NVL-Cộng sản và tôi

Cộng sản và tôi (p1)

editor_ Posted on February 19, 2020 Posted in Con Người & Sự Kiện, Nguyễn Văn Lục, Quan Điểm

Nguyễn Văn Lục

Tôi như thể không thuộc về thế giới cuộc chiến nhố nhăng ấy. Nếu cho chọn thì tôi sẽ đứng về phía những người lính Tây.

Cộng sản và tôi qua hành trang “Tình Nghĩa Quốc Văn Giáo Khoa Thư”

Nếu nói về tuổi đời thì tôi với đảng cộng sản tròm trèm tuổi nhau. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930. Tôi sinh năm 1938.

Vừa có trí khôn là tôi đã biết họ là giống gì. Nhớ lại, tôi vừa mới biết đọc biết viết, biết cộng trừ mà chưa biết nhân chia thì được gia đình gửi lên Hà Nội học. Đúng ra là do quyết định của ông anh lớn. Anh muốn tôi theo con đường mà anh đã đi. Anh lớn của tôi là người lo cho gia đình, cho anh em họ hàng và cả làng xóm nữa.

Anh là một thanh niên theo Hướng đạo.

91 – Anh em phải hòa thuận”. Quốc Văn Giáo Khoa Thư (QVGKT), lớp Dự bị. Bài học 91, trang 93 vietlist.us)

Ngoài sách QVGKT, thanh thiếu niên được đào luyện thêm trong môi trường hướng đạo thì tuyệt vời.

Ngay từ nhỏ, anh tôi đã huấn luyện và hướng dẫn chúng tôi nhiều điều theo tinh thần và sinh hoạt của hướng đạo sinh, như tổ chức đi cắm trại, tập bơi lội, chơi thể thao, đi du khảo, …

Ngoài anh tôi thì người thầy thứ hai sau này là sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư. Một cách nào đó, dù cuộc đời tôi có những lỗi lầm, nhiều vấp váp, nhưng cái tinh thần của luân lý giáo khoa thư nó vẫn bàng bạc trong cuộc sống, trong những hoàn cảnh khác nhau. Nó giúp tôi phân biệt điều xấu, điều tốt, điều gì nên làm và điều gì nên tránh. Những bài học rất ấn tượng và in vào đầu tôi mãi đến sau này là chuyện: Học trò biết ơn Thầy, truyện ông Carnot.

Cái thứ ba, rất tiếc, ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc đời tôi sau này và gây trăm điều phiền nhiễu chẳng những cho tôi mà cả đồng bào tôi là đảng Cộng sản Việt Nam. Nó chỉ có mặt trước tôi khoảng chục năm, nhưng nó đã gây biết bao nỗi khốn khổ trăm bề cho anh cả tôi (23 năm tù cộng sản ở ngoài Bắc, lúc được thả ra thì thân tàn ma dại). Nó đánh mất hết tuổi thanh xuân tôi, lỡ cỡ việc học hành, coi như mồ côi cha mẹ. Rồi cả gia đình lũ lượt di cư vào Nam. Tưởng đã yên thân. 20 năm sau, nó đã chiếm miền Nam xô đảy tôi một lần nữa trốn chạy ra hải ngoại tưởng đã bỏ mình ở biển cả.

Nó đi đến đâu gieo đau thương, chết chóc, tang thương cho dân lành đến đó.

Vậy mà nó vẫn tưởng nó ngon. Không ai muốn bỏ xứ, cực chẳng đã và liều chết mà đi. Cả triệu người bỏ nước ra đi thì nó phải có đủ lý do để người ta liều chết mà làm như vậy. Thế giới xúc động mở rộng vòng tay đón nhận. Chỉ có người cộng sản là không.

Như thế, có nên coi họ có còn là giống người không?

Phần các chị tôi lo chuẩn bị sắm sửa quần áo cho tôi đi học. Chị sát tôi xem ra ảnh hưởng trực tiếp việc này hơn cả. Chị nhìn tôi vừa thương như sợ mất mát, vừa hờn trách em: ‘Lớn rồi, trông phởn phơ lắm rồi.’ Từ một đứa trẻ nhà quê lên Hà Nội học là một ước mơ không dám nghĩ tới. Cả một tương lai mở ra trước mặt. Cha mẹ, người lớn, anh chị và họ hàng đều trông chờ vào tương lai đứa trẻ. Sự hãnh diện đến xốn xang như bay lượn trong không khí gia đình nhộn nhịp cho ngày từ giã quê nhà. Tôi được nâng chiều một cách quá đáng, không ai nỡ trách mắng.

Ai cũng mong cũng đợi nhưng lại không muốn điều ấy xảy ra

“ Cơm nước xong rồi, thầy mẹ tôi, anh em, chị em tôi tôi: cả đến người ăn người ở trong nhà, đều tiễn tôi ra tận bờ sông, chỗ thuyền đậu.

Vừa ra khỏi nhà, thì trong lòng tôi tự nhiên sinh ra buồn rầu vô cùng. Từ thuở bé đến giờ, chỉ quen vui thú ở nhà, nay tôi mới biết cái cảnh biệt ly là một.”

“Kẻ ở người đi”, QCVKT Sơ đẳng, trang 46

“Kẻ ở người đi”, QCVKT Sơ đẳng, trang 46

Phần tôi không có ý niệm gì rõ rệt về tương lai cả. Hà Nội dưới mắt tôi vỏn vẹn chỉ là miếng bánh tây (không phải bánh mì). Nghĩ tới Hà Nội tự nhiên nước bọt nhiễu ra. Đã có lần, anh lớn tôi từ Hà Nội về làm quà cho mấy đứa em cái bánh tây, được cắt ra từng lát. Cái bánh tây thời đó sao nó thơm ngậy, nghĩ tới đã thèm rỏ rãi. Hạnh phúc dưới mắt một đứa trẻ thật đơn giản, thực tiễn và nhỏ nhoi. Nó có thể đánh đổi ngay cả cuộc đời.

Đó là thứ hạnh phúc theo kiểu “Thằng Bờm có cái quạt mo”.

Nhưng tôi chưa kịp học được một chữ nào lúc lên Hà Nội thì ít lâu sau xảy ra chiến tranh Đông Dương lần thứ I.

Thế là tiếp theo cả một thời nhố nhăng, loạn lạc, ly tán bắt đầu.

Những suy nghĩ sau đây của tôi là thuần khiết của một đứa trẻ vừa bước vào ngưỡng cửa cuộc đời. Đừng bắt một đứa trẻ phải nghĩ khác được. Chiến tranh dưới mắt một đứa trẻ là điều không hiểu được. Tôi đành mượn Văn Tế Cần Giuộc của cụ Nguyễn Đình Chiểu trong sách QVGKT diễn lại. Cảnh có thể khác, nhưng người thì vẫn chỉ là một để gián tiếp nói đến cảnh chia lìa thời chiến tranh:

“Đau đớn bấy, mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lắt trong lều; não nùng thay, vợ yếu chạy tìm chồng, con bóng xế dật dờ trước ngõ.”

Nguyễn Đình Chiểu

Tình cảnh ấy làm cho tôi càng ghét cộng sản từ khi ấy. Ra nông nỗi này là vì ai?

Tôi hiểu mù mờ, rồi dần hiểu rõ là do Việt Minh gây ra cả. Tôi càng ghét cay, ghét đắng Việt Minh[1] từ đấy.

Từ cái ghét ấy đâm ra ghét lây nhiều thứ lắm. Ghét lối ăn mặc lôi thôi, lếch thếch, ghét cái hình dáng thô kệch đeo những khẩu súng gỗ dài quá khổ, ghét những khẩu hiệu hô vang, ghét sự quê mùa mà không giải thích được. Tôi còn ghi nhớ lại một đám thanh niên, ăn mặc lôi thôi lếch thếch, chân đi đất, đeo súng gỗ đi ắc ê trên đường phố Hà Nội như khiêu khích lính Tây, nhưng họ đóng cửa trại Hành Chánh, tài chánh, lính gác lui vào bên trong từ trên một lô cốt chĩa súng ra, im lìm không có phản ứng gì.

Tôi ghét sự lố bịch. Ghét lây lan sang gương mặt ông Hồ trông không có cảm tình chút nào. Một ông già nhà quê, mặt mũi hốc hác, râu ria tua tủa lại là “lãnh tụ” với những từ xưng tụng lạ lẫm như “ Bác” , “cụ Hồ”. Ghét cay ghét đăng cái cảnh ông ôm chặt một bé gái. Về sau thì rõ cái đểu cáng của một tên già mắc dịch. Võ Nguyên Giáp người thì lùn lủn củn đi bên cạnh duyệt binh với sĩ quan Tây cao lớn. Trông lố bịch quá.

Tôi chỉ có thể ghét cái bề ngoài ấy mà chưa đủ tầm trí để hiểu sâu xa về lý thuyết của họ. Tôi cũng còn nhớ khi ấy còn sót lại một vài lính Nhật. Tôi thấy nể sợ mà không cảm thấy ghét.

Hình ảnh tự vệ thành hồi 1945 và khi họ vào giải phóng miền Nam 1975 vẫn là một. 30 năm hai lần cướp nước vẫn là một hình ảnh.

Cái ghét như cái con ghẻ bám vào da thịt làm ngứa ngáy, gãi loét đến mưng mủ. Thà là nhìn một anh lính Tây da đen, gạch mặt đi nữa trông nó vẫn người hơn.

Có lẽ tôi phải để cho một nhà văn miền Nam với lối nói thẳng, nói it hiểu nhiều, nghe đã hơn:

“Có lần, chị Nguyễn Thị Vinh lặn lội từ Saigon lên thăm cụ thân sinh của tôi, tôi có bảo chị,

“Em chẳng hiểu “cách mạng”, chẳng hiểu xã hội chủ nghĩa gì ráo. Nhưng coi bộ họ “đía” thì giỏi, nhưng nhúng tay vào việc làm thì dở ẹt.”

Hồ Trường An. Giai thoại hồng. Thế thời phải thế.

Bố của Hồ Trường An theo cộng sản.

Như đã nói, tôi đã lấy Quốc Văn Giáo Khoa thư làm kẻ dẫn đường ngay từ khi biết đọc, biết viết. Một cách ngoài ý muốn và vô thức, đấy là thứ võ khí tôi được trang bị để chống lai ý thức hệ cộng sản. Nhưng tôi nghĩ xa hơn. Sở dĩ sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư đánh động tâm tư nhiều đứa trẻ vì những giá trị luân lý ấy đã tiềm ẩn sâu kín sẵn ngay trong lòng các trẻ con.

