Bình Luận - Biên Khảo & Dịch Thuật

Những bài Bình Luận & Hồi Ký của Nguyễn Văn Lục:

Linh mục chui

Political Monks, những nhà sư làm chính trị

Về việc: Viết sử thiếu trung thực 1 2 Kết

►Tiếng hát của một đời người và của một thời: 1 Kết

►Ði tìm thời gian đánh mất: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Kết

►20 năm giới trẻ miền Nam Việt Nam: 1 2 3 4 5 6 7 Kết

Sách cũ miền Nam 1954-1975

Đọc nhật ký của Im Lặng

L’Odeur de la gloire (Cái bả danh vọng)

►Cuộc sống ở một nơi nào khác: La vie ailleurs

►Sử phi sử: 1 Kết

►Miền cỏ nhớ 1 2 3

► Mặt trận văn hóa & những thủ tiêu ám sát trí thức miền Nam 1 2

► Từ chủ nghĩa Cộng sản sang chủ nghĩa thực dân 1 2

► Những kẻ bị khai trừ: 1 2

► Từ một góc, nhìn lại cuộc chiến 1 2 Kết

- Võ Nguyên Giáp- Điện Biên Phủ- và chai rượu Whisky

- Về cái chết của trung tướng Nguyễn Bình và vai trò trách nhiệm của tướng Võ Nguyên Giáp

Võ Nguyên Giáp- Điện Biên Phủ- và chai rượu Whisky

Chiến thắng Điện Biên Phủ cuối cùng đã làm nên tên tuổi tướng Giáp. Nói đến tướng Giáp là nói đến ĐBP. Nhưng quan trọng hơn cả, đó là sự thất bại của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam. Nó đánh dấu sự cáo chung của chế độ thuộc địa ở Đông Dương và mở ra một kỷ nguyên mới cho các nước thứ ba, các nước Á Châu cũng như Phi Châu trên toàn thế giới.

Một cách nào đó, nó cũng là nguồn hứng khởi (Global perspective) cho các nước bị trị muốn mưu cầu dành độc lập. Nhưng tiếc thay và cũng may thay, nguồn gợi hứng ấy không có mấy nước bị trị nào thực hiện được như trường hợp Algérie bốn năm sau VN.

Sau thế chiến thứ hai, các nước thực dân Đế Quốc đều mệt mỏi suy yếu vì chiến tranh nên mộng đế quốc tan vỡ .. Xét theo cái chiều dài lịch sử toàn diện của chủ nghĩa thực dân ấy nó mạnh mà thành yếu. Sự cáo chung của chủ nghĩa có vẻ không xa.

Xét hoàn cảnh của kẻ đi cai trị (colonizer) và kẻ bị trị (colonised) người ta nhận ra vai trò chủ nhân ông đã đảo ngược vị trí tùy hoàn cảnh mỗi nước.

Nước Anh chủ trương chính sách mở cửa(open door policy)đối với các nước thuộc địa. Chính sách của anh xem ra phù hợp với thời đại và nguyện vọng của các nước bị trị nên tránh được những cuộc chiến tranh không cần thiết.

Nước Pháp dùng một chính sách cai trị hàm hồ (ambiguous policy) vừa muốn cai trị vừa muốn khai hóa, vừa muốn khai thác, vừa muốn hợp tác, vừa có thực tâm, thiện ý vừa có mưu toan. Vì thế đã đưa đến nhiều ngộ nhận và dẫn đưa đến con đường cùng không tránh được giữa đôi bên: Đó là chiến tranh.

Điều đó có nghĩa rằng có nhiều con đường dẫn đến độc lập- có kiểu Anh, có kiểu Mỹ- Nhiều con đường dẫn đến La Mã chứ không nhất thiết chỉ có một con đường: con đường chiến tranh.

Vì thế, tôi gọi Điện Biên Phủ của VN là một con đường một chiều dựa trên những tiền đề như : bạo lực-cách mạng- chủ nghĩa-chiến thắng. ĐBP đã trở thành ngày 14 tháng bảy của chế độ giải thực.

Tuy nhiên khi chiến tranh kết thúc chế độ thực dân Pháp, người ta hy vọng một thời kỳ an bình, không còn chiến tranh. Thật sự những người có trách nhiệm ký vào bản Hiệp Định ấy cũng không tin tưởng gì vào những điều khoản đã được long trọng chấp nhận và ký kết. Tưởng rằng yên, tưởng rằng hòa bình, tưởng rằng xếp lại binh đao là một ảo tưởng. Con đường một chiều Điện Biên Phủ lại được nối tiếp con đường mòn Hồ Chí minh chạy dài từ Bắc chí Nam.

Nó là con đường cực kỳ gian khổ mà Claude Groulet lấy làm tựa đề cho chương sách đầu tiên của ông. Sự hy sinh lần này sẽ là vô bờ bến, vượt sức người đến độ Claude De Groulet đã viết như sau:

Naitre au Nord (Sinh Bắc)

Mourir au Sud (Tử Nam)

1 Claude Groulet, Viet Nam 54-73, trang phần mở đầu

Tựa đề ấy, thực tế bình tâm mà nhìn lại thấy đúng và đau xót lắm chứ!!!

Từ đây nó lại mở ra một cuộc phiêu lưu mới cho những kẻ chiến thắng. Một phiêu lưu tai hại dẫn đưa cả đất nước vào một cuộc chiến tranh khủng khiếp gấp 10 lần Điện Biên Phủ:

Đó là cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai.

Với một kẻ thù mới, danh xưng mới, chiêu bài mới: Chủ nghĩa thực dân mới-Giải phóng miền Nam.

Nay thì ai cũng biết rằng đó chỉ là những chiêu bài ngụy tạo như kiểu: Phù Lê, diệt Trịnh. Trịnh bị tiêu diệt thì Lê cũng mất luôn.

Cuộc chiến tranh lần hai này không hẳn là quân sự mà còn là chính trị- hay chiến tranh ý thức hệ-thể hiện rõ mục tiêu và ý đồ như đoạn trích dẫn sau đây của tướng Giáp:

« Sau chiến thắng ở Điện Biên Phủ, tôi từ Tây Bắc trở lại Việt Bắc, đến chào Bác, Người bắt tay chúc mừng rồi nói: Nhân dân ta còn phải tiếp tục chống Mỹ nữa!!

i nhớ tới những lời Bác viết trong thư khen ngợi quân và dân sau chiến thắng : » Thắng lợi tuy lớn, nhưng mới là bắt đầu ». Những lời này chỉ có được ở Hồ Chí Minh!!

2Đai tướng Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ, Điểm hẹn lịch sử, Hồi ức Hữu Mai, trang 463.

Chỉ một vài câu trên tóm lược tất cả ý đồ và tham vọng của miền Bắc muốn xâm chiếm miền Nam.

Củng chỉ câu nói này hiểu được tham vọng chính trị của người cộng sản. Nó đã làm tiêu tan mọi ý nghĩa cao đẹp của trận chiến Điện Biên Phủ mà người ta thường gán cho nó. Nó cũng biến những người chiến sĩ- những người nông dân- những người phụ nữ- trong cuộc chiến trở thành những vật hy sinh và phản bội lại ước nguyện của mọi người.

Chính vì thế, sau 1954 đã có khoảng một triệu người miền Bắc không chia phần vinh quang chiến thắng ấy và quyết định rời quê cha đất tổ vào miền Nam!

Nay là lúc cần đặt lại hai vấn đề cùng một lúc: Chiến thắng Điện Biên Phủ và cuộc di cư của người dân miền Bắc trên cùng thang bậc giá trị. Cái mà người ta tưởng là được và cái mà người ta đã mất. Chiến thắng ĐBP có thuần túy là chỉ nhằm đánh đuổi thực dân Pháp hay không?

Câu trả lời là vì lần này không phải chỉ nhằm đánh đuổi thực dân Pháp nữa mà làm nhiệm vụ Quốc tế đưa toàn thể phần đất phía Nam còn lại vào quỹ đạo cộng sản.

Và đấy chính là mục đích chính của chiến dịch ĐBP như lời xác định của ông Hồ Chí Minh.

Tuy nhiên, đối với dư luận thời ấy, chiến thắng ĐBP thường có thói quen quán tính làm nhiều người không ngần ngại xếp tướng Giáp ngang hàng với nhiều vị danh tướng trên toàn thế giới về mặt lãnh đạo về chiến lược và về chiến thuật.

Và nhất là việc tướng Giáp xử dụng trọng pháo và súng phòng không- một thứ logistic- một trong những yếu tố quyết định thắng trận- gây sửng sốt và làm tê liệt khả năng tấn công của Pháp ngay từ đầu.

Nhưng nói cho cùng như trong mọi cuộc chiến tranh có được có thua, cũng pha trộn không ít những huyền thoại xây dựng chung quanh ông được dựng lên từ hai phía của kẻ thắng trận cũng như thua trận.

Và vì thế nó hàm chứa trong cái tựa đề bài viết của tôi: Điện Biên Phủ- Võ Nguyên Giáp- Và chai rượu Whisky.

Tài liệu về trận chiến Điện Biên Ph

Tài liệu phía Việt Nam

Đối với tôi, việc sử dụng tài liệu của phía Việt Nam vẫn là một nỗi nguy hiểm!!- bị phỉnh gạt mà không biết-. Những nhà báo ngoại quốc như Jean Lacouture, Jean Sainteny, Peter Macdonald, Georges Boudarel, Alain Ruscio có thể là một trong số những nạn nhân ấy.

Peter Macdonnal là một trong số những người hiếm hoi được đặc quyền phỏng vấn Võ Nguyên Giáp mà tôi coi ông như một Huy Đức của thập niên 1990. Cả cuốn sách của ông tôi đặc biệt lưu ý đến phần Epilogue mà tôi sẽ trích dẫn để kết thúc phần biên khảo này.

Cho nên, tài liệu phía Việt Nam chỉ nên coi như một bệ phóng-đọc tài liệu mà vượt tài liệu- quy chiếu với tài liệu ngoại quốc- đọc cái gì họ không viết, không nói ra- may ra nắm được sự thật.

Ai cũng có kinh nghiệm và hiểu rằng khó tin hoàn toàn vào tài liệu phía Việt Nam- dù do chính đại tướng Võ Nguyên Giáp viết hay Hữu Mai biên soạn. Về điều này thì có lẽ không ai biết rõ hơn đại tá Bùi Tín, người từng làm báo và có kinh nghiệm phải thông tin như thế nào !!

Đó là thói quen che dấu sự thật của cộng sản.

Một thói quen rất xấu, xấu nhất trong các sự xấu và đối với việc biên khảo là tuyệt đối không chấp nhận được. Nhưng nó lại được nâng lên thành một thái độ khôn ngoan- một sự trưởng thành về mặt nhận thức- đã qua mặt được nhiều người- nhất là người ngoại quốc.

Bernard Fall- một trong những tác giả viết sáng giá nhất về ĐBP về phần tài liệu phong phú- cũng đã có một nhận xét như sau:

-Về phía Việt Minh, người ta tìm thấy có 90 xác chết còn mặc nguyên quân phục; nhưng trung thành với thói quen che dấu những tổn thất trong những trận đánh gay go nhât, người cộng sản thường kéo hầu hết những người bị thương ra khỏi trận chiến, trừ bốn người bị Pháp bắt được. Hậu quả là người ta đã tìm thấy những hố chôn được đào một cách vội vã ở bên bìa thung lũng cho thấy là sự tổn thất về phía cộng sản có thể là lớn hơn nhiều.

3 Bernard B. Fall, Hell in a very small Place, trang 15

Trong khi đó, chúng ta thử đọc vài dòng tài liệu của tác giả Hữu Mai- một trong những tác giả VN được tướng Giáp tin cẩn nhất, uy tín nhất- viết khôn ngoan nhất mà cũng giỏi che đậy nhất- mô tả trận chiến như thể quân Việt Minh đang đi nghỉ mát ở một bãi biển nào đó:

  • Trung đoàn trưởng Vũ Lăng lên thăm trận địa ngạc nhiên khi thấy trên trái đồi đã bị bom đạn làm biến dạng, cách địch vài chục mét, các chiến sĩ ta vẫn có một cuộc sống đàng hoàng trong những căn hầm lót vải dù, đọc sách, đánh tulơkhơ, chỉ riêng mùi ô nhiễm thì không có cách nào khắc phục..(..).

Trên đồi A 1, cũng diễn ra tình hình tương tự.

4 Hữu Mai, Điện Biên Phủ, Ibid, trang 307

Nhưng Hữu Mai đã vô tình bộc lộ sự giả trá về tâm tình của tướng Giáp khi ông mô tả bộ chỉ huy và chỗ ăn ở của vị chỉ huy chiến dịch. Sự khôn ngoan của Hữu Mai đã làm hại uy tín của tướng Giáp sau khi chúng ta đọc từng chi tiết, từng chữ đoạn mô tả sau đây:

-Chiến dịch nào các đồng chí đi trước chọn địa điểm sở chỉ huy cũng cố gắng tìm nơi có cảnh đẹp. Nhưng ở đây, ngoài cảnh đẹp, chỉ cần trèo lên đỉnh núi phía sau là nhìn thấy cảnh đồng Mường Thanh và tập đoàn cứ điếm của địch. Hạnh phúc lớn nhất đối với người cầm quân là được ở bên bộ đội ngay tại mặt trận .. Ở sát bộ đội tất nhiên là cần thiết, nhưng được nhìn tận mắt chiến trường, điều đó theo tôi cũng rất có ý nghĩa, vì nó gợi cho mình nhiều suy nghĩ. Hễ có thời gian, tôi lại lên đỉnh núi, dùng ống nhòm quan sát trận địa, cảm thấy mình đang được ở chiến hào, bên cán bộ và chiến sĩ.

5Hữu Mai, Ibid, trang 149

Được biết căn hầm chỉ huy của tướng Giáp hình rẻ quạt, có ba nhánh. Một nhánh dành cho tướng Giáp, một cho tướng Hoàng Văn Thái và một dành cho các đồng chí cố vấn .. Đường hầm xuyên quả đồi dài 300 mét nên có phòng họp, phòng chỉ huy, có điện. Trong một bức hình chụp, tôi thấy đàng trước có một dòng suối chảy qua. Địch có bắn đại bác cũng vô hiệu, có bỏ bom cũng vậy. Trừ khi địch xử dụng bom nguyên tử mới có hiệu quả ..

Đại tưởng ở một nơi vừa có phong cảnh đẹp, có hoa lá cỏ cây, có dòng suối chảy qua, có đường hầm xuyên đồi dài 300 thước- một nơi an toàn nhất-. Khi nào rảnh rỗi thì trèo lên núi xem chiến trận. Mường Phăng lại cách trận địa Điện Biên Phủ 4 km đường chim bay .. Nếu tính đến các căn cứ địch nằm ở phía Bắc thì tính ra cũng đến gần 20 cây số. Tướng Giáp ẩn mình ở đây một cách tuyệt đối an toàn. Muốn quan sát trận địa phải leo lên đồi phía trước mới quan sát được, nếu trời tốt.. và lúc nào ông thật rảnh rỗi .. Ôi cái hạnh phúc của đại tướng, người cầm quân được ở gần bên Bộ Đội ngay tại mặt trận !!

