việc trích dẫn và các dùng tài liệu. Tác giả để lộ ra thái độ khá chủ quan, thiên lệch, một chiều.

Người ta không tìm thấy tính cách tương đối, trung dung, tính cách nhiều mặt của một sự kiện lịch sử để đạt tới một kết luận khách quan hơn.

Chính vì thế, tác giả không kiềm chế được mình, dằn vặt với các nhân vật lịch sử như thể họ còn đang sống, như thể trút hận oán lên họ. Đồng thời, đối với người sống, sử học trở thành cớ sự cho những lời nguyền rủa ác ý. Cảm tưởng của một người đọc là tác giả dùng sử học để trút hận, để dằn vặt người khác.

Người chết và nhất là người sống trở thành nạn nhân về những điều họ không làm, hoặc không biết đến. Nếu nói theo truyền thống văn hóa chửi của người miền Bắc thì đây là cơ hội ‘đào mả’ người khác lên!

Trút hận lên những nhân chứng lịch sử thì ích gì và ta được gì? Một cách nào đó gián tiếp, tác giả hành người đọc. Nhiều lúc chán nản không muốn tiếp tục đọc để tự làm khổ mình, thú thực, nhiều lúc tôi đã muốn “buông”.

Buông được là tự giải phóng mình ra khỏi sự phiền hà, sự khó chịu, sự bực mình không cần thiết. Chắc rằng nhiều bạn đọc khác khi đọc tác giả cũng bắt gặp những cảm giác khó chịu tương tự. Hy vọng như vậy.

Tham vọng viết lại sử của tác giả vì thế không thể thực hiện nổi với lối viết như thế. Nó sẽ trở thành những tiếng kêu trên sa mạc!

Sau đây là một số nhận xét về nội dung cuốn sách.

Phần Một: Sự phê phán các nhà sử học Việt Nam

Hầu như phần lớn các sử gia đều trở thành đối tượng phê phán của tác giả mà bà gọi chung là “Sử quan thuộc địa”. Sự phê phán ấy bao gồm hầu như bất cứ sử gia Việt Nam nào có tiếng tăm!

Chỉ bốn chữ này thôi tự nó đã là bản án, đã gây tranh cãi ồn ào rồi. Nhưng thế nào thì được gọi là sử quan thuộc địa?

Theo bà Thuỵ Khuê, gọi là sử quan thuộc địa tất cả “những sử đã chép lại những thông tin bịa đặt của giáo sĩ La Bissachère mà không đặt vấn đề”. (Thuỵ Khuê, Chương Trước khi vào sách).

Bà viết tiếp,

“Để hoàn tất những nhiệm vụ này, một số giáo sĩ đôi khi, không phải bẻ cong ngòi bút, mà chỉ viết một nửa sự thật: ví dụ mô tả việc xử tử giáo sĩ một cách cực kỳ dã man, nhưng không nói đến nguyên nhân tại sao họ bị xử tử; không nói đến luật hình ở Việt Nam; dấu kỹ những hoạt động chính trị giúp phe nổi loạn chống lại triều đình với tham vọng một nhà nước thiên đạo hoặc nhà nước Thiên Chúa giáo (Lê Văn Khôi, Lê Duy Lương, Tạ Văn Phụng.) Thậm chí giáo sĩ Louvet còn “dịch” một đoạn dụ rất tàn ác bảo là của vua Tự Đức, trong có câu ‘Những thầy tu người Việt, dù có chịu bước qua thánh giá hay không cũng bị chém làm đôi (…) Những kẻ tàng trữ người Âu trong nhà cũng bị chém ngang thân vứt xuống sông’ không hề tìm thấy ở đâu. Những giáo sĩ này, dường như cố tình đưa bộ mặt ‘dã man’ diệt đạo của vua quan nhà Nguyễn, để giáo hoàng can thiệp, để chính quyền Pháp có ‘chính nghĩa’ đưa quân vào đánh. Nhiệm vụ của họ là vinh thăng sứ mệnh truyền giáo.”

Người viếtế có cảm tưởng có sự gán ghép sử quan thuộc địa vào công việc truyền giáo, công việc giết hại giáo dân.

Đây là một đoạn văn đầy cảm tính, hận oán chưa từng gặp ở bất cứ nhà sử học nào trước đây.

Chính vì thế, những người viết sử từ Trương Vĩnh Ký với cuốn Cours d’histoire annamite, 1875. cũng được xếp loại sử quan thuộc địa. Đọc lại cuốn sử của Trương Vĩnh Ký người ta thấy ngay từ lời nói đầu cho thấy ông là một học giả dù uyên tham nhưng vẫn tỏ ra đầy lòng khiêm cung và từ tốn hết mực. Nhan đề cuốn sách của ông nói là để dùng cho học sinh Nam Kỳ và hy vọng các lớp trẻ nối tiếp công trình của ông một cách đầy đủ hơn. Tuy nhiên, có một chi tiết là Trương Vĩnh Ký không ngần ngại kết án vua Minh Mạng trong vụ án giết vợ và hai con của Hoàng Tử Cảnh. Về điều này, Sử của Trần Trọng Kim đã tránh không đề cập tới.

Tuy nhiên, những lời kết án của bà Thụy Khuê là vu vơ mà không chỉ rõ Trương Vĩnh Ký là sử quan thuộc địa ở chỗ nào? Bà không đưa ra bất cứ một nhận xét nào đến độ tôi nghi ngờ rằng bà chưa hề có dịp đọc cuốn sách này.

Bà chỉ viết:

Người được trích dẫn và nói tới nhiều nhất là Tạ Chí Đại Trường. Tuy thế, từ khi Thuỵ Khuê cho đăng tải tác phẩm “Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long” cho đến cuối đời, sử gia Tạ Chí Đại Trường không hề nhắc đến nó.

Người duy nhất còn lại hiện nay là giáo sư sử học Nguyễn Thế Anh hoặc học trò thân cận của ông, giáo sư Trần Anh Tuấn.

Tôi chú trọng nhiều đến cái chủ đích tại sao bà Thụy Khuê lại viết như thế. Một lối viết sử sô vanh và chậm tiến: vừa Sô vanh dân tộc và nhất là sô vanh tôn giáo.

Sử gia Trần Trọng Kim bị kết án là có sử quan thuộc địa?

Đối với Trần trọng Kim, bà viết chi tiết hơn như sau:

“Henri Cordier cho biết cuốn sử đầu tiên mà độc giả Pháp được biết đến về nước Nam là “Cours d’histoire annamite” (Giáo trình lịch sử An Nam) của Trương Vĩnh Ký in năm 1875.”(2)

“Trần Trọng Kim tuy có đọc những bộ sử của nhà Nguyễn, nhưng ông vẫn đặt niềm tin trọn vẹn vào tài liệu Pháp. Khi nhận định về những lý do của cuộc xâm lăng, Trần Trọng Kim lấy lại ý kiến các sử gia thuộc địa, cho rằng triều đình Huế không chịu canh tân đất nước, áp dụng chính sách bế quan tỏa cảng, cấm đạo, diệt đạo nên người Pháp mới đánh Việt Nam, để cứu giáo dân, giáo sĩ và bảo vệ tự do buôn bán.”(3)

Trừ các sử gia miền Bắc thường có thói quen bôi nhọ Trần Trọng Kim, có thể đây cũng là lần đầu tiên ở miền Nam sử gia Trần Trọng Kim được xếp là một sử gia có sử quan thuộc địa.

Có ba điều cần thưa với bà Thụy Khuê.

1. Điều thứ nhất, xếp như thế, một cách gián tiếp coi Trần Trọng Kim như loại tay sai của Pháp. Điều này đụng chạm đến nhân cách và hành trạng trí thức của cụ Trần Trọng Kim. Cụ mặc dầu là người được đào tạo Tây học, nhưng khí tiết nhà nho trọng lễ nghĩa cũng thật rõ ràng. Tôi đã có lần viết một bài nhan đề Trần Trọng Kim, công hay tội với lịch sử? Chỉ cần đọc Một cơn gió bụi của cụ Trần cho thấy nỗi lòng của cụ đối với quốc gia, đất nước. Công thì rất nhiều, tội chỉ vì là một trí thức bất đắc dĩ bị lôi cuốn vào cơn gió bụi chính trị của thời cuộc!

Nếu không giải quyết được công hay tội của một người như Trần Trọng Kim, nếu coi Trần Trọng Kim như một loại người viết với sử quan thuộc địa, xin hỏi bà Thụy Khuê có thể nào nêu tên một vài người viết sử chân chính? Phải chăng đó là Cao Huy Thuần?

Bà nên có quan điểm rành mạch về điều này! Ai là sử gia thuộc địa? Và những ai là sử gia chân chính? Bà có thể nào nêu tên một vài người, theo bà, là sử gia chân chính?

Chúng ta cũng cần minh định một lần nữa một cách dứt khoát, việc giết hại tín đồ Gia tô giáo là một tội phạm mà không thể nhân danh bất cứ cái gì để bào chữa được. Thói thường của một số người viết sử coi người Thiên Chúa giáo theo Tây như một thứ phản quốc nên hình phạt dành cho họ là điều đương nhiên không cần bàn cãi nữa.

Đó là một sai lầm lịch sử kéo dài được rất nhiều người lập đi lập lại rồi.

Thật vậy trường hợp Trần Trọng Kim giống như rất nhiều người trí thức Việt Nam, trong một hoàn cảnh bĩ cực đến tuyệt vọng bị đẩy vào sân khấu chính trị mà bản thân họ không có một chuẩn bị nào cho công việc ấy. Đó là trường hợp của Phan Thanh Giản, Hoàng Diệu, Phan Đình Phùng, Nguyễn Tri Phương và khi ấy họ sẵn sàng dùng cái chết như một võ khí tự vệ để bảo toàn nhân cách của họ!

Những cái chết ấy tự nó là một giá trị miên viễn, nhưng về thực tế thì nó giải quyết được gì? Và mặt khác nó cho thấy chỉ lòng yêu nước thôi chưa đủ, cần có kỹ thuật và võ khí tương xứng.

Vấn đề quan trọng hơn cả là nhận thức được tại sao ta yếu kém, tại sao ta không chống nổi lại người Pháp?

Thành Hà Nội nhìn cái bề ngoài bề thế như thế, tường thành cao cả 30 chục thước. Vậy mà vết tích duy nhất còn ghi dấu để lại là một lỗ đạn đại bác sâu chừng 40 cm! Thành Hà Nội đã thất thủ vào sáng ngày 25 tháng tư năm 1882, vào lúc 11 giờ 15 phút sau hơn ba giờ bị Rivière tấn công.

Vết đại bác trên cổng Bắc thành Hà Nội do pháo thuyền của Pháp bắn vào. Nguyên văn biển đá bằng tiếng Pháp: 25 avril 1882: Bombarde de la citadelle par les canonnières "Surprise" et "Fanfare"; nghĩa là Ngày 25/04/1882: Vết bắn phá thành của các pháo thuyền "Surprise" và "Fanfare".

Vết đại bác trên cổng Bắc cổ thành Hà Nội do pháo thuyền của Pháp bắn vào. Nguyên văn biển đá bằng tiếng Pháp: 25 avril 1882: Bombarde de la citadelle par les canonnières “Surprise” et “Fanfare”; nghĩa là Ngày 25/04/1882: Vết bắn phá thành của các pháo thuyền “Surprise” và “Fanfare”. Nguồn: Wikipedia.

Không thể đổ trách nhiệm đó cho ai được để chạy tội!

Trần Trọng Kim chỉ hơn và khác các vị trên vì ông được đào luyện theo Tây học, cái nhìn của ông về lịch sử rõ ràng và phân biệt đâu là phải trái. Hiểu biết được sức mạnh của địch và sự yếu kém của ta.

Nói ra cái lẽ phải trái ấy mà ông bị coi là người theo Tây?

2. Điều thứ hai, sách Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, đã là sách giáo khoa của nhiều thế hệ học sinh , mặc dầu đã trải qua hơn một thế kỷ thử thách của thời gian, vậy mà vẫn còn được nhiều tác giả trân trọng đọc, sử dụng và quy chiếu vì hai lý do sau đây:

Nguồn: Tân Việt.

Nguồn: Tân Việt.

    • Sách sử ấy về mặt tài liệu tuy còn thiếu sót nhiều vì điều kiện chưa cho phép tiếp cận nhiều tài liệu còn được lưu trữ. Nhưng bù lại, cuốn sách cố bảo đảm tính chân thực của tài liệu trong sự cẩn trọng và chừng mực nhờ đó vẫn giữ được sự tin cẩn của người đọc.
    • Điều thứ hai quan trọng không kém, sử gia Trần Trọng Kim có một quan điểm sử học tương đối khách quan và vô tư. Vì thế, vốn có khi tiết của một nhà nho, nhưng lại được đào tạo có bài bản, nhưng trong hơn 100 trang chót của cuốn sách, ông vẫn thẳng tay phê bình khá nặng nề bằng lý luận sắc bén vua quan nhà Nguyễn là sai lầm trong việc giết hại Gia Tô giáo cũng như chính sách ngoại giao cứng rắn với phương Tây.

Đáng lẽ đến giờ phút này của lịch sử thì mọi người phải hiểu chuyện và đừng đổ tội quanh để bào chữa cho triều đình nhà Nguyễn.

Vậy mà vẫn có một số người tự nhận có ăn học – ăn học đến nơi đến chốn – vẫn chưa nhận ra được sự thật!

Giết hại người theo Gia Tô giáo tự nó không giải quyết được gì mà chỉ làm cho tình trạng thêm trầm trọng và là cái cớ chính đáng cho người Pháp vào Việt Nam.

Phải chăng vì thế mà bà Thụy Khuê thẳng thừng xếp Trần Trọng Kim vào loại tác giả viết theo quan điểm thực dân của giáo sĩ và quân đội viễn chinh?