Nó có sẵn – đã là như thế như một truyền thừa từ bao thế hệ – mà các bài học chỉ là cơ hội mở nó ra. Đây là một triết lý sống của con người Việt Nam từ Nam ra Bắc mà sau này cho dù tôi có cơ hội học nhiều tư tưởng triết lý Tây Phương cũng như triết lý Nho Giáo, chưa kể tôn giáo. Nó vẫn là kẻ còn lại cuối cùng trong hành trình nhân thế của một đời người. Mọi tư tưởng, cho dù có cao siêu rồi cũng nhạt dần theo thời gian. Nhưng tinh thần sách QVGKT thì cứ phảng phất, bàng bạc quanh ta và quấn lấy ta như thể không rời. Nó là cái gì còn lại sau khi các thứ khác rơi rụng, tàn úa với cuộc đời.

Cho nên cần điều gì chỉ dẫn. Nó có hết, cứ dở sách ra là xong. Mọi sự khôn ngoan và cách ứng xử ở đời đều có sẵn ở trong đó cả.

Sách dạy điều trước tiên không có gì cao siêu cả, là con người ta phải biết ăn ngay ở lành. Bốn chữ ấy gói ghém cả một kho giá trị đạo đức.

Trong khi đó thì Cộng sản chỉ reo những điều ác độc. Mới đây, có cuốn film The death of Stalin. Coi mới thấy hết sự độc ác của trùm mật vụ Beria độc ác đến như thế nào.

Bây giờ nghĩ lại cũng vẫn vậy, cộng sản vẫn là loại người vô cùng ác độc, làm hại dân, hại nước. Tôi vẫn muốn đi tìm những người cộng sản tử tế, nhưng xem ra hiếm quá. Chắc là có chứ không phải không có. Tôi còn nhớ không quên. Chưa nắm quyền, họ đã đến bắt bố tôi đi tù trại Lý Bá Sơ chỉ vì là ông Trùm xứ. Bắt ông Lý Trưởng làng tôi đi biệt tích. Nhiều phần là cho vào rọ rồi bỏ trôi sông. Cửa sông Đáy ở làng tôi thời trước 1945 có xác chết bị giết cho vào rọ trôi dập vào kè cống, trương phình như heo nướng. Ai cũng sợ. Đó là giết người có tính khủng bố!

Tôi hơi khoe khoang với độc giả khi tôi dở cuốn sách Histoire mondiale du communisme, tome 2 : Les victimes hơn 1000 trang của Thierry Wolton. Trong chương VXI, ông viết con người chỉ là một cái vít nhỏ trong một guồng máy. (Les petites vis et la machine.)

Tác giả trích dẫn một câu tuyên truyền của Mao: “Etre une petite vis dans la grande machine du socialisme.” (Con người chỉ là cái đinh vít nhỏ trong guồng máy vĩ đại của chủ nghĩa xã hội.) Thierry Wolton, Histoire mondiale du communisme, tome 2 : Les victimes. Grasset, 2015, trang 667

Tôi chưa từng thấy họ làm điều gì tốt cho dân. Trước cũng vậy. Bây giờ cũng vẫn vậy. Xem phỏng vấn đài BBC, nhiều thanh niên ở Vinh, vì nghèo đói, gia đình phải đi vay nợ đóng góp hơn 6000 đô la cho bọn trung gian để con trai được sang Đài Loan làm công. Kể như hai năm làm không lương. Nghĩ cái chế độ ấy đẻ ra bao nhiêu điều bất nhân xảy ra hằng ngày trong nước. Đàn bà thì bán ra nước ngoài, làm điếm trá hình. Đàn bà bán trôn nuôi miệng. Đàn ông thì làm cu ly cho người ta để đem tiền về nuôi gia đình. Tiếng là nuôi gia đình, nhưng tiền đó là Kiều hối. Đó là hoạt cảnh hiện nay. Nào phải xa xôi gì? Nghĩ mà buồn cho người dân nước mình và mặt khác cảm thấy mình may mắn quá.

Chiến tranh xảy ra là bao nhiêu nhà cửa nát nhà tan, gia đình chia lìa, ly tán. Già trẻ lớn bé, gồng gánh, cõng nhau được lệnh rời khỏi thành phố trong sự hấp tấp với ánh mắt lo lắng sợ hãi. Đó là những hình ảnh khắc sâu vào trí nhớ một đứa trẻ không bao giờ quên được của chiến tranh. Chiến tranh “làm phiền” mọi người, ngay cả đến những con chó, con mèo. Còn con người thì như cái cây bị bứng ra khỏi gốc rễ. Những lời cầu kinh nguyện râm ran của người giáo dân xem ra đầy nỗi van xin và tuyệt vọng. Tiếng kêu cầu như không được đoái đến. Chúa như khước từ không nghe.

Tôi lạ lẫm với chính mình về thái độ thản nhiên, không sợ hãi những gì đang xảy ra chung quanh. Chiến tranh hình như chỉ có thể bắt nạt người lớn và làm họ sợ. Tôi chỉ thấy có sự đổi khác và mất đi những sinh hoạt bình thường của đời sống.

Tôi chỉ có một mình nên không biết chạy đi đâu. Phía trước tôi là chiến tranh. Phía sau tôi là cộng sản. Tôi chạy đằng nào?

Các anh tôi ở chỗ khác nên chắc là theo lớp sóng người vội vã rời thành phố. Cái cảnh lạc đàn sau này mãi tôi mới thấm hiểu. Tý tuổi đầu đã lạc đàn. Có những buổi chiều, tôi ngồi bó gối nhìn đăm đăm ra đường hướng về quê nhà. Nhớ nhà, nhớ khung cảnh xóm làng, nhớ những phiên chợ, nhớ những ngày đình đám của nhà xứ. Ngớ cha nhớ mẹ. Nhớ các chị. Nhớ những món ăn mẹ làm như cá rô rang muối, cháo cá quả và nhất là hương vị cay đắng ngọt bùi của bữa gỏi cá mè ngày tát ao cá. Nhớ tiếng chuông nhà thờ sáng chiều như thúc dục rộn rã. Nhớ những con đường làng lát gạch bổ cau. Nhớ những bờ đê với tiếng sáo diều, tiếng lục lạc gọi trâu về chuồng lúc mặt trời chiếu xiên khoai. Nhớ mùi rạ ướt, mùi lúa non, mùi phân chuồng, tiếng chày giã gạo. Nhớ tiếng gà gáy sáng, tiếng chó tru gọi đực lúc đêm khuy. Nhớ những cơn mưa phùn rét căm căm, bờ ruộng lầy lội trơn trượt.

Nhớ tất cả như chốn để về về mà nay xa cách. Buồn rười rượi.

Đó là sự ly tán, đó là sự mất mát đầu đời do chiến tranh gây ra. Có thể nói tuổi thơ của tôi lớn lên cùng với chiến tranh, chung đụng với chiến tranh.

Và người ta đã cướp đi cái tuổi thơ của tôi.

Người ta chỉ lo đến chuyện thắng thua mà không ai quan tâm đến tuổi thơ tôi bị mất.

Nay có dịp nghe lại những bài hát ca tụng kháng chiến — hay thì có hay. Nhưng mặt khác, tôi giận ghét những người làm ra nó như Phạm Duy, giận cả những “nét đẹp” của chiến tranh làm mê mẩn lòng người như Phạm Duy đã làm. Theo Thierry Wolton: Để nuôi dưỡng chiến tranh, người cộng sản biết sản sinh ra các kẻ thù. Ông gọi là xưởng máy tạo ra kẻ thù. (Thierry Wolton, (La fabrique des ennemis, ibid., trang 55).

Dưới mắt Phạm Duy, nhạc sĩ đã nâng chiến tranh thành một lý tưởng, một bản anh hùng ca

“Chiều về trên cánh đồng xanh. Có nàng gánh lúa cho anh đi giết thù.”.

Phạm Duy

Hay

“Một mùa thu năm xưa Cách mạng tiến ra”, “Một đoàn người đi miên man trên đường gian nan. In hình qua mây núi xanh lơ bát ngát”, “Một đoàn người trai hiên ngang, đeo trên vai nợ máu xương, vui ra đi không buồn nhớ thương”.

Phạm Duy

Tôi không thấy có một bài nào trong QVGKT ca tụng chiến tranh cả. Chỉ có một bài duy nhất nói về lính thú ngày xưa, và bài Tuần Phu.

Đó là một sự đánh lừa vĩ đại. Chiến tranh chỉ đẹp và quyến rũ, chỉ lừa dối được đối với lớp tuổi thanh niên như Phạm Duy. Đó là những kẻ vẽ mặt bôi hề, nói văn vẻ là những “huyền thoại” về chiến tranh mà Phạm Duy đã chạy theo cái bóng của chính mình. Nhưng tôi chỉ là một đứa trẻ, đứng chưa tới gót chân P.D., một phù thủy âm nhạc. Sau này lớn lên, tôi cũng biết mê nhạc Phạm Duy. Nhưng không thể chấp nhận con người Phạm Duy được.

Tôi không thể đánh đổ một thần tượng như ông. Nhưng ca tụng ông như một số người thì tôi cũng không làm được. Nhưng ngược lại, tôi lại có thể đánh đổ một con người.

Đối với tôi, hễ đã theo cộng sản thì mất tính người.

Mất tình, mất nghĩa, mất anh em, mất gia đình, mất bạn bè, mất tình nghĩa xóm làng. Tôi cảm nghiệm sâu xa như thế từ tấm bé đến nay. Trong cải cách ruộng đất, người bị đấu tố quay lưng lại người đấu tố để họ khỏi phải nhìn mặt nhau. Chúng ta cứ nghiệm mà xem sẽ thấy. Thật vậy, theo cảm nghiệm của riêng tôi, tất cả, dù là linh mục, dù là sư thầy, dù là trí thức, dù là nhà văn, dù là đám bạn bẻ, dù là thầy học tôi, ngay cả anh em ruột thịt mà đã đi theo cộng sản thi họ mất tư cách làm người. Họ có thể: Có học mà không có hạnh. Họ cũng không có thể, Đói cho sạch rách cho thơm.