Cũng xin nhắc một chút đến hai tập sách do các vị sĩ quan chỉ huy mặt trận Điện Biên Phủ qua những trang hồi ức, tập1 và 2 là bản đồng ca nhiều giọng. Các tác giả như Thiếu tướng Phạm Kiệt, thiếu tướng Nguyễn Thanh Bình, thượng tá Mạc Ninh, thượng tá Vũ Văn Đôn, thượng tá Doãn Tuế, thiếu tướng Lê Chương, thiếu tướng Nguyễn Đôn Tụ, trung tướng Hồ Cư, đại tá Nguyễn Đăng Chương, thiếu tướng, GS, TS Lê Thế Tung, đại tá Vũ Xuân Chiêm, thiếu tướng Vương Thừa Vũ, thiếu tướng Phạm Ngọc Mậu, thiếu tướng Nguyễn Văn Nam, thiếu tướng Nguyễn Văn Bích và vô số các tác giả nhà báo, dân sự viết chỉ có tác dụng tuyên truyền nhiều hơn giá trị lịch sử.

6Tôi lật dở cuốn sách với hai bài viết của hai tác giả trong vụ ” bắt sống ” tướng De Castries : Một bài của Hoàng Đăng Vinh, từ trang 56-58, một bài của Nguyễn Nghĩa Khoa, từ trang 130- 133. Cùng một sự việc bắt sống viên chỉ huy Pháp, hai người kể lại mỗi người bắt một cách!!! Tôi mường tượng đến cái giống nhau của vụ bắt sống De Castries và vụ đầu hàng của ông Dương Văn Minh với Bùi Tín sau 1975.

Kết luận: Thật khó để tìm ra tài liệu phía Việt Minh dám nói sự thật!!

  • Tài liệu phía các tác giả ngoại quốc

Có một phần tài liệu được coi là quý giá nhất thì nay rất tiếc không còn nữa. Đó là các nhật ký hành quân của các sĩ quan binh đội Pháp chỉ huy các cứ điểm ở ĐNP. Bởi vì trong tình thế bắt buộc phải buông súng nên một trong những quyết định cuối cùng của tướng De Castries là yêu cầu các sĩ quan trách nhiệm tại các cứ điểm và CP (bộ chỉ huy) phải hủy bỏ và đốt hết các tài liệu liên quan đến diễn tiến các giai đoạn được ghi từng ngày về chiến trận ĐBP để không lọt vào tay Việt Minh. Ngày nay rất tiếc là không còn chút tài liệu nào liên quan đến Nhật ký hành quân tại các cứ điểm như Huguette, Isabelle. vv Những điều gì xảy ra sau đó chỉ là hồi kýđược viết lại theo trí nhớ.

Theo lệnh của tướng De castries, cuộc ngưng bắn có hiệu lực từ 17 giờ. Tất cả các trang thiết bị và vật liệu đều bị phá hủy.

7 Bernard B.Fall, Hell in a very small place, trang 405

Và một trong những sĩ quan ưu tú nhất của Pháp, sau De Castries, đại tá Langlais theo lời tường thuật chi tiết của ký giả Jules Roy như sau:

Trong hầm trú ẩn của mình, Langlais vội vã đốt những lá thư của ông, cuốn sổ ghi cá nhân, những tấm hình người đàn bà mà ông yêu mến và ngay cả cái mũ bê rê đỏ. Ông cũng đã hôn Genevière de Galard (Cô y tá này nổi tiếng vì được cho phép rời căn cứ ĐBP) và nhắn một vài điều cho mẹ ông trong khi đó thì các sĩ quan trong bộ tham mưu của ông đả đốt những tài liệu chỉ huy và ngay cả chiếc máy đánh chữ !!

Phần trung sĩ Sammarco khi biết rằng trận chiến sẽ chấm dứt, ông lấy một trái lựu đạn gây cháy (Incendiary grenade) làm nung chảy khẩu đại bác cuối cùng 105 ly cũng như các khầu súng cối cũng như bazookas . Xe tăng còn lại cho chạy đến hết xăng .. Tất cả nhữn gì còn lại được ném xuống sông.

Phần cha tuyên úy thu dọn những chén thánh và dầu thánh lại.

Y sĩ trưởng giải phẫu Grauwin thì chôn một vài chai thuốc trụ sinh với ghi dấu chổ chôn chúng .

Đấy là tất cả những công việc mà người ta thấy cần phải làm và đã làm trước khi buông súng !!

8Jules Roy, The Battle of Dien Bien Phu, bản dịch ra tiếng Anh của Robert Baldick, trang 280

Về phần các tác giả người Pháp khác, đương nhiên với tư cách của ngưởi trong cuộc nên họ viết nhiều lắm. Có hàng trăm cuốn sách đủ loại không thể đọc hêt .. Chỉ xin giới thiệu vài tác giả quen thuộc như Devilliers, Philippe và Lacouture, Jean trong La Fin d’une guerre, Indochine 1954 . Navarre, Général, Henri, Agonie de l’Indochine, 1958 và Sainteny, Jean, Histoire d’une paix manquée, 1953.

Nhiều tác giả khác đã đặt những nan đề về ĐBP như Pierre Rocolle viết, Pourquoi Dien Bien Phu., 1963. Alain Ruscio một tác giả thân và nịnh bợ Việt Minh viết : Dien Bien Phu, La Fin d’une illusion, Đại tá Pierre Langlais với : Dien Bien Phu, 1963.

Ngoài ra, có nhiều tài liệu viết bằng tiếng Anh rất có giá trị như của Bernard B. Fall trong Hell in a very small place, Cecil B. Currey trong Victory at any cost và Robert J. O’Neill trong General Giap, Politician & Strategist. Đọc ba tác giả này giúp nắm vững được những vấn đền lớn về những sai lầm của người Pháp, về những ưu thế chính trị đến địa lý, đến chiến lược, chiến thuật, đến tương quan lực lượng giữa đôi bên cũng như phần tổn thất sau ĐBP..

Đặc biệt một tác giả Pháp ít ai biết tới- ông Georges Fleury viết cuốn La guerre en Indo chine đã tiết lộ nhiều chi tiết về trận ĐBP rất đáng đọc.

Đó là phần ghi lại tinh thấn chủ bại của ba thành phần binh sĩ hỗn tạp (Heteroclite) sau đây đóng ở phía Nam: Lính Âu Châu, tức những người lính Đức bại trận trong chiến tranh thế giới lần thứ hai bị bắt làm tù binh và nay xung vào binh đội lính Pháp có mặt ở Điện Biên Phủ, hai là lính Bắc Phi, ba là lính Việt Nam ..Cả ba loại binh lính này dưới măt viên sĩ quan chuyên nghiệp là Langlais- một kẻ say mê chiến thắng- điên cuồng khi thấy thế yếu của binh lính Pháp tại mặt trận- và cũng có một phần sự thật là khi nguy hiểm, những thành phần lính đánh thuê hỗn tạp ở trên chỉ lo cho sự sống còn của họ.

Theo sự tường thuật lại của Georges Fleury, họ thường nấp trong hầm và chỉ ban tối mới dám xuất hiện để đi thu lượm các dù thực phẩm được ném xuống .. Họ không đào ngũ sang phía Việt Minh. Theo sự kết luận của Fleury:

Nhưng họ từ chối đánh trận . ( Ils refusent simplement le combat).

Vì thế, đại Tá Langlais đã đề nghị trừng phạt khoảng từ 3 đến 4000 ngàn binh sĩ này. Điều này cho thấy quả thật, các binh sĩ này không có được tinh thần chiến đấu như những người Pháp. Chính vì thế sau này, khi Cogny muốn tăng viện, đại tá Langlais đã từ chối quân tăng viện gồm những thảnh phần binh sĩ hỗn tạp do đại tá Sauvagnac đề nghị thả xuống ĐBP theo công điệnN0 215.MCA.

9 Georges Fleury, La guerre Indochine, trang 639

Tuy nhiên, trong thành phần binh sĩ ngoại quốc này có tiểu đoàn 5 dù VN với sự có mặt của trung úy Phạm Văn Phú mà ngưởi viết muốn làm sáng tỏ thêm con người của vị sĩ quan này. ( Sau này ông trở thành tướng Phạm Văn Phú và đã tự vẫn uống thuốc độc khi miền Nam rơi vào tay cộng sản và chết khi đưa vào nhà thương Grall).

Cũng theo G. Fleury, đại úy Botella, chỉ huy trưởng tiểu đoàn 5 dù Việt Nam đã buộc lòng tước khí giới hai đại đội của tiểu đoàn 5BPVN của Việt Nam. Cả sĩ quan và binh sĩ trong hai đại độ này trở thành phu khuân vác và không được cẩm súng đánh nhau nữa.

Tuy nhiên, Georges Fleury chỉ ghi lại sự kiện và người ta không biết trung úy Phạm Văn Phú có nằm trong hai đại đội này không?

Người viết căn cứ vào tài liệu ghi lại một cách chi tiết và đầy đủ về vấn đề này của Bernard B. Fall về tướng Phú.

Chúng ta cần cần nhớ lại cho rõ là đơn vị nhảy dù của trung úy Phú là đơn vị tăng viện nên ông chỉ được thả xuống Natasha ngày 14 tháng ba để bảo vệ phi đạo.- Nghĩa là chiến trận ở trong giai đoạn cuối chầu gần như tuyệt vọng. Tinh thần binh sĩ hoang mang và giao động. Các sĩ quan chỉ huy hàng đầu của Pháp ở tại Hà Nội và Sài gòn, gửi điện, thư từ chính thức gấu ó, đổ lỗi cho nhau. Navarre ở Sài gòn và Cogny ở Hà nội hục hặc nhau ra mặt không dấu diếm gì. Ngay tại trận chiến ĐBP, De Castries và Langlais cũng kình chống nhau vì tính nết khác biệt. De Castries thì tuyệt đối trầm tĩnh và làm chủ được mình.

Langlais thì trái ngược không. Ông tức bực gây gỗ với nhiều sĩ quan khác. Ông đã gọi một số sĩ quan khác chỉ là những thằng hèn.. Ông là thứ lính chuyên nghiệp như tướng Giáp mà chiến tranh là lẽ sống đời họ, là thứ bánh mì ăn mỗi buổi sáng mà không bao giờ muốn nhìn nhận mình thua cuộc. Ông còn hục hặc ngay cả cấp chỉ huy của ông ta ở Hà nội khi những đòi hỏi của ông không được đáp ứng đúng mức.

Mặt khác trong một tiểu đoàn dù thì có thể có ba bốn đại đội và nhiều trung đội. Được biết trung úy Phú ở trong đại đội 1, tiểu đoàn 5 dù.

Theo Bernard B. Fall, đại úy Phạm Văn Phú được giao trọng trách chỉ huy đại đội một, tiểu đoàn 5 nhảy dù, Việt Nam, phần đại độ 3 được giao cho đại úy Guilleminot.( Điều đó có nghĩa đại đội 2 và 4 bị giải giới).

Cũng theo B. Fall mô tả lại thì cuộc chiến đấu ở đây thật gay go, từng phút, từng giây và từng tấc đất. Chúng ta đọc một đoạn mô tả của Bernard B. Fall sau đây cho thấy trung úy Phú được đánh giá là một trong những sĩ quan dù can đảm nhất:

  • Cái còn lại của cứ điểm E4 hoàn cảnh thật không bút nào tả xiết được.. Ở đây trong các giao thông hào trên ngọn đồi còn sót lại là những người anh hùng còn sống sót của đơn vị nhảy dù Pháp như: Brechignac, Botella, Cledic, Pham Văn Phú, Makoviak, Le Page và nhiều người khác. Họ đã chống trả cuộc tấn công cuối cùng của quân thù ở cạnh sườn phía đông của 0530 và bảo vệ sườn phía bắc và phía Nam..Nhưng bây giờ, giống như Pouget ở E2. Họ không còn đủ đạn dược nữa..

10 Bernard B.Fall, Ibid, trang 390

Ngay sau đoạn văn trên, Bernard B.Fall cón mô tả cánh quân dù của tướng Phú còn có đại úy Guilleminot và trung úy Latanne. Theo Bernard B. Fall thật không hiểu làm sao họ còn có thể sống sót để có thể nhìn thấy những đơn vị Việt Minh đang tập trung chung quanh E1 chuẩn bị cho một cuộc tấn công khác. Và Bernard B. Fall hạ một câu:

-They knew they would not survive it.

Đoạn văn của Bernard B. Fall làm sáng tỏ sự dũng cảm của trung úy Phạm Văn Phú và sau đó ông được truy thăng đại úy, tiểu đoàn phó tiểu đoàn 5 dù Việt Nam.

Tuy nhiên, cách nhìn vấn đề binh sĩ Đức, Algerie của Jules Roy là hợp tình, hợp lý hơn cả. Theo Jules Roy, làm thế nào có thể tin tưởng các đơn vị của Algerie? Làm thế nào để thuyết phục những người lính này đó là bổn phận của họ phải chết cho nước Pháp trong khi nước Pháp không muốn họ trở thành công dân Pháp.

11 Jules Roy, Ibid, trang 202 . Xin ghi nhận Jules Roy là người Pháp gốc Algérie

Chúng ta cũng cần biết thêm là sau này nhìn lại, đại tá Langlais đã nhìn nhận những sai lầm của ông trong một đoạn văn được tóm gọn như sau:

Ông có phải là con người có trí lớn không? Không bao giờ ông nhìn nhận điều đó. Tấm lòng thì ông có … Nhưng ông đã nhìn nhận những lỗi lầm của ông về người và về hoàn cảnh lúc bấy giờ. Ông chỉ muốn giữ lại những tình bạn mà ông đã trải rộng ra trong những hoàn cảnh khắc nghiệt ở những giao thông hào, những đồng đội nhảy dù xuống lòng chảo, những khẩu phần thức ăn đạm bạc chia xẻ với đồng đội. Đó là cái tình chiến hữu của những người lính chuyên nghiệp như Jules Roy, như Bigeard ..

12 Jules Roy, Ibid, trang 216

Về tình chiến hữu chia xẻ thì quả thực ông là người lính chuyên nghiệp và sự chia xẻ này với đồng đội trong những tình huống sống còn thì chắc ông hơn hẳn tướng Giáp một cái đầu. Chia xẻ thật chứ không phải ngồi trong hầm chỉ huy tuyệt đối an toàn mà chia xẻ!!! Mà hạnh phúc !!!

Nhưng nói chung về phía người Pháp có hai phản ứng thấy rõ trước và sau trận Điện Biên Phủ:

Trước khi xảy ra trận Điện Biên Phủ thì từ tướng lãnh, sĩ quan Pháp đến giới truyền thông báo chí Pháp xem ra đánh giá sai, coi thường tướng Giáp. Nhất là giới truyền thông thì về hùa một bằng những ngôn từ ca tụng quá mức. Điều đó cũng hiểu được vì lòng tự ái dân tộc muốn giảm nhẹ sự thua trận, hoặc che dấu trách nhiệm cho những vị có trách nhiệm từ thủ đô Paris đến Sài gòn và Hà Nội. Hoặc lúc bấy giờ cần che đậy để tránh một sự sụp đổ dây chuyền nơi các cựu thuộc địa khác như tại Algérie bốn năm sau đó.

Truy tận nguồn thì cái huyền thoại chiến thắng của người Pháp được thổi bùng lên từ giới sĩ quan Pháp tại Hà Nội vì họ hiểu rằng sự thất bại là điều khó tránh khỏi. Họ là người đại diện cho uy tín của người Pháp ở đây. Họ sẽ là người mất mặt đầu tiên nế thua trận.

Họ chỉ thực sự cảm thấy cuộc chiến không có cơ cứu vãn khi đường sân bay ở cứ Điện Biên Phủ bị vô hiệu hóa vào cuối tháng ba. Chính xác là ngày 27 tháng ba. Đường sân bay bị phá húy là dấu hiệu của sự tiếp tế bằng đường hàng không trở nên nguy ngập và báo động một ngày tàn !!