3/ Điểm thứ ba, để biện minh cho quan điểm của mình, bà đề cao các sách sử nhà Nguyễn như

“Đại Nam Thực Lục, Đại Nam liệt truyện, Khâm định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ, v.v. Nhờ thế mà ta biết được những gì đã xảy ra trong nội bộ triều Nguyễn, những bàn luận giữa vua và các đại thần về chính sách đối phó với ngoại xâm… Cũng nhờ đó mà ta có thể gột rửa nhãn hiệu ‘bạo chúa’, ‘ Néron Annam’ mà các thừa sai đã gán cho vua Minh Mạng từ hơn 100 năm nay.”(4).

Xin thưa với bà Thụy Khuê là tôi đồng ý một phần nhỏ với bà là các sách sử triều Nguyễn đều do các vị đại thần uy tín đứng chủ trì – như Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành, v.v. Thời gian kéo dài trong nhiều năm nhất là phần Chính Biên. Nhưng các vị đại thần ấy viết một câu một chữ cũng phải đắn đo, suy nghĩ vì nếu không cẩn trọng thì cái đầu trên cổ cũng không còn. Có sử quan nào không viết tốt cho triều đại họ đang phục vụ và ban phát bổng lộc, áo mũ, cân đai cho họ?

Trong hoàn cảnh viết như thế thì sự trung thực được bao nhiêu phần? Đó là thứ sử của triều Nguyễn không phải sử Việt viết về người Việt. Chỉ là những câu chuyện của vua quan mà không có câu chuyện của người dân Việt.

Vậy, thưa bà Thụy Khuê, bà tìm được sự thật gì trong hàng ngàn trang sách sử ấy?

Tôi xin phép dở tập II, Đại Nam Liệt Truyện viết về Bá Đa Lộc để thấy các nhà chép sử một cách có hệ thống đã tìm cách đánh tụt giá vai trò của ông trong sự xây dựng kinh đô nhà Nguyễn như thế nào.

Tại sao các sử gia triều Nguyễn đã cố tình coi nhẹ công lao của Bá Đa Lộc? Chẳng lẽ bà Thụy Khuê ngây thơ đến không biết rằng càng tránh né không nhắc đến công lao của Bá Đa Lộc, việc thống nhất đất nước càng thêm có chính nghĩa, càng thêm sáng tỏ.

Việc bà Thụy Khuê tìm đủ mọi chứng liệu làm thế nào chứng tỏ được tài năng của Nguyễn Ánh Gia Long, bất chấp thực tế lịch sử buộc tôi một lần nữa xếp bà vào trường hợp những tác giả theo Sô Vanh chủ nghĩa.

“Năm Canh Tý (1780), Thế Tổ Cao Hoàng Đế lên ngôi vương ở Gia Định, Đa Lộc đến yết kiến xin cố sức giúp việc, vua nhận lời. Ở Tây 4 năm, người Tây Dương không chịu giúp. Năm Kỷ Dậu lấy lại Gia Định, bèn đưa Hoàng Tử Cảnh về. Khi đã trở về, vua cho là có công trèo non vượt biển riêng ưu đãi thêm làm Đạt mệnh điều chế tần thủy bộ viện binh, giam mục Thượng sư.”(5)

Chỉ một đoạn văn trích ngắn trên đây cho thấy sử quan triều Nguyễn đã cố tình lái câu chuyện và xóa trắng công lao của Bá Đa Lộc bên cạnh Nguyễn Ánh như thế nào?

Có chỗ nào cho thấy, Bá Đa Lộc “xin yết kiến, xin cố sức giúp việc”?

Trong bài “Bác cái thuyết “Nước Pháp giúp nước Nam về hồi cuối thế kỷ XVIII”” của Phan Khôi đăng báo năm 1928, tác giả viết,

“Việc nầy quan hệ với nước Nam nhiều hơn, cho nên phải lấy sử sách của người Nam chép ra làm chủ yếu.

Sách Đại Nam chánh biên liệt truyện về truyện Bá Đa Lộc chép rằng:

“Năm Giáp Thìn (1784), mùa thu, vua (Gia Long) lấy quân Xiêm về đánh Gia Định, bị thua. Vua lại trở qua nước Xiêm, sai người sang Chơn Bôn vời Bá Đa Lộc về phò Hoàng tử Cảnh qua Tây cầu viện. Ở Tây bốn năm, người Tây không có thể giúp được; năm Kỷ Dậu (1789) khi vua đã lấy lại Gia Định rồi, Bá Đa Lộc bèn đem Hoàng tử Cảnh trở về.”

(Xem Đại Nam chánh biên liệt truyện cuốn 28, tờ 8).

Sách Quốc triều chánh biên toát yếu, về năm Quý Mão (1783) vào năm vua Cao hoàng tức vị tại Gia Định được bốn năm, chép rằng:

“Vua nghe Bá Đa Lộc ở Chơn Bôn (đất Xiêm), sai người đi mời về. Bá Đa Lộc là người nước Pháp, thường đi truyền đạo trong các xứ Chơn Lạp và Gia Định, đã từng đến yết kiến vua, vua lấy khách lễ mà đãi. Lúc đó mời đến, vua bảo rằng: Vận nước ta đương hồi khốn khó, giặc giã chưa yên, thầy cũng vẫn biết ; bây giờ thầy có thể vì ta đi sứ bên nước Tây, nói với họ đem binh qua giúp ta không? Bá Đa Lộc bằng lòng xin đi, và hỏi lấy gì làm con tin. Vua đáp rằng: Con trai ta là Cảnh, lên bốn tuổi, nay ta đem nó mà phó cho thầy, thầy hãy giữ gìn lấy nó, đường sá xa xuôi, nếu gặp sự ruổi ro gì thì bảo hộ nó một chút. Bá Đa Lộc vâng lời.

Vua cùng bà phi gạt lệ mà đưa đi. Vua có sai phó vệ uý là Phạm Văn Nhân và Cai cơ là Nguyễn Văn Liêm đi với.””

(Nguồn: Phan Khôi, “Bác cái thuyết “Nước Pháp giúp nước Nam về hồi cuối thế kỷ XVIII””, Đông Pháp thời báo, Sài Gòn, s.720 (15.5.1928) ; s.721 (19.5.1928), viet-studies.info đăng lại.)

Cùng quan điểm “bác cái thuyết ‘Nước Pháp giúp nước Nam’” nhưng Phan Khôi trích dẫn “khác” với Thuỵ Khuê.

Trong bao nhiêu năm trời đi theo Gia Long, lúc vào sinh ra tử, sách vở Tây Phương như Alex Faure đã dành hẳn một cuốn sách nhan đề: “Mgr Pigneau de Béhaine, Évéque D’Adran”, Paris, 1801. Bà Thụy Khuê cũng hằn học với cuốn sách này.

Trong cuốn Vua Gia Long, J.B. Dronet, xuất bản tại Hồng Kông, năm 1913, người viết đưa ra hai bản – một của Đại Nam Liệt Truyện để so sánh tìm hiểu xem cái nào là thật, cái nào là che dấu? Đây là lối trình bày rất chân thật, nhưng vụng về của lối văn thời bấy giờ:

Sau này, tác giả Ngô Bắc có đưa lên mạng một bản tương tự mà theo tác giả Ngô Bắc tìm thấy được ở thư viện đại học Nornthern Illinois University.

“Đời ấy đã lâu năm, chúa trị đàng trong, chúa trị đàng ngoài hay đánh nhau, rồi kế đến giặc Tây Sơn nổi lên, nó đã hạ được nhiều tỉnh đàng trong; đến sau ông Thái Đức (Nguyễn Nhạc) lại hạ được tỉnh Phũ Xuân (Thành Huế), là kinh đô chúa Nguyễn, giết chúa Nguyễn cùng các con cái người nữa, chỉ còn độc một ông Nguyễn Ánh thoát khỏi được mà thôi; ông này không chết, song túng cực mọi đàng, của gì cũng không còn nữa, không có ai giúp đỡ, không biết tin cậy vào đâu…”

“Vậy đang khi ông Nguyễn Ánh còn ở trong thuyền mà trốn ẩn trong bụi lau khóm lác, tình cờ gặp một thầy cuả bản cuốc, tên là Phê rô, cũng chạy giặc ra trốn ở đấy. Khi ông Nguyễn Ánh biết tỏ người ấy là thầy giảng đạo, thì mới tỏ mình ra cùng xin người cứu giúp mình: tức thì thầy cả ấy đem ông Nguyễn Ánh vào nhà Đức thầy Phê rô ở tỉnh Hà Tiên. Chẳng may khi ấy Đức thầy Phê Rô sang Cao Miên, bấy giờ thầy cả gởi tờ cho Đức Thầy Phê Rô được hay, và nhứt diện tìm nơi kín đáo trong rừng cho ông Nguyễn Ánh ẩn trú cùng tư cấp lương thực cho người đủ dùng trong hai ba tháng giời.”(6)

Bà Thụy Khuê có thể vô tình không đọc đoạn văn này chăng?

Để gián tiếp trả lời bà Thụy Khuê, tác giả Nguyễn Duy Chính, một tác giả chuyên khảo về đời Tây Sơn, đã cho đăng một bài biên khảo của ông nhan đề “Sự đóng góp của Giám Mục Pigneau de Béhaine vào công cuộc cải cách ở Gia Định.”.

Tiếp đến Phan Khoang, Nguyễn Thế Anh, Đào Đăng Vỹ, Nguyễn Khắc Ngữ và nhất là Tạ Chí Đại Trường. Tất cả không trừ đều rập theo “sử quan thuộc địa” để xác định công lao của Bá Đa Lộc và những ‘sĩ quan’ Pháp trong việc giúp Gia Long dựng lại cơ đồ.

Có thể trích dẫn quan điểm của bà Thuỵ Khuê về tình hình sử học của ta trong nhận xét sau đây của bà:

“Về phần người Việt, sau hơn thế kỷ bị Pháp đô hộ, đã mất gần hết bản tính tự cường về tư tưởng, trở thành ỉ lại, cái gì người ngoài, người Âu, nhất là người Pháp làm, đều hơn ta cả. Đó là lý do giải thích, đã không có lấy một bài viết nào đả phá những sự sự bịa đặt thô thiển của những ngòi bút thực nào khả dĩ có thể thay thế được cuốn sử của Trần Trọng Kim.

Và đó cũng là cái nhục tinh thần của một đất nước;”(7)

Sự bênh vực gián tiếp cho Minh Mạng nhằm rửa sạch vết nhơ bạo chúa đặt bà vào một hoàn cảnh khó xử. Một cách nào đó, bà gián tiếp tán thành chính sách cấm đạo của vua quan triều Nguyễn mà tất cả các sử gia nêu trên đều đồng loạt lên án.

Bà từng cho rằng đã trên 50 năm sống ở nước Pháp, hiểu được nước Pháp, mà một nguyên tắc căn bản là quyền tự do tín ngưỡng đã bị vua quan nhà Nguyễn chà đạp, biến thành luật pháp quốc gia để từ đó giết hại hàng trăm ngàn người dân vô tội bằng những hình phạt dã man nhất dành cho con người như cho voi giầy, xé xác!

Đó là một thứ tội ác mà không có một thứ lời bào chữa nào có thể chấp nhận được.

Quan điểm nhìn lịch sử của bà về việc bênh vực vua quan triều Nguyễn là một quan điểm nhìn lạc hậu, cực đoan, phản lại mọi lý tưởng về quyền tự do con người ở thế kỷ 21.

Bà thử nghĩ xem, các nhà truyền giáo đã thất bại tại xứ Xiêm La vì những người phật tử ở nơi đấy trung thành với nhà vua của họ đồng thời cảm thấy Phật giáo là đủ cho họ và không cần một tín ngưỡng ngoại lai nào khác!

Tại sao ở Việt Nam thì có hiện tượng trái ngược?

Bà thử làm một so sánh giữa các vua Xiêm La và Vua Việt Nam xem thử như thế nào?

Chỉ về đường thê thiếp, các vua kể từ Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị tổng cộng có hơn 200 thê thiếp và hơn 200 dòng con. Riêng Minh Mạng là người chiếm kỷ lục và nổi danh về đường tình dục hủ hóa. Trong một dịp hạn hán nghĩ là điềm không lành, ông đã cho về quê 100 cung phi. Cứ giả dụ ông có 300 cung phi, sáng một đứa con gái, tuổi đáng con, chiều một đứa, tuổi đáng cháu thì sức đâu để điều hành đất nước?

Xét về mặt y khoa, dâm dục quá độ như thế thì khả năng truyền giống sẽ đưa tới hậu quả nghiêm trọng như thế nào? Tuổi thọ trung bình của các công chúa là không quá 21 tuổi. Trong hơn 200 công chúa và hoàng tử trên đều giao cho các hoàng tôn trông coi, nuôi nấng và trong suốt gần trăm năm nhà Nguyễn không có lấy nổi một vài người có đủ năng lực, tài đức kế vị ngôi báu.

Trong một bài viết khác của tôi nhan đề Tấm vải bọc điều, tôi nhận thấy Gia Long có 13 hoàng tử, 18 hoàng nữ, cộng chung 31 người. Minh Mạng nhiều hơn, có 74 hoàng tử, 64 hoàng nữ, cộng chung 142 người. Thiệu Trị có 29 hoàng tử, 53 hoàng nữ, cộng chung 64 người. Cả ba nhà vua, số con cộng lại là 233, cộng với ba người con nuôi của Tự Đức là 236.

Trong số 236 người này đều được ăn học đến nơi đến chốn, liệu có được vài ba người có khả năng làm vua có tài có đức?

Không có. Vì thế mới có cảnh xoán ngôi đoạt vị xẩy ra.

Người cuối cùng là Bảo Đại, vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn, được ăn học đàng hoàng, cũng là hình ảnh mục nát của cả một dòng họ.(8)

Sử gia Tạ Chí Đại Trường

Trong số các sử gia nêu trên, bà Thụy Khuê dành sự phê phán nặng nề nhất đối với Tạ Chí Đại Trường.

Bà viết,

“Thực kinh hoàng, khi thấy một người viết sử Việt Nam, không những đã phụ họa sự sai lầm của Lavoué, thêm thắt vào để xuyên tạc lịch sử đến như vậy. (9) (Trích dẫn Tạ Chí Đại Trường trong Lịch sử nội chiến ở Việt Nam, trang 298-290).