Nói tóm lại, họ không có cái tối thiểu là cái luân lý giáo khoa thư. Họ có thể chỉ là những kẻ hám danh như câu chuyện Con chó và miếng thịt. Họ không còn tình nghĩa xóm làng, tình nghĩa ban bè, tình nghĩa anh em, tình cha mẹ (Thấy người hoạn nạn thì thương. Chuyện Lưu Bình-Dương Lễ, Quạt nồng ấp lạnh. Trích QVGKT)

Về con người Phạm Duy, ông mất cái tình tự: đói cho sạch rách cho thơm. Có lúc con người ấy mặc áo đen như một cán bộ xây dựng nông thôn được trả tiền, vừa gẩy đàn vừa hát tưng tửng như các bài: Một hai ba chúng ta là lính cả làng. Nông thôn quật khởi, Tay súng, tay cẩy, khoác áo màu đen. Những kẻ xu nịnh ông không hề dám nhắc lại những nhan đề bài hát trên. Nhưng cũng chính con người ấy ông rống lên không ngượng miệng hát: “Tôi sẽ hát to hơn những kẻ khơi ngọn lửa thù. Lời tôi ca, lời tôi ca như suối rừng thu.” Rồi kẻ ấy được mời đi Mỹ có Steve Addiss giới thiệu. Ông nỉ non hát bài Tâm ca số 5: “Nhưng em thương anh thương anh. Cho súng phải thở dài. Cho lựu đạn im tiếng.”

Người Mỹ nghe ông hát đêm ấy cũng là những người gián tiếp trả thuế cho những bom đạn cầy nát miền Nam. Chiều tối nay họ đang lấy khăn lau mắt.

Tâm Phẫn Ca 5 Nhân Danh – On Behalf – 1966 – Phạm Duy. Phạm Duy, Bill Crofut, Steve Addiss và Peter Seeger in Rainbow Quest 1966.

“Xin nhân danh Tổ Quốc đẹp ngời

Vì giống nòi, tôi phải giết vạn người.”

Người trí thức thiên tả như Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung gọi đó là một ảo tưởng. Vì không có thể có tiếng hát to nào có thể át được tiếng súng (Tâm ca số 2). Nếu thay vì gọi là một ảo tưởng, người ta đổi giọng gọi đó là một ước mơ thì ai cũng có quyền tùy tiện. Vì ai có thể cấm được người ta mơ?

Chung quanh ông có cả trăm người tán tụng ông từ Kháng chiến ca, Trường ca, Dân ca, Tình ca, Huyền sử ca, Tâm ca, Đạo ca cả đến Tục ca.

Khi ra Hải ngoại, năm 1982, ông có phổ thơ Nguyễn Chí Thiện 10 bài “ngục ca”. Cái đó là điều tôi không hiểu được của một người được gọi là nhân tài mà sáng nắng chiều mưa. Không ai có thể giải thích dùm tôi sự xoay trục giữa Kháng chiến ca và Ngục ca, giữa Tâm ca và Đạo ca và Tục ca, Vỉa hè ca.

Cũng vậy, đã gọi là Dân ca thì đó là gia tài chung không ai là tác giả. Nhưng Phạm Duy đã mượn cả ý cả lời và lấy gia tài chung của dân tộc làm gia tài của riêng minh. Lấy vinh dự dân tộc làm bậc thang danh vọng của chính mình. Cái đó có phải là sự nhập nhằng, vay mượn mà không trả vốn lẫn lời không?

Cũng có người có đủ can đảm bênh Phạm Duy giải thích theo kiểu huề cả làng cho rằng: đạo ca và tục ca chẳng qua là hai mặt của cuộc sống. Đó là Đặng Tiến rất có tài hót. Đặng Tiến đã viết một bài: Tục ca trong nhạc trình Phạm Duy. (Báo Văn số 66-67, tháng sáu-bảy 2002, trang 30)

Xin trích nguyên văn vài câu trong một bài của người viết.

“Khỉ đột, Tình hôi, Nhìn Lồn, Em Đ, Cầm cu. Nhìn Lồn. Trẻ con nhìn lồn phụ nữ ngồi đi cầu, nhìn đủ thứ lồn non, lồn lớn con, mập mạp, lồn mềm. Lồn tròn hoặc lồn móm mém.. rồi có đứa nhìn phải đúng lồn mẹ mình.”

Nguyễn Văn Lục. Phạm Duy còn đó hay đã chết. Hai mươi năm miền Nam. Tủ sá ch Tiếng Quê Hương, trang 341-m 339

Nhìn trộm. Nguồn: Pinterest

Tôi lại bèn dở sách QVGKT xem có bài nào dậy trẻ em miền Nam hát mất dậy như thế không? Không. Chỉ có những bài dạy như: Kính trọng người già cả (Kính lão đắc thọ). Bài khác, Khuyên hiếu đễ. Bài khác nữa khuyên, Lễ phép với người tàn tật.

Học trò trong Nam đã được học sách QVGKT từ năm 1935. Họ đã thấm nhuần trong nếp sống, nếp nghĩ tình nghĩa Giáo Khoa Thư và thể hiện rõ nét với các nhà văn như Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Hồ Trường An. Và ngay cả những nhà văn trẻ sinh sau đẻ muộn dưới mái trường XHCN cũng không mất cái căn tính người miền Nam như Nguyễn Ngọc Tư trong Cánh đồng bất tận.

Tôi rất trân quý cái tình tự con người – sông nước miền Nam qua câu chuyện Tình nghĩa Giáo Khoa Thư của Sơn Nam trong cuốn Hương rừng Cà Mau. ( Xem chi tiết ở phần sau)

Người miền Nam nói chung thua cộng sản cũng phải. Còn có tình có nghĩa, còn biết rộng lượng thì làm sao nói đến chuyện thắng thua. Nhưng người miền Nam có quyền hãnh diện vì ít ra có tình nghĩa kiểu Quốc Văn Giáo Khoa Thư. Trẻ con nghịch ngợm thì có, nhưng mất dậy như trong bài hát của Phạm Duy thì không thể nào có được. Có chăng, đó là bọn trẻ theo cha mẹ đi kháng chiến ở miền Bắc mà Phạm Duy đã gặp nên chúng mới dở thói mất dậy như thế? Phạm Duy có nhắc đến ông bố ông? Thế nào là ảnh hưởng cha mình?

Theo sự giải thích của Phạm Duy thì Tục ca của ông ảnh hưởng cha mình, ông Phạm Duy Tốn và nhạc sĩ Georges Brassens.

Có lẽ tốt nhất, người viết xin trích dẫn hai doạn nhạc một trong bài Kiếp nào có yêu nhau năm 1958 để độc giả tự xét đoán vậy:

“Hoa xanh đã phai rồi

Môi nhăn đã quen cười

Kiếp nào có yêu nhau

Thì xin hẹn đến mai sau

Hoa xanh khi chưa nở

Tình xanh khi chưa lo sợ.”

Phạm Duy

Hay trong bản nhạc Ngày đó chúng mình, ông viết:

“…Ngày đó có em ra khỏi đời rồi

Và mang theo trăng sao chết cuối trời u tối.

Ngày đó có bơ vơ lạc về trời

Tìm trên mây xa khơi có áo dài khăn cưới

Ngày đó có kêu lên gọi hồn người

Trùng dương ơi có xót xa cũng hoài mà thôi!”

Phạm Duy

Để các bài Tình Ca và Tục ca gần nhau xem ra như chúng chửi cha nhau, chửi cha tác giả!

Thôi thì xin tặng họ câu chuyện năm 1970, khi ông Nguyễn Văn Thiệu đưa ông Nguyễn Bá Cẩn thay ông Nguyễn Bá Lương làm chủ tịch Hạ Viện. Nhà báo Sức Mấy đã tức mình chơi chữ một cách khá thô tục trên báo thời đó. Nó tương xứng với kiểu Phạm Duy, đại khái: “B.L. hay B.C. cũng vậy thôi.”

Người đã thấm nhuần luân lý Giáo Khoa Thư không ăn nói như thế. Kể cũng lạ cho người đời, cái nơi chốn mà chúng ta từ đó ra chào dời đáng lẽ phải được trân quý lại bị một nhạc sĩ tài danh biến thành câu chuyện tục tĩu, khiếm nhã.

Cho nên, cái tục trước hết nó nằm trong đầu của thành phần mất gốc rễ sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư.

Sau này lớn lên thời sinh viên, tôi được may mắn ăn học ở miền Nam có chút vốn liếng triết học ăn đong. Nó giúp tầm nhìn của tôi mở rộng ra và nó chỉ cho tôi thấy rằng tất cả nhứng loại người được gọi là trí thức trên, có ăn học trên, đã ngả theo cộng sản đều là những kẻ phỉnh phờ, thiếu nền tảng luân lý Giáo Khoa thư. Gọi văn vẻ chẳng qua là những kẻ ngụy tín. Kẻ ngụy tín là loại người trí thức giả tự đánh lừa chính mình bằng những niềm tin, lý tưởng bằng sự phỉnh phờ tự gạt mình và người khác.

Cho nên chiến tranh tự nó vẫn bẩn và thô bạo dưới mắt một đứa trẻ 8 tuổi- sống sau PD hơn một thế hệ. Nhưng chiến tranh ấy vẫn tạo ra được những hào quang nhất thời, mỵ dân và mỵ được một số người, trong đó có Phạm Duy.

Sau này, ai đúng ai sai hẳn đã rõ? Đối với tôi, đứa trẻ tâm tư còn thuần chất “thẳng ruột ngựa” lại được trang bị Triết lý sống Luân Lý Giáo Khoa Thư nên trên cơ những kẻ đã bị nhồi sọ, tuyên truyền.

Tôi ở lại thành phố và trở thành đứa trẻ mồ côi ngay trong những giây phút đầu của cuộc chiến trong tiếng súng tắc bọp, tắc bọp. Đối với tôi, thời ấy, Việt Minh là tiếng tắc bọp. Sau này, người ta không còn nghe thấy tiếng súng quen thuộc đó nữa.

Đó là tiếng súng khai chiến tôi nghe được trong một đêm cuối tháng mười hai năm 1946. Tiếng súng của bộ đội Việt Minh bắt đầu không ai khác. Không phải Pháp. Các cuộc chiến tranh sau này thì cũng một thể thức ấy. Việt Minh cộng sản là kẻ khơi mào và kết thúc.