Mới ngày nào, chiến dịch Castor vào tháng 11-1953, lính nhảy dù Pháp nhảy dù đổ quân xuống Điện Biên Phủ như một chiến địa bất khả xâm phạm với những hào lũy, những lô cốt, những hầm trú ẩn. Dây kẽm gai làm hàng rào trải dài dăng ra đến cả 100 thước cộng với những bãi mìn. Ngoài ra hỏa lực yểm trợ bằng đại pháo, trên không thì có máy bay.

Đó là những ưu thế của quân đội Pháp trên kẻ địch của mình …Họ cho rằng ưu thế quân sự trên không và đại pháo đủ bảo đảm cho sự có mặt của các binh lính tinh nhuệ nhất của Pháp ở đây.

Người Pháp đã quá quen với đủ chiến thắng lớn nhỏ ngay từ ngày đầu kháng chiến- đi đến đâu là càn quét- đi đến đâu là nhà tan cửa nát và Việt Minh thì rút êm- và những chiến thắng hào quang như ở Nà Sản. Hòa Bình và Vĩnh Phúc Yên .

Tinh thần ấy còn được bơm phồng lên khi mà tình thế ở ĐBP bị nguy ngập. Người ta nhận thấy đã có 700 quân tình nguyện Pháp được chấp thuận trong số 1800 lá đơn xin sẵn sảng nhảy dù xuống cứu nguy ĐBP.

Họ những người lính Pháp tình nguyện cuối cùng này đã được trông thấy nhảy dù xuống ĐBP ở gần dồi Eliane 1 vào những ngày cuối cùng của trận chiến.

Số phận những người lính can đảm này thật bi thảm, trong số 668 người được thả dù xuống ĐBP. Ngày mồng một tháng năm họ đã mất 103 người vừa bị bị giết và mất tích, 260 người bị thương.

13 Georges Fleury, Ibid, trang 644

Người ta cũng không quên trong khi chờ đợi cuộc tấn công của binh đội Việt Minh, tướng De Castries đã không còn đủ nhẫn nại nên đã rải truyền đơn xuống phía địch quân nhắn gửi tướng Giáp thúc dục và khiêu khích tướng Giáp tấn công ngay đi !!Ông còn đợi gì nữa mà không khởi động trận chiến này mà ông coi như trận chiến quyết định giữa sự khác biệt đối đầu của đôi bên. Phải chăng ông nghi ngờ khả năng chiến thắng của ông? Còn đợi gì nữa, Hãy tiến lên đi, tôi đang chờ ông.

14 Pierre Journoud và Hugues Tertrais, Paroles de Dien Bien Phu, Les survivants témoignent. Paris, Tallandier, 2004, p.173

Sự khiêu khích ấy chứng tỏ De Castries khinh địch!

Huyền thoại hy sinh, can đảm và anh hùng

Trong một tình thế hầu như tuyệt vọng mà máy bay không thể hạ cánh và cất cánh.Tình hình trở nên nguy ngập và những hình ảnh từ chiến trường gửi về Paris cho thấy binh đội Pháp bị tràn ngập từng cứ điểm một đã gây những làn sóng xúc động không ít.

Từ thái độ quen thuộc tự hào chiến thắng (triomphalisme), truyền thông và người dân Pháp chuyển sang thái độ đề cao các binh sĩ Pháp như những người anh hùng (Héroisme). Trong khi đó tin điện từ tướng De Castries ra lệnh không được đầu hàng bằng cách treo cờ trắng. Đặc biệt hai tở Paris- Match và France-soir nêu những tít lớn như: Chung quanh tướng de Castries, 15.000 người anh hùng đang viết những trang sử vinh quang bằng chính máu của họ( France-soi, ngày 8 tháng 5). Hay: anh dũng cầm cự cho đến giờ phút cuối cùng, họ đã ngã xuống mà không treo cờ trắng ( Paris-Match, số báo ra từ 8 đến 15 tháng 5).

Những nhan đề khác cũng thường xuyên xuất hiện trên các báo như: Những người anh hùng Điện Biên. ĐBP một Verdun của Pháp.

15Tác giả muốn ám chỉ trận bao vây của Đức ở Verdun, năm 1916 trong thế chiến thứ nhất, đưa đến kết quả là có 300.000 quân nhân cả hai phía tử trận và phía quân đội Pháp thì phía binh sĩ Pháp được coi là những anh hùng của tổ quốc.

Những lý do tại sao chọn Điện Biên Phủ

- Lý do thứ nhất mà tướng Salan, sau đến tướng Navarre thay thế đã chọn ĐBP vì nó gần biên giới Lào, cách nhau chỉ 13 kilô mét. Ngày 20 tháng mười, 1953, nước Pháp đã ký với thủ tướng Lào Souvana Phouma khẳng định sự độc lập của Lào trong Liên Bang Đông Dương. Vì thế Navarre càng thấy có đủ lý do để chọn ĐBP vì thấy có trách nhiệm bảo vệ Lào. Nhờ căn cứ ĐBP, nó có khả năng chặn đường tiến quân của Việt Minh vào đất Lào.

  • Lý do thứ hai chọn Điện Biên Phủ là chiếm lại một phần đất đã bị Việt Minh đánh chiếm vào cuối năm 1952. Tái chiếm ĐBP trong tay Việt Minh là nắm lại quyền kiểm soát đất Thái, kiểm soát Lai Châu ở phía Đông Bắc, phía Đông Nam với Tuần Giáo, Sơn La và Na Sản và phía Tây với Luang Prabang. Lai Châu là nơi có bộ lạc người Thái do Đèo Văn Long đứng đầu. Đây là vùng đất giầu có vì trồng thuốc phiện và đã hẳn, tướng Võ Nguyên Giáp cũng không ngu dại gì mà không vắt nguồn sữa nuôi quân từ Đèo Văn Long.
  • Cũng vì vậy mà Navarre đã trình lên chính phủ Pháp một kế hoạch chiếm đóng ĐBP. Nhưng chính phủ Pháp do Joseph Laniel đã không đủ ngân sách tài trợ cho chiến dịch và chỉ mong tìm một giải pháp hòa hoãn như kiểu ở Cao Ly. Mặc dầu vậy, khi quay về Sài gòn, Navarre vẫn tin tưởng ở căn bản là kế hoạch sẽ được tài trợ vì chính phủ Pháp không thể bỏ rơi Lào.

- Navarre càng tin tưởng hơn khi mở một cuộc hành quân chớp nhoáng xuống Lạng Sơn. Quân nhảy dù Pháp đã làm binh đội tướng Giáp trở tay không kịp và họ đã phá hủy 5000 tấn đạn dược, vũ khí, trang bị khác và sau đó binh đội nhảy dù đã quay về Hà Nội hầu như an toàn với một tổn thất nhẹ nhàng.

Tháng tám 1953, toàn thể binh đội lính Pháp đóng ở Nà Sản đã được không vận về Hà Nội. Na san chỉ là một lòng chảo nhỏ so với ĐBP, với 5 kilô mét chiều dài và 2 kilô mét chiều rộng. Cái lợi thế hơn hẳn ĐBP là nó có nhiều chỏm núi và có thể biến chúng thành những pháo đài kiên cố. Đại tá Gilles còn cho đào nhiều hầm trú ẩn sâu đến 3 mét.

Đây là một cuộc chạy đua giữa Gilles và tướng Giáp tại Nà Sản. Trong khi Gilles lo củng cố công sự ở Nà Sản thì tướng Giáp phải làm sao điều động sư đoàn từ Nghĩa Lộ về Nà Sản. Tướng Giáp phải mất hơn một tháng trời để đi một đoạn đường rừng núi dài 78 kilô mét ngăn cách giữa Nghĩa Lộ và Nà Sản.

Khi tướng Giáp mở cuộc tấn công với đơn vị ưu tú nhất, sư đoàn 308 vào ngày 23 tháng 11, 1952 thì Gilles đã chuẩn bị phòng thủ xong. Máy bay Dakota đã thả dù chiếu sáng và đại bác 105 của Pháp nhờ đó đã đẩy lui các cuộc tấn công của tướng Giáp .. Phi trường Nà Sản rất tấp nập và hữu dụng có thể cho hạ cánh những phi cơ hạng nặng. Trong suốt thời gian chiến dịch, đã có 1750 lượt máy bay tiếp tế xuống Nà sản ..

Đại tá Gilles biết rằng Giáp không thể còn cầm cự lâu. Nhiều vị quan khách đã được mời tới Nà Sản quan sát trận dịa và cho rằng Nà Sản sẽ là nghĩa địa chôn cất bộ đội Việt Minh của tướng Giáp. Bảo Đại cũng được mời tới quan sát và tỏ ra rất phấn khởi trước những gì ông đã quan sát được.

Tướng Giáp hiểu rõ tư thế của địch. Nhưng ông cố gắng mở một đợt tấn công mới vào đêm 30 tháng 11 rạng mồng một tháng 12, 1952. Những đợt tấn công với hàng loạt dúng cối rót vào các đơn vị phòng ngự và đã có hai chốt của binh đội Pháp bị tràn ngập.

Nhưng sau đó, vào rạng sáng hôm sau Gilles đã phản công và chiếm lại được hai vị trí đã bị mất ..

Việt Minh đã bò sát hàng rào kẽm gai với bộc pha. Nhưng bị thất bại vỉ những bãi mìn và trên không, Dakota thả chiếu sáng và hàng chục binh đôi Việt Minh ngã gục dưới những tràng đạn liên thanh của Pháp trong các hầm trú ẩn bắn ra…

Kết quả là có khoảng hơn 500 bộ đội Việt Minh bị phân thây vì mìn và đạn đại liên của binh độ Pháp.

Phía đại tá Gilles có 12 người bị chết và hơn 30 chục bị thương !! Ông được vinh thăng tướng.

Kết quả về tổn thất trong trận đánh Nà Sản quá chênh lệch ..Nhưng tướng Giáp vẫn tỏ ra binh đội của ông không hề hấn gì!!! Rất là Langlais!! Ông ra lệnh rút quân!!

Phía Pháp mặc dầu đẩy lui được binh đội tướng Giáp cũng tính đường rút quân vì sẽ không chịu nổi áp lực quân sự trong tương lai.

Việc rút quân nầy xảy ra trước mắt binh đội cộng sản, qua mặt tướng Giáp một cách dễ dàng. Trước hết, người Pháp cho phát đi những tin tức yêu cầu gửi viện binh Pháp tới Nà Sản. Và hy vọng truyền tin của Việt Minh bắt được tin tức này. Và sau đó một số lớn phi cơ vận tải đã đáp xuống và làm như thể thả quân xuống ở đợt đầu, nhưng thực ra sau đó là chở quân lên phi cơ vận tải để rút lui.

Và cuộc rút quân đã xảy ra một cách êm thắm, không gặp một sự chống cự nào từ phía Việt Minh.

Theo Jule Roy mô tả chi tiết hơn là cứ 6 phút lại có một phi cơ vận tải đáp xuống và chở người lên. Ngay cả những người Thái hoặc cộng tác với Pháp cả đàn bà, trẻ con cộng chung trên 300 người, mang theo cả nồi niêu xong chảo lên phi cơ. Trên không thì máy bay chiến đấu B-26 quần đảo với súng máy sẵn sàng nhả đạn nếu ở dưới đất có động tĩnh gì. Đại tướng Cogny tuyên bố ở Hà Nội :

«I am happier than I was on the evening of Lang Sơn ». Sự việc này xảy ra một cách êm thắm, theo Jukles Roy chỉ vì là máy truyền tin của binh đội Việt Minh bị trục trặc nên tướng Giáp “ ở xa!” không nhận được tin tức.

10 năm sau, Jules Roy có dịp phỏng vấn tướng Giáp về vụ này, tướng Giáp vừa cười vừa nói:

Chiến lược của chúng tôi là luôn luôn giữ ở thế chủ động.. Vả lại cũng không có bao nhiêu binh đội Pháp đồn trú ở Nà Sản và khoảng thời gian đó không trùng hợp với những kế hoạch hảnh quân lớn của chúng tôi. Cho nên chúng tôi cho rằng nếu Navarre đã rút quân ra khỏi Nà Sản thì điều đó cũng đúng ý với chúng tôi`.

Và Jules Roy đã kết thúc cuộc phỏng vấn tướng Giáp với một nhận xét:

“This optimism seemed to me to conceal certain spite”

16 The Battle of Dien Bien Phu, Jules Roy, trang 22

Sự chống đỡ biện hộ của tướng Giáp khi nói rằng không có nhiều binh đội Pháp là sai sự thật. Robert J. O’Neill trong General Giap viết:

The patent falsehood of the notion that ”not very many troops” were within Nasan indicates that this explanation of Giap’s cannot be taken at face value. In the absence of a more plausible reason, it appears that Navarre was able to catch Giap off balance and through good luck and management save the lives of some 10,000 Frenchmen who would otherwise have been in grave danger once the rains had stopped.

10.000 binh đội Pháp đã thoát hiểm sau khi đã đốt phá kho đạn và trang bị của tướng Giáp và rút đi an toàn phải được coi là thành công của Navarre.

17 Robert J.O’Neill, General Giap, Politician & Strategist, trang 128.

Phần tướng Giáp như thường lệ nhận định về trận Nà Sản như sau:

Ta chủ trương đánh Nà sản do căn cứ bá cáo và tình huống giữa địch và ta lúc đó. Sau cuộc tiến công không thành công, địch lại tăng viện cho Nà Sản, nếu đánh nữa thì không chắc thắng trong khi đó vùng giải phóng của ta rất rộng mà chưa được củng cố, chủ trương đình chỉ cuộc tiến công Nà Sản là chính xác để tích cực củng cố và phát triển những thắng lợi vừa qua”.

18 Võ Nguyên Giáp, Đường tới Điện Biên Phủ, trang 344

Dù không tiếp tục bao vây Nà Sản thì trong những chiến thắng vừa qua, tướng Giáp cũng tiết lộ cho biết, Vùng mới giải phóng ở Tây Bắc rộng 28.000 kilô mét vuông với 250.000 dân .. Hướng chính Tây Bắc, ta đã tiêu diệt và bắt 6.029 quân địch trong đó có hơn 1000 Âu Phi và nhiều sĩ quan. Ta còn thu được thắng lợi quan trọng ở Phú Thọ, tiêu diệt 1.711, bắt 173. Chúng ta đã thành công trong nhiệm vụ tranh thủ nhân dân và giải phóng đất đai.

19Võ Nguyên Giáp, Ibid, trang 343

  • Kinh nghiệm chiến thắng Nà Sản càng cho phép Navarre tin tưởng là có thể chuyển một Nà Sản sang Điện Biên Phủ. Trận Na Sàn cho thấy có 10 ngàn binh đội Pháp đồn trú tại đây và đã chống cự một cách mãnh liệt và có hiệu quả chống lại sự bao bao vây của Việt Minh mà quân số đông gấp hai lần ..Và trong vòng ba ngày đêm, quân đội Pháp đã rút lui an toàn bằng đường không vận.

Vì thế, ông đã chỉ định tướng Cogny chỉ huy chiến dịch này.

Nhưng Nà Sản thì không phải Điện Biên Phủ. Vì tại Điện Biên Phủ, tướng Giáp đã chuẩn bị kỹ càng bằng phương hướng đánh chắc, chỉ đánh khi nào biết chắc chắn là sẽ thắng. Phương châm ấy, đại tướng thường tự hào và cho rằng không theo chỉ đạo của các cố vấn Tàu- Một quyết định khôn ngoan và can đảm của riêng ông-.

Nhưng ngoài ra, việc kéo pháo vào trận địa, đào sâu trong sườn núi – vượt sức người- đã là nguyên nhân chính đưa đến sự thảm bại ngay những ngày đầu chiến dịch ĐBP. Ngoài Võ Nguyên Giáp ra, mấy ai làm được !! Trung tá Piroth là người phụ trách pháo binh ở Điện Biên Phủ, ông tin tưởng chắc chắn là ông sẽ đè bẹp đối phương với dàn pháo của ông. Sau khi chứng kiến sự hấp hối của cứ điểm Gabrielle trong sự bất lực. Piroth bưng mặt khóc và nhận trách nhiệm về mình.