Nguồn: Nhã Nam

Nguồn: Nhã Nam

Chỗ khác, bà viết,

Bà kết luận,

(Còn tiếp phần 7b, 7c)

© 2016 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”

Nguồn: Bài và chú thích của tác giả. DCVOnline minh hoạ.

(1) Thụy Khuê, “Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long”, chương 2, Bộ sử Nguyễn Văn Tường.

(2) Thuỵ Khuê, Ibid., Chương 1.

(3) Thuỵ Khuê, Ibid., Chương 1.

(4) Thuỵ Khuê, Ibid., Chương 1.

(5) Đại Nam Liệt truyện, tập 2, Quốc sử quán triều Nguyễn, trang 505-506.

(6) Bản của Ngô Bắc, trích trang đầu.

(7) Thuỵ Khuê, Ibid., Chương 9.

(8) Về các công chua nhà Nguyễn, xem Đại Nam liệt truyện, Nhị quyển, trang 171 trở đi.

(9) Thụy Khê, Ibid, chương 10, Bài Introduction của Ste-Croix.

(10) Thuỵ Khuê, Ibid., Chương 10.

Tham vọng viết lại lịch sử Việt Nam: Trường hợp Thụy Khuê (7b)

Posted on June 2, 2016 by editor1 Comment

Nguyễn Văn Lục

“Nhưng đáng buồn hơn cả là sự vinh thăng Bá Đa Lộc làm chủ soái của Tạ Chi Đại Trường, ông viết,

‘Vào gần nửa đêm một ngày nào đó, ông (Nguyễn Ánh) đi tìm Bá Đa Lộc để hỏi ý kiến. Ông này phân vân giữa Đỗ Thành Nhân và Nguyễn Ánh, cả hai người ông đều có ý giữ liên lạc, để lợi dụng truyền đạo, nên trả lời thoái thác một cách khôn ngoan. Ánh khóc về, vẫn không bỏ ý định giành lại quyền bính.’ (Tạ Chí Đại Trường, Lịch sử nội chiến, trang 99).

Ở một đoạn khác Tạ Chí Đại Trường viết, ‘Từ đầu tháng 3-1783, Bá Đa Lộc dã phải hội bàn với Nguyễn Ánh về việc tránh Tây Sơn.’

“Không cần dẫn thêm, chúng ta đã thấy tinh thần Ste-Croix trải dài trong cuốn Lịch Sử Nội Chiến Việt Nam của Tạ Chí Đại Trường, thông qua Faure, Maybon, Taboulet…”(10)

vua_gialong

Một vài dẫn chứng trên đây không đủ cho phép bà Thụy Khuê gán ghép cho Tạ Chí Đại Trường cóp nhặt và chịu ảnh hưởng của một số sử gia Tây phương trên toàn bộ cuốn sách của ông.

Nhìn lại sử Việt | Tham vọng viết lại lịch sử Việt Nam: Trường hợp Thụy Khuê (7b)

(Tiếp theo phần 7a)

Bá Đa Lộc. Nguồn: Tao-Kim-Hai, “L'indochine Francaise depuis Pigneau De Behaine”, 1939

Bá Đa Lộc. Nguồn: Tao-Kim-Hai, “L’indochine Francaise depuis Pigneau De Behaine”, 1939

Việc truy tìm sự kiện lịch sử trở thành khó khăn, bởi vì sự kiện lịch sử không phải bao giờ cũng là cái xuất hiện mà là cái không lộ diện, cái che dấu, cái động lực ngầm. Chẳng hạn nói “Phò Lê, Diệt Trịnh” đã chắc gì đúng như thế! Hay chỉ là cái cớ “chính nghĩa” để che đậy mưu đồ không nói ra.

Người viết sử đôi khi phải đi con đường vòng, tìm lại cái nẻo khuất để hiểu tại sao sự việc nó lại như thế, tại sao tác giả lại viết như thế và tại sao không viết như thế.

Lịch sử là đi tìm cái tại sao, cái nguyên do, cái không lộ diện.

Về điểm này, tôi có những nhận định trái với bà Thụy Khuê về cách viết của ông Tạ Chí Đại Trường(11)

Trở lại những lá thư của Nguyễn Ánh viết bày tỏ tâm sự với Bá Đa Lộc. Những lá thư ấy với lối hành văn cổ không mấy dễ đọc.

Những lá thư ấy đã được cố đạo Cadière sưu tập được và chú giải.

Công thu tập tài liệu đứng về mặt sử liệu là công khó nhất, không dễ mấy ai cũng làm được!

Tạ Chí Đại Trường viết,

“Đáng chú ý hơn, chính là thư của Nguyễn Ánh viết ra trong lúc còn lưu vong hoặc mới tái tạo cơ đồ, chưa vững vàng bề thế, khiến chúng ta thấy rõ con người ông hơn, con người mà các sử quan tả bằng những sáo ngữ với những hình ảnh ý niệm dành cho các bậc vua chúa Đông phương ‘thông duệ túc thành’ ‘phước mạng đế vương’ đến qua sông có cá sấu đưa đi, giặc đuổi có cây ngã chặn đường phía sau.

Đọc thư, chúng ta thông cảm với một thường nhân lênh đênh lao khổ thốt lời chua chát với số mệnh đắng cay, một người bạn thành thực chí tình, một người cha thương nhớ con xa cách trong khi day dứt chưa làm tròn bổn phận với dòng họ, tổ tiên.

Chính tính chất có liên lạc mật thiết với cá nhân một nhân vật lịch sử quan trọng này mà sử liệu đưa ra có thể liệt vào hàng quan trọng.”(12)

Đó, công việc mà Tạ Chí Đại Trường đã thực hiện, phải chăng là công việc của sử gia?

Hãy đọc thêm hai tài liệu.

1. Bài chí viết bằng chữ Nôm ở lăng Bá Đa Lộc, do Đốc học Nguyễn Gia Cát soạn và Hữu tham tri bộ binh Lê Quang Định viết chữ, dựng bia vào tháng 8 năm Canh Thân 1800 theo lệnh của Nguyễn Ánh:

“- Đức Thầy vốn người nước Đại Pháp, tên Bi Nhu, hiệu Bá Đa Lộc, tu học đạo Thiên Chúa giáo từ nhỏ nhưng mọi kinh điển thánh hiền Trung Quốc đều thông thạo. Thuở trẻ đến nước ta, gặp lúc có nhiều nội loạn, đức thầy nhận lời làm quốc khách, đem tài năng ra thi thố, khuông phò giữa buổi nghiêng ngửa hiểm nguy. Lại vâng trọng trách giao phó xuất ngoại cầu viện binh, đi về vất vả nhọc nhằn gần kiệt lực. Suốt hơn 20 năm bày kế sách tham mưu, góp ý kiến bình định, thành tích xây dựng vẻ vang ấy rất xứng đáng lưu truyền hậu thế. Vận nước dần dần được khôi phục, phần lớn đếu nhờ công lao của đức thầy.

– Năm Kỷ Mùi (1799), khi theo quân ra đánh phủ Quy Nhơn, đức thầy mất ngày 11/9 (âm lịch) tại cửa biển Thi Nại, hưởng thọ 57 tuổi. Tháng 10 được phong tặng Thái tử Thái phó quận công, an táng ở nhà nguyện cũ của đức thầy tại phía bắc thành Gia Định. Nhân thế mới làm bài chí.

Dựng bia ngày lành tháng 8 năm Canh Thân (1800).

Đốc học Hoa Xuyên hầu Nguyễn Gia Cát vâng mệnh soạn.

Hữu tham tri bộ binh Định Thành hầu Lê Quang Định vâng mệnh viết.”

(Nguồn: Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết, “Bài Văn Bia ở Lăng Đức Cha Cả Bá Đa Lộc”)

2. Bài văn tế Bá Đa Lộc của vua Gia Long trích lại trong bài về “Cuộc giảng-diễn về hai bài văn tế của Quan Thượng Giáo dục Phạm Quỳnh” đăng trên Phụ trương Báo Tràng An, số 70, trang 1, 29 tháng Mười, 1935.

Nguồn: Thư viện Quốc Gia Việt Nam | DCVOnline

Nguồn: Thư viện Quốc Gia Việt Nam | DCVOnline

Bởi Gia Long – 1799 document. Reproduction in Mantienne "Monseigneur Pigneau de Behaine"., Phạm vi công cộng, https://commons.wikimedia.org/w/index.php?curid=4812406

Điếu văn của Gia Long – 1799 document. Reproduction in Mantienne “Monseigneur Pigneau de Behaine”, Phạm vi công cộng, https://commons.wikimedia.org/w/index.php?curid=4812406

Trong bài “gỉang-diễn về hai bài văn tế” Phạm Quỳnh cũng đã dẫn Charles B. Maybon, ông viết,

“Nhà sử học Maybon có nói, ‘Trong mười năm ở xứ Nam kỳ, Đức cha vừa là Binh-bộ và Ngoại giao bộ Thượng thơ của Đức Gia-Long. Mọi việc hành động của ngài đều đã có bàn bạc trước với Đức cha cả những thơ từ của ngài gởi cho các quan thủ hiến Phi-luật-Tân, Macao, Bengale, cho vua Hồng-mao, vua Đan-mạch cũng vậy, đều do tay Đức cha thảo cả.”

Không thấy bà Thuỵ Khuê gọi Phạm Quỳnh là “Quan Thượng Giáo dục ‘thuộc địa’ hay ‘thực dân’” trong bài khảo sát của bà.

Còn vua Gia Long, với lời lẽ trong văn tế Bá Đa Lộc như trên, ông là cái gì? “Vua thuộc địa” hay “Vua của thực dân”?

Và nếu bà Thụy Khuê đọc kỹ những lá thư đó và những tài liệu thượng dẫn có lẽ bà sẽ có một quan điểm nhìn trung thực và chia sẻ hơn về Bá Đa Lộc. Và điều quan trọng, bà mới hiểu được mối liên hệ giữa hai người hầu như có chung một số phận? Tại sao Nguyễn Ánh không viết những lá thư này cho một người khác như Lê Văn Duyệt?

Công việc này, theo thiển ý, sử gia Tạ Chí Đại Trường trong “Lịch sử nội chiến ở Việt Nam” của ông đã lý giải được nhiều điều bên lề, tưởng như vô tích sự như cuộc cãi vã giữa De Conway và Bá Đa Lộc ở Pondichéry.

Qua cuộc đấu trí ấy, tôi đánh giá được một điều quan trọng: tài trí và sự biến báo của Bá Đa Lộc trong những tình trạng tưởng như tuyệt vọng. Tôi cũng hiểu được tình thế lúc bấy giờ chưa hẳn ngã ngũ, còn năm bè bẩy mối, đã có mầm mống của sự loại trừ dần — như một cuộc đào thải tự nhiên để chỉ còn lại hai đối thủ cho hồi chung cuộc. Đó là Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh.

Sự chọn lựa và quyết định lúc đầu của Bá Đa Lộc có thể chỉ là do hoàn cảnh ngẫu nhiên. Nhưng lúc ở Pondichéry thì không còn hẳn là như vậy.

Cán cân quyền lực nghiêng về phía nào tùy thuộc vào con bài tẩy của họ là ai? Bá Đa Lộc là lẽ tất thắng với kẻ nào sử dụng được ông.

Vì thế, khi đọc nhận xét của bà Thụy Khuê đánh thấp vai trò Bá Đa Lộc, tôi cho là một sự đánh giá hời hợt khi nhận xét về người và sự việc.

Không phải vô lý mà Tạ Chí Đại Trường đánh giá cao con người Bá Đa Lộc.

Theo Tạ Chí Đại Trường, mối quan hệ giữa họ phải như thế nào, phải đặc biệt để Nguyễn Ánh bày tỏ tâm sự của mình, những tâm sự thầm kín nhất, phải là người ở trong vòng thân tín nhất.

Đôi khi Bá Đa Lộc phải là chỗ tựa của Nguyễn Ánh.

Bá Đa Lộc đâu có phải thuộc loại hoạn quan, tối ngày quỳ dưới trướng vâng dạ bảo vâng, túc trực bên cạnh vua để phỉnh phờ!

Có một trăm loại quan đó cũng chẳng ích lợi gì cho sự nghiệp thống nhất đất nước của Nguyễn Ánh cả.

Cho nên đánh giá cái công của Bá Đa Lộc đối với Nguyễn Ánh không phải chỉ vỏn vẹn là mấy chiếc tầu đồng, mấy khẩu đại bác. Cái đó cũng tốt. Nhưng chỉ nghĩ đến sự giúp đỡ vật chất giữa Bá đa Lộc và Nguyễn Ánh thì hạn hẹp quá.

Sự giúp đỡ vật chất của Bá Da Lộc chưa đủ xây dựng một sự nghiệp lâu dài cho Nguyễn Ánh.

Công lớn nhất của Bá Đa Lộc là biết đưa ý kiến, biết can đảm có lời khuyên can, biết mở mắt cho Nguyễn Ánh ngay cả cách sử sự ở đời, biết sử dụng kỹ thuật trong việc đóng tầu đồng, biết việc xây thành kiên cố, biết việc huấn luyện binh sĩ, biết dùng các loại thuốc nổ.

Nhưng điều này đã được Borrow diễn tả đầy đủ.

Bản thân Bá Đa Lộc là một nhà tu hành, ngay việc xử dụng một cây súng hẳn cũng chưa hề biết.

Trên:  Chiến thuyền Ville de Paris in Rochefort, 1764 Nguồn: Tác giả nặn danh - Europeana, domaine public, Public Domain, https://commons.wikimedia.org/w/index.php?curid=20944788. Dưới:  Chiến thuyền của cướp biển Tầu đầu thế kỷ 19 ở Quảng Đông. Nguồn: http://www.greendragonsociety.com/. Cướp biển Trung Hoa là một phần lực lượng của Tây Sơn.

Trên: Chiến thuyền Ville de Paris in Rochefort, 1764 Nguồn: Tác giả nặn danh – Europeana, domaine public, Public Domain, https://commons.wikimedia.org/w/index.php?curid=20944788.