Cho đến bây giờ, tôi vẫn không hiểu tại sao chỉ nghe được nhiều những tiếng tắc bọp mà ít có những tiếng nổ khác. Chẳng hạn tiếng súng nổ từng chập, nổ ròn rã của đại liên. Một bên là súng đại liên, một bên là tiếng tắc bọp.

Đó là tính chất cuộc chiến lúc ban đầu. Nó có cái gì kịch tính và vô lý.

Nó đẩy những suy nghĩ của tôi đến một thắc mắc: Ai đã xô dẩy những thanh niên này đến chốn này? Chết một cách lãng xẹt. Đó là một cuộc chiến thí quân mà chỉ mãi sau này tôi mới hiểu được trọn nghĩa khi đọc Xuân Vũ trong những tác phẩm của ông như: Đến mà không đến, Đồng Bằng gai góc, Mạng người lá rụng, Xương trắng Trường Sơn. Càng đọc càng thấm thía cái cảm nghiệm đầu đời đúng không sai môt ly.

Đọc những tác phẩm này để bên cạnh nhạc Kháng chiến của Phạm Duy thì nó trở thành một điều mỉa mai đến đểu cáng.

Tôi cũng nhận thêm một chân lý như đã nói ở trên là những gì tôi cảm nghiệm lúc còn bé thì 10 điều sau này đúng hết chín. Khi ấy, nhận xét một người là tốt, thì rõ ràng người đó sau này vẫn tốt. Bảo người đó xấu thì là xấu và không là gì khác. Ngay còn tuổi học trò, tôi đã thấy Việt Minh cộng sản là xấu, là ác như ám sát, bỏ rọ trôi sông, tù đầy không bản án, không xét xử, giật mìn trên con đường số 5 Hanoi-Hải Phòng hay đường Hanoi- Phủ Lý thì sau này họ cũng vẫn thế.

Tôi đã có dịp nhìn thấy những xác người dân vô tội, hai đàn bà, một đàn ông, mặt họ xám đen vì bị mìn cộng sản trên đường số 5. Tây không chết mà chỉ thấy người dân là nạn nhân của cộng sản.

Sau này, 4 năm sống chung với cộng sản sau 1975, thay vì là một một thời gian đọa đầy. Nay nhìn lại thấy đó là món quà có giá mà cộng sản tặng những thuyền nhân vượt biển như tôi.

Họ là những quân cướp đúng nghĩa. Căn nhà tôi ở sau này chỉ nhận được cái giấy vỏn vẹn nửa bàn tay, không có dấu triện. Chỉ có một câu lừa bịp: “Căn nhà này được nhà nước quản lý”.

Ở đây cũng cần có một lời cám ơn muộn nhà văn Xuân Vũ đã để lại cho đời những tác phẩm về cuộc chiến mà mạng người rớt như lá rụng. Mười người đi phỏng được mấy người tới? Dọc đường Trường Sơn là bãi tha ma với xác chiến binh cộng sản chết không một nấm mồ. Xương trắng ngập Trường Sơn.

Vinh danh nào cho những người chết vô danh ấy? Hào quang nào cho những kẻ nằm xuống? Hồn tử sĩ vang đâu đây tiếng nhạc Phạm Duy như một lời mỉa mai đáng nguyền rủa “Lời tôi thay cho tiếng đạn bay”, “ Tôi sẽ hát cho với thống khổ, vơi dòng lệ nhòa.” (PD. Tâm Ca số 2). Đãcó bao giờ Phạm Duy cất mình đi thăm một chiến sĩ chết tại bệnh viện Cộng Hòa. Có người sẽ nói ngay chứ. Có, ông ấy có làm bài: Huyền Sử Người Mang Tên Quốc. Hay lắm. Cảm động lắm.

Những suy nghĩ mọc mầm từ lúc tuổi còn xanh như thể chín mùi. Còn cái dã man nào hơn khi họ bố trí từng cặp đôi nam-nữ trên một chiếc thuyền nan chở võ khí, đạn dược hoặc nhu yếu phẩm vào Nam mà mười phần không có một phần sống. Những đôi trẻ này đối mặt với cái chết chỉ còn biết quấn vào nhau thỏa mãn được chút nào hay chút đó. Cặp nào may mắn trong muôn một còn sống sót trở về thì trên thuyền nay có thêm một đứa trẻ nhỏ chưa rời núm vú mẹ.

Chiến sĩ vô danh. Phạm Duy. Ban Hợp Xướng Ngàn Khơi

Chiến sĩ vô danh mang đầy ý nghĩa mỉa mai. Ở ngay Saigon, đã mấy người biết có cuộc chiến tranh từ 1978-1989. Cuộc chiến lần thứ ba. Cuộc chiến 3939 ngày. Con số là cả 100.000 đã ngã xuống và bị thương. Con số công bố chính thức bố 60.000 đã hy sinh. (Huỳnh Anh Dũng: Ghi chép về Campuchia 1975-1991. Bản photocopy)

Thêm vào đó là cuộc chiến tranh biên giới với Tàu ở phía Bắc (1979-1989) kéo dài 10 năm mà trọng tâm là ở Vị Xuyên, Hà Giang. Chính sử ghi được vài dòng. Lãnh đạo cộng sản vì “đại cục” tránh né và dấu kín. Các người lính chiến đấu ở đây đã gọi các địa danh như: Lòm vôi thế kỷ, Đồi thịt băm, Suối oan hồn, Cửa tử. 5000 người lính đã bỏ xác tại đây. Nhưng nghĩa địa chỉ có 2000 ngôi mộ. Số còn lại vẫn mất tích (Phạm Viết Đào. Vị Xuyên & Thế sự Việt –Trung.)

Ông Phạm Viết Đào có người em là Phạm Viết Tạo (Trung đội trưởng thuộc Tiểu đoàn I, Trung đoàn 876, sư đoàn 356, hy sinh trên cao diểm 772, ngày 12 tháng 7 năm 1984.)

Có mấy người đi buôn mà được lời như vậy? Nói vậy thôi chứ cho dù trở về thì họ đã đánh mất tuổi thanh xuân, tóc trên đầu đã ngả muối tiêu. Da mặt đã sần sùi như da cóc vì những ngày sương gió. Đánh mất tiền bạc còn cái ngày lấy lại được. Đánh mất tuổi xanh là mất tất cả. Bùi Ngọc Tấn đã viết về họ:

“có những thanh niên xung Phong trên đường Trường Son, ngày đêm hứng bom đạn, chết không kịp chôn. Và chuyện những cô gái thanh niên xung phong thường xuyên sống dưới hầm ghào bom dội rung chuyển, và đương dựng tiêu trong mù mịt khói bom, người khét mùi thuốc súng, quần áo tơi tả, mắt quầng vì thiếu ăn thiếu ngủ, bỗng ôm chầm lấy những anh lái xe công khai bày tỏ niềm khao khát được ôm ấp vuốt ve, được hiến dâng tất cả và tận hưởng tất cả trong vòng tay nam giới.”

Bùi Ngọc Tấn. Viết về bè bạn, trg 431.

Còn có một vô lý nào hơn về một cuộc chiến tranh mà nó khởi đi như một trò đùa của trẻ con? Những khẩu súng gỗ này là những hình ảnh đọng lại trong đầu tôi vương vấn mãi như một ký ức không rời. Có bao nhiêu người chết và bị thương trong đám Thanh Niên Xung Phong? Sau này, người ta kháo nhau đến con số 20 ngàn người. Một ngàn hay 10 ngàn trong trường hợp này cũng không khác gì nhau. Sự hy sinh tuổi trẻ của họ là một phí phạm vô ích trong khi các lực lượng chính quy đã được lệnh rút ra khỏi thành phố ngay hôm sau?

Hình như cũng có một hai tiếng nổ lớn vào khoảng 9 giờ tối. Người ta nói nhà máy đèn bị nổ. Cả thành phố tối om. Tôi chui xuống gầm bàn phòng khách nhà xứ Cửa Bắc. Hình như cũng có nhiều người khác trốn chạy vào đây và tôi ngủ lúc nào không hay.. Chừng hai tiếng đồng hồ sau rồi im bặt, điện tắt. Về sau được biết là nhà máy điện bị phá nổ.

Thành tích duy nhất là làm phát nổ nhà máy điện tạo ra cảnh màn đêm tối kinh hoàng. Cuộc chiến hầu như chỉ có thế! Sáng hôm sau thì có thêm nhiều gia đình chung quanh khu nhà xứ như phố Cửa Bắc, phố Hàng Hàng Than, phố con đường đôi (Hoàng Diệu) chạy vào tỵ nạn. Tôi đặt biệt thấy ông bà chủ nhân xe đòn đám ma Đức Bảo. Tôi nhớ tới cảnh ngày nào những xe ngựa song mã, hay tứ mã chạy lóc cóc uy nghiêm trên đường phố đưa một ai đó ra nghĩa địa.

Vậy mà lúc này đây, chắc là có nhiều người chết trên đường phố mà xe đòn đám ma lại trở thành một vật thừa thải.

Những cái chết ấy nay dùng xe bò chở đi mà những đôi chân thừa ra vắt vẻo như đùa nghịch khi xe gặp ổ gà! Xe đòn đám ma không thể dùng trong chiến tranh được. Ông Đức Bảo vẫn không quên khăn áo chỉnh tề, trong bộ vét trắng, mũ phớt. Cái oai vệ một thời sắp sửa đi vào dĩ vãng.

Phía đối diện nhà xứ, phía bên kia đường là Sở Hành Chánh Tài Chánh của Tây, nằm chéo góc giữa Phố Cửa Bắc và Con đường Đôi. Hằng ngày, đứng bên này đường, tôi vẫn nhìn thấy một lỗ hổng tường gạch đào một lỗ to bằng cái nia. Đây là dấu tích cuộc tấn công của thực dân Pháp bắn phá bức tường thành do Tổng Đốc Hoàng Diệu tử thủ và chết tại đây. Di tích ấy nay do người Pháp chiếm giữ và từ lúc nào đã có hai xe thiết giáp đứng chặn trước cửa. Cuộc chiến nay đã đổi chiều. Kẻ ở trong không phải Hoàng Diệu, kẻ ở ngoài không phải quân Pháp.

Đối diện bên kia đường, tôi nhìn thấy mấy khẩu súng bằng gỗ vứt vương vãi trên bãi cỏ. Làm sao súng gỗ có thể bắn lại đại liên 30 trên tháp xe thiết giáp? Tôi suy nghĩ vớ vẩn hết chuyện này sang chuyện khác.