Ông nói: Tôi thật sự là người bất xứng, vì tôi đã bảo đảm với De Castries là pháo địch không thể đụng tới chúng ta, vậy mà bây giờ chúng ta đang thua trận. Tôi sẽ không muốn sống nữa.

Nói rồi, ông ra khỏi hầm trú ẩn và dùng lựu đạn tự sát.

20 Bernard B Fall , Ibid, trang 156

Chiến dịch Castor

Phần lớn các sĩ quan được chỉ định như tướng Cogny đều viết thư phản đối chiến dịch Castor với cuộc nhảy dù xuống ĐBP, vì ông cho rằng không đủ bảo đảm thắng lợi Tướng Nicot phụ trách không vận cũng viết thư phản đối vì không lực của Pháp không thể bảo đảm nguồn tiếp liệu liên tục cho chiến trường với thời tiết rất khắc nghiệt, nhiều mây mù bao phủ chung quanh ĐBP.

Tướng Không quân Deschaux, chỉ huy không quân ở Bắc Việt thì cho rắng từ Hà Nội đến ĐBP cách nhau 350 kilô mét sẽ giảm thiểu khả năng tiếp liệu của không quân.

Nhưng Navarre hầu như không lưu tâm đủ đến những lời phản đối ấy và kế hoạch đổ bộ xuống ĐBP vẫn được thực hiện.

Tướng Fay khi được tướng Rene Pleven hỏi ý kiến về căn cứ ĐBP, Fay đã trả lời rằng, nếu tôi có thể đưa ra một lời khuyên thì yêu cầu rút lui ngay ra khỏi ĐBP trước khi mùa mưa tới, bởi vì sân bay ở đây sẽ không đũ sức chịu đựng được những trận mưa rừng kéo dài cả 15, 16 tiếng đồng hồ. Nhận xét của tướng Fay sau này thành sự thực. Nhiều cứ điểm bị ngập nước, binh sĩ lội bì bõm trong đất bùn lầy.

Riêng De Castries đã không phản ứng tức thời và đúng lúc khi được lệnh chỉ huy ĐBP, một chức vụ mà ông hoàn toàn không thích hợp. Tuy nhiên ông cũng đủ can đảm và lương thiện nói cho Navarre biết rằng:

Nếu tin tưởng vào một Nà Sản thứ hai mà ông mong muốn thì xin chỉ đỉnh một người khác thay tôi, tôi không cảm thấy thích hơp cho công việc này.

21 Jules Roy, Ibid, trang 278

Đáng nhẽ, De Castries phải có can đảm dứt khoát từ chối nhiệm. Sự thụ động của ông cứ nấp trong hầm trú ẩn, lưỡng lự trong việc ra lệnh phản công đã gây ra những bất đồng nghiêm trọng giữa ông và Langlais sau này.

Chỉ đến phút chót khi quyệt định buông súng, hai người mới có dịp ôm choàng lấy nhau một lần cuối .

Lúc đó là lúc mà mọi chuyện đã quá muộn!!

Cuối cùng cái lý do chính yếu để Navarre quyết định đổ quân xuống Điện Biên Phủ vì đánh giá sai khả năng quân sự của tướng Giáp, nhất là về khả năng trọng pháo. Bởi vì ông ta cho rằng không có cách nào tướng Giáp chở được trong pháo 105 ly đặt ở sườn núi đối diện lòng chảo ĐBP, vì sẽ bị lộ và tiêu diệt ngay bằng bom và trọng pháo của Pháp. Đặt ở phía sau núi thì quá xa mục tiêu và ngoái tầm bắn của trọng pháo ..

Về điểm này Berard B. Fall cũng cùng đưa ra nhận xét là:

The underestimation of the Viet Minh’s capabilities was perhaps the only real error made by the Frech commander-in-chief in planning for the Indochina campaign of spring, 1954.

Yet it was a strategic error and had strategic consequences!

22 Bernard B. Fall, Hell in a very small place, trang 50

Riêng nhìn vào địa hình, địa vật người ta cũng nhận ra vị tướng chỉ huy của Việt Minh thong thả ra vào, ban ngày rảnh rổi leo lên núi thong thả quan sát trận địa một cách an toàn .. Trong khi vị tướng Pháp thì khốn khổ chui trong hầm chỉ huy, chặt chội và lúc nào cũng bị đe dọa bị pháo kích. Hầu hết cây rừng đã bị đốn hạ để làm nắp hầm càng làm lộ mục tiêu trống huếch trống hoang cho pháo địch ..

Chính tướng Giáp cũng nhìn nhận: Điện Biên Phủ dù là một căn cứ được củng cố mạnh mẽ về quân sự. Nhưng được xây dựng ở một vùng rừng núi thì cái phần lợi nghiêng về phía chúng tôi, và phần bất lợi dành cho kẻ thù .. Nói tóm lại, đó là một căn cứ quân sự hoàn toàn bị cô lập với hậu cứ của kẻ thù. Phương tiện chuyên chở duy nhất nguồn tiêp liệu cho địch là đường hàng không .. và trong trường hợp đó dễ làm làm nản lòng kẻ thù về ý muốn tấn công và buộc họ quay về thế phòng thủ..

23 Giap People’s War People’s Army, trang 166

Lúc ban đầu, cuộc hành quân Castor tỏ ra có dấu hiệu lạc quan và tốt đẹp. Từ hai phi trường Bạch Mai và Gia Lâm. Khoảng 9 giờ sáng, hàng đoàn từng 32 phi cơ một lần lượt cất cánh. Tiếng phi cơ Dakota nổ máy và trực chỉ hướng Tây Hà Nội và khoảng hơn 10 giờ sáng, họ đã có mặt trên bầu trời lòng chảo Điện Biên Phủ. Các phi cơ phóng pháo và bỏ bom có nhiệm vụ dọn sạch bãi đáp bằng cách bỏ bom và bắn phá những điểm nghi ngờ trên các dãy núi chung quanh lòng chảo ..

Người không may mắn chết đầu tiên trong chuyến nhảy dù xuống ĐBP là đại úy bác sĩ Raymond bị Việt Minh bắn xẻ ngay khi ông còn chưa đặt chân xuống mặt đất. Người thứ hai là một binh sĩ truyền tin người Việt tên Nguyễn Văn Thái bị đâm chết khi rơi vào một chỗ phục kích của Việt Minh .

Ngay khi xuống mặt đất thì các sĩ quan như trung tá Fourcade, đại úy Le Gall, Bigeard, Tourret, Guiraud, Bouvery, Clairfond, Bommard đã sắp đặt doanh trại, củng cố vị trì và, tảo thanh mở những cuộc hành quân kiểm soát vùng vòng chảo ĐBP .

Kết quả là họ đã tịch thu được 60 súng cá nhân, 20 ngàn viên đạn và 100 ki1lo6 thuốc nổ và loại khỏi vòng chiến 115 bộ đội Việt Minh.

Phía quân đội Pháp thiệt hại 12 người và hơn 30 người bị thương.

Kết quả ấy làm hài lòng Navarre!!

Lucien Bodard- một ký giả chuyên nghiệp, tác giả cuôn sách đồ sộ- bề dày 1668 trang về chiến tranh Đông Dương- chỉ rất tiếc không hiểu tại sao không có phân viết về Điện Biên Phủ- cuốn La guerre d’Indochine – người từng đã dành hàng vài trăm trang sách để viết và ca tụng tướng De Lattre De Tassigny đánh điện về cho tờ France-Soir, một cách lạc quan, ngày 23 tháng 11, 1953: chiến dịch Castor xuống lòng chảo Điện Biên Phủ không phải là kiểu cuộc hánh quân xuống Lạng Sơn trước đây, nhưng là bắt đầu một trận tấn công.

24 Georges Fleury, Ibid, trang 593

Thật ra Lucien Bodard chỉ lật lại lời tuyên bố lạc quan của Cogny mà thôi .

Sau khi phi trường Mường Thanh không còn chuyên chở được đồ tiếp liệu mà nhu cầu là 150 tẩn- ngày rơi xuống còn được mấy chục tấn –ngày. Mọi hy vọng kể như đã hết.

Điện Biên Phủ hấp hối

Bernard B. Fall đã dành hẳn một chương nhan đề Castor Dies để viết về sự thất thủ ĐBP. Như một thứ nhật ký chiến tranh- từng ngày- kể từ ngày 24 tháng tư, 1954- ký giả B. Fall ghi lại từng chi tiết diễn tiến ĐBP ở vào cái giờ thứ 25 của sự kết thúc. Kể từ khi mất Huguette 1, có thể một nửa số tiếp liệu rơi vào tay Việt Minh. Mỗi tấn tiếp liệu đến tay binh đội Pháp phải trả giá bằng sự liều lĩnh và sinh mạng của các phi hành đoàn do súng phòng không 37 ly do Liên Xô cung cấp.

Cho đến phút cuối cùng, tất cả các sĩ quan Pháp nào ở Điện Biên Phủ còn có thể bước đi được như Langlais thì đều tập trung về cái Bunker của tướng De Castries vào lúc 16 giờ. Nhưng thực ra, họ không biết một điều là một điện tín đã được gửi đi từ ĐBP quyết định lệnh ngưng băn từ lúc hai giờ chiều.

Người ta thấy có đại tá Meunier, các chỉ huy tiểu đoàn như Vado, Clemencon, Lemeunier, Tourret, Guiraud và Bigeard. Chỉ thiếu có đại tá Lalande đang phải đương đầu với bộ đội Việt Minh ở cứ điểm Isabelle. Ở Isabelle còn có 2000 viên đại bác 105 ly và Lalande được lệnh tự ý tìm một con đường thoát..

Sau khi các sĩ quan phúc trình về hoàn cảnh của mỗi đơn vị và giải tán, chỉ còn lại Langlais và De Castries liên lạc trực tiếp với tướng Cogny.

De Castries nói với Cogny:

  • Thưa đại tướng, giọng ông gần như vỡ ra, kẻ thù tràn ngập Nam Youn Mọi phương cách rút lui đề thất bại .. Một trận chiến ban đêm sẽ xảy ra và hàng ngàn thương binh sẽ là nạn nhân của cuộc thảm sát này. Sau đó De Castries trao máy điện đàm cho Langlais. De Castries nói tiếp :
  • Phải ngưng cuộc chiến đấu .
  • Tướng Cogny mấp máy nói, chào bạn thân mến của tôi
  • Vâng, chào đại tướng. Nói xong De Castries rời bỏ điện đàm.

Sau đó, họ chuẩn bị cuộc đầu hàng. Chỉ riêng có cứ điểm Isabelle là có thể đào thoát.

De Castries lệnh cho các thuộc hạ phá hủy tất cả cái gì có thể phá hủy ..

Lúc đó là 5 giờ chiều. De Castries gọi Hà Nội yêu cầu Hà Nội cho một máy bay cung cấp thực phẩm cho ngày hôm sau . Tướng Cogny còn cố dặn với tướng Castries rằng : Đầu hàng thì đầu hàng, nhưng nhớ đừng có kéo cờ trắng .. vì điều đó sẽ làm hủy hoại danh tiếng của ông trong 55 ngày đêm vừa qua. Này ông bạn De Castries, tôi không có quyền ra lệnh ông đầu hàng, làm thế nào thì làm, nhưng tuyệt đối không kéo cờ trắng.

Có lẽ việc trao cờ trắng đầu hàng cần được chi tiết hơn nữa bằng cách trích nguyên văn các khẩu lệnh của các vị chỉ huy Pháp.

Theo ký giả Jules Roy qua tướng Cogny thì lệnh ấy như sau xin được trích nguyên văn :

  • Hello, hello Castrie ?.. Hello , Castries?
  • General?

Look, man, naturally you’ve got to call it quits. But one thing certain is that everything you’ve done so far it superb. You mustn’t spoil it all now by hoisting the white flag. You’re overwhheimed, but there must be no surrender, no white flag.

25Jules Roy, The Battle of Dienbien Phu, trang 282

  • Theo thiếu tá Pouget, sĩ quan tùy viên của tướng Navarre thì ông ghi nhận được cuộc điện đàm như sau:
  • Tell me, old boy, this has to be finished now, of course, but not in the form of a capitulation. That is forbidden to us. There can be no hoisting of the white flag, the fire has to die of its own, but do not capitulate. That would mess up all that you have done that is magnificient untill now.

Theo hãng thông tấn Agence France-Presse vào ngày 8 tháng 5, 1954, Tướng Cogny có thể đã nói như sau:

  • You will fight to the end. There is no question about raising the white flag over Dien Bien Phu after your heroic resistance.

2626 Bernard B. Fall, Ibid, trang 406

Về phía tài liệu Viêt Nam, tác giả Hữu Mai ghi:

  • Nhiều toán địch ra hàng. Những đốm cờ trắng xuất hiện ở Mường Thanh mỗi lúc một nhiều. Anh Thái luôn luôn nhắc các đơn vị: Bao vây chặt không để một tên nào chạy thoát.

2727 Hữu Mai, Đai tướng Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ, Điểm hẹn lich sử, trang 391

Một tài liệu khác do ông Nguyễn Khắc Viện ghi lại như sau:

  • Ngày mồng 1 tháng năm, mở màn cho đợt tấn công thứ ba . Các đồi A 1( Eliane 2), C1 (Eliane 1) cũng như một số cứ điểm khác bị tràn ngậ . Vào buổi chiều ngày 7 tháng năm, một trận tấn công cuối cùng đã giúp các lực lượng Việt Minh chiếm được bộ chỉ huy của địch, và bắt được tất cả bộ tham mưu của địch cùng với tướng De Castries. Cứ điểm chỉ huy đã đầu hàng và có dương cờ trắng.

28 28 Nguyễn Khắc Viện, Histoire du Viet Nam, trang 230

Người viết đã cố xem nhiều bức hình chụp được ghi lại cuộc chiến Điện Biên Phủ. Có những bức hình cho thấy cảnh chết chóc tàn bạo nằm phơi thây trên các chiến hào xác của binh đội Pháp và Việt Minh sau trận Dominique. Xác một binh sĩ Pháp nằm ngửa, giang hai tay ở một chiến hào. Cách người lính Pháp chừng hai thước là một binh đội Việt Minh, đội nón cối, chết nằm nghiêng .. Trận chiến sáp lá cà phải kinh khủng lắm!!

Hình ảnh những xe thồ chở đến 200 kilo cho mỗi chiếc xe.

Bức hình duy nhất do tài liệu báo Quân Đội Nhân Dân ghi lại cảnh ba binh sĩ Việt Minh một người dương lá cờ đỏ sao vàng, hai người kia cầm súng ..Gần đó có một trụ mầu trắng không rõ? Không lẽ đây lá lá cờ trắng đầu hàng ?

Có cờ trắng hay không thì không thấy rõ ràng.

Vào khoảng 6 giờ chiều thì bộ đội Việt Minh đã có mặt ở trên nóc hầm chỉ huy của tướng De Castries.

Bộ tham mưu ĐBP lặng lẽ nối đuôi nhau bước ra khỏi căn hầm. Đứng trên những bao đất rách phủ nóc hầm bằng thép cong, ba người lính Việt Minh trong đó có trung đội trưởng Chu Bá Thế đang cầm một lá cờ đỏ sao vàng. Chuyện một lá cờ đỏ phất phới trên mái hầm chỉ huy sở Điện Biên Phủ vào hồi 17 giờ 40, ngày 07 tháng 05 năm 1954 ấy là chuyện chắc chắn có. Hàng nghìn người đã trông thấy và nhiều người đã nói với tôi. Ngược lại, không một ai trông thấ rõ ràng lá cờ trắng trên nóc hầm. Sau này ở Hà Nội, tôi đã được xem những đoạn phim quay cảnh thật: Không đâu thấy có treo cờ trắng cả. Tập đoàn cứ điểm đã rơi vào tay Việt Minh, không phải là nó đầu hàng.