Dưới: Chiến thuyền của cướp biển Tầu đầu thế kỷ 19 ở Quảng Đông. Nguồn: http://www.greendragonsociety.com/.

Cướp biển Trung Hoa là một phần lực lượng của Tây Sơn.

Vấn đề là ông biết cung cấp các tài liệu – ai dịch là chuyện nhỏ – dịch các tài liệu về cách đóng tầu, cách xây thành trì như các thành Gia Định, Diên Khánh; chuyện còn lại, ai xây, xây thế nào – đôi khi chỉ cần xây một thành mẫu đầu tiên. Các thành sau cứ thế mà bắt chước, đâu còn là câu chuyện khó khăn nữa?

Vấn đề đặt ra đối với tôi ai xây cũng không mấy quan trọng, nhưng ai là người đưa ra bản hoạ đồ xây cất, ai là người vẽ họa đồ? Và hơn thế nữa là tìm hiểu xem các thành ấy có khác với các thành cũ không?

Nó khác ở chỗ nào? Trên thực địa, tại sao quân Tây Sơn do Trần Quang Diệu vây hãm mãi mà không phá được thành Diên Khánh?

Nhưng điều thứ hai không kém quan trọng là phải có một Nguyễn Ánh. Nguyễn Ánh là một vị vua hiểu biết, thông minh, trì chí, chịu khó học hỏi, tìm tòi thêm.

Đã có một Bá Đa Lộc thì phải có một Nguyễn Ánh. Thiếu một trong hai là chuyện không thành.

Nguyễn Ánh chịu học hỏi, mua tàu cũ của Tây Ban Nha, mang về, tháo ra từng mânh, học cách lắp ráp, cách thiết kế, cách vận hành. Có hàng trăm chi tiết kỹ thuật phải nhờ đến sự chỉ dẫn của đám chuyên viên người Pháp.

Đã có nhiều đoạn văn mô tả lại chân dung Gia Long như trong Sử Ký Đại Nam Việt, của Shinoken Seishi, của Chaigneau, của Le Labousse và của Barrow. Tất cả nói chung đều đã được bà Thụy Khuê trích dẫn đầy đủ. Các tài liệu ấy đều đưa ra những lời khen ngợi về tài trí, đức độ, sự khôn ngoan của Nguyễn Ánh.

So với địch thủ số một của ông là Tây Sơn Nguyễn Huệ, lúc đương thời nào đã có mấy ai viết được như thế về Tây Sơn? Người ta biết Tây Sơn ở mặt nổi như tài dùng binh, một thiên tài quân sự. Và Đống Đa là tuyệt đỉnh của Tây Sơn.

Một người lãnh đạo đất nước chắc cần nhiều đức tính hơn thế nữa. Phải trí dũng song toàn. Một trong những đức tính tôi cho là rất quan trọng: Nguyễn Ánh là người biết nghe theo lời khuyên của Bá Đa Lộc.

Ông bớt tàn bạo, hẳn là do lời khuyên của Bá Đa Lộc? Không chỉ biết cai trị bằng roi kiếm mà bằng phủ dụ như Labousse viết:

Hiện nay, đoạn văn mà Barrow mô tả chân dung Nguyễn Ánh, theo tôi, được coi là đầy đủ, chi tiết và có thể là xác thực hơn cả. Về điểm này cũng cần nhìn nhận, chương 6, viết về chân dung vua Gia Long của bà Thụy Khuê là được hơn cả.

Lý do rất đơn giản. Khen gia Long thì bà để yên. Nhưng khen Bá Đa Lộc thì ráng mà nghe bà chửi.

Và chúng tôi xin mạn phép bà trích lại một vài đoạn.

“Ông có đủ tất cả các đức tính của lương tâm lẫn trí tuệ. Ông có lòng tri ân, hào hiệp, tinh tế về điểm danh dự; anh hùng trong nghịch cảnh, chịu đựng thất bại với lòng can đảm xứng đáng với vị hiền nhân [chỉ Bá Đa Lộc] đã rèn luyện ông.”(13)

“Từ năm 1790, năm Gia Long về lại Nam Kỳ, tới 1800, chỉ có hai năm không đánh nhau là 1797 và 1798, cũng chính là hai năm quan trọng nhất dưới triều đại của ông, cho tới nay đầy bão tố. Dưới sự trợ lực của giám mục Adran, mà ông tham vấn như một người thông bác, ông đã làm hết sức để đất nước tiến triển: lập xưởng làm thuốc súng ở Fen-tan (Hội An) (thuộc đất Chàm trên bản đồ), mở mang đường, trồng cây, trồng mía, trồng trầu cau đã bị chiến tranh tàn phá, khuyến khích việc nuôi tằm, dệt lụa, lập xưởng điều chế nhựa thông, hắc ín, chế tạo hàng nghìn súng hỏa mai, khai mỏ sắt và xây lò nung. Lập quân đội chính quy và lập trường võ bị, với các huấn luyện viên người Âu luyện tập cho các sĩ quan cách bắn và phóng pháo. Adran còn dịch sang chữ Hán một bản nghiên cứu chiến lược để dùng trong quân đội.

Trong hai năm này, nhà vua đã cho đóng ít nhất 300 chiến thuyền có đại bác hoặc ghe chèo, 5 thuyền ba cột buồm, một chiến hạm theo lối Tây Phương. Ông sáng chế ra một chiến thuật mời cho thủy binh và dạy sĩ quan hải quân biết đùng dấu hiệu. Một trong những người Anh mà tôi đã nói ở trên, cho biết đã nhìn thấy ở Sài gòn năm 1800, một hạm đội gồm 1200 thuyền buồm do chính ông điều khiển, nhổ neo và tiến trên sông với một trật tự thật đẹp, chia làm ba đoàn, thẳng hàng tiếp chiến, mở đóng hàng ngũ và thi hành tất cả những thao tác theo đúng hiệu lệnh.

Trong khoảng thời bình này ông còn sửa đổi cả luật pháp nữa, và chắc chắn có bàn tay giám mục giúp sức. Ông bỏ những hình phạt tàn ác vẫn được áp dụng cho tới đó..Ông lập trường công, bắt trẻ con từ 4 tưởi trở lên phải đi học. Ông xác định lãi xuất hợp pháp cho ngành thương mại, xây cầu trên sông, làm cầu phao, đặt phao nổi trên biển báo hiệu những nơi nguy hiểm có đá ngầm, thanh tra các hải cảng và những vịnh chính, gửi nhiều phái viên về các rừng núi miền Tây, nơi có người Mèo và người Lào sinh sống trong tình trạng bán khai để dẫn họ về với đời sống văn minh hơn, những người miền núi này mà người Tàu vẫn gọi một cách hạ thấp là ‘người có đuôi’, mặc dầu, có thể, tiền nhân của họ ngày trước đã xây dựng nên nền văn minh của đế quốc hiện thời.

Để có một ý niệm về hoạt động thiên tài của ông, chỉ cần xem những tình huống mà ông đã trải qua: mới đầu chỉ có một chiến hạm, mà trong vòng không đến 10 năm, đã có một hạm đội 1200 chiến thuyền, trong đó có ba tầu kiến trúc Tây Phương, khoảng 20 thuyền buồm lớn theo kiểu Trung Quốc hoàn toàn trang bị võ khí, chỗ còn lại là tầu chuyên chở có trang bị súng đại bác.

Đối với người ngoại quốc, ông rất tử tế và ân cần. Ông quý mến những sĩ quan Pháp giúp ông, đối xử với họ lịch sự, thân tình và rất tốt. Không bao giờ ông đi săn hay dự một cuộc vui nào mà không mời một người trong bọn họ tham dự. Ông tuyên bố công khai lòng kính trọng của ông đối với các tôn chỉ của đạo Thiên Chúa, ông dung đạo chúa như các đạo khác trong nước (…) Nhờ giám mục Adran dịch một mục từ trong Bách Khoa toàn thư sang chữ Hán, ông biết được khoa học và nghệ thuật Tây Phương, đặc biệt ông chú trọng đến thuật hàng hải và thuật đóng tầu. Người ta đồn, điều này không được phép nói ra, ràng để kết nối lý thuyết kiến trúc tầu với thực hành, ông đã mua một chiến hạm Bồ, rồi tháo ra từng mảnh, từng tấm ván một, bắt chước đúng kích thước đó mà làm lại, cho đến khi ông thay thế tất cả các bộ phận bằng những mảnh mới làm để hoàn thành một chiếc tầu mới.

Nghị lực trí thức của ông ngang bằng với khí phách và hoạt động thể xác. Chính ông chủ động sự bùng lên mọi mặt của đát nước, chính ông quản đốc các hải cảng và các công binh xưởng, chính ông là giám đóc xây dựng những xưởng đóng tầu, chính ông chỉ huy các kỹ sư trong tất cả mọi công việc, không có gì thực hiện, không có gì chấp hành mà không hỏi ý kiến và nhận lệnh của ông. Không ai chế tạo một bộ phận nào mà không hỏi ông; không ai lắp một khẩu súng đại bác nào mà không có lệnh của ông. Không những ông trông coi từng chi tiêt nhỏ, mà còn phải làm trước mặt ông.

Để diều khiển tất cả công việc của mình một cách vững vàng, ông đặt ra một thời khóa biểu cố định. Và kỷ luật. Sáng dạy 6 giờ, tắm nước lạnh, 7 giờ các quan vào chầu, mở tất cả cong văn đến từ hôm qua, ông truyền lệnh cho các thư ký ghi chép, sau đó, ông ra xưởng tầu thủy ( xưởng chu sư) duyệt lại tất cả những gì đẫ làm xong lúc ông vắng mặt, rồi ông tự chèo thuyền đi khắp bến cảng, kiểm soát các chiến hạm, đặc biệt chú trọng đến súng đại bác, ông đi thăm lò đúc súng, đúc đủ loại đại bác ngay tại công binh xưởng (cục chế tạo).”(14)

Bà Thụy Khuê chỉ sốc nổi chăm chăm tìm tòi xem trong sách vở do sử quan nhà Nguyễn viết để lại chứng minh được rằng việc đóng tầu thuyền từ A tới Z đều do quan lại nhà Nguyễn đóng cả. Bà chỉ chú trọng đến những chi tiết nhỏ mà không dám đối diện sự thực.

Bà có thể dám cả quyết rằng không có Bá Đa Lộc thì Nguyễn Ánh cũng vẫn làm nên sự nghiệp hay không?

Bà có thể quả quyết điều gì làm nên sức mạnh Gia Long để có thể thắng được một người được coi là anh hùng đã thắng đại quân Thanh?

Điều gì khác biệt giữa Nguyễn Ánh và Gia Long? Cái mạnh và cái yếu của họ? Về điểm này, sách Tạ Chí Đại Trường đã phân tích, lý giải một cách lý thú đến nơi đến chốn.

Điều gì là yếu tố quyết định cho sự thắng lợi chung cuộc giữa hai đối thủ?

Cụ thể hơn bà có thể nào phân biệt được một chiếc thuyền buồm và một chiếc tầu đồng với hàng trăm chi tiết kỹ thuật khác nhau? Và nếu một ai đó chỉ cho bà biết mọi chi tiết kỹ thuật giữa hai loại thuyền, bà hẳn sẽ đỏ mặt vì thấy mình hung hăng quá, chủ quan và hãnh tiến dân tộc!

Từ tầu buồm sang tầu đồng là một khoảng cách kỹ thuật chẳng khác gì từ trái đất lên mặt trăng bà Thụy Khuê ạ.

Bà chịu ảnh hưởng ông Nguyễn Quốc Trị — giờ phút này mà còn mang kế sách trị nước “hòa để thủ, thủ để mưu chiến” của cụ Nguyễn Văn Tường ra để đương đầu với người Pháp? Chẳng biết có điên hay không?

Cho nên, tôi không thể nào chia sẻ với quan điểm của bà coi bộ sử “Nguyễn Văn Tường” của Nguyễn Quốc Trị là: “một công trình nghiên cứu thận trọng và chi tiết, mở đầu cho một khuynh hướng tìm lại, viết lại, đọc lại lịch sử Việt Nam.”

Và tôi càng không tin khi bà cho rằng,

Bà có thể nào biện luận về vấn đề thắng thua, về sự thành bại giữa hai người? Theo cách của ông Nguyễn Quốc Trị đặt ra: “Sự giúp đỡ của Bá Đa Lộc có quyết định sự nghiệp của Nguyễn Ánh không?”

Theo tôi, đề tài và câu hỏi của Nguyễn Quốc Trị đưa ra đó là một câu hỏi thừa nếu không ngớ ngẩn.

Nếu bà cứ một mực phủ nhận vai trò của Bá Đa Lộc và coi đó là sự vinh danh quá lố của thừa sai Ba Lê và bọn sĩ quan Pháp nhiều tên chỉ là hạng trốn lính, binh nhì!

Bà sẽ phải cắt nghĩa thế nào là kể từ khi Bá Đa Lộc trờ về từ Pondichéry thì quân đội Nguyễn Ánh mặc dầu đã chiếm được Sài Gòn. Nhưng chưa hẳn có dấu hiệu tất thắng một cách chung cuộc.

Và sau đó với sự góp công sức của Bá Đa Lộc và bọn Pháp đánh thuê, Nguyễn Ánh đã từ thế thủ đổi sang thế công, nhất là qua chiến thắng Tây Sơn ở trận thủy chiến Thị Nại?

Cũng tương tự như vậy khi tìm hiểu chế độ thực dân, nếu ta hiểu được rộng rãi các chế độ ấy trên toàn thế giới, hiểu được trào lưu lịch sử, người viết sử sẽ có một quan điểm nhìn thông thoáng hơn và nhất là ‘biết điều’ hơn.

Một sự kiện lịch sử như chế độ thực dân xẩy ra mỗi nơi, mỗi thời, mỗi khác.

Các nước Phi Châu ngoài việc bị khai thác sức lao động, từ đó còn tạo ra một chế độ buôn người, một hình thức của chế độ nô lệ còn sót lại! Xin xem thêm cuốn film “Bois d’ébène” để hiểu thêm về lịch sử chế độ nô lệ giữa Pháp và các nước Phi Châu.