Những điều tôi không hiểu được thì như thể người lớn cũng không hiểu được.

Nếu họ hiểu được như tôi thì đã không có cuộc chiến này.

Sáng hôm sau, tôi leo lên, đứng trên gác chuông nhà thờ Cửa Bắc nhìn ra bờ đê sông Hồng, cách chừng 10 con phố, in trên nền trời mùa đông là từng đoàn người lũ lượt quang gánh ra khỏi Hà Nội như đi trảy Hội. Có lẽ không có vị trí nào để nhìn khung cảnh chiến tranh rõ nét hơn? Nó như quang cảnh một cái đèn cù nhìn vào ban đêm. Dòng người in trên nền trời xậm từ bờ đê sông Hồng như một bức tranh sống động nhất. Nó tiêu biểu nhất cho chính sách “ Tiêu thổ kháng chiến” chỉ một ngày sau khi cuộc chiến bắt đầu.

Gác chuông Nhà thờ Cửa Bắc (Nhà thờ các thánh tử đạo) trên phố Phan Đình Phùng (Hà Nội). Nguồn: OntheNet

Căn Gác chuông nhà thờ sau này trên chỗ cửa nhìn được ra ngoài là nơi tôi lui tới nhiều lần để đi bắt các ổ chim sẻ, vặt lông rồi chụm lửa nướng..Không biết nó ngon cỡ nào? Không bắt được chim thì đành bắt cào cào, châu chấu nướng ăn tạm. Còn một ngón khoái khẩu khác là đi câu cá bên bờ Hồ Tây hoặc hồ Trúc Bạch với con đường Cổ Ngư xưa.

Phần tôi như thể không thuộc về thế giới cuộc chiến nhố nhăng ấy. Nếu cho chọn thì tôi sẽ đứng về phía những người lính Tây. Vì ít ra tôi không có cảm giác sợ họ như sợ Việt Minh, vì trước đó, tôi thường gặp họ đi lễ nhà thờ cùng với vợ con họ với những đứa trẻ con Tây cùng lứa tuổi. Chỉ dần sau đó, tôi mới cảm thức được tôi là ai, ai là Việt Minh, ai là kẻ thù? Ai tốt? Ai xấu?

(Còn tiếp)

© 2020 DCVOnline

Cộng sản và tôi (Kết)

editor_ Posted on February 20, 2020 Posted in Chính Trị Xã Hội, Nguyễn Văn Lục, Quan Điểm

Nguyễn Văn Lục

Chỉ một ít ngày sau thì những người chạy vào nhà xứ Cửa Bắc được nhận một khẩu phần gạo máy và ít muối do sở Hành Chánh, Tài Chánh cấp phát.

Cộng sản và tôi qua hành trang “Tình Nghĩa Quốc Văn Giáo Khoa Thư”

Một số những người khá giả đã lần lượt về lại nhà sau khi thấy tình hình tạm yên ổn. Nhà xứ chỉ còn lại những kẻ không nhà không cửa như tôi. Để được nhà xứ nuôi, mỗi ngày tôi chỉ giúp các Cố Tây làm lễ, sau đó thì thong dong. Hai đứa trẻ chúng tôi trong nhà xứ đã đi đến Phố Cổ để “hôi của” xem có chút gì người ta để lại như nồi niêu, bát đĩa, một chút gạo thừa, một it cá khô.

Dân Hà Nội nói chung cũng nghèo, tản cư họ cũng gồng gánh mang đi hết. Tôi cố kiếm tìm một chiếc áo len cũ thay cho cho chiếc áo đang mặc, quá chật, mà kiếm không ra.

Cũng vào cái đêm lịch sử ấy, vào tảng sáng, có tiếng kêu thất thanh của một người đàn bà hô: Cứu tôi với. Cứu tôi với. Nhiều lần. Rồi dần đến tảng sáng thì tiếng kêu tắt ngủm.

Nhiều người ẩn nấp trong nhà xứ, nghe tiếng kêu từ hàng rào xi măng nhà thờ, sợ hãi. Tảng sáng, người ta nhìn thấy 4 người lính tây, đeo băng đỏ cáng một người đàn bà, mặt mũi xưng vù, mắt bầm tín, quần áo sô lệch. Nhiều chỗ bị xé nát phô bầy thân thể ra ngoài. Họ khiêng người đàn bà bất hạnh ấy từ hàng rào xi măng của nhà thờ sang Sở Hành chánh Tài chánh để cứu cấp. Tôi cứ băn khoăn về cái người phụ nữ lạ mặt ấy, không hiểu sau này bà ấy sống chết ra sao? Tại sao môi miệng mắt bà lại xưng vều lên như thế?

Dưới mắt một đứa trẻ, chiến tranh có nhiều điều không hiểu được.

Lá sấu vàng đầu hè (Hà Nội). Nguồn: OntheNet

Đến khoảng 10 giờ sáng thì người ta thấy, môt người lính tây rạch mặt bị treo ngược lên một cành sấu bên góc phải Sở Hành Chánh Tài Chánh. Đầu người ấy chúi xuống, là là mặt đất, đu đưa. Và các người lính tây trắng khác cứ thế lần lượt đi qua. Người đấm, người đạp, người đá bằng giầy “săng đá”, “bất kể vào đâu” đến khi cái thân thể ấy bất động. Không biết còn sống sống hay chết. Người hiểu chuyện, xầm xì là người bị treo ngược chính là người đã xâm hại người đàn bà bất hạnh có tiếng kêu ban đêm.

Thân xác người đàn bà bị ngất và người lính Tây rạch mặt bị đánh đập có liên quan gì đến cuộc chiến này? Đó là hai bộ mặt chẳng ăn nhập gì đến cuộc chiến đang diễn ra đâu đó. Có thể đang ở ngoại ô thành phố hoặc đang giành giật nhau từng con phố giữa tự vệ thành và lính Tây.

Có một cái sáng kiến đến kỳ lạ là từ lúc nào, các thanh nhiên Tự vệ thành đã đục lỗ các tường nhà thông thuông nhau từ nhà nọ sang nhà kia tại các khu Phố Cổ. Nhà ở đây phải liền nhau, chung vách mới đục lỗ được. Khu phố Tây tôi ở, nhất là phía bên phải nhà thờ đều là những nhà tây hai tầng san sát, nhà nọ cách nhà kia bằng một mảnh vườn có hàng rào thì không thể làm thế được. Và từ các lỗ hổng này, Tự vệ thành đi lại từ nơi này sang nơi kia để liên lạc, để tiếp tế một cách khá an toàn.

Hình thức chiến tranh du kích này hóa ra chỉ áp dụng ở chỗ đông dân, chỗ người Việt xúm xụm vào nhau chăng?

Đầu mỗi khu phố có đắp mô bằng đủ thứ vật liệu vác từ các căn nhà bỏ trống ra như giường, tủ bàn, ghế, nệm. Người ta không sợ những ụ mô đó, nhưng sợ cái gì bên trong các mô đắp đó. Như một quả mìn, một trái lựu đạn. Lại một dạng khác của chiến tranh du kich lấy đe dọa khủng bố làm lẽ sống còn.

Sự hoang tàn, tự phá tan hoang những dẫy phố xưa thành cảnh vườn không nhà trống mà trước đây tấp nập buôn bán nay hoang vắng, buồn hiu. Không bóng người. Chính sự hoang vắng, không bóng người làm tôi hiểu được chiến tranh là gì. Tôi nhớ lại sau này đọc cuốn sách của Bernard B. Fall, Hell in a very small Place. Cũng không có đến một con chó chạy loăng quăng hoặc sủa lọan lên khi có người qua lại. Hình như chúng cũng biết có điều gì bất thường xảy ra. Tất cả như muốn tố cáo một cái gì. Nó còn lại như một chứng cớ về một sự vô lý đến hiển nhiên. Lính Tây ít dám lai vãng đến các khu phố cổ. Hình ảnh các bà đầm dắt chó con đi dạo trên con đường đôi hay trên phố Cửa Bắc nay vắng bóng. Những chiếc xe tay kéo các mệnh phụ phu nhân biến mất lúc nào không hay. Và hình như thể biến luôn không còn thấy xuất hiện sau này nữa, dù thành phố Hà Nội đã lấy lại được sự ổn định. Cảnh lính tây say rượu la hét ngoài đường vào buổi tối cũng không còn nữa.

Cũng không còn những đứa trẻ con như tôi, tối tối lúi húi tại những gốc hàng cây sấu cao ngất hai bên đường phố đi bắt ve sầu từ những lỗ dưới đất chui lên. Những con ve sầu lúc đó còn là những con sâu leo độ chừng một thước hay hơn thì con sâu dừng lại, làm cuộc hóa thân thần kỳ, siêu vượt, tự lột xác thành ve sầu. Cuộc hóa thân kỳ diệu ấy kéo dài chừng vài thời khắc mà chúng tôi say mê nhìn cảnh tượng ấy hầu như ở trên đời dễ mấy ai bắt được ngón tay kỳ diệu của Thượng đế trên chỉ một thân xác bèo bọt của một con ve sầu! Sau đó ve sầu chỉ để lại cái vỏ khô cong queo và tiếp tục cuộc hành trình dương thế leo lên, leo lên mãi thật cao bám vào các cành cây. Nhưng nay với đôi cánh thần kỳ. Mới đầu tôi cứ tưởng ve sầu kêu nhờ cái miệng. Không phải vậy, chỉ nhờ đôi cánh rung mà sao có thể phát đi được tiếng kêu to như thế. Và với đôi cánh ấy, cả một dàn nhạc đại hòa tấu inh ỏi vào những buổi trưa mùa hè.

Còn đâu những ngày tháng cũ của ký ức của tôi về Hà Nội!

Chiến tranh đã đánh mất tuổi thơ tôi. Họ, cả đôi bên, nợ chúng tôi nhiều lắm. Không phải chỉ tính bằng xác người.

Mà tại sao chỉ ở vài khu phố Tây này có những cây sấu và những con ve sầu? Còn biết bao kỷ niệm đi nhặt sấu sau những cơn mưa, quả sấu rụng. Nhặt về rồi để cho sấu chín vàng ăn mới được.

Đó là những khung cảnh rất quen thuộc và gần gũi. Gần gũi hơn nữa mang tình tự con người là hàng phở gánh. Một bên gánh là nồi nước dùng phở mà mỗi lần mở cái nắp quyện vào cái không khí se lạnh một mùi thơm quen thuộc, ngào ngạt mùi phở bò. Gánh bên kia là nơi chuẩn bị pha chế cho một bát phở Hà Nội trước khi được chan nước phở.