1 giờ 50 ngày 08 tháng 05 năm 1954, máy bay chỉ huy lượn trên trời thu được bức điện cuối cùng của quân Pháp ở Điện Biên Phủ:

Đến đây thì thật là chấm hết.

Chấm hết chiến tranh Đông Dương, chấm hết chế độ thuộc địa Pháp.

Ngày 08 tháng 05 năm 1954, một máy bay ném bom 4 động cơ Privateer của phi đội 28F Hải quân đi ném bom hệ thống giao thông hào vận tải của Việt Minh trên đường 41, bị bắn rơi tại Tuần Giáo.

Người phi công lái máy bay, trung úy Hải quân Monguillon và tám hạ sĩ quan phi hành đoàn là những người Pháp cuối cùng bỏ mạng trong trận Điện Biên Phủ”.

Phần tướng Giáp thì liên tiếp điện thoại và yêu cầu xác nhận lá đã bắt được tướng De Castries hay không? De Castries đã đầ hàng, đã bị bắt làm tù binh . Đi bên cạnh ông ở phía trái là Bigeard và phía phải là Langlais ..

Đại tá Thanh đã vui mừng xác nhận với tướng Giáp là De Castries đang ở trước mặt ông với đầy đủ bộ tham mưu của ông ta. Sau đó, ông giáp liền thông báo tin tức cho chủ tịch Hồ Chí Minh.

16 ngàn binh sĩ Pháp tham dự trận chiến Điện Biên Phủ. 2000 người trong số họ đã tử thương. 2000 người mất tích và hơn 5000 người bị thương.

Sáng ngày 8 tháng năm 1954, chiến thắng của tướng Giáp thật trọn vẹn sau khi cứ điểm Isabelle đã ngưng bắn vào một giờ đêm qua.

Navarre là người trách nhiệm hoàn toàn sự thua trận ở Điện Biên Phủ và mặc dầu sự tổn thất này chỉ tương đương với 3% quân số của binh đội Pháp.

Sau đó, người Pháp quyết định rút lui khỏi Đông Dương .

Chính phủ Laniel từ chức vào ngày 12 tháng sáu 1954 .. Chính phủ Bảo Lộc theo chân từ chức hai ngày sau ..

Mendes- France lên thay thế Daniel vào ngày 24 tháng sáu và ông hứa chấm dứt chiến tranh trong vòng một tháng. Và nếu không chấm dứt được thì sẻ gửi quân độ sang Bắc Việt !!

Cuộc trao đổi tù binh mà người Pháp hy vọng một cách ngây thơ là Việt Minh sẽ trao trả tất cả 36970 tù binh bị Việt Minh cầm tù. Việt Minh chỉ trao trả có 17754 tù binh ..

Nhiều tù binh được trao trả chỉ còn da bọc xương, nhiều người cân nặng chưa được 40 kí lô.

Trong khi đó các tù binh Việt Minh được trao trả đều khỏe mạnh. Nhiều thương bệnh binh Việt Minh nằm điều trị ở nhà thương Le Flem ở Sài gòn đã được đại úy Martineaud chở xuống tận Cà Mâu .. Nhiều đồng đội của họ gặp nhau đã giật bỏ những dây chuyền nước biển và tống lên xe cam nhông nhãn hiệu Liên Xô..

Những trang sử chót của lịch sử nước Pháp được diễn ra vào buổi chiều ngày 8 tháng 10 1954 tại sân vận động Mangin. Trời hôm nay mưa nhiều..Trên sân vận động diễn ra cuộc kéo cờ Pháp lần chót với một số ít binh đội cầm súng dàn chào.

Không có đội kèn đồng của nhà binh dàn chào như thường lệ. Chỉ có một tiếng kèn đồng thổi một điệu nhạc buồn như một lời tiển đưa.

Người nhận lá cờ là đại tá Argnacé.

Trong khi đó, người sĩ quan đại diện gấp lá cờ tam tài ướt sũng nước mưa.

29 Passing the Torch, A final Adieu, trang 90

Ở trang bên cạnh cuốn sách, tôi nhìn thấy sân đá banh Mangin cỏ dại mọc lên đến đầu gối. Có hai binh sĩ kéo lá cờ Pháp xuống và một sĩ quan đội nón sắt đứng nghiêm chào. Đứng quay lưng chỉ thấy có thể là tướng Cogny, đội nón képi cũng đứng nghiêm chào ..

30 Tóm lược Georges Fleury, Ibid, tur72 trang 649-660

Giải pháp không giải pháp của Hoa Kỳ vào giờ phút chót của trận Điện Biên Phủ

Trước giờ tuyệt vọng của Điện Biên Phủ, người ta trông đợi sự can thiệp trực tiếp của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Vào lúc ấy, Pháp chỉ có không đầy 100 máy bay oanh tạc mà nhiều cái ở trong tình trạng bất khả dụng .. Cựu tổng thống Nixon, trong cuốn No more Viet Nam của ông cho rằng cái sai lầm số một của Hoa Kỳ tại Việt Nam là đã không sớm can thiệp trực tiếp vào trận Điện Biên Phủ. Chỉ cần điều động môt hàng không mẫu hạm với các máy bay B.29 ngày đêm thả bom xuống lòng chảo ĐBP, hỗ trợ thời điểm chiến lược thì cuộc chiến có thể kết thúc một cách thuận lợi cho binh đội của tướng De Castries đang bị vây khốn một cách tuyệt vọng trong một tuần lễ.

31 No more Viet Nam, Richard Nixon, trang 31

Và nhờ thế tranh được di sản một cuộc chiến kéo dài thêm 21 năm nữa.

Nếu như, lại nếu nữa là đề nghị của Đề đốc Hải quân Arthur Radford đưa ra kế hoạch xử dụng 60 máy bay B-29 từ Phi Luật thực hiện những cuộc oanh tạc ban đêm đến ĐBP hoặc gọn nhẹ hơn nữa theo đề nghị của ngoại trưởng Foster Dulles cho phép thả vài quả bom nguyên tử cỡ nhỏ xuống ĐBP để vô hiệu hóa Việt Minh thì hẳn kết thúc cuộc chiến đã khác ..

Tuy nhiên, Mỹ là xứ dân chủ, sau bài diễn văn thăm dò của Phó tổng thống Nixon về những biện pháp mạnh quân sự cần làm như việc can thiệp trực tiếp của quân đội Mỹ vào chiến tranh Đông Dương thì 68% dân chúng Mỹ không đồng ý Mỹ can thiệp vào Đông Dương .

J.Prados cũng nhận xét:

” Ở một giai đoạn tồi tệ nhất, ngoại trưởng Dulles đã công khai giúp cho Pháp võ khí nguyên tử chiến lược với hy vọng có thể giải tỏa được áp lực quân sự của Viet Minh(..) Và đến ngày 15/4, Phó TT Hoa Kỳ Richard Nixon đã đọc một bài diễn văn được cho là một thăm dò rộng rãi về sự can thiệp của Hoa Kỳ xem như là thời gian thuận lợi để cứu vãn Á Châu”.

32 Viet Nam, John Prados, trang 29

Nhưng theo ông Nixon, lý do chính yếu khiến Hoa Kỳ không thể trực tiếp can thiệp vào Việt Nam vì thiếu sự hỗ trợ của nước Anh, ông viết:

Tiếc là đề nghị của vị đề đốc này khi sang Anh Quốc đã bị thủ tướng W. Churchill bác bỏ . Churchill cho rằng Anh quốc đã không chiến đấu cho quyền lợi nước Anh tại Ấn Độ thì không vì lý do gì họ lại tham dự vào cuộc chiến tranh Đông Dương giúp người Pháp”.

33 No more Viet Nam, Richard Nixon, trang 30

Thật vậy, ông Bidault ngồi tại Quai d’Orsay, nhìn sông Seine hướng về phía Tây Bắc trong một niềm hy vọng tuyệt vọng. Đó là sự cứu vớt Điện Biên Phủ đặt tất cả sự trông chờ vào London. Trong khi đó nội các Anh họp và đi đến quyết định sẽ không có sự can thiệp của đồng minh, trừ khi Hội nghị Geneve đi đến thất bại. Bom nguyên tử dự định được bỏ xuống ĐBP ngày 28 tháng tư với điều kiện chính phủ Anh không lên tiếng phản đối. Chính phủ Anh chủ trương một chính sách bất can thiệp.( The policy of nonintervention), bởi vì họ không lường được hậu quả của sự can thiệp này. Đại sứ Pháp R. Massigli đã dành cả một ngày làm việc tại bộ ngoại giao Anh mà chỉ uổng công, vì ngay cả một bản tuyên bố chung cũng bị thủ tướng Anh Eden từ chối.

34 34 Jules Roy, Ibid, trang 247

Cuối cùng như người ta được biết Hoa Kỳ đã đứng khoanh tay đứng nhìn người Pháp chiến đấu một mình để nhận lấy một kết quả thảm bại- một thảm bại không chỉ dành riêng cho người Pháp- mà mất cơ hội ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản .

Pháp đã thua không phải vì tổn thất sinh mạng. (tổn thất phía Việt Minh gấp 5 lần hơn) mà vì ý chí chiến đấu nói chung đã không còn nữa!! như nhận xét của Nixon:

Trận Điện Biên Phủ đánh một đòn chí tử vào tinh thần của quân đội Pháp”.

35 more Viet Nam, R. Nixon, trang 28

Tướng Georges Catroux cũng đã viết một bản phúc trình gửi ngày 3/12/1955 mở đầu như sau:

Cuộc thất trận Điện Biên Phủ nói riêng về mặt quân sự nó không chứng tỏ một cán cân quân sự bất lợi cho sự thất trận ở Đông Dương, nhưng là do hậu quả tâm lý đối với dân chúng có phần mệt mỏi về một cuộc chiến tranh không được mọi người đồng ý vì nó như thể kéo dài không biết đến bao giờ và người ta chờ đợi một cách nào đó nó phải chấm dứt”.

36Rapport concernant la conduite des Opérations en Indochine sous la Direction du Général Navarre, in Elgey, Histoire de la IV République, vol 2, annex I, pp 641-722, Ibid The Indochine Experience, Arthur J. Dommen, trang 233.

Trung Quốc, Liên Xô, Việt Minh đã hợp đồng để đưa đến chiến thắng Điện Biên Phủ.

Đằng sau Võ Nguyên Giáp là 600 triệu con trời chỉ cần mỗi người đái một bãi cũng đủ ngập sông Hồng Hà. Trong khi đó, ngay cả tướng Mỹ O’Daniel khi quan sát lòng chảo ĐBP đã phấn khởi điện về cho TT Eisehhower tính cách tích cực của chiến dịch này

Phần vinh dự dành cho tướng Gíáp vì thế thật là nhỏ. Ông đã thật sự không muốn hiểu điều đó. Cùng lắm, phải chặng ông chỉ là người đứng ra đại diện nhận cái chiến công ấy thay cho Trần Canh và trong trận ĐBP là Vi Quốc Thanh !!

Những tổn thất của đôi bên trong trận Điện Biên Phủ“

Một cuộc chiến kéo dài 7 năm, 7 tháng, 1 ngày. Một cuộc chiến đã để lại những vết thương và con số thương vong khó có thể hàn gắn lại. Nhà thơ Nguyễn Huy Tưởng, sau khi tham quan chiến trường Điện Biên Phủ đã ghi lại như sau: Điện Biên lẫn lộn giữa hoang vu và bàn tay người, giữa gian khổ và cố gắng, giữa hỗn độn và tổ chức, giữa chiến tranh và xây dựng, giữa cái cổ sơ (trâu bò, lợn…) và cái khoa học (máy cầy, điện), giữa cái đang lùi và cái đang lên, giữa cái nghèo nàn túng thiếu và cái tương lai đầy triển vọng, tất cả đều ở trong một sự hỗn độn, ngổn ngang, chờ đợi, vươn lên…”

Một cuộc chiến đã tiêu hao hằng bốn trăm ngàn sinh linh và hàng tỉ bạc mà cho đến nay chưa ai biết rõ con số đích thực là bao nhiêu?

Đó là những con số làm phiền, làm chúng ta phải suy nghĩ.

Cùng lắm, nếu may mắn có được những con số thì vẫn là những con số ảo, số âm, số trừ.

Một người chết hay trăm người chết có thay đổi gì được bộ mặt của chiến tranh? Có những người bên kia sợ Hòa Bình, thì cũng có những người sợ những con số như bóng ma.

Những bóng ma của mẹ liệt sĩ đội mồ lên đi kiện

(Thơ Nguyễn Duy).

Cho nên, những con số chính thức vẫn là những con số đáng nghi ngại nhất.

Đã có bao nhiêu binh lính của hai bên đã bỏ mình trong trận đánh cuối cùng này?

Đặt câu hỏi này, tôi giật mình khi đọc lại một đoạn văn phân tích của Claude De Groulet về tâm tính người Việt Nam với một số hệ thống ý niệm mà người Tây Phương không cách nào hiểu được được.

Hiểu được tâm tình và những khái niệm này, hiêu được tại sao các nhà quân sự Việt Minh coi sự sống con người chỉ là phương tiện thay vì là cứu cánh. Những khái niệm của người Việt bắt đầu từ những khái niệm hoàn toàn trừu tượng ở bình luận lý luận : Chẳng hạn, khái niệm giữa tròn và vuông, giữa hỏa hợp và hỗn loạn, giữa trật tự và vô trật tự.

3737 Claude de Roulet, Ibid, trang 18

Đối với người Việt Nam, những khái niệm trên không dứt khoát biện biệt chẳng khác gì giữa âm và dương như một cặp. Vì thế, thái độ ứng xử của người Việt Nam làm cho người Tây Phương trước một số vấn đề làm họ cảm thấy bối rối, hoang mang, khó hiểu.

Chẳng hạn thái độ thản nhiên, (indifférence) của người Việt Nam trước những đau khổ và sự mất mát!! Và người Tây Phương đặt giả thiết phải chăng cái chết đối với họ hình như có một sức mạnh bên trong để kiềm chế được hay có được một sự thanh thản tâm hồn?( Sérénité d,âme)?

Nói cao xa một chút thì người Á Đông có một số khái niệm về vũ trụ, về không gian, thời gian khác người Tây Phương. Về vũ trụ, họ nói đến sự tuần hoàn , hòa hợp, sự có đi, có về theo khái niệm hình tròn (conception circulaire) thay vì đường thẳng . Đối với người Tây phương sống là một khởi điểm và chết là điểm tận cùng, chỉ có một hành trình đi và tới không có khả năng trở về.

Vì thế, chết đối với người Tây Phương là một bi kịch con người, một mất mát không bao giở lấy lại được .

Nhưng đối với người Việt Nam, từ một khái niệm có đi, có về, cuộc sống với nhiều gian truân khổ nạn, kiếp người sống không khác gì trâu ngựa, người Việt tục hóa, bình thường hóa những khái niệm và biến nó thành một sự kiện, một quy luật của cuộc sống như thế sống là phải chấp nhận những khổ đau, mất mát là như thế.

Thái độ thản nhiên ( Indifférence) trước mọi tình huống nói cho cùng là phi nhân bản nhất, chẳng những chẳng hay ho gì mà đáng nguyền rủa nhất.

Tướng lãnh Tầu, tướng lãnh Việt như tướng Giáp đều coi cái chết người khác chỉ là phương tiện- cho nên chết bao nhiêu cũng được- Cái thắng cái thua nó nằm ở chỗ này!!