Tại sao điều ấy lại không xẩy ra ở Việt Nam?

Nhưng mặt khác, người Pháp đã dễ dàng thu dụng lính thợ Việt Nam cho chiến tranh thế giới thứ nhất mà tổng cộng con số lên đến 92.411 người. Trong số đó, Tạ Chí Đại Trường ghi lại là nhiều người tình nguyện, ‘đi xa một lần cho biết’.(16)

Tại sao đi lính cho Pháp mà sẵn sàng tình nguyện đi một lần cho biết? Và tôi thách thức bà Thụy Khuê có thể cho biết tâm trạng những người đi lính cho Tây Sơn lúc bấy giờ như thế nào? Có bao nhiêu người tình nguyện? Có bao nhiêu người bị bắt lính? Và thành phần những binh lính ấy thuộc loại gì? Có bao nhiêu băng đảng thành phần du thủ du thực? Có bao nhiêu quân cướp biển Tầu? Có bao nhiêu lính được coi là chính quy?

Tôi cũng cắc cớ hỏi bà Thụy Khuê có thể cắt nghĩa thế nào cho hợp tình hợp lý, có một sự khác biệt gì giữa một số người Thiên Chúa Giáo theo Tây và được coi là nối giáo cho giặc, phải xử tử và những người tình nguyện sang Pháp đi làm lính thợ, lính đánh thuê, họ phải được gọi là gì và hình phạt cho họ phải là gì thưa bà Thụy Khuê?

Như đã viết trong các bài trước, tôi nghĩ rằng người Thiên Chúa giáo nghèo nàn được đối xử như một thứ lê dân không đủ tư cách để bán nước. Phần lớn họ, không phải theo Tây mà theo các cố Tây!

Theo Tây là về mặt chính trị như đi lính cho Tây, theo cố Tây là về mặt tín ngưỡng! Lựa chọn nào là trọng tội?

Họ là nạn nhân của một thể chế chính trị giữa kẻ đi cai trị và kẻ bị trị.

“Nhưng những gì ông đem ra ánh sáng cũng đủ khơi mào cho một khuynh hướng nghiên cứu lại lịch sử, trung thực và đào sâu hơn, để trả lại giá trị cho đại thần Nguyễn Văn Tường và triều đại nhà Nguyễn, nhất là vua Tự Đức, trong suốt thời kỳ trị vị, đã tìm mọi cách chống lại sự xâm lăng của người Pháp.”(15)

Trên: Người Việt đi lính cho Pháp trong WWI. Dưới: Giáo dân miền Bawsctreen đường di cư vào Nam 1954. Nguồn: Tổng hợp

Trên: Người Việt đi lính cho Pháp trong WWI. Dưới: Giáo dân miền Bắc trên đường di cư vào Nam 1954. Nguồn: Tổng hợp

Chẳng những thế, việc đi lính cho Tây còn biến thành một phong trào được cổ động rầm rộ trên báo chí Nam Phong của Phạm Quỳnh với câu, “Rồng Nam phun bạc đánh đổ, một mai Đại Pháp thắng trận, dân ta ắt có phần.”

Phải nghĩ thế nào về trường hợp Phạm Quỳnh?

Chưa kể những số tiền quyên góp được gửi về Pháp, trong đó Nam Kỳ đóng góp nhiều nhất với 15,716.941, 65 quan Pháp. Bắc Kỳ chả thua kém gì với số tiền: 15.305.390, 65 quan Pháp.(17)

Chúng ta cần tìm hiểu tại sao thái độ hoàn toàn ‘phản quốc’ này sử sách không có lời phê phán?

Một chi tiết nữa tôi mong mọi người lưu ý là người Pháp cũng chinh phục các nước Phi Châu, nhưng họ đã không để lại những công trình xây cất, nhà cửa, bảo tàng viện, cầu đường, đường xe hỏa như người ta thấy ở Việt Nam!

Chúng ta cần tìm hiểu tại sao chứ!

Cũng chỉ Việt Nam là nước duy nhất có sự sáng chế ra chữ Quốc Ngữ trong khi tại các nước Phi Châu họ nói tiếng Pháp thay cho tiếng mẹ đẻ.

Chế độ thuộc địa tự nó ai cũng hiểu rằng đó là sự bóc lột giữa người với người. Nhưng chúng ta sẽ không lấy gì làm lạ, nếu ta hiểu được một số quy luật lịch sử.

Điều mà sử gia Nguyễn Phương gọi là cái “Đà Lịch sử”. Cái đà ấy cuốn hút theo nó như một dòng cuồng lưu không phải chỉ trong phạm vi hạn hẹp của một quốc gia mà của toàn thế giới.

Từ đó, lịch sử nhân loại mới đóng chốt vào các thời kỳ nô lệ, thời kỳ phong kiến, thời kỳ thực dân, v.v.

Cơn lũ thuộc địa ấy mang cái tính chất mà bây giờ ta quen dùng là tính Toàn cầu hóa. Có muốn tránh, muốn chống lại cũng không được. Có những yếu tố khách quan của quy luật toàn cầu hóa là sức mạnh của kỹ thuật, của trào lưu tư tưởng Tây phương. Và những yếu tố chủ quan là tinh thần của kẻ bị áp bức như tình dân tộc, tình yêu nước. Hai yếu tố đó có dịp cọ sát, tạo ra xung đột mà sự thắng thua tùy thuộc rất nhiều yếu tố khác ở hiện trường.

Sự sống còn, sự phát triển hay trì trệ, sự ngưng đọng hay sự trổi vượt lên là tùy thuộc vào cách ứng xử của từng quốc gia, tùng vùng, của từng người lãnh đạo.

Thua được gì thì vẫn là một bài học đắt giá được thể hiện bằng hai câu ca dao sau đây:

Hai câu trên ứng vào chuyện trai gái, về tình yêu lứa đôi nếu phải duyên số thì hợp mà nếu không phải thì tan.

Nhưng khi áp dụng vào số phận một đất nước thì chữ khéo và chữ vụng là tùy thuộc vào người lãnh đạo. Lãnh đạo nước ta là một triều đình đã tồn tại cả ngàn năm, chẳng những đã không còn duyên mà lại vụng, bất tài, bất lực, tự chôn vùi — báo hiệu một thời đã hết! Sự biện hộ dù sắc sảo cách nào nào thì cũng không thể nào làm sống lại một cái xác chết trên đà mục rữa.

Nếu cần trách điều gì thì chỉ nên trách cái điều mà Phan Thanh Giản, sau khi đi xứ sang Pháp vào năm 1863 trở về nói không ai thèm nghe, không ai tin, ông viết:

“Đưa nhau đến bến Thần phù

Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm”

“Since the day when, sent as ambassador to the capital of France, I saw Western civilization at work, I could not avoid a feeling of admiration coupled with fear. Upon returning to my country, I exhorted my compatriots to wake up, to emerge from the torpor in which they had been immersed for so long. Alas! In spite of my effort to convince them none of them believed the truth of my words.”(18)

“Kể từ cái ngày mà tôi được gửi đi làm Chánh sứ tại thủ đô nước Pháp, Tôi đã được chứng kiến tận mắt nền văn minh Tây phương, tôi không thể nào tránh được cái tâm trạng khâm phục cộng với sự sợ hãi. Khi trở về xứ sở của tôi, tôi thúc giục các người đồng hương của tôi phải mở mắt ra, phải thức tỉnh sau những năm tháng mê muội. Than ôi, mặc những cố gắng của tôi muốn thuyết phục họ, không một người nào trong đám họ tin vào sự thực những lời nói của tôi.”

Chủ nghĩa thực dân là chính sách của một chính quyền, của một quân đội viễn chinh hùng mạnh, nhằm chinh phục và đảo lộn trật tự thế giới bằng sức mạnh.

Đối với Việt Nam, nó thể hiện cụ thể một cách dứt khoát qua một lá thư của toàn quyền Paul Bert gửi cho ông Trương Vĩnh Ký vào ngày 29 tháng sáu năm 1886 như sau:

“Vâng, bất cứ điều gì xẩy ra chăng nữa, thì một nước Âu châu cũng sẽ vào Việt Nam để nắm lấy quyền kiểm soát ở đó. Điều đó trương tồn, tôi tin chắc như thế. Nhưng đó là điều không thể tránh được: Annam không thể nào thoát được số phận này.”

Nếu ta hiểu thêm nữa việc xâm chiếm Việt Nam nằm trong bối cảnh cuộc nha phiến chiến tranh năm 1856-60 trong đó Trung Hoa không còn khả năng để bảo trợ cho Việt Nam được nữa. Thêm vào đó sự cạnh tranh ráo riết dành thuộc địa giữa Pháp và Anh đã bắt buộc Pháp phải quyết định dành thắng lợi trong việc bành trướng thế lực của mình vào thế kỷ 19 tại Việt Nam.

Kết luận phần một

Người viết đã có cơ hội đọc hầu hết các sử gia nêu trên. Mỗi vị cũng có những khuyết điểm không tránh được khi viết sử.

Nhưng cứ công tâm mà nói, không có vị nào có một thái độ “theo Tây”, “về hùa” như trường hợp Phạm Quỳnh. Mà bà Thụy Khuê gọi là “sử quan thuộc địa”.

Dùng tài liệu của Pháp là một lẽ. Phê phán chính sách sai lầm của Triều đình Huế trong việc cấm đạo và chính sách không mở cửa với Tây Phương là một lẽ khác. Nhưng cho dù họ có phê phán triều đình Huế đi nữa thì cũng không đủ lý do xếp họ là sử gia thực dân.

Đọc họ, cho dù muốn chứng minh họ viết ngả theo sử gia theo thực dân cũng không phải dễ. Người ta đã không thể nhận ra những tín hiệu cho phép xếp loại họ là những người viết sử theo Tây.

Một trong những người viết sử vốn không xa lạ gì với bà Thụy Khuê là ông Nguyễn Xuân Thọ với tác phẩm “Bước mở đầu của sự thiết lập Hệ thống thuộc địa Pháp tại Việt Nam, 1858-1897” đã đưa ra nhận xét về con người củaTự Đức như sau:

Ở một đoạn ngay sau đó, ông Nguyễn Xuân Thọ viết tiếp:

Câu nhận xét chót là trong bấy nhiêu năm dưới triều Nguyễn, không một ông vua nào đi ra khỏi khuôn viên của kinh thành Huế để thăm dân cho biết sự tình. Họ suốt đời ở trong hoàng cung!

Việc xếp loại của bà Thụy Khuê vì thế thật hồ đồ và tôi tin chắc sẽ có những người khác phản bác quan điểm của bà.

Trong cái hoàn cảnh lúc bấy giờ, Hội thừa sai Ba Lê do Giám mục Pallu và Delamotte-Lambert thành lập năm 1658 là một thế lực mới, bên cạnh giới tu sĩ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha vốn có mặt từ trước ở Bắc Kỳ.

Nó cũng tạo ra những phân rẽ sâu sắc giữa đôi bên về mặt chính trị, văn hóa và ngay cả bản sắc tôn giáo.

Các khu vực do các thừa sai Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha quản nhiệm thường chú trọng đến mặt rước sách, lễ lạc rườm rà. Nó có tính cách cổ điển và bảo thủ trong việc sống đạo.

Nó khác với các cộng đoàn do thừa sai Pháp đảm nhận. Lễ nghi giản dị hơn, có nếp sống văn minh hơn, sự thông thoáng trong kinh hạt, sự cởi mở và ít gò bó trong lề luật.

Sự khác biệt giữa đôi bên đôi khi công khai trở thành sự bêu riếu giữa hai lối sống đạo.

Và dĩ nhiên, các nhà truyền giáo Tây Ban Nha tỏ ra ‘thờ ơ’ trước các vấn đề chính trị của người Pháp đang thi hành ở Bắc Kỳ, nếu không nói là có sự chống đối với nhà cầm quyền Pháp.

Và cho đến năm 1902 thì sự có mặt của thừa sai Tây Ban Nha trở thành một thiểu số không đáng kể.

Trong khi đó, các linh mục thừa sai Ba Lê mỗi ngày thêm đông và thêm vững mạnh. Từ con số vài chục người đã tăng lên thành vài trăm người.

Người ta hiểu được trong cái tinh thần ấy, những người đại diện cho họ như giám mục Puginier cũng làm áp lực thúc dục công cuộc bành trướng thuộc địa, bởi vì công việc truyền giáo đã không mấy thành công tại Trung Hoa cũng như tại Thái Lan. Có một ích lợi chung giữa việc truyền giáo và sự hiện diện của người Pháp tại Bắc Kỳ và Nam Kỳ: Đó là sự bảo đảm an ninh, được tự do đi lại và truyền đạo!

Các nhà truyền giáo hẳn đã nhìn thấy một sự chấp nhận được giữa thẩm quyền đạo giáo và thẩm quyền dân sự với tư cách một công dân người Pháp và không thấy có sự mâu thuẫn gì nếu nhân danh một người Pháp để có thể bảo vệ các quyền lợi tôn giáo của họ.

Nhưng đứng về phía người Việt chống lại chính sách thực dân Pháp thì đây là cơ hội tốt nhất để cùng một lúc chống lại hai kẻ thù của Việt Nam.

Nhưng về mặt con người, ai cũng có một quê hương, nơi chốn mà họ đã sinh ra với xóm làng và những kỷ niệm đầu đời làm sao quên dược. Tôi đọc lại hành trình sang Pháp của Bá Đa Lộc với bao nhiêu tâm tư và ước vọng. Sau khi hoàn tất công việc, ông đã dành khoảng một tuần lễ về thăm mẹ ông ở một vùng quê. Họ chỉ biết ôm nhau mà khóc.

Sự hy sinh vì một lý tưởng tưởng chừng không bao giờ có cơ hội thăm lại quê hương cũng là điều hiểu được với tư cách một người công dân. Một thừa sai, dù có yêu mến Việt Nam bao nhiêu đi nữa, cốt lõi, cái căn cước của họ vẫn là người Pháp.