Phần tôi hiếm lắm mới được ăn một lần, đến nhớ đời.

Tôi không nhớ vào thời gian nào thì tôi được đi học lại sau một thời gian sống lang bang? Đây cũng là thắc mắc lớn mà tôi vẫn chưa có lời giải đáp. Tại sao tôi đã không trở thành những đứa trẻ mồ côi làm nghề đánh giầy, đi ăn cắp vặt, tối về ngủ dưới gầm cầu? Bề ngoài, tôi có khác gì những đứa trẻ đó đâu? Cũng ăn mặc rách rưới, đi chân đất, ăn bữa no, bữa đói. Và nếu chúng biết được chạy vào nhà xứ Cửa Bắc chắc cũng được các Cố Tây nuôi? Sau này, cha Kim, sau làm giám mục ở Kontum là GM Seitz đã mở ra một trại nuôi trẻ mồ côi ở Quần Ngựa để gom tất cả những đứa trẻ mồ côi ở Hà Nọi. Chúng được ăn học đàng hoàng. Đứa nào cũng mặc áo sơ mi trắng, quần sóoc xanh, chân đi dép cao xu Con Hổ. Tôi vẫn có một mái nhà che mưa nắng!

Có bao nhiêu trẻ mồ côi trong cuộc chiến tranh này? Ai lo cho họ? Nếu không phải là các vị tu sĩ công giáo?

Nhưng điều chắc chắn, dù sao thì sau này tôi vẫn thầm cảm ơn các vị cố Tây như cố Năng, cố Ngọc. Cố Ngọc tên tây là C. Simonet. Riêng cố Ngọc sau này tôi rất ngạc nhiên đến sửng sốt khi biết ông là một trong những vị thừa sai đã chiụ khó sưu tầm và dịch lại giai đoạn truyền giáo trên các miền Thượng. (Ông cùng với P. Dourisbourg là tác giả cuốn La Mission des grands Plateaux. Editions France Empire. Paris 1961)

Phải mất khoảng trên 60 năm sau, tôi mới gặp lại vị ân nhân này qua sách vở. Quả là kỳ diệu thật!

Lúc ấy một số trường lớn đã mở lại như trường dòng của các Sư huynh La San, trường Puginier. Trong hai đứa chúng tôi ở nhà xứ, có thể vì anh bạn kia lớn hơn tôi vài tuổi nên đủ điều kiện xin học trường Thầy dòng Puginier, còn tôi còn nhỏ nên không có lớp. Tôi tủi thân buồn bã không biết ngỏ cùng ai. Trường học của tôi ở rất xa chỗ tôi ở. Nó ở ngoại ô, ráp gianh với Sở Thú và Dinh Toàn Quyền. Phải đi qua vườn hoa con cóc. Trường học ở làng Ngọc Hà. Chung quanh có nhiều nhà vườn trồng rau.

Sinh hoạt người dân ở đây rất là lam lũ và cực nhọc. Mỗi buổi sáng, họ kĩu kịt quang gánh đem cái hương hoa đồng nội còn đọng hơi sương của ngoại ô Hà Nội đi vào thành phố.

Hà Nội khác Saigon là có vùng ngoại ô.

Một nhóm người ngoại ô Sài Gòn cùng nhau đi xe tới hội làng vào tháng 6/1968. Ảnh: François Sully

Thành phố đông người nên dân nghèo nhập cư không có chỗ ở trong thành phố. Họ phải chen chúc nhau ở ngoại ô. Sáng sáng các người phu lục lộ, nhất là các người bán hàng rong, các phu phen thợ thuyền đủ loại lục tục kéo vào thành phố để đến chiều lũ lượt đi ra.

Đi ngược trở ra là các phu đổ thùng kéo những chiếc xe bò chở đầy các thùng phân của các nhà xí Hà Nội ra khỏi thành phố. Vì thế, nhiều nhà ở Hà Nội có cầu xí trông ra đường, sáng sáng phu đổ thùng thay các thùng phân và đẩy các thùng không vào cửa cầu xí. Không đủ xe bò, các người phụ nữ đành gánh các thùng phân kĩu kịt đi ra theo hàng một rảo bước và nhịp nhàng.

Lạ một điều, tôi không hề trông thấy một người đàn ông nào gánh phân. Gánh phân hầu như độc quyền dành cho phụ nữ. Phân cũng được chia ra nhiều loại, giá cả đôi chút khác nhau. Phân càng mầu vàng càng thối của cánh nhà giàu, giá có cao hơn phân xanh của dân nghèo chỉ ăn rau.

Trở ra với bao mùi xú uế, hôi hám. Trở vào với bao mùi hương hoa. Đó là cái nghịch lý của đời sống phố thị Hà Nội và làng Ngọc Hà.

Một cây số rưỡi: Đường đi từ nhà thờ Cửa Bắc đến làng Ngọc Hà (cạnh vườn Bách thảo Hà Nội). Google Maps

Đi từ nhà tới trường, tôi phỏng đoán cũng phải ngót nghét mười cây số đi bộ bằng chân đất. Mùa lạnh, có lúc đi chân đất buốt thấu xương, rét căm căm nếu lại có mưa phùn, có gió bấc. Cho đến bây giờ, tôi cũng không còn nhớ được ăn mấy bữa/ngày. Có thể một nắm cơm nhỏ buổi sáng và trưa để bụng đói. Chiều về được chừng hai bát cơm. Tôi chỉ còn nhớ, có lần buổi sáng nhìn con ông Bõ gác chuông, ăn nắm cơm, có phết mắm đỏ mà tôi thèm rỏ rãi, ước gì được ăn như con ông Bõ.

Nhưng sở dĩ hôm nay, tôi viết lại ngôi trường này, ngôi trường chỉ có thể trong thời chiến tranh. Một ngôi trường không giống bất cứ ngôi trường nào khác ở Hà Nội như các trường Albert Sarraut, trường Puginier của các thầy dòng, trường Bưởi cũng do nhà nước Pháp bảo hộ và một vài trường tư như Thăng Long hay Dũng Lạc nằm bên cạnh nhà thờ Lớn.

Trường học của tôi trống hốc tuềnh toàng, không có cổng trường, không có bảng hiệu hay có mà đã rơi mất, không có tường che, ngăn vách. Học trò phần lớn là con nhà lao động làm vườn và nghề gánh phân. Lớp học chia ra vài lớp tùy theo lứa tuổi. Hình như chỉ có một ông thầy vừa là hiệu trưởng, vừa đảm trách tất các lớp. Ông Hiệu trưởng người cao lớn, dáng quê mùa, răng hô, má hóp. Nhiều phần ông là người theo đạo Thiên Chúa. Trông hiền lành mà chỉ trong những hoàn cảnh như thế này mới nảy sinh ra những loại người như ông. Ông cầm một cái roi mây, nhưng hình như chỉ để thị uy chứ không đánh ai cả.

Lớp học, nói như thế chứ nó trống rỗng tan hoang. Như thể ghép vội mấy miếng tôn làm chỗ che mưa nắng.

Lớp tôi học nay cũng không nhớ là lớp mấy, chỉ biết có một vài học trò đã lớn, chừng 9-10 tuổi. Như có anh chàng to con, da đen coi như vạm vỡ nhất lớp. Tôi còn nhớ được tên anh vì trong lớp họ có câu hát diễu: Trên Lai, dưới Tuyết nằm giường lò xo, dập dình có sướng không?

Tại sao mới 9-10 tuổi trẻ con lại có một sự lố bịch hóa tình dục như thế? Làm gì có những câu đầy trữ tình, làng mạn ứa chan như:

“Đưa em về dưới mưa. Nói năng chi cũng thừa”, “Ngày đó có em đi nhẹ vào đời. Và mang theo trăng sao”, “Nghìn trùng xa cách người đã đi rồi”.

Phạm Duy

Giường lò xo theo tôi được biết là những cuộn lò xo bề ngang to như trái bưởi, kéo dọc theo thành giường, nằm chắc là êm và nhún nhảy. Tuyết được nhắc tới vì là con gái, con ông Hiệu Trưởng, một cái đinh tiêu biểu của phái nữ trong trường. Bố to con nhưng Tuyết thì người mảnh khảnh, dơ xương, ngực lép như cái bánh đa, má hơi hóp do thiếu ăn, hình thù như con mắm, mặt xanh nhớt. Nghe hát diễu như thế, nhưng Tuyết thản nhiên như không.

Riêng tôi cũng có cảm tình với Tuyết, nhưng tôi còn bé quá so với Lai. Tuy vậy cũng đã vấn vương “Tuyết của chúng tôi” như thế. Tuyết gầy, Tuyết còm, Tuyết xanh xao mất máu, Tuyết khẳng khiu vì đói ăn. Tôi không thể nào mường tượng và so sánh những người tình trong tiểu thuyết hay người tình “đưa em về dưới mưa” được.

Thầy dậy hai ba lớp nên dậy lớp này thì lớp kia nói chuỵện như cái chợ. Đánh lộn và chọc phá không thiếu. Ấy là một trường học nhốn nháo thời chiến tranh. Vậy mà sau này nghĩ lại, tôi đã “nên người” từ ngối trường này qua những bài học trong sách Quốc Văn Giáo Khoa thư! Thầy tôi lâu lâu mới ghé lại. Lớp học trở lại trật tự, ngoan ngoãn. Thầy bắt một anh có giọng tốt đọc chính tả thay thầy. Trong khi đó, thầy bận bịu đi rà soát tập vở các trò khác. Thầy bận bịu không nghỉ tay. Tập vở thời ấy rất xấu, giấy bổn mầu vàng, giấy cong queo, đôi khi phải vuốt cho thẳng, thỉnh thoảng có gai. Ngòi bút đôi khi đụng phải gai giấy là rách, mực nhòe nhoẹt. Mực tím nên đôi khi còn dùng làm thuốc bôi trên các vết ghẻ ở chân và tay hoặc trên đầu.

Chỉ có một mầu mực tím vừa dể viết và để làm thuốc chữa ghẻ. Tôi cũng không biết, mầu mực này rút ra từ cây gì? Nhưng xem ra rất phổ biến ở miền Bắc.