Cho nên, không lạ gì khi áp dụng chiến thuật biển người, không một vị chỉ huy quân sự nào lên tiếng phản đối. Cũng không lạ gì khi một đổi lấy năm vẫn được coi la chiến thắng. Thắng đối với những vị ấy là cuối cùng là cắm được lá cờ, còn tất cả mọi sự hy sinh là lẽ tất nhiên..

Nói dến chiến công thì có thể ai cũng biết rồi .. Nhưng nói đến những tổn thất thì cho đến giờ phút này, phía Việt Minh vẫn chưa bạch hóa ra bên ngoài .. Mọi ghi chép về tổn thất ở đây về phía Việt Minh chỉ là phỏng đoán mà thôi ..

- Phía quân đội Pháp thì tương đối minh bạch rõ ràng.

Giữa giai đoạn từ 20/11/1953 đến 7/5/1954, có tất cả 15.709 đồn trú tại Điện Biên Phủ.

Cho đến ngày 7/5 thì số binh đội Pháp chỉ còn lại 10.133 ơ/ Điên Biên Phủ và 1588 ở căn cứ Isabelle, công chung là 11.721 mà trong đó có 4.436 bị thương . Trong số bị thương có 858 người được coi là bị thương nặng. 858 người này đã được Hồng Thập Tự di chuyển đi với sự thỏa thuận của Việt Minh.

Số còn lại là 10.863 người trong đó có 3.578 bị thương .. Và chỉ 4 tháng sau con số 10.865 người này thực sự còn sốngm sót, là 3.290 người.

Như vậy còn lại 7.573 người hoặc đã bị chết trong lúc di chuyển, hoặc ốm đau bệnh tật không thuốc men, hoặc bị giam giữ tại các trại tập trung, hoặc trại cải tạo mà không bao giờ được chính thức trao trả cho Pháp . Tỉ lệ chết trong các trại tù là 60.

Như vậy chính thức khi tàn cuộc chiến, người Pháp chết và mất tích khoảng 4000 người ..c’est la marque du totalitarisme. La signature de l’idéologie. Cette absence de sentiment, de compassion, d’humanité, est caractéristique de la sauvagerie idéologique propre au xxe siècle. L’histoire de l’humanité est riche d’actes de sauvagerie, qui étaient des actes de vengeance, de haine exacerbée, de conquête du pouvoir par un individu ou un clan.

Ici il s’agit d’une haine déshumanisée, dépersonnalisée. Il s’agit de la mise en œuvre méthodique, dépourvue de tout état d’âme, d’un plan minutieusement défini par des instances supérieures. Boudarel n’a fait qu’obéir à ces instances supérieures: l’appareil communiste international, représenté par le parti communiste français, et un temps, par délégation, par le parti communiste vietnamien. On connaît cette défense: je n’ai fait qu’obéir. Cela n’enlève rien à la responsabilité personnelle, mais c’est absolument vrai: Boudarel n’a fait qu’obéir, et toute l’horreur de son action vient précisément du fait qu’il a obéi, qu’il a méticuleusement obéi, en toute conscience de ce qu’il faisait.

On connaît les textes du Viêt-minh, très précis, concernant le traitement des prisonniers de guerre, leur «rééducation» et leur libération. Boudarel les a suivis à la lettre. Si l’on en croit les témoignages de ses victimes qui ont connu d’autres camps que le camp 113, il est même le seul responsable de camp à avoir suivi à la lettre les consignes du Viêt-minh (en en rajoutant un peu pour être sür de ne pas être en dessous de ce qui était demandé). Les responsables viets étaient généralement moins déterminés dans leurs «cours politiques», soit parce qu’ils ne voyaient pas l’intérêt de convertir des moribonds, soit parce qu’ils jugeaient impossible de convertir réellement les « soldats de l’impérialisme», soit parce qu’ils voulaient libérer leur pays mais ne croyaient pas à la phraséologie communiste.

Boudarel, lui, y croyait dur comme fer. Il était l’apparatchik idéal.

Il n’était pas un soldat. Il n’était pas de ces soldats français qui avaient déserté pour se mettre au service du Viêt-minh. Il n’était pas un des soldats blancs d’Hô Chi Minh. Boudarel ne s’est jamais battu. Il était un fonctionnaire du régime. Il n’a pas pris les armes contre l’armée française. Il n’a même jamais levé la main contre un soldat français.

Il n’a cessé de le dire pour sa défense. Mais c’est ce qui l’accuse de la façon la plus claire. C’est là qu’est le crime contre l’humanité chimiquement pur, sans lien avec des crimes de guerre. Boudarel a nié l’humanité des prisonniers français, ses compatriotes, il les a dépouillés de toute dignité humaine, il les a fait crever comme personne ne ferait crever son chien, et pendant qu’ils crevaient, ils devaient encore chanter les louanges du communisme, et subir l’atroce dialectique marxiste-léniniste.

La différence entre les camps communistes et les camps nazis est là. Les tortionnaires nazis n’avaient pas d’instructions pour entreprendre une absurde rééducation de leurs prisonniers voués à la mort. Ils ne leur demandaient pas de célébrer les bienfaits du nazisme. Il n’y a eu aucun Boudarel dans les camps nazis. C’est pourquoi le procès Boudarel aurait dû aboutir. Non seulement pour condamner un tortionnaire particulièrement inhumain, mais pour préciser la juVà khoảng 7000 người đã chết trong nhà tù cộng sản hoặc mất tích. Vậy mà tôi được đọc một bài viết: Lòng nhân đạo của ta, của đại tá, PGS Trần Lưu Khôi .

38Điện Biên Phủ qua những Hồi ức, trang 137.

Tướng Võ Nguyên Giáp điều động các đại đoàn 304,308, 312, 316 và 351 cộng chung với các đơn vị hậu cần là trên 100.000 người.

Theo ước tính của Bernard Fall thì có khoảng 8000 binh đội Việt Minh và 2000 binh đội Pháp được chôn vùi rải rác ở Điện Biên Phủ. Bernard Fall chỉ định chính xác hơn là xác chết của Viet Minh nằm rải rác tại căn cứ Beatrice và Gabrielle trên đồi Eliane hoặc tại giao thông hào ở Huguette, Claudine và Isabelle.

39 Bernard Fall Hell in a very small place, trang 448-449.

Về xác chết các binh lính Pháp thì dễ được nhận diện hơn vì thường được quấn trong các vải dù.

Năm 1962, Jules Roy, một sĩ quan trong quân đội Pháp, tác giả cuốn La bataille de Dien Bien Phu, gốc người Algérie có gặp tướng Giáp và yêu cầu ông thu gom các xác chết của người Pháp để chôn vào một nghĩa địa như một tưởng niệm. Tướng Giáp hứa thi hành, nhưng cho đến nay chẳng biết đã thực hiện trọn vẹn chưa ..

Kinh cầu hồn cho những nấm mồ ở Điện Biên Phủ

Tôi nhận ra một điều lạ thường là phần đông người việt Nam coi chiến tranh là giải pháp tối ưu!! Niềm tự hào cũng từ đấy mà ra.

Những người cộng sản, sau chiến thắng Điện Biên Phủ hầu hết đều rơi vào tâm trạng say mê chiến thắng- ivre de victoire-. Theo sử gia Heinz Schuttte, ông đã có dịp phỏng vấn nhiều người ở Hà Nôi thì họ đều có tâm trạng đo” Vì đó là chiến thắng của họ như một thời lãng mạn chính trị.

Nhà thơ Huy Cận nói:

” Ta lãng mạn bởi vì ta yêu nước”.

40 Năm mươi năm sau: Trăm hoa đua nở ở Việt Nam 1954-1960.

Sự bộc phát lãng mạn và nỗi mừng của họ có thế hiểu được .. Nhưng một khi nỗi mừng chiến thăng qua đi nhanh thì đọng lại là những mất mát đủ thứ không thể hàn gắn được.

Có thể nào một dân tộc khi hỏi đến niềm hãnh diện chung của dân tộc, chỉ có một câu trả lời ngắn gọn: Chúng tôi là một dân tộc anh hùng vì chúng tôi đã thắng hai đế quốc sừng sỏ nhất: Pháp và Mỹ.

Phải chăng đó là sức sống Việt, Văn hóa Việt, sức mạnh Việt Nam?

Phải chăng đã đến lúc phải tìm ra một mẫu hình văn hóa khác, giá trị hơn, cao đẹp hơn và nhất là tiến bộ và nhân bản hơn !!

Sản phẩm chiến tranh là một sản phẩm lỗi thời mà lịch sử con người còn ghi lại!! Đế quốc La Mã nay còn đâu?

Câu hỏi thứ hai cần được đặt ra là sau chiến tranh còn lại gì.

Phải chăng là những bữa cơm đạm bạc, những vật lộn với đời sống thực tế, những gò bó chặt hẹp kiểm soát về tư trưởng đã cấy mầm cho sự nghi ngờ và tư tưởng phản kháng.

Những người không trực tiếp tham dự vào cuộc chiến dễ có cái nhìn nhân bản, một góc nhìn khác về cuộc chiến mà sự sự tàn khốc của chiến tranh với những xác người chết trở thành mối quan tâm hàng đầu ..

Những mẫu người như Võ Nguyên Giáp trong một xã hội tương lai chỉ là sản phẩm của một xã hội còn kém văn minh, nghèo đói và lạc hậu!

Hãy bắt đầu bằng những tâm tình của một con người nhìn lại cuộc chiến trong chiều kích nhân loại bằng tâm thức cảm thông và lòng mẫn cảm!!!

Nhìn lại quang cảnh Điện Biên Phủ, thật khó mà mường tượng được những gì đã xảy ra ở đó cách đây hơn 50 năm .

Tôi nhìn thấy những lũ người bị cưỡng bách làm lao công chiến trường, trong đó có một số phụ nữ và những người dân miền sơn cước là một đám nô lệ thời đại cộng sản. Con số họ là cả trăm ngàn người với hơn hai chục ngàn xe đạp thồ.

Họ bị bóc lột, bị khai thác sức lực đến tận cùng của sự khai thác. Đói ăn, đói mặc, cực khổ muôn chiều với mưa nắng và bom đạn.

Chả có gì để hãnh diện, chỉ thấy đó là những kiếp người khốn khổ gấp ba bốn lần sự khai thác và bóc lột của thực dân, phong kiến.

Và còn lại số phận những người đã chết, đã hy sinh?

.. Nếu nhìn lại ĐBP, nếu không có những ngôi mộ nằm rải rác đó đây thì người ta không thể mường tượng được trước đây đã xảy ra những cuộc giao tranh ác liệt nơi các địa danh như ngọn Éliane, ngọn Béatrice hay Étienne 1 và 2 .

Làm sao có thể hình dung ra những cụm khói đen bốc lên từ bom Napalm làm cháy đen cả mặt đất? Và những giao thông hào chằng chịt, mặt đất vũng bùn mà nhiều xác chết đã thối rửa, chết ở nhiều tư thế khác nhau. Những lớp hàng thép gai nhiều lớp chằng chịt bị xé rách bởi bộc pha và xác người nắm vắt trên những hàng rào thép gai ..

Trong cái không gian máu lửa ngụt trời huyền thoại trước đây, chỉ còn thấy một nghĩa địa với 500 ngôi mộ ngưới chiến sĩ Việt Minh đang nằm an nghỉ – nơi đây-vĩnh viễn .. Nghĩa địa hình như ở cách xa con đường chính một chút, dưới chân ngọn Éliane.

500 người cùng chung một số phận đã tham dự những trận đánh cuối cùng và đã dành được chiến thắng.

Họ nằm giữa một thiên nhiên an bình, chung quanh cây cỏ xanh rì, cỏ cây đầy hoa lá. Có tiếng chim chóc trong các tàng cây.

Họ là một con số nhỏ trong số 10 ngàn người đã bỏ xác tại nơi đây trong một cái lò sát sinh đã được thi vị hóa …

Trên ngọn Béatrice, có tấm bia ghi lại chiến công của anh chiến sĩ Phan Đình Giót, người đã lấy thân mình lấp lỗ châu mai để đồng đội tiến lên ..

Anh Giót phải chăng cũng là biểu tượng anh hùng cần thiết như một Lê Văn Tám của miền Nam sau này? Tôi đọc lại trang ký của đại đội 58 viết về anh Phan Đình Giót mà lợm giọng, muốn nôn ..

Nhưng đối với đồng đội anh Phan Đình Giót nằm ở dưới kia và cả những người mà trước kia là kẻ thù địch của anh thì biên giới thù nghịch không còn nữa. Sự cay đắng hay kiêu hãnh nào có nghĩa lý gì nữa!

Không có vinh quang mà cũng không có chiến thắng vì cái chết đem lại sự bình đẳng tuyệt đối cho những người nằm ở đây?

Họa chăng chỉ còn lại bi kịch cho những người vợ, người chị, người mẹ- nhất là người mẹ- mỗi lần nghĩ tới con thì lén lau giọt nước mắt vì biết rằng con mình sẽ không bao giờ trở về ..

Ngoài kia, nắng vẫn lên !!

Nhưng chỉ còn lại những người đàn ông, đàn bà vùng cao mà bao đời vẫn oằn vai gánh những khổ nhọc bên cạnh những con trâu ngập bùn tới bụng cho cây lúa mọc lên ..

Cuộc sống của họ từ bao đời vẫn kéo dài cuộc sống giữa những thung lũng, những ngọn đồi, vất vả tát từng gầu nước vào ruộng và chăm sới từng thước đât trước nhà để trồng rau.

Đó chính là những con người mà anh em họ cha ông họ đã từng ghi lại những chiến thắng ở Điện Biên Phủ! Nào họ đã được gì và mất gì? Bao nhiêu lần bác Hồ cho người đến thu thóc gạo “vay”, nào đã trả xong chưa? Nợ máu, nợ sức người, nợ cơm gạo thu vén đến tận cùng cực của đồng bào miền sơn cước nào họ có tội tình, ân oán gì trong cuộc đổ máu ấy?

Cho nên, không lạ gì khi áp dụng chiến thuật biển người, không một vị chỉ huy quân sự nào lên tiếng phản đối. Cũng không lạ gì khi một đổi lấy năm vẫn được coi là chiến thắng.

Thắng đối với những vị ấy là cuối cùng là cắm được lá cờ, còn tất cả mọi sự hy sinh là lẽ tất nhiên..

Thật tình tôi không biết phải nói thế nào.

Tướng Giáp và chai rượu Whisky

Như đã nói ở đầu bài viết, tôi xin được trích dẫn phần Epilogue của tướng Peter Macdonald trong sách của ông như phần kết luận về ĐBP.

Ngày hôm nay, phần đông những người tham dự trận ĐBP nay đều đã chết. De Castries chết năm 1991 ở tuổi 85. Langlais tự vẫn cách bằng cách nhảy lầu năm 1988.

Số phận ông là phải thế thôi! Thắng thì như tướng Giáp, thua thì không chấp nhận được! Phải tìm đến cái chết như một giải thoát,

Chỉ có điều chiến thắng vinh quang ấy không vượt qua được sự mời gọi quyến của một chai rượu Whisky tầm thường.

Theo tác giả, khi ông rời khỏi Hà nội sau khi đã làm việc và phỏng vấn nhiều lần tướng Giáp thì được yêu cầu ông biếu tướng Giáp một chai rượu Whisky như món quà chia tay.

Một chai rượu Whisky!!. Đối với người yêu cầu là một điều bình thường tự nhiên.

Nhưng đối với ông Peter Macdonald là một điều thật không hiểu được.