Điều trớ trêu là chính tại mẫu quốc, nhà thờ và chính quyền là hai thế lực đối đầu trong tư thế loại trừ, tách giáo hội ra khỏi thế quyền trong tinh thần chống giáo trị thì tại một nơi nghèo nàn hẻo lánh như Việt Nam, họ như thể những đồng minh sống chết có nhau.

Hiểu được điều này thì sẽ hiểu rằng do những lợi ích của đôi bên mà họ trở thành những người bạn nhất thời.

(Còn tiếp phần 7c)

© 2016 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”

Nguồn: Bài và chú thích của tác giả. DCVOnline minh hoạ.

(11) Tạ Chí Đại Trường có thói quen biện giải quanh co, chi ly sự việc, lôi kéo sự chú ý của người đọc vào một chi tiết tầm thường nào đó bị bỏ quên. Ông rất chú trọng đến những chi tiết bên lề rồi kết luận như thế như thế một cách khá thuyết phục, tước bỏ những định kiến có sẵn vốn xem ra đã rõ ràng. Đọc ông không dễ. Và nhiều khi phải nhẹ tay với phần sử liệu qua ông đã bị nhào nặn, biến một vật thô ở nguyên trạng thành nghệ phẩm.

Ông rất chú trọng đến tài liệu. Nhưng cái mâu thuẫn nơi ông là xử dụng tài liệu mà như thể không xử dụng, ông thường không trích dẫn nguồn mà đôi khi chính độc giả phải tìm lấy.

Chẳng hạn, ông đã trích dẫn 14 lá thư của Nguyễn Ánh gửi Bá Đa Lộc lúc còn lưu vong. Dưới mắt ông, phải đọc thư của chính Nguyễn Ánh mới hiểu con người thực của Nguyễn Ánh. Vì thế, khi bà Thụy Khuê cho rằng Bá Đa Lộc ít khi gặp Nguyến Ánh, mỗi năm gặp đôi ba lần nên chẳng giúp gi thực sự Nguyễn Ánh cả.

(12) Tạ Chí Đại Trường, “Lịch sử nội chiến ở Việt Nam, Từ 1771 đến 1802”, nxb Nhã Nam và nxb Trí Thức, trang 360.

(13) Thụy Khuê, Ibid., Chương 6, Chân dung Gia Long.

(14) Thụy Khuê, Ibid., Chương 6, phần Barrow nhận xét về Nguyễn Ánh Gia Long.

(15) Thụy Khuê, Ibid., Chương 1, Bộ sử Nguyễn Văn Tường của Nguyễn Quốc Trị.

(16) Tạ Chí Đại Trường, “Người lính thuộc địa Nam Kỳ (1861-1945)”

(17) Tạ Chí Đại Trường, Ibid., trang 182.

(18) Lê Thanh Tường, “Un patriot annamite admirateur de la France: Esai sủ la vie de Phan Thanh Giản, vi-roi de Cochinchine”. (Hanoi, 1938, p. 92. Trích lại trong Pierre Brocheux & Daniel Hemery, “Indochina, an ambiguous colonization, 1858-1954”, trang 13.

(19) Paul Bert, Resident General of France, letters to the Catholic scholar

(20) Nguyễn Xuân Thọ, “Bước mở đầu của sự thiết lập hệ thống thuộc địa Pháp tại Việt Nam 1855-1897”. trang 282-287.

Tham vọng viết lại lịch sử Việt Nam: Trường hợp Thụy Khuê (7c)

Posted on June 3, 2016 by editor0 Comments

Nguyễn Văn Lục

“Yes, no matters what happens, a European nation will enter Annam in order to take on a controlling influence there. It will not last, I am sure of that, but it is necessary to go through it: Annam cannot escape this fate.”(19)

“Tự Đức vẫn duy trì ý định; năm sau lại báo cho Tổng Đốc Quảng Tây biết đã đến lúc mang cống vật, bốn năm một lần sang tặng Hoàng đế Tàu và hỏi xem lúc nào sứ đoàn Việt Nam có thể được đón?”

“Rốt cuộc nhà vua không còn biết biết xử trí như thế nào. Quá yếu đuối, nhà vua không còn lấy một chút nghị lực nào để đứng vững nữa. Bên cạnh nhà vua, toàn là những hàng quan lại hèn kém, khiến nhà vua mất cả phương hướng chính trị, tuy nhiên vẫn cứ khăng khăng muốn thu hồi các tỉnh đã mất. (20)

bdl

Phải thú thực là tôi rất mệt mỏi khi đọc tập tài liệu này. Viết xong dược một vài cảm tưởng khi đọc xong tập tập liệu tôi coi như một giải thoát.

Nhìn lại sử Việt | Tham vọng viết lại lịch sử Việt Nam: Trường hợp Thụy Khuê (7c)

(Tiếp theo phần 7a, 7b)

Mộ Gm Bá Đa Lộc gần Saigon. Nguồn: OntheNet

Mộ Gm Bá Đa Lộc gần Saigon. Nguồn: OntheNet

Khi đọc tập tài liệu Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long với một giọng văn chắc nịch, mang tính tố cáo và áp đặt của tác giả Thuỵ Khuê, tôi thấy cần phải nhìn lại một số vấn đề liên quan đến tác giả.

Trước khi đi vào chi tiết, xin lược qua hành trình bốn năm của Bá Đa Lộc-Hoàng tử Cảnh sang cầu viện Louis XVI.

Thỏa ước Versaillles đã được ký kết giữa Giám mục Adran và đại diện của Louis XVI với một hậu ý xấu về phía người Pháp. Trong “Mgr Pigneau de Béhaine, Évêque d’Adran”, Alexis Faure viết:

“Il se rencontre quelquefois, dans notre histoire, des traités qu’on n’a pas éxécutés, parce que les circonstances politiques, des obstacles inopinés, des éventualités redoutables s’y opposaient; mais on n’a peut être pas encore vu un gouvernement prendre des engagements fermes, montrer apparemmment des dispositions pour mettre sa conduite en concordance avec ses engagements, tandis que, dans le même temps, dans le secret de son conseil, Il s’ingéniait à détruire son oeuvre de ses propres mains, et sans aucun incident de quelque importance eut surgi et fut suscepptible d’en modifier la marche. C’est si anormal, tellement contraire à la vieille loyauté Francaise qu’il faut des preuves bien certains, bien convaincantes, bien patientes pour y croire.”(21)

“Trong lịch sử dân tộc chúng ta, có thể đôi lần có những thỏa ước đã được ký kết mà đã không được thi hành, bởi vì do những hoàn cảnh chính trị, những trở ngại bất ngờ, những tình huống bất trắc đáng sợ chống lại việc thi hành thỏa ước. Nhưng có thể người ta chưa bao giờ thấy một chính quyền đã có giao ước chắc chắn mà bề ngoài vẫn làm ra vẻ tuân thủ những giao ước đã được ký kết, nhưng đồng thời trong hội đồng nội các họp kín, họ lại tìm cách phá hủy tất cả những cam kết do chính tay họ ký kết mặc dầu không có một việc gì xẩy ra quan trọng đến nỗi cần phải thay đổi công việc đang tiến hành. Thật là quá bất thường đến nỗi nó đi ngược lại truyền thống vốn trung thành của người Pháp mà phải có đầy đủ bằng cớ có tính thuyết phục, bằng cớ chứng thực mới có thể tin một điều như thế đã xẩy ra.”

Armand Marc de Montmorin. Thủ tướng triều Louis XVI. Nguồn: Wikipedia

Armand Marc de Montmorin. Quốc Vụ Khanh Hải Quân (1787) triều Louis XVI. Nguồn: Wikipedia

Việc ký kết giữa Bá Đa Lộc, đại diện cho Việt Nam, và Bá tước De Montmorin, đại diện cho vua Louis XVI, văn kiện ngoại giao đầu tiên tại phòng Hiệp định của Bộ ngoại giao nay là thư viện Versailles (Văn kiện ký ngày 28/11/1787).

Nhưng chỉ 5 ngày sau, ngày 2/12/1787, bộ Ngoại giao Pháp đã dấu không cho vị giám mục hay và gửi một văn thư chỉ thị mật cho bá tước De Conway, Tư lệnh quân đội Pháp, tại Ấn Độ, bảo ông ta phải dựa vào hoàn cảnh thực tiễn mà tiến hành, hoặc hoãn lại cuộc viễn chinh.(22)

Giám mục Bá Đa Lộc lên tầu quay trở lại Pondicherry với hai bàn tay trắng mà không biết những âm mưu bên trong.

Viết về điều này, Tạ Chí Đại Trường chỉ viết một câu như sau:

Những giấc mơ và tính toán của Bá Đa Lộc phải chăng không phù hợp với những lợi ích mà nước Pháp có thể nhìn thấy và việc đầu tư vào đó những số tiền khổng lồ từ 600 ngàn quan đến 1.000.000 quan Pháp mà không đem lại một bảo đảm nào?

Và cũng theo ông Nguyễn Xuân Thọ, Bá Đa Lộc đã không chịu thua và quyết tâm làm cuộc ‘cách mạng Nam Kỳ’ một mình. Tôi vẫn chưa nắm được chữ cách mạng Nam Kỳ là cách mạng kiểu gì? Ông đã tập trung được một đội viễn chinh 300 người do sĩ quan Pháp chỉ huy và đổ bộ lên cửa sông Saigon vào tháng 7, 1789.(24) Cửa sông Sài gòn được hiểu là Vũng Tàu. Con số 300 người cũng là những con số cần được xem xét lại.

Nhìn lại sự thất bại của chuyến đi cầu viện của Bá Đa Lộc, chúng ta có thể rút ra khá nhiều bài học:

– Bài học thứ nhất là vì thỏa ước ký kết đã không được thi hành nên sau này Gia Long thống nhất được đất nước đã không bị cái tiếng là mở đường cho người Pháp vào Việt Nam. Mặc dầu vậy cái tiếng ‘cõng rắn cắn gà nhà’ ấy vẫn còn và có thể chẳng bao giờ được rửa sạch! Gớm thay cho tiếng đời và bia miệng!

– Bài học thứ hai là ngay vào thời điểm này, Louis XVI và đại diện cho nước Pháp chưa có ý định rõ rệt về việc xâm chiếm thuộc địa. Điều này nó giúp khẳng định một lần nữa là khi nào có điều kiện khách quan chín mùi thì việc xâm lăngViệt Nam biến thành thuộc địa sẽ xẩy ra như đã xẩy ra, dù muốn hay không muốn có cũng không được, không cần biết vua quan nhà Nguyễn có cấm đạo hay không cấm đạo. Thật vậy, cuộc cách mạng Pháp xẩy ra sau đó, chẳng những xóa tan chế độ phong kiến mà còn quét sạch hệ thống tăng lữ, tách thần quyền ra khỏi thế quyền. Con số hàng hơn chục ngàn người bị treo cổ hoặc lên máy chém hẳn có giới tăng lữ cao cấp? Hội thừa sai Ba Lê lúc bấy giờ sợ bị họa lây đã phải dọn cơ sở sang Anh.

Thế nhưng gần như ở Việt Nam, chính quyền thực dân Pháp vẫn có thể nhân danh những lý tưởng tự do tôn giáo để nhảy vào can thiệp ở Việt Nam.

– Bài học thứ ba cho thấy, mặc dù không có sự trợ giúp trực tiếp của quân đội Pháp mà theo thỏa thuận, nước Pháp có nhiệm vụ cung cấp 1500 lính với đầy đủ quân cụ cùng với tầu chiến cũng như một số tầu bè cần thiết để chuyên chở số quân ấy, đồng thời chở trọng pháo cùng tất cả mọi thứ gì cần thiết cho cuộc viễn chinh. Nay hoàn toàn không có bất cứ thứ gì – sĩ quan không, tàu chiến không, trọng pháo cũng không.

Bằng cách nào Bá Đa Lộc đã thu phục được người sẵn sàng vào Nam Việt để giúp Nguyễn Ánh?

Điều này cần diễn giải kỹ hơn một chút về tình hình thế giới lúc bấy giờ.

Nếu chúng ta tin vào định luật tương đối của thời gian, của con người của lịch sử thì sự mất còn đôi khi chỉ có giá trị nhất thời. Trong sự suy tàn, mục rữa, sự khủng hoảng niềm tin và sức mạnh, sự đề kháng và sức mạnh vươn lên vẫn có thể tìm một lối ra cho con người và cho mỗi quốc gia.

Sự bất ngờ như một câu chuyện thần thoại mà nếu Colombo còn sống sẽ không bao giờ tin được rằng, ông đã đưa con người đến một vùng đất hứa như trong thánh kinh đã ghi chép.

Thật vậy, nhìn về mặt phát triển, chủ nghĩa thực dân đã mở đường cho sự thành lập các nước tân thế giới. Mỹ, Canada, Úc Đại Lợi là mở đường cho cuộc chinh phục toàn cầu mà ở những nơi ấy mỗi cuộc di dân là mỗi bước chân con nguời, đi những bước đi vĩ đại đi khắp địa cầu nhờ vào ba thành phần sau đây:

    • Những nhà thám hiểm. có óc phiêu lưu mạo hiểm
    • Những thương buôn giầu có
    • Và tập đoàn tăng lữ

Họ là những con người phi thường mà mẫu số chung của họ là óc phiêu lưu mạo hiểm, không ngại nan nguy, sống chết. Họ đã dám từ bỏ tất cả để đi theo một tiếng gọi ráo riết và thúc dục họ lên đường.

Chữ lên đường là một từ ngữ quá đẹp để chỉ về công việc của họi đã làm.

Thật vậy, tôi đã suy nghĩ mãi về trường hợp giáo sĩ Đắc Lộ; khi được bề trên của ông chuẩn nhận cho đi truyền giáo, ông đã phủ phục trước mặt bề trên, khóc ròng và bày tỏ lòng biết ơn.

Họ là những người tiền phong làm thay đổi diện mạo thế giới mà chính họ không bao giờ lường hết được công việc họ đã làm.

Ba thành phần trên cũng là những người đã đến Việt Nam với cùng một cung cách như các bậc đàn anh của họ đã làm ở thế kỷ 16. Chỉ có điều nó đã được thu nhỏ lại về mọi mặt. Phải hiểu thấu được điều này mới hiểu ra hết nguồn cơn của phong trào đi tìm thuộc địa.