Trường tôi học không có tên. Học trò chắc hẳn là những con nhà lao động chung quanh khu trồng rau và hoa mầu cung cấp cho thành phố. Họ quẳng con cái phó mặc cho ông thầy giáo lo dùm. Nếu có mộng ước gì chắc họ chỉ mong con cái có được một nắm chữ nghĩa ấm thân với trình độ biết đọc biết viết. Họ không mong đợi gì hơn và ông thầy chắc cũng vậy. Dậy được ngày nào biết ngày ấy. Vả lại chữ của thầy được bao nhiêu? Vậy mà ngày hôm nay nhớ lại dĩ vãng quay quắt ngôi trường rách nát đáng thương hại ấy. Đã là nơi chốn kỷ niệm khó quên học được từ ngôi trường ấy. Mặt ông thầy sao mường tượng giống hệt ông Thủ tướng Phạm Văn Đồng thuở ấy.

Cho đến bây giờ thì tôi cũng không còn nhớ đã học được gì ở ngôi trường này? Tên ông thầy cũng không nhớ, chỉ biết là thầy hiệu trưởng. Kết quả việc học chắc cũng không qua một vài phép tinh cộng trừ, thêm tý nữa có thể là nhân chia. Hình như có học thêm giáo lý thì phải, tôi cũng không nhớ nữa.

Nhưng có điều tôi không thể nào quên được và cũng không cách nào quên được là các bài học trong cuốn sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư. Đây là cuốn sách vỡ lòng cho trẻ con học được nhiều thứ. Từ chữ nghĩa, nhất là cách sống ở đời làm người lương thiện. Cuốn sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư được ghi ngoài bìa là: Nha Học Chính Đông Pháp, xuất bản năm 1935. Bên Trong ghi là in lần thứ 10. Nhà nước giữ bản quyền. Cấm không ai được in lại. Phía bên trên có chua thêm tiếng Pháp như sau: Việt Nam Tiểu Học Tùng Thư. (Lecture ( Cours préparatoire) Sách này do Nha Học Chính Đông Pháp đã giao cho ông Trần Trọng Kim, ông Nguyễn Văn Ngọc, ông Đặng Đình Phúc và ông Đỗ Thận soạn.

QVGKT, Lớp Sơ đẳng. Nguôn: ONtheNet

Bộ sách gồm hai phần: Quốc Văn Giáo Khoa Thư và Luân Lý Giáo Khoa Thư. Quốc Văn Giáo Khoa Thư gồm có các tập lớp Đồng Ấu, lớp Dự Bị và lớp Sơ Đẳng. Và cuốn Luân lý Giáo khoa thư.

Luân lý giáo khoa thư (lớp sơ đẳng, 1927). Nguồn: OntheNet

Bốn cuốn này, mỗi cuốn có khoảng 100 truyện. Mỗi truyện thâu tóm trong một trang và không quá 200 chữ. Rất cô đọng, súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ có thể xem qua một đôi lần là thuộc lòng. Nỗi bài có nội dung nêu một gương sáng. Cuối mỗi bài lại có giải nghĩa các chữ khó và các câu hỏi bài tập cho học sinh. Và trước khi chấm dứt mỗi bài đều có một câu răn dậy: Chẳng hạn trong bài: Ngày giờ đi học. Câu khuyên răn là: Đừng bỏ phí thì giờ. Trong bài học: Kính trọng người già thì cuối bài học là răn dậy: Kính lão Đắc Thọ. Trong bài học: Ông già có 4 người con đưa ra một bài học: “Muốn có sức mạnh thì phải hợp quần.”

Ở đây, chúng tôi xin được có lời trân trọng cảm tạ nhà giáo Trần Văn Chi có cho in cuốn: Tình nghĩa Giáo Khoa Thư, năm 2005 bằng cách giới thiệu và bình giải một số bài chọn lọc trích trong sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư. Người thứ hai là ông Nguyễn Hữu Đức, người ở Montreal đã có tâm huyết cho in lại ba cuốn Quốc Văn Giáo Khoa Thư và cuốn Luân lý Giáo khoa thư. Chính nhờ ông Nguyễn Hữu Đức mà tôi có tài liệu để viết bài này. Một lần nữa, xin trân trọng cảm tạ hai tác giả.

Tâm sự một người đã từng học sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư

Sau “60 năm cuộc đời” nhìn lại, tôi cũng ngộ ra nhiều điều mà trước đây tôi đã bỏ qua, bỏ quên hay không nhớ. Cái nhớ và cái quên nay làm thành bản thân tôi, cái là tôi và không là cái gì khác. Cái mà có thể bây giờ mới là là cái thực chứng, cái đáng nhớ tới.

Tôi đã có nhiều may mắn được đi học lúc còn nhỏ trong thời chiến tranh, mặc dù nhiều năm mất học. Từ Hà Nội lên được Hà Nội đã là một lẽ. Ở Hà Nội học được lõm bõm là một lẽ khác. Di cư vào miền Nam, tưởng rằng sẽ làm nghề thợ may, may mắn cũng có cơ may trở lại trường học. Việc đi học sau đó trăm chiều vất vả vì tuổi lớn, nhảy lớp, mất căn bản mà lận đận nhiều năm mới qua được cửa ải kỳ thi tú tài I. Chẳng khác gì cá vượt vũ môn.

Chỉ những người mất học căn bản như tôi do chiến tranh gây ra mới thấm thía đủ nỗi buồn thi cử và những gánh nặng ngàn cân của thi cử. Ai có qua cầu mới hay. Hai năm rớt tú tài I vì kém toán tưởng không bao giờ vượt qua nổi, nếu không nhờ một “ơn trên” phù trợ mà nói ra bắt xấu hổ.

Cái điều mà tôi mau chóng phải nhìn nhận ở đây là tôi chóng thất vọng về những thần tượng triết học và dần dần ngoảnh đi chỗ khác như một kẻ phản bội hoặc một kẻ ngoại đạo.

Sự thể nó là như thế này. Đã có quá nhiều triết gia và nếu chỉ tiếp cận hai người tiên khởi như Plato và Aristote thì có để cả đời làm cũng không xong. Dần dà trong đầu óc nảy ra tư tưởng hoài nghi Triết lý đi đến đâu? Triết lý để làm gì?

Câu hỏi trên có tính cách cạn tầu ráo máng. Triết học giúp gì cho cuộc đời và ý nghĩa cuộc đời phải chăng là đi cho chọn những chặng đường tư tưởng đầy tri thức luận mà bề dầy của nó không chọc thủng vượt qua được và lúc cuối vẫn chênh vênh trên vực thẳm chữ nghĩa chưa có câu trả lời.

Cảm giác chênh vênh, nhiều khi đến choáng váng khi đụng đến những tầng cao của tri thức luận là có thực. Dĩ nhiên hiếm hoi không phải ai cũng bắt gặp. Như có cảm giác như người đứng trên một vực thẳm, một chân thõng ra ngoài khoảng không như chạm phải hư vô, chân kia còn trên cõi tạm mà lòng đầy những nỗi bất an chưa có lời giải đáp. Ai nói cũng hay và có vẻ thuyết phục nhưng đều là những lối nói đi vòng quanh, đều là ẩn dụ mà những điều con người muốn đụng chạm tới đều ở thể vô ngôn mà ngôn ngữ càng phô diễn càng trở nên nhàm chán và bất lực.

Sự bất lực và nỗi bất an, sự xao xuyến là cảm giác chứng thực đã kinh nghiệm.

Nhưng các vị hành giả trên không thiếu những lời lẽ thuyết phục và khuyến khích những người trẻ học vỡ lòng về triết học tiếp tục đi vào những con đường mà họ đã trải qua.

Đặc biệt, triết gia Karl Jaspers người Đức trong cuốn Introduction à la Philosophie (1950) mà hầu như phần đông sinh viên triết đều biết đến. Quan điểm của triết gia này là đặt để con người vào vị trí trung tâm xoay quanh những đề tài quen thuộc về Thượng Đế, về thế giới về ý nghĩa triết lý về cuộc đời. Ông không thiếu những lời mời gọi đi vào triết học. Ông nhắn nhủ các môn sinh cần biết ngạc nhiên, biết tra vấn và tự thức. Ngay những trang mở đầu cuốn Triết học nhập môn, ông đã trang trọng tuyên bố: trong triết học thì những câu hỏi thiết yếu quan trọng hơn những câu trả lời và mỗi câu trả lời lại trở thành những câu hỏi mới.

Cho nên triết học là đi tìm hơn là tìm thấy.

Mà chúng ta như thể người lữ khách còn đi trên đường, rong ruổi mà chưa về “nhà”. Chữ nhà ỏ đây hàm nghĩa nơi trú ẩn, an nghỉ. Chưa về nhà nghĩa là chưa được an nghỉ và không thôi kiếm tìm. Trong sự kiếm tìm ấy, sự ngạc nhiên là khởi điểm của nhận thức sống động. Kiến thức đã sở hữu là thứ kiến thức đã chết, đã đông đặc và như xác chết khô!! Cho nên, cái đẹp và đáng quyến rũ của cuộc đời chính là ở chỗ ta không ngưng nghỉ, là đi tìm hơn là tìm thấy!

Nhưng có lẽ câu mà tôi tâm đắc mà ông tin tưởng cuộc sống con người chỉ có ý nghĩa khi mở ra với người khác, khi có người khác bên cạnh. Ông viết:

Mais je n’existe qu’avec autrui. Seul Je ne suis rien.

Karl Jaspers (Paris, Plon, trang 27)

“Tôi chỉ hiện hữu khi có người khác. Nếu chỉ một mình thì tôi chả là cái gì cả.”

Nếu cả cuộc hành trình đeo đuổi triết học và buông bỏ, tôi thiển nghĩ chỉ cần giữ câu này là đủ.

Nhưng sau nhiều năm chiêm nghiệm, càng đi xa vào thế giới ý niệm cao vời triết học có dịp nhìn lại. Tôi thấy cái việc đi tìm ấy thật sự đã có sẵn và đầy đủ trong sách Quốc Văn Giáo khoa thư. Trong đó trung tâm điểm là Nghệ thuật sống chung với người khác trong cái đạo làm người giữa cha mẹ, bà con cô bác, láng giềng, thầy dậy.

Trước hết là trau dồi bản thân bằng học hành, giữ gìn sức khỏe, giữ gìn vệ sinh..Sau là biết kính trọng, hiếu đễ, nhớ ơn công ơn cha mẹ , thầy cô..tiếp theo là nới rộng ra nhân quần xã hội biết đoàn kết, biết không báo thù vv..