Ông cảm thấy rất khó xử, bởi vì một quà tặng như thế thì có khác chi xỉ nhục tướng Giáp? Một khuôn mặt lớn của thế kỷ thứ 20 lẽ nào nhận một quà tặng như một thứ bố thí tầm thường như cho kẻ ăn mày từ một người ngoại quốc.(a trivial handouts)!!!

Theo tác giả, việc biếu tướng Giáp một chai rượu Whisky nó bộc lộ sự nghèo nàn đến tồi tệ của Hà Nội. (Thời đểm 1990). Những khách sạn sơn rẻ tiền ở những khách sạn được coi là tốt nhất, chuột chạy khắp nơi trong các nhà hàng, những cửa hàng với những hàng hóa lòe loẹt, lỏng chỏng cho ta cảm giác số phận họ là như thế, những bệnh dịch như luẩn quẩn chung quanh mà nếu xảy ra thì cơ quan y tế phòng ngừa hầu như bó tay. Dân chúng đông đúc sống chung đụng, chen chúc trong những căn hộ nghèo nàn, chặt hẹp ..

Như thế mới hiểu được tại sao một nhân vật như thế chỉ đòi hỏi một chai rượu tầm thường!! Một món quà tầm thường cho một ông già mà chiến tích chất đầy những năm tháng đời ông !!

Thật tội nghiệp cho tướng Giáp hay tội nghiệp cho dân tộc Việt Nam!!

© Nguyễn Văn Lục

© Đàn Chim Việt

(Còn tiếp)

Đọc các phần viết trước tại đây

Phần kết kỳ tới: Những năm suy thoái của cuộc đời vị tướng lừng danh thế giới

———————————————————————–

1

2Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ, Điểm hẹn lịch sử, nxb Quan Đội Nhân Dân

3 Bernard B. Fall, Hell in a very small Place, trang 15

4 Hữu Mai, Điện Biên Phủ, Ibid, trang 307

5

6

7

8

9 Georges Fleury, La guerre Indochine

10 Bernard B.Fall, Ibid, trang 390

11

12 Jules Roy, Ibid, trang 216

13 Georges Fleury, Ibid, trang 644

14 ..

15

16 The Battle of Dien Bien Phu, Jules Roy, trang 22

17 Robert J.O’Neill, General Giap, Polotician & Strategist, trang 128

18 18 Robert J.O’Neill, General Giap, Polotician & Strategist, trang 128

19 19 Robert J.O’Neill, General Giap, Polotician & Strategist, trang 128

20

21 Jules Roy, Ibid, trang 278

22 Bernard B. Fall, Hell in a very small place, trang 50

23

24 Georges Fleury, Ibid,

25

26 Bernard B. Fall, Ibid, trang 406

27 Hữu Mai, Đai tướng Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ, Điểm hẹn lich sử, trang 391

28 Nguyễn Khắc Viện, Histoire du Viet Nam, trang 230

29 Passing the Torch, A final Adieu, trang 90

30

31

32

33

34 Jules Roy, Ibid, trang 247

35

36

37 Claude de Roulet, Ibid, trang 18

38

39

40 Điện Biên Phủ qua những trang hồi ức, trang 197

Về cái chết của trung tướng Nguyễn Bình và vai trò trách nhiệm của tướng Võ Nguyên Giáp

Cộng sản nó giết mình hôm nay

Ngày mai nó mang vòng hoa đến phúng điếu

( Lời tâm sự của TT. Trí Quang với một đệ tử thân tín, sau 1975)

Trong những năm gần đây, để kỷ niệm 100 năm ngày sinh của tướng Nguyễn Bình, đả có ít nhất hai cuốn sách viết về cuộc đời của ông để tìm hiểu một số Sự thật và Huyền Thoại liên quan đến ông. Đó là các cuốn: Trung tướng Nguyễn Bình, huyền thoại và sự thật của Nguyên Hùng. Cuốn thứ hai ít được dư luận chú ý tới với nhan đề khá nổ: Tôi giết Nguyễn Bình của Trần Kim Trúc.( một chức sắc Cao Đài).

Tôi đã đọc những tài liệu trên và đều xếp vào loại không dễ xử dụng được .. Bài viết sau đây chủ yếu lấy từ nguồn tình báo của Pháp qua một vài tác giả cho thấy cách nhìn, cách đánh giá tướng Bình khác hẳn các tác giả trong nước.

Chưa kể rất nhiều bài báo đủ loại liên quan đến tướng Bình. Người ta dựng nên cả một bộ phim về ông. Ngưỡi ta tổ chức một phái đoàn sang tận Campuchia đi tìm hài cốt của ông và mang về Sài gòn chôn cất. Người ta dựng tên đường cho ông trên đường phố Sài Gòn. Sau hơn 50 năm chết chôn vùi vô danh, ẩn tích trong rừng, ông được đội mồ sống lại. Sự nghiệp của ông được phục hồi.

Thật là một điều kỳ lạ chết được sống lại.

Sự im lặng trong suốt hơn 50 năm mang một ý ngĩa và sự dựng ông lên sau 50 năm mang một ý nghĩa khác..

Nay thì ông được đứng chung trong hàng ngũ những người bị đảng trù dập, bị đầy ải và bị khai trừ, được phủ những vòng hoa phúng điếu. Đó là những Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Thị Ba- người đàn bà làm giao liên, trạm thông tin giữa Ẩn và Việt Minh.. và cả Phạm Xuân Ẩn.

Bà Nguyễn Thị Ba cho mãi đến năm 2006 mới được phong là người anh hùng!!

Tôi trích lời TT Trí Quang tâm sự với một người đệ tử rất thân cận của ông mà không tiện nói tên- và người này đã tiết lộ cho tôi biết điều ấy- mà tôi nghĩ rằng TT. Trí Quang hẳn là một trong những người hiểu sâu sắc bản chất đểu cáng của cộng sản hơn ai hết mà rất có thể ông là một trong những nạn nhân ấy!!

Ông đã từng lớn tiếng trước 1975 và ông đành im lặng 38 năm nay và chắc là cho đến lúc từ giã cõi đời- Chắc là không bao giờ ông có cơ hội lên tiếng nữa-. Gớm thay chế độ ấy đã có thể bịt mồm bịt miệng một người từng làm rung chuyển nước Mỹ. Điều gì đã khiến ông phải im lặng như thế !!

Trong số những người tôi vừa nêu tên trên, tôi xin đặc biệt nhắc đến trường hợp tranh sáng tranh tối của ông Phạm Xuân Ẩn như một điển hình- vừa là nạn nhân vừa là anh hùng của người cộng sản- một người hoạt động cho cộng sản chỉ vì lòng yêu nước, nhưng có lòng nhân bản.

Giống như nhiều người khác trước khi chết, ông Ẩn đã cẩn thận dặn vợ cho chôn theo ông một cái hộp chứa đựng tất cả thư từ, hình ảnh, tài liệu mang theo như một bí mật đời ông!!

Ông cho chôn theo ông những hình ành, tài liệu là quyền của ông. Nhưng điều đó cho thấy một phần ông không muốn tiết lộ cuộc đời của ông, hoạt động của ông có thể ảnh hưởng tới bạn bè ông- một điều mà ông trân trọng nhất trên đời-.

Người ta được biết ông Ẩn là bạn thân của rất nhiều người lãnh đạo miền Nam như Trần Văn Đôn, Dương Văn Minh, Bùi Diểm, Nguyễn Cao Ký, Cao Giao, Nguyễn Công Khanh và nhiều sĩ quan báo chí trẻ và nhất là bác sĩ Trần Kim Tuyến.(Ông Ẩn đã đưa được Trần Kim Tuyến dời Việt Nam vào phút chót).

Ông cũng là bạn thân của các nhà báo ngoại quốc như Robert Shaplen, Stanley Karnow, Frances FitzGerald, Robert Sam Anson, David Halberstam, Henry Kamm, Neil Sheehan và ông chủ của ông là Frank McCulloch.

Chưa kể những trùm mật vụ như Edward Lansdale, William Colby, Lou Conein…

[1] Larry Berman, Perfect Spy, Pham Xuan An, trang 2 và 3

Nhưng bạn thân phía bên cộng sản của ông là ai? Có được mấy người? Tin tưởng được mấy người trước khi chết? Đây là một câu hỏi và nhận xét lý thú đánh giámột cách đích thực con người và tâm tư của Phạm Xuân Ẩn.

Nếu cộng sản vinh danh ông là người anh hùng. Kệ họ. Phần những người quen biết ông mà có người tôi đã gặp chỉ coi Phạm Xuân Ẩn là một người bạn tốt.

Chỉ biết là lúc nào ông củng bị cộng sản nghi ngờ, theo dõi, kiểm soát. Họ tra vấn tìm hiểu giai đoạn ông du học bên Mỹ và muốn biết xem ông làm những gì, giao thiệp với ai? Họ nghi ngờ ông còn là người của Mỹ? Vì thế họ không cho ông xuất ngoại sang Mỹ, nhà bị canh chừng, theo dõi.

Làm sao không nghi ngờ được khi một trùm tình báo cộng sản tìm hết cách để đưa một tên cựu trùm tình báo ngụy trốn chạy cộng sản thì lý tưởng, ý thức hệ nào có thể chen vào giữa họ được !! Cũng thế, khi Phạm Xuân Ẩn khuyên một thằng bạn trẻ- trung úy TQLC- cậu liệu tìm cách mà đi, ở đây không ở được đâu khi chúng nó vào thì lời khuyên ấy có thể xuất phát từ một người cộng sản xác tín không? Xưng hô cậu với chúng nó thì còn gì để nói nữa!! Cộng sản cũng thừa biết, nhưng đã đến lúc cần nặn ra những anh hùng như PXA, PNT thì vẫn phải làm.

Cuộc chiến tranh này có những điều không dễ hiểu và không hiểu được!!

Trong một buổi tiêp tân, có ông đại tá người Việt hỏi ông: Ông có phải là tướng Ẩn Không ? Ông gật đầu nhận. Một khách Mỹ cao cấp đứng cạnh đó hỏi đùa, nhưng ông là tướng ở bên nào mới được?

Ông Ẩn trả lời:

- Without hesitation, Ẩn answered, ‘Both sides’! The colonel looked uneasy. Just kidding, said An. In telling me this story, An concluded, You see, that is why they can’t let me out; they are still unsure who I am.

Khi ông yếu mệt vì bệnh phổi, họ thăng cho ông lên hàng tướng.

Nội cái việc thăng tướng cho ông là một điều khôi hài chỉ cộng sản mới làm được. Ông ấy có cần cái chức tướng đó đâu. Tôi tin chắc ông PXA hiểu cái trò chơi kệch cỡm ấy, cái vinh danh hão ấy.

Ông ráng đóng nốt cái vở kịch dàn dựng mà cộng sản muốn ông đóng cho trọn vẹn. Tôi nhìn ông trong quân phục tướng rất không giống PXA, ngực đầy huy chương mà tội nghiệp cho ông trong đó có bức ảnh tướng Giáp đón tiếp ông, cạnh đó có đại tá Bùi Tín. Lúc ông chết, đám ma được cử hành với nghí lễ dành cho cấp tướng ở nhà quàng bộ Quốc Phòng.

Chiêc xe hơi Renault của ông, số 51 A.29-80 nay được trưng bày tại Bảo Tàng Viện ở Hà Nội.

Nhưng điều quan trọng hơn hết có lẽ là vài điều ông trối trăng lại cho Larry Berman- người viết tiểu sử ông như sau:

-Nay thì họ hiểu rằng, tôi đã không làm điều gì sai lầm và tôi thì nay đã sắp chết. Tôi đã không phản bội họ.. Họ đã cố gắng thuyết phục tôi thay đổi cách nói của tôi trong vòng một năm và thuyết phục thay đổi cách suy nghĩ của tôi lâu hơn nữa. Họ đã làm được gì. Họ đã không thể loại trừ hay bắn tôi. Họ nói cho tôi biêt họ không thích lối nói chuyện của tôi bởi vì tôi khác người. Cho đến tận bây giờ, họ vẫn không biết là có bao nhiêu tin tức tôi biết được và tôi biết như thế nào.

[2] Larry Berman, Ibid, trang 9

[3]Henry Kissinger, À la maison Blanche, trang 715, 1968-1973

Henry Kissinger,

Câu nói để đời của TT Trí Quang áp dụng như bài học cho nhiều người- cho Phạm Xuân Ẩn và cho cả tướng Nguyễn Bình trong bài viết này.

Tướng Nguyễn Bình ở chiến trường miền Nam

Tướng Bình được đích thân tướng Giáp và Hồ Chí Minh chỉ định đưa vào Nam Bộ công tác. Thời gian là tháng 10-1945 trước khi cuộc chiến bùng nổ.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào năm 2003 đã xác nhận:

Chính tôi theo chỉ thị của Bác đã trực tiếp nói chuyện với tướng Bình ( lúc này là Khu trưởng duyên hải Bắc bộ, nay là khu ba) và chuyển lệnh vào miền Nam công tác. Đồng chí đã phấn khởi nhận nhiệm vụ và lên đường vào miền Nam và đã cống hiến quan trọng trong nhiệm vụ mới.

[4] Sài gòn Giải phóng, 19/3/2013

Có hai tướng khá nổi tiếng thời đó thì một là Nguyễn Sơn được gửi vào khu bốn, tướng Bình vào Nam Bộ và cả hai số phận họ sau nảy đều gặp nỗi bất hạnh. Nỗi bất hạnh ấy do cái logique dialectique của cộng sản. Đối với người cộng sản, dùng được thì dùng không dùng được thì loại trừ. Cái logique ấy chúng ta đều thấy xảy ra biết bao nhiêu cuộc thanh trừng trong nội bộ đảng Việt Nam, đảng bộ Trung Hoa và đảng bộ Liên Xô. Thanh trừng là sức mạnh của tổ chức đảng.

Nguyễn Bình vào Nam muốn làm trời, một mình một cõi. Nguyễn Sơn vào khu 4 muốn biến Quảng Ngãi thành một Diên An bên Tàu thì trước sau cũng phải đi chỗ khác chơi.

Một viên tướng như Nguyễn Sơn mà phải nhục nhã xin trở về Tàu thì phải hiểu đó là một cách loại trừ nhẹ nhất rồi!

Tướng Nguyễn Bình là một viên tướng có cá tính và phong cách dễ nổi bật trong thời chiến tranh với: Rượu, gái và ca hát. Với ba cái đó nơi một ông tướng biên cương mà đàn em một số là thành phần trôi sông lạc chợ vì thế ông có thể được lòng các đàn em. Tướng Bình dùng đàn em, thu phục họ theo nghĩa phe đảng. Trong máu ông không có tính đảng. Trong khi tướng Giáp thấy chữ phe là thừa.

Chưa kể cả ba cái món hợp khẩu vị tướng Bình ở trên xem ra đối nghịch với con người của tướng Giáp vốn khắt khe, nghiêm chỉnh và kỷ luật.

Sự khai trừ có thể bắt đầu từ ban đầu, từ những chuyện nhỏ nhoi ấy.

Nhưng Hồ Chí Minh đủ khôn ngoan và khéo léo hơn tướng Giáp. Ông tuyển chọn một nữ điều dưỡng- xinh đẹp đã đành là bắt buộc- lại lanh lợi và khôn ngoan- để cài vào chăm sóc Nguyễn Bình Người nữ này còn được đào luyện vững chắc chủ thuyết cộng sản để thuyết phục và uốn nắn Bình theo cộng sản. Cái kế mỹ nhân của ông Hồ xem ra thành công. Và để thưởng cho cái công trình uốn nắn ấy, ông Hồ phong cho Bình lên trung tướug năm 1948.

Sài Gòn lúc Nguyễn Bình vào miền Nam thì dân chúng cũng khá đông-vào khoảng 2 triệu dân- với một thành phần dân chúng khá phức tạp. Có ngưới Pháp, người Tàu, Người Nhật. Lại thêm Việt Minh và các thành phần đảng phái, giáo phái tranh chấp nhau.

Sau đây là tình hình Sài gòn trước khi Nguyễn Bình vào nhận nhiệm vụ. Trước tiên, Việt Minh cướp chính quyền trong tay Mặt Trận Quốc Gia Thông Nhất. Vì còn yếu thế nên họ tung rải truyền đơn như sau:

- Việt Minh từng sát cánh bên đồng minh, đánh tây, chống Nhựt.

- Đối với Nga là bạn.

- Đối với Tàu như răng với môi.

- Đói với Mỹ chủ trương thương mại, nên không có mộng xâm lăng

- Đối với Anh, nội các Attlee mới lên nắm chánh quyền và khuynh tả ..

[5]Hồi ký Nguyễn Kỳ Nam, trang 51

Trong truyền đơn này, ta đã thấy để lộ ra cái đuôi cộng sản : Nga là bạn, Tàu như răng với môi..

Xin nhớ đây là thời điểm 1945 nhé, khi chưa có quan hệ chính thức với cả Nga và Tàu.

Khi dùng chữ : Chúng ta ở trên đây là có ý ám chỉ cộng sản đệ tam mà thôi. Họ rải truyền đơn và sửa soạn cướp chính quyền ở miền Bắc cũng như trong Nam.

Thật vậy, ngủ một đêm sáng ngày đồng bào Thủ đô thức dậy lấy làm ngạc nhiên trông thấy khắp nẻo đường treo đầy biểu ngử : Chánh quyền về Việt Minh.

Hỏi Việt Minh là ai, nhiều người không biết. Ai là chính quyền?

Ở Nam Bộ, họ kêu gọi Thanh Niên Tiền Phong gia nhập Mặt trận Việt Minh ..

Trong giai đoạn này, trước khi tướng Bình vào Nam Bộ thì Trần Văn Giàu là cán bộ cộng sản chủ chốt và cao cấp nhất. (Thủ lãnh nhóm đệ tứ cũng không còn nữa sau khi Tạ Thu Thâu bị giết ở Quảng Ngãi).

Trần Văn Giàu tự mình đứng ra tự nhận là người đứng đầu Lâm Ủy Hành Chánh, giải tán Mặt trận Quốc Gia.

Ngày 23 tháng chín, một truyền đơn của cộng sản được tung ra:

Ai còn ở lại Sài gòn là Việt gian, sẽ bị bắt và bị trừng trị.

Sau truyền đơn này, dân chúng phải rời bỏ Sài Gòn. Trên đường về miền Tây, miền Đông, dân chúng kéo đi tản cư chặt cả đường phố.

Sài gòn ! Một thành phố chết.

Tiếng súng nổ từng chặp, khắp đó đây.

[6] Nguyễn Kỳ Nam, Ibid, trang 80

Sau khi có tiếng súng Nam Bộ kháng chiến rồi lúc đó mới xuất hiện tướng Nguyễn Bình.

Thoạt đầu, Nguyễn Bình vào Nam ở miệt Thủ Đầu Một ẩn mình xem xét tình hình, sau đó ông lộ diện, ủng hộ Mặt trận Quốc Gia Liên Hiệp, đảm trách ủy viên quân sự kiêm khu trưởng khu 7.. Nguyễn Bình đã chính thức gửi một lá thư tán thành và ủng hộ Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp trong một số báo bí mật thời đó mà nội dung nay chúng ta ghi lại được như sau:

-Trong lúc nhìn thấy rõ thủ đoạn của thực dân Pháp, lợi dụng sự chia rẽ, bắt tay với bè phái này phái nọ, miễn sao cho họ quên kháng chiến mà chỉ nghĩ đến sự thù hắn không muốn cho thực dân Pháp lợi dụng nên tôi- Nguyễn Bình- đề nghị lập Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp. (Thật ra MTQGLH đã có sẵn trước khi Nguyễn Bình tuyên bố)Xin xem chú thích.

[7] Tại chiến khu Bà Quẹo, một đại hội đã nhóm họp ngày 20 tháng 4 năm 1946 tại bản doanh tướng Huỳnh Văn Trí (Cao Đài), có đại diện các đảng phái chính trị, tôn giáo, các cơ quan quân sự, các tấng lớp dân chúng tuyên bố thành lập Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp V.N để tiếp tục cuộc lãnh đạo kháng chiến. Trích Nguyễn Kỳ Nam, Ibid, trang 82

Danh sách các vị trong Mặt Trận Liên Hiệp gồm nhiều thành phần đảng phái, tôn giáo: Huỳnh Phú Sổ, ( Hòa Hảo), Trần Văn Lắm(VNQDĐ), Lê Văn Tý( Cao Đài), Lâm Văn Hậu, Mai Thọ Trấn, Phạm Đình Công( thay mặt Nguyễn Bình), Tướng Huỳnh Văn Trí ( tức Mười Trí Bình Xuyên), Phạm Huy Đức, Nguyễn Văn Sâm Nguyễn Bảo Toàn ( Quốc dân đảng), Nguyễn Văn Nhân, Linh mục Nguyễ Bá Sảng

Nhưng không hiểu vì lý do gì sau này, chính tướng Nguyễn Bình lại muốn thủ tiêu Mặt Trận- một thủ đoạn mà nhiều người quốc gia cho là đã bị Việt Minh lừa.

Trong một lá thư trao đổi nội bộ đề ngày 26 tháng 8, 1946, thơ số 210 Q.S, Nguyễn Bình viết:

Sau khi Mặt trận Quốc Gia Liên Hiệp ra đời, Ngài cũng có tham gia nữa, Thưa Ngài, tại sao có những thông cáo thủ tiêu MTQGLH ?... Tôi rất khổ tâm, nếu đặt địa vị Ngài vào trách nhiệm của tôi, tôi dám chắc Ngài cũng không thể làm ngoài việc mà tôi đã làm..

[8] Nguyễn Kỳ Nam, Ibid, trang 81

Ngài ở đây chỉ ai? Một cán bộ cộng sản cao cấp ở trên Nguyễn Bình !! Cho đến nay, không ai biết rõ Ngài là ai ? Không một tài liệu cộng sản chính thức của cộng sản đề cập đến vấn đề này ..

Nguyễn Bình phải tuân lệnh cấp trên, nhưng là một việc làm trái lương tâm nên ông tự thú nhận:

Tôi rất khổ tâm.

Sau này, mỗi lần Mặt Trận có họp thì Nguyễn Bình đề cử giáo sư Phạm Thiều đại diện thay ông.

Về quân sự, lúc đó tướng Bình nắm trong tay 20 chi đội trong Khu 7.

Cũng trong thời gian này về mặt quân sự, với 35 ngàn binh sĩ dưới quyền, Leclerc đã bình định xong Nam Bộ. Nguyễn Bình khoanh tay nhìn trong sự bất lực. Một người xuất xứ từ miền Bắc vào Nam đã là khó. Lại còn muốn thu phục mọi quyền lực thu vào trong tay là một điều khó gấp đôi.

Khó chẳng những đối với các nhóm giáo phái đã đành mà khó ngay trong nội bộ đảng? Có chỗ nào cho thấy Trần Văn Giàu, Phạm Ngọc Thuần và Lê Duẩn tuân phục?

Phần Cédille thấy Nam Bộ đã ổn định về mặt quân sự nên về mặt hành chánh lo thiết lập một chánh phủ Nam Kỳ tự trị .

Về điều này, chính VNG cũng phải nhìn nhận trong nỗi bất lực về quân sự trước Pháp. Trong một chuyến tham quan phía Nam về, ông Võ Nguyên Giáp có đến gặp Bảo Đại và ở lại dùng cơm trưa với Bảo Đại đã buồn rầu thố lộ: Chúng ta đành phải chấp nhận sự trở lại của người Pháp .. Chúng ta không còn có cách nào khác .. Ở Nam Bộ, Pháp đã phá hủy toàn bộ tổ chức của chúng ta đã xây dựng với biêt bao nhiêu khó khăn . Nay thỉ họ đã kiểm soát được tất cả .. Rồi chẳng bao lâu nữa , họ sẽ đổ bộ. Làm thế nào để chúng ta có thể chống đỡ lại họ .. Chúng ta chỉ có một số binh đội, nhưng trang bị thì còn thiếu thốn lắm.

[9]Cecil B. Currey, Victory at any cost, trang 116

Nam Bộ hoàn toàn dưới quyền kiểm soát của Pháp. Phần Việt Minh, tướng Bình chỉ có 20 chi đội so với 35 .000 quân Pháp, chưa kể không được tiếp tế và trang bị vũ khí. Tướng Bình làm gì được ngoài việc ám sát và khủng bố?

Cuối năm 1946, tây đánh mạnh vào chiến Khu D, bộ chỉ huy khu 7 của tướng Bình bỏ chạy. Năm 1947 tạm thời bộ chỉ huy của tướng Bình đành rút về đóng ở Đồng Tháp.

Những hoạt động khủng bố, ám sát, thủ tiêu của tướng Nguyễn Bình.

Có thể nói, trong cuộc chiến tranh này, cái yếu của Nguyễn Bình là không thể đương cự trực diện với Tây và đã phải rút về trú ẩn ở Đống Tháp năm 1947. Nhưng cái mạnh của Nguyễn Bình là có thể tiến hành một cuộc chiến tranh khủng bố, ám sát có một không hai trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất.

Thời kỳ huy hoàng nhất của tướng Nguyễn Bình là vào thập niên 1950 mà ngoài Bắc thì đã chuyển hướng thành cuộc chiến tranh dàn trận với sự hậu thuẫn của Trung Quốc.

Trong Nam là chiến tranh khủng bố, ngoài Bắc là chiến tranh dàn trận với nhiều chiến dịch khác nhau.

Và điều này chứng tỏ tướng Nguyễn Bình đã có lúc gây khó dễ cho Pháp không ít. Và cái an bình của thành phố Sài gòn đã có lúc rơi vào sự khủng hoảng kinh hoàng do Việt Minh gây ra.

Dư luận Nam Bộ nói chung lúc bấy giờ- người Việt Nam cũng như người Pháp- rất sợ tướng Bình về những hoạt động khủng bố, thủ tiêu người của tướng Bình ..

Nhà báo Nguyễn Kỳ Nam viết rằng:

Nói đến Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp, tôi phải nói đến Nguyễn Bình mà lúc đó ai nghe đến tên Nguyễn Bình là thấy khiếp sợ rồi. Đồng bào Nam Bộ kháng chiến chống Pháp, không hề nghĩ đến cộng sản. Không cộng sản, không Việt Minh, họ cũng vẫn kháng chiến.

[10] Nguyễn Kỳ Nam, Ibid, trang 80

Thoạt đầu chính phủ Nguyễn Phan Long đã gửi một thư cho tướng Nguyễn Bình với những đề nghị tìm một giải pháp hòa bình ..

Lá thư được đáp lại trên đài Tiếng Nói Nam Bộ của tướng Nguyễn Bình bằng những lời lẽ cương quyết như sau: Tất cả các bộ trưởng, công chức cũng như những bọn đầu cơ chính trị phải trả giá. Thời cơ đã đến và cuộc tấn công vào Sài Gòn sẽ xảy ra trong những ngày sắp tới ..

Lời đe dọa ấy trở thành sự thật vào đầu tháng giêng, 1950, chiến thắng nằm trong tay tướng Bình. Nên nhớ đây là chiến thắng đối với chính phủ Quốc Gia chứ không phải quân đội Pháp.

Ở đây không có cuộc chiến tranh dàn trận giữa những người lính, không có những cuộc nổi dậy của quân đội. Không, bởi vì nếu có một cuộc nổi dậy như vậy thì quân đội Pháp sẽ dễ dàng can thiệp và nhảy vào cuộc..và sẽ đè bẹp ngay ..

Ở đây thuần túy là các cuộc khủng bố, các cuộc ám sát người- Và cứ như thế, chẳng bao lâu Việt Minh sẽ làm chủ Sài gòn .. Lực lượng kháng chiến trong bí mật dần dần xuất hiện và trở thành những người chủ tương lai của Sài Gòn ..

Đấy là tất cả sách lược của tướng Nguyễn Bình theo lệnh của Hồ Chí Minh.

Kết thúc chiến lược ấy là việc ám sát cò Bazin do người của tướng Nguyễn Bình. Vào ngày 28 tháng tư 1950, cò Bazin được chở vào nhà thương trong tình trạng hấp hối. Nhưng cò Bazin là ai?

Theo tài liệu viết về Huỳnh Tấn Phát viết như sau về cò Bazin:

-Sau này tôi mới biết đó là cò Trần Bá Thành, một tên thẩm vấn ác ôn khét tiếng ở bót Catinat. Còn thằng Tây là cò Bazin, chánh mật thám bót Catinat Sài gòn, nổi danh giết Việt Minh thời đó. Lúc này chúng cố lôi kéo mua chuộc trí thức như anh Phát nên cò Bazin ra hiệu cho tôi đến ngồi đối diện với anh.

[11]Huỳnh Tấn Phát, Cuộc đời và sự nghiệp, nhiều tác giả, trang 163

Đó là một cuộc ám sát hoàn hảo của một tay chuyên ngiệp. Y mặc một bộ complet, tay sách cặp, thong thả đến trước cửa nhà cò Bazin- lúc ấy vào khoảng 7 giờ 20 sáng-giờ mà có Bazin sắp sửa bước lên xe ô tô đi làm. Như chớp, tên mặc áo vét dở cặp lấy khẩu súng ra và khi còn cách Bazin nột thước. Y bấm cò, bắn nhiều phát. Bazin quỵ xuống .. Và sau đó kẻ ám sát chui vào một xe hơi (Traction-avant) với đồng lõa biến dạng .. Đám đông nghe tiếng súng nổ chạy toán loạn.

Đó cũng là một trong những cuộc ám sát do người của tướng Nguyễn Bình thi hành. Chính tướng Bình đã ra lệnh cho đội ám sát 905 giết Bazin mà trụ sở lưu động của tướng Bình ở cách Sài gòn 8 cây số.. Tướng Bình là thứ người mà bà Nguyễn Thị Liên Hằng trong Hà Nội’s War gọi là loại du côn phong thái giang hồ.(swashbuckling).

[12] Nguyen thi Lien Hang, Hanoi’s War, trang 26

Nhóm 905 được gọi là những quyết tử quân(Volontaires de la mort). Họ được huấn luyện kỹ càng và được coi là những kẻ giết người chuyên nghiệp.

Trước khi bị ám sát, Cò Bazin không phải là không biết số phận của mình. Ông chiến đấu chống Việt Minh trước hết là để bảo vệ mạng sống của chính ông. Vì hằng ngày, trên làn sóng điện phát thanh của Việt Minh ra rả mỗi ngày câu đe dọa sau đây: Bazin, ngươi sẽ phải đền tội. (Bazin, tu vas mourir) Cò Bazin hiểu rằng ông đứng đầu danh sách những kẻ mà Việt Minh muốn thủ tiêu. Những kẻ muốn ám sát ông hiện đang có mặt ở Sài gòn và ông không còn bao nhiêu thời gian để khai trừ họ và nếu không làm được thì sẽ đến lượt ông!!! Ông hiểu cái cái nghề cảnh Sát chìm của ông-nó là một phần đời sống của ông-. Ông nắm giữ trong tay nhiều hồ sơ của những người cộng sản .

Nhưng hiện nay, cộng sản như ở khắp nơi trong Saigòn. Người của Nguyễn Bình len lỏi vào trong mọi bộ ngành chính thức của chính quyền. Họ có mặt trong mỗi khu vực, trong mỗi phố, mỗi nhà ..