Chế độ thực dân cuối cùng nhìn lại vẫn là cơ may hiếm có đưa nhân loại đến một giấc mơ chẳng những cho những kẻ phiêu lưu chính trị mà còn dắt đưa cả môt khối nhân loại nghèo nàn, chậm tiến trở thành con người văn minh tiến bộ.

Nghĩ như thế nên tôi coi những thái độ nhìn lịch sử như những công trình khép kín, ẩn núp sau những chủ nghĩa dân tộc sô vanh là một thái độ tự khép kín, bảo thủ, giáo điều và phản tiến bộ!

Lối nhìn lịch sử của bà Thụy Khuê kẹt trong sự tù túng, chật hẹp.

Tác giả Thụy Khuê cần tìm hiểu điều này một cách kỹ càng thay vì mất công vạch lá tìm sâu một cách không cần thiết. Hiểu điều này tức là hiểu được cái đà lịch sử cũng như cán cân quyền lực nghiêng về phía nào.

Phải chăng chính yếu tố kỹ thuật, văn minh Tây phương, nói rõ ra là tầu đồng, thành lũy, súng đại bác đã đánh tan đạo quân của Tây Sơn – đã một thời đánh tan đạo quân Thanh thuở nào.

Tây Sơn không thua Nguyễn Ánh và không thể thua dễ dàng được! Tây Sơn nếu có thua là thua kỹ thuật của Tây phương nhờ Bá Đa Lộc mà có.

Bà Thụy Khuê chưa hiểu được điều này nên cứ cố tình làm nhẹ vai trò của hơn chục người lính đánh thuê giúp Nguyễn Ánh.

Ở chỗ khác bà đã đặt ra một câu hỏi như sau:

Bà không nên miệt thị những tên lính đánh thuê ấy bởi vì chính chúng chứ không ai khác đã làm nên chuyện lớn. Những Lebrun, De Forcanz, Chaigneau, Vannier, Dayot và nhất là Olivier Puymanel [Nguyễn Văn Tín] đều là những kẻ tài giỏi. Những chê bai như Lebrun là kẻ đào ngũ, binh nhì, v.v. phỏng lý luận được gì?

Nhưng nếu sau này họ được phong quan chức là do công trạng của họ mà nhà vua ban thưởng.

“Cho nên Bá Đa Lộc đi rồi, viên Trưởng văn phòng Bộ Thuộc Địa mới bảo ‘do lệnh vua’, cho De Conway hay rằng, ‘Không tính tới chuyện viễn chinh Đông Dương’.”(23)

“Cho tới nay. Vì thiếu sự giải thích minh bạch, chúng ta không hiểu tại sao Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu lại có thể thua trận một cách dễ dàng như thế trước hai kẻ giang hồ như Francis Garnier và Henri Rivière? Đây không phải là lần đầu tiên quân Pháp dùng những thủ đoạn lừa gạt để tấn công.”(25)

“Hoàng thượng xét thấy tài năng của Théodore Lebrun, quốc tịch Pháp, với bằng văn này, ban cho y chức Khâm sai cai đội thanh oai hầu, quản chiếu việc công thự (bản tiếng Pháp dịch là capitaine ingénieur; vì thế, Hoàng thượng giao cho y coi sóc tất cả những đồn lũy trong nước; và lệnh cho y phải tìm mọi cách để có được sự bảo đảm an toàn cho những thành trì này. Nếu vì bất cẩn, y không làm trọn nhiệm vụ, thì sẽ bị trừng phạt theo luật pháp.” (26)

Bà Thụy Khuê đưa ra lời bình luận như sau: Qua văn bằng này, ta thấy Lebrun đã tự nhận mình là kỹ sư xây dựng nên mới được vua cho chức Khâm sai Cai đội oai thanh hầu, quản các thành trì.

Theo tôi, việc một tên đào binh trốn lính khi gặp cơ hội có thể khai là sĩ quan hay gì gì đi nữa là chuyện của y và nhà vua. Hắn khoe khoang là một chuyện. Nhưng làm được hay không lại là chuyện khác. Và nhà vua đã tin tưởng giao cho một tên đào binh làm Khâm sai cai đội Thanh oai hầu. Còn lo việc trông coi toàn bộ các thành trì.

Chúng ta phải đồng ý với nhau là y phải giỏi.

Cũng như Dayot được phong là “Khâm sai cai đội quản chiếu tầu nhị chích trí lược hầu”. Nói nôm na là thuyền trưởng hai tầu.

Bà còn thắc mắc tìm hiểu xem văn bằng của Puymanel, v.v. Thật là chuyện buồn cười!

ean-Marie Dayot (left) and his brother Félix Dayot (right). By Unknown - Early 19th century French painting. Reproduction in Mantienne "Monseigneur Pigneau de Behaine", Public Domain, https://commons.wikimedia.org/w/index.php?curid=4951877

ean-Marie Dayot (T) và em là Félix Dayot (P). By Unknown – Early 19th century French painting. Reproduction in Mantienne “Monseigneur Pigneau de Behaine”, Public Domain, https://commons.wikimedia.org/w/index.php?curid=4951877

Dayot nếu không tài giỏi làm sao vua lại cho y chức Khâm sai cai đội mà những người Pháp khác như Vannier chỉ được là cai đội tầu Đồng Nai, Isle-Sellé, cai đội tầu Le Prince de Cochinchine rồi những Guillon, Guilloux đều là phó cai đội và cả bốn đều dưới quyền của Dayot.

Nếu xét theo chức vụ bây giờ thì Lebrun được coi như tướng Tư lệnh vùng. Dayot phải là Đề đốc hải quân. Những tên đào binh này sau này đều góp phần chiến thắng trong trận hải chiến Thị Nại.

Đó là ba tên tuổi là Vannier, Forcanz và Chaigneau.

Mok của De Forcanz ở khu mộ người Pháp ở Phú Can dời về Thuy Phương. Nguồn: François xavier Landrin/http://belleindochine.free.fr/

Mok của De Forcanz ở khu mộ người Pháp ở Phú Cam dời về Thuy Phương. Nguồn: François xavier Landrin/http://belleindochine.free.fr/

Câu trả lời còn trở nên thật rõ ràng hơn khi chính vua quan nhà Nguyễn đời Tự Đức lần này phải đối diện với binh đội Pháp thứ chính quy tại Tourane, tại 6 tỉnh miền Nam, tại Hà Nội.

Người ta vẫn chưa nhận thức ra được yếu tố nào binh đội Việt Nam và đằng sau là nhân dân Việt Nam phải cúi đầu trước sức mạnh của quân giặc! Chỉ cần vài trăm quân lính Pháp đủ bình định xong Việt Nam, gần như không tốn một viên đạn.

Đây là điểm dị biệt giữa bà Thụy Khuê và nhóm người đi theo Bá Đa Lộc.

Bà Thụy Khuê tìm mọi cách để hóa giải cuộc chiến thắng này đánh tụt giá mọi đóng góp của Bá Đa Lộc vào trong các công việc như: xây thành lũy như thành Gia Định, thành Diên Khánh đều do người Việt Nam đảm trách. Xây dựng cơ xưởng đúc súng đạn và đóng tàu, cải cách quân sự, huấn luyện, v.v. đều bị bà sổ tuột.

Chưa đụng với bọn sĩ quan Pháp chính quy mà mới giao đấu với bọn người mà bà Thụy Khuê khinh miệt gọi là trốn lính, không bằng cấp học vị, cùng lắm chỉ là thứ anh chị, giang hồ thảo khấu. Vậy mà bọn này trong trận thủy chiến Thị Nại, một chiến thắng có tính quyết định.

Chúng đã dạy cho những người lính của Tây Sơn đã ba bốn lần theo gió mùa vào Nam, đuổi Nguyễn Ánh chạy có cờ đến không còn manh giáp.

Và nhất là trong số ấy, nhiều người không thể quên đi niềm tự hào từng ra Bắc chinh phạt đám quân Tôn Sĩ Nghị chạy bán sống bán chết về bên Tàu.

Vậy mà chúng – những tên lính đánh thuê – đã làm nên chuyện lớn, chuyện đội đá vá trời! Bà Thụy Khuê làm sao có đủ chứng liệu để phản bác tất cả những thay đổi về mặt quân sự, chiến lược, chiến thuật này không trong mối tương quan giữa một bên là Nguyễn Huệ, bên kia là Nguyễn Ánh?

Về những quân nhân người Pháp giúp Gia Long, K. W. Taylor, trong “A History of Vietnamese” (2014) viết như sau:

taylor_385

K. W. Taylor, lại thêm một người viết sử theo “sử quan thuộc địa”?

Thuỵ Khuê nên đọc thêm, đọc nhiều hơn chút nữa để bớt những nhận xét, những câu hỏi vẩn vơ.

Bá Đa Lộc, lính đánh thuê và Nguyễn Ánh

Ngày 28 tháng 7 năm 1789, khi giám mục Bá Đa Lộc cùng với hoàng tử Cảnh cặp bến Vũng Tàu.

Ông không lẻ loi đi một mình.

Trong chuyến đi Pháp, mặc dầu hoàn toàn thất bại, người ta cũng thấy có một số người Pháp cùng đi với ông:

    • J.B. Chaigneau [Nguyễn Văn Thắng], thuyền trưởng tàu Long Phi.
    • De Forcanz, thuyền trưởng tàu Bằng Phi.
    • Philippe Vannier [Nguyễn Văn Chấn], thuyền trưởng tàu Bòng Thước, sau đó là tàu Đồng Nai và tàu Phụng.
    • Jean-Marie Dayot [Nguyễn Văn Trí], chỉ huy một đội chiến thuyền.
    • Victor Olivier, sĩ quan cơ khí, trông coi tổ chức bộ binh, pháo binh và đồn lũy.
    • Théodore Lebrun, kỹ sư trông coi việc xây thành.
    • Laurent Barisy, trung tá.
    • Julien Girard de L’Isle-Sellé, đại úy hải quân.
    • J.M. Despiaux, ngự y cho chúa Nguyễn.
    • Louis Guillon, trung úy hải quân.
    • Jean Guilloux, trung úy hải quân.(27)
Nguồn: thuykhue.free.fr

Nguồn: thuykhue.free.fr

Những nhân vật trên sau này đều đóng góp kỹ thuật, kiến thức quân sự giúp Nguyễn Ánh đang từ thế thủ chuyển sang thế công.

Không có người nào trong đám này là người thừa cả.

Cũng trong phân mục này, xin trích dẫn Tạ Chí Đại Trường. Ông viết lại: Je ferai seul la révolution. Các tay phiêu lưu Tây Phương ở Việt Nam: Vai trò, địa vị và ảnh hưởng của họ. Và bằng mấy câu thơ bày tỏ sự vui mầng:

Và chiếc tàu La Méduse đã cập bến Vũng Tàu ngày 28/7/1789.

Và Tạ Chí Đại Trường đã trích câu nói của Bá Đa Lộc nói thẳng vào mặt De Conway.

Họ, những tên lính đánh thuê, từng lớn lên với mộng ước hải hồ cộng óc phiêu lưu, mộng làm giàu trong chốc lát khiến họ có mặt hôm đó, tại bến cảng Vũng Tàu.

Họ và Bá Đa Lộc đều có một mẫu số chung: họ mơ ước làm chuyện lớn, mặc dầu chuyện lớn của Bá Đa Lộc chẳng ăn nhập gì với bọn người đi theo ông.

Trước hết, bà Thụy Khuê đã để công sức đọc và sưu tầm các tài liệu sử như tài liệu sử của Alesix Faure, Barisy, John White, ký sự của Bissachère, John Barrow và cuối cùng ngay cả tài liệu sưu tầm đáng nể của Charles B. Maybon, “Histoire moderne du pays d’Annam” cũng như các công trình sưu tập của cố Cadière.

Cadière-Thụy Khuê

Tới nơi bến Nghe gieo neo

Dưới trên buồm cuốn xả lèo răng răng

Đùng đùng súng bắn liên thanh

Chiêng cồng mừng rỡ vang rang dầy dầy

Hai bên tứ diện Đông Tây

Dưới trên thiên hạ dầy dầy đều coi

Mừng tàu rày đã tới nơi

Mừng Thầy lại với Con Người đã sang

“Một mình tôi cũng đủ làm nên việc đảo lộn.”(28)

Lm Léopold Cadière (1869-1955), ngường sáng lập Hội Bạn Cố Đô (AAVH). Nguồn:  Catherine Clémentin-Ojha, Pierre-Yves Manguin, A Century in Asia: The History of the Ecole Francaise D'Extreme-Orient, 1898-2006, trang 176

Lm Léopold Cadière (1869-1955), người sáng lập Hội Bạn Cố Đô (AAVH). Nguồn: Catherine Clémentin-Ojha, Pierre-Yves Manguin, A Century in Asia: The History of the Ecole Francaise D’Extreme-Orient, 1898-2006, trang 176

Riêng trường hợp Cadière đã nhận được một lời phê phán khen có mà chê cũng rất nặng nề:

Về mặt khách quan mà nói, các sách sử thời ấy rất khó tránh khỏi những sai lầm đủ loại. Có rất nhiều khuyết điểm – nhất là tên người, Tạ Chí Đại Trường đã nhận xét là người Tây Phương rất chú trọng đến ngày tháng minh bạch, nhưng về tên người thì không cách nào họ viết đúng được.

Công nghiên cứu phê phán của bà Thụy Khuê cần được ghi nhận. Tuy nhiên, nhiều chỗ cho thấy bà đã do động lực ngầm, mất tự chủ, bà đã dùng những chữ khá nặng nề, bà đã mạt sát bằng những ngôn từ không thích hợp như “xuyên tạc, bịa đặt, sai lầm tiêu biểu, thủy tổ việc bóp méo lịch sử Pháp-Việt, bôi nhọ Quang Trung, ít học, không quen viết lách, câu cú lôi thôi…” lối viết này thực là ấu trĩ, phô trương và khoác lác.