Nói chung là biết sống trọn vẹn. Đó phải chăng là ý nghĩa của đời sống và mục đích sống ở đời? Tại sao ta phải đi tìm đâu xa?Vì thế sau này, tôi cứ nhớ mãi bài viết của nhà văn Sơn Nam đã thêm vào hai chữ “tình nghĩa” Giáo Khoa Thư trong cậu chuyện “ Tình nghĩa Giáo khoa thư” trong cuốn Hương Rừng Cà Mau. trang 171-184.

Câu chuyện thật dễ thương với một kết cục quá đẹp. Có thầy phóng viên, báo “ Chim Trời” lặn lội từ Saigon xuống tận xóm Cà Bây Ngọp lận để đi thu tiền báo của một độc giả Trần Văn Có đã 6 tháng chưa thanh toán tiền báo. Thế rồi họ gặp nhau đồng cảm cùng mê thích bài: “Chốn quê hương đẹp hơn cả” rồi độc giả Trần Văn Có nhắc đến bài:

“ Ai bảo chăn trâu là khổ… Khong chăn trâu sướng lắm chứ. Thầy phóng viên phụ hoa theo như cùng hợp xướng:

–Đầu đội nón mê như lọng che, tay cầm cành tre như roi ngựa, ngất nghểu ngồi trên mình trâu, tai nghe chim hót trong chòm cây, mắt trông bướm lượn trên đám cỏ.”

Thế rồi hai người như thể tranh nhau để nhắc lại những bài học trong sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư.Thế là không đâu họ trở thành những người bạn tri kỷ. Truyện đi thu tiền báo quên đi trong buổi tối cuối cùng.

“Im lặng một hồi lâu, rất lâu, Tư Có nói ngậm ngùi sau một tiếng thở dài:

-Biết lấy gì làm sở phí cho thầy. Thầy nói thiệt tình nghe coi..Chắc thầy tới đây thâu tiền.

-Đâu có! Đâu có! Mình là bạn đời với nhau..

-Thầy hiểu cảnh tôi. Không lẽ gửi cá lóc, rùa, mật ong.. nhờ thầy đem về Sài Gòn gọi là tiền của tôi trả cho nhà báo…

-Anh Tư đừng ngại chuyện đó. Cứ tiếp tục đọc. Lâu lâu dò nơi mục Thư tín không chừng có lời của tôi thăm hỏi anh Tư. Nếu thấy báo đăng đòi tiền các độc giả, xin anh Tư hiểu rằng đó là nhắc nhở các người khác. Tôi hứa nói lại với ông chủ nhiệm mỗi kỳ gởi tặng anh Tư một số báo, hoài hoài cho tới số chót..

Chú Tư vô cùng câm động.”

Trở về với Tình Nghĩa Giáo khoa thư

Tôi nghiệm ra rằng càng ngày trong nước Việt Nam thiếu hẳn một nền đạo lý làm nền tảng cho cuộc sống con người. Các giá trị tôn giáo đồng ý là rất tốt, nhưng chưa đủ. Hình như nó thiếu một sức sống tâm linh ăn sâu vào tâm thức con người. Nó vẫn sa đà chờn vờn ở bình diện lý thuyết hay chủ nghĩa thực dụng. Trong hiện tình hiện nay, người ta cảm nhận được một sự “xuống cấp” của các tôn giáo chú trọng nhiều vào hình thức lễ bái, cầu khẩn. Ấy là không dám nghĩ xa đến chuyện “buôn thần bán thánh”.

Cái đó một phần do một chế đô toàn trị biến tôn giáo thành một công cụ cho chế độ.

Còn nói đến Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín là một chuyện xa vời mà như thể nước đổ đầu vịt, càng nói càng sa đà. Mà thực tế chỉ cần giữ được một trong 5 điều ấy thì đã đủ cho một con người.

Đã thế, cuộc sống hiện nay quá vụ vào vật chất, tiền tài và danh vọng mà người ta có thể mua được bằng mọi giá.

Cho nên cần có một nếp sống luân lý để đối đầu với cộng sản và để thay thế cái chủ nghĩa bất nhân, phi nhân tính.

Sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư, nó phù hợp với tình tự con người, tình tự đất nước.

Nó dậy con người ta đủ điều để cho ra giống người.

    • Nó dậy con người ta biết yêu tiếng Việt bằng thứ văn chương giản dị, ngắn, gọn, dễ hiểu, dễ nhớ vì sáng sủa và thực tiễn.
    • Nó còn dậy con người ta nền tảng lễ nghĩa trong cái tương giao người-người, không chia rẽ, không báo thù, thấy hoạn nạn thì thương, thấy người tàn tật thì giúp đỡ, lá lành đùm lá rách, anh em như thể tay chân, thảo kính cha mẹ, tình nghĩa bạn bè. Thờ phụng tổ tiên, Yêu mến cha mẹ. Biết ơn cha mẹ, anh em như thể tay chân, Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Gia đình sum vầy buổi tối, Bữa cơm ngon.
    • Nó đề cao sự cần lao, sự cần cù chịu khó, thăng hóa đời sống nông thôn: Ai bảo chăn trâu là khổ, không chăn trâu sướng lắm chứ. Đề cao giá trị của con trâu như trong ca dao: “ Trâu ơi ta bảo trâu này.. Trâu ra ngoài ruộng, trâu cầy với ta. Cái cầy vốn nghiệp nông gia. Ta đây, trâu đó ai mà quản công.. Sau này Sơn Nam kể chuyện “ Mùa len trâu”. Dĩ nhiên, ngày nay không còn cảnh chăn trâu nữa, nhưng nó vẫn là một hình ảnh gợi nhớ giữa người và con vật đã vất vả nhất cùng với người nông dân.
    • Nó gợi lên tình tự đất nước-con người như: Làng tôi, Chùa làng tôi, công việc nhà nông quanh năm, Ơn trời mưa nắng phải thì.. Văn chương phú lục chẳng hay.

Ngày nay, mọi giá trị luân thường đạo lý đã đảo lộn, học sinh ngày nay học được gì những điều đạo lý trên?

Để kết luận bài viết này, theo tôi, cái tội lớn nhất của người cộng sản là tội cướp nước, biến đất nước này thành của riêng họ. Đất nước là của chung toàn dân. Ai cho họ cái quyền đó về mặt pháp lý, đạo đức và lịch sử?

    • Lịch sử quá khứ, hiện tại, tương lai là do họ định đoạt. Trong sách QVGKT có 10 bài nói về các nhân vật lịch sử. Cộng sản vào miền Nam xóa bỏ tên đường, vùi dập tên tuổi những người yêu nước như Phan Thanh Giản. Lịch sử là lịch sử của họ, do họ viết.
    • Đất nước cũng là của họ. Nhà cửa, đất đai, ruộng nương, sông rạch, bầu trời. Trên không, trên cạn, dưới sông nước. Tất cả là của họ. Cải cách ruộng đất. Rồi cướp nhà cướp của dân miền Nam đi kinh tế mới, đi di tản, đi vượt biển. Căn nhà tôi ở sau này chỉ nhận được cái giấy vỏn vẹn nửa bàn tay, không có dấu triện. Chỉ có một câu lừa bịp: “Căn nhà này được nhà nước quản lý”. Và hiện nay họ làm giàu là phần lớn nhờ vào đất đai chiếm đoạt.
    • Con người Việt Nam từ trong ra ngoài, từ trí óc đến năng lực đều do nhà nước quản lý. Họ không có tự do cũng chẳng có dân chủ. Tôn giáo cũng không. Chỉ còn lại một lũ người nhát sợ, biết im lặng để lo cho bản thân mình . Một sự phá sản tinh thần, tôn giáo, luân lý.
    • Tổ chức chính trị đều là người của đảng. Công an, cảnh sát, quân đội là để bảo vệ sự an toàn cho chế dộ, cho đảng.

Tôi tự hỏi bao giờ thì đất nước này được trả lại cho người dân làm chủ khỏi cái thân phận lưu đầy trên chính quê hương mình như trường hợp của bác sĩ Li Wen liang dưới đây. Mong rằng các vị chức sắc người Thiên Chúa giáo đọc đượm c lá thư này.

Dịch bệnh do Coronavrus đang diễn ra một cách khốc liệt tại Hoa lục, hay nước Trung Hoa cộng sản. Sau đây là bài thơ Điệu Lý Văn Lượng, người đầu tiên đã lên tiếng cảnh cáo về bệnh dịch và bị cộng sản bịt miệng. Tác giả bài thơ là Dư Tú Hoa (Yu Xiuhua (余秀华))

Thương tiếc Lý Văn Lượng

Yu Xiuhua (余秀华, Dư Tú Hoa) | DCVOnline dịch

Yên nghỉ đi thôi!

Không có virus nào tệ hơn “hình phạt vì lời nói thật” (“dĩ ngôn hoạch tội”)

Không có nơi nào xấu hơn thế giới trộn đúng lẫn với sai?

Yên nghỉ đi thôi!

Nước sông Dương Tử chở thuyền và cũng lật úp thuyền

Sóng Hoàng Hà đưa người và cũng chở những hồn ma

Yên nghỉ đi thôi!

Hãy để tôi sống cuộc đời đáng xấu hổ của tôi

Và hãy để tôi ca bài truy điệu

Chúng ta không sợ chết

Chúng ta sợ chết trước giờ phải chết

Anh đã chết, và thời của tôi đã chết trước giờ phải chết

Nếu có virus trên thiên đàng

Nếu anh lại lên tiếng nữa,

Rồi anh sẽ đi đâu?

Tôi hy vọng bất cứ nơi nào họ đưa anh đến

Vẫn còn những người

Nói tiếng Trung Hoa

余秀华 | Dư Tú Hoa

Nguyên bản Trung văn

悼李文亮

作者:余秀华

且安息!

没有比“以言获罪”更厉害的病毒

没有比黑白不分更丑陋的人间

且安息!

长江之水载舟也覆舟

黄河之浪渡人也渡鬼

且安息!

且允许我苟且偷生

还允许我长歌当哭

我们不怕死

我们怕死于非命

你死了,我的命非命

如果天堂还有病毒

如果你再喊一声

你会去向何处?

我希望收容你的地方

还是有人

说着汉语

余秀华 | Dư Tú Hoa

© 2020 DCVOnline