Hầu hết những người trên đều trở thành đối tượng bị Thụy Khuê phê phán quá đáng. Bà viết:

“Hai vị học giả Pháp có những công trình nghiên cứu văn hóa Việt đáng trọng là Maybon và Cadière; tiếc thay, cũng lại là những người, đã tế nhị và sâu sắc, tìm cách thay thế công lao thống nhất và dựng nước của Gia Long cùng tướng sĩ, quần thần, bằng công trạng của Bá Đa Lộc và những ‘sĩ quan’ Pháp.”(29)

“Thực là kinh hoàng khi ta đọc bài diễn văn trên đây. Khó có thể hiểu tại sao một người có kiến thức sâu rộng, có đạo đức nghề nghiệp của một học giả như linh mục chủ bút tập san Đô Thành Hiếu Cổ lại có thể viết một bài như thế. Chưa cần xét đến đầu óc thực dân, cao ngạo, khinh mạn người Việt, bao trùm lên toàn bài, hãy nói đến những lỗi khổng lồ mà một công trình khoa học không thể có, mà chúng tôi xin lần lượt phân tích từng điểm một, sau đây.”

(Trích Thuỵ Khuê, Ibid., chương 15)

Do nguyên động lực nào mà bà đã viết như thế? Thật là kinh hoàng! Viết khác với lối biên khảo quen thuộc của bà khi viết về các đề tài văn học hay triết học! Tại sao có hai thái độ cầm bút như thế trong cùng một con người?

Phải chăng có hai Thụy Khuê – một viết văn học và một viết chính trị – tôn giáo?

Và đó là công việc mà chúng ta cần tìm hiểu.

Viết như thế tôi cho là không công bằng. Viết như thế là có sẵn một chủ đích xấu, một định kiến về các thừa sai hoặc các nhà sử học. Thừa sai sangViệt Nam thì có nhiều. Cộng chung có thẻ lên đến từ 300 đến 400. Nhưng chỉ có khoảng 30 chục người viết dưới dạng các lá thư gửi về cho bạn bè, gia đình như cha mẹ hoặc những bề trên trực tiếp của họ. Những lá thư này có tính cách cá nhân và không được phổ biến. Sau này được Hội Thừa sai Ba Lê thu tập lại như tài liệu nhân chứng sống một thời trong các tập tài liệu gọi chung là “Lettres Édifiantes et Curieuses: Écrites des Missions Étrangeres” và gồm trên 20 tập.

Tôi không hiểu tại sao tập san này đã không được bà Thuỵ Khuê xử dụng và nhắc nhở tới mặc dầu lập trường của các thừa sai là nhìn nhận Nguyễn Ánh như dòng dõi chính thức và coi Tây Sơn như ‘giặc cướp’.

Vậy mà trong văn bản, bà Thụy Khuê luôn luôn dùng một từ chung ghép lại là: Các thừa sai Ba Lê và sĩ quan Pháp. Đây cũng là một dụng ý xấu của Thuỵ Khuê.

Tôi cũng đọc những tài liệu như bà Thụy Khuê đã đọc. Nhưng thái độ đọc, cách tiếp nhận các nguồn sử liệu cho phép tôi nghĩ rằng, đọc là một chuyện, thái độ đọc là chuyện khác.

Vì thế, khác hẳn với bà Thụy Khuê, tôi đọc họ với một tinh thần cởi mở đón nhận nên đã đọc Alesix Faure với một sự thich thú. Tôi được rất nhiều mà không mất mát gì. Tôi cũng thích thú chân thành khi đọc Tạ Chí Đại Trường.

Nhất là trong trường hợp Cadière. Có thể nói trước khi được đọc các sử gia Pháp trên thì người mà tôi có cơ hội đọc trước tiên là Cadière. Bởi vì lãnh sự Pháp ở Việt Nam sau 1975 đã số hóa toàn bộ công trình của BAVH.

Chỉ riêng Cadière, ông đã đóng góp 250 bài nghiên cứu, sưu tầm đủ loại về văn minh, văn hóa Việt cũng như triều đình nhà Nguyễn với một tâm tình quý mếnViệt Nam như quê hương thứ hai của minh bằng một sự trân trọng hiếm có. Các bài viết ấy bàng bạc một tấm lòng với Việt Nam.

Có thể nói Bá Đa Lộc có công với nhà Nguyễn thì Cadière có công với sử học, khảo cổ học Việt Nam. Cái công của ông với văn-sử học Việt Nam lớn lắm.

Nhưng trong số những bài viết ấy, có 5, 6 bài diễn văn mà nhân danh BAVH ông đã đọc để đón tiếp khách Việt hay Pháp.

Đặc biệt là bài diễn văn trước thống chế Joffre khi sang thăm Việt Nam.

Đây là một bài diễn văn nên cũng có một số hoa từ, một chút mầu mè, một chút ngôn ngữ ngoại giao mà bình thường có thể ông đã không viết như thế. Nhưng cái chính vẫn là những tài liệu trích dẫn từ nhiều nguồn có thể sử dụng được.

Để khỏi dài dòng, tôi xin trích dẫn một số câu do chính bà Thụy Khuê đã lấy ra làm bằng cớ và in chữ đậm.

Chẳng hạn:

Trích dẫn Maybon:

Như tôi đã nói, ảnh hưởng của những người Pháp trên triều đình Annam là cá nhân và trực tiếp.

Công trạng của giám mục Bá Đa Lộc có lẽ giới hạn ở đó: ông cung cấp những sách nền móng cho sự nghiên cứu. Tất cả những lý giải kỹ thuật phải dành cho các chuyên viên: Chaigneau, Vannier nói được tiếng Việt, nhất là Olivier.

Bạn đọc mấy trích đoạn trên tự mình có thể đánh giá bài diễn văn của ông Cadière như thế nào?

Riêng bà Thụy Khuê phản bác luận điểm của Cadière và không tin rằng Bá Đa Lộc đã dịch Bách Khoa toàn thư sang tiếng Tầu hay tiếng Ta? Bà viết:

“Trong số kỷ niệm này, những gì đáng quý nhất đối với người Pháp chúng ta là những kỷ niệm nhắc nhở tới những vị sĩ quan Pháp đã đến đây vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, cứu nguy Gia Long và đã giúp ông hoàng này lấy lại được vương quốc.”

“Không thể chối cãi được rằng họ đã góp phần rộng lớn vào chiến thắng của Gia Long. Chưa nói đến sự đóng góp của họ vào những chiến công quan trọng như việc tiêu diệt hạm đội Tây Sơn năm 1792, và những cuộc hành quân khác dẫn đến chiến thắng Huế, năm 1801, mà ta không thể không khâm phục óc tổ chức của họ trong những điều kiện không mấy thuận lợi: Họ đã xây dựng một ngành hải quân theo lối Tây Phương, thành lập các thủy thủ đoàn, huấn luyện quân lính, đưa kỷ luật vào quân đội, thành lập cấp chỉ huy, đúc đại bác, dạy cho người Việt cách dùng trái phá, lập đội pháo binh dã chiến mà sự lưu động khiến quân Tây Sơn khiếp sợ, họ đã xây dựng các thành dài.”(30)

“Trước hết, chúng ta thử xem những người đã tạo ra cái ảnh hưởng này. May mắn nhờ sự khám phá của một trong những cộng sự viên nhiệt thành nhất và kiến thức nhất của chúng tôi, ông A. Salles, cựu thanh tra thuộc địa, đã cho phép tôi trình ngài đọc trước, chân dung của ba người vinh hiển nhất đã giúp Gia Long: J.B Chaigneau, Ph.Vannier, và Jean-Marie Dayot.”

“Trước hết là sự huấn luyện kỹ thuật, và điều lạ lùng là do một vị giám mục – đúng là ông đã làm bá chủ giai đoạn này, bằng hành động, bằng thiên tài, bằng đạo đức cũng như bằng lòng yêu nước (Pháp), ngời sáng của ông – đức giám mục đã giữ vai trò khởi thủy. Một tác giả đương thời nói: Ông dịch cho học trò ông – tức là Gia Long – nhiều tác phẩm tiếng Pháp sang tiếng Nam(Cochinchinois) chủ yếu là những sách chiến lược và sách xây thành lũy. Ông dịch hay đến nỗi người có học và người có khả năng nhất nước này là nhà vua cũng phải chịu.”(31)

“Chính Dayot đã báo cho Renoward de Sainte-Croix biết về những thông tin này. Khoảng hai mươi năm sau đó, năm 1819 Vannier và Chaigneau cũng cho một người du lịch Anh đến Huế biết rằng ‘Giám mục Adran dịch sang tiếng nước này (chữ Nôm) những mục từ ích lợi nhất của Bách Khoa Toàn Thư và soạn trong thổ âm này (Chữ Nôm) nhiều bản Hiệp ước cho Hoàng Đế xử dụng.”(32)

“Thưa thống chế, chúng tôi mong muốn được trình ngài bộ sưu tập những tác phẩm liên quan đến nghệ thuật xây dựng và bảo vệ thành trì đồn lũy, do giám mục Bá Đa Lộc dịch sang chữ Nôm. Có lẽ một ngày nào đó, ta sẽ tìm lại được trong văn khố hoàng cung hay của các Bộ. Ngày hôm nay, chúng tôi chỉ có thể trình ngài một kiểu mẫu được giữ trong Nội-Các,, đó là Đồ thị quân sự, bao gồm tất cả các bộ phận chính của một thành đồn, với tất cả các khẩu đại bác ( đẻ tấn công và phòng thủ) của một chiến lũy do J.E. Duhamel, kỹ sư của vua, năm 1773, xây theo kỹ thuật xây dựng của ‘thống chế Vauban’.”(33)

“Những dòng trên đây, chứng tỏ Bá Đa Lộc không gần gũi vua như người ta thêu dệt nên. Sau khi Trần Đại Luật dâng sớ ‘xin chém đầu Bá Đa Lộc’ năm 1795, thì vị giám mục lại càng thận trọng hơn nữa. Vậy việc giám mục ‘ dịch sách’, ‘viết thư’, làm ‘ cố vấn’ mọi việc cho vua không thể, nếu một năm hay hơn một năm giám mục mới gặp vua một lần. Chức phận ông giới hạn trong việc: Là một trong những thầy dạy Hoàng Tử Cảnh!”(34)

Trong đoạn văn ngắn ngủi trên, bà Thụy Khuê đã vấp phạm nhiều lỗi trầm trọng: như đánh giá sai một cách hời hợt mối liên hệ Bá Đa Lộc-Nguyễn Ánh. Qua một số chứng từ – nhất là những lá thư Nguyễn Ánh gửi cho Bá Đa Lộc do Cadiere thu tập được và Tạ Chí Đại Trường đưa ra bình giải cũng như những đánh giá của Le Labousse, của Shihojen Seishi, của Barrow và nhất là chính lời của Gia Long trong văn tế Bá Đa Lộc cho thấy vai trò của ông như thế nào.

Từ điển Annam-Latin Gm Bá Đa Lộc viết năm 1775 ở Pondichéry (Lưu trữ tại MEP)

Từ điển Annam-Latin Gm Bá Đa Lộc viết năm 1775 ở Pondichéry (Lưu trữ tại MEP)

Thụy Khuê phủ nhận những việc làm của Bá Đa Lộc như dịch sách, cố vấn là những việc làm không thể có được. Nhưng đấy lại là những công việc Bá Đa Lộc đã làm cho Nguyễn Ánh.

Cố tình cho rằng Nguyễn Ánh không bao giờ là học trò của Bá Đa Lộc mà cùng lắm Bá Đa Lộc chỉ là thầy giáo của Hoàng Tử Cảnh là một lối nhục mạ không cần thiết.

Vài dòng cuối

Phải thú thực là tôi rất mệt mỏi khi đọc tập tài liệu này. Viết xong dược một vài cảm tưởng khi đọc xong tập tập liệu tôi coi như một giải thoát. Cái lợi duy nhất có được là nhờ bà Thụy Khuê, tôi có dịp đọc thêm nhiều tài liệu giúp bổ túc cho kiến thức về sử Việt Nam cận đại.

Sự khác biệt giữa Thuỵ Khuê và người viết là sự khác biệt trong lối nhìn, lối đọc sử học do quan điểm về sử khác nhau.

Trước khi chấm dứt bài viết bày tôi cũng mời độc giả đọc lại bài phỏng vấn của bà Thụy Khuê với Hoàng Phủ Ngọc Tường họa chăng có thêm một điểm nhìn gợi ý nào chăng?

Qua kinh nghiệm này tôi nghĩ chỉ nên đọc những gì mình cảm thấy thích. Không thích không đọc để khỏi tự hành hạ mình. Nó giống như món ăn vậy. Thích thì ăn, không thich thì thôi.

(Hết)

© 2016 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”

Nguồn: Bài và chú thích của tác giả. DCVOnline minh hoạ.

(21) Alesix Faure, Mgr Pigneau de Beshaine Esveque d’Adran, Paris, 1891, Chapitre douzieme.

(22) Nguyễn Xuân Thọ, Ibid, trang 34.

(23) Tạ Chí Đại Trường, Ibid., trang 181.

(24) Nguyễn Xuân Thọ, Ibid., trang 36.

(25) Thụy Khuê, Ibid., chương 2.

(26) Ngày thứ 15, tuần trăng thứ năm, năm thứ 51, đời Cảnh Hưng, 27.6. 1790. Louvet, La Cochinchine religieuse, I, t, 536. trích lại Thụy Khuê, Ibid., chương 18.

(27) Nguyễn Duy Chính, “Tương quan Xiêm-Việt cuối thế kỷ XVIII”, trang 28-29.

(28) Tạ Chí Đại Trường, Ibid., trang 196-197.

(29) Thụy Khuê, Ibid., chương 14, Maybon và cuốn Histoire moderne du pays d’Annam.

(30) Thụy Khuê, Ibid., chương 15 Maybon, “Histoire moderne du pays d’Annam, trang 278.

(31) Thụy Khuê, chương 15, “Relations de Bissachere”, Introduction của Ste-Croix do Maybon in, trang 91.

(32) Thụy Khuê, Ibid., chương 15, trích “Annales maritimes et Coloniales”, biên niên hàng hải và thuộc địa, 1823, tome 2, trg 578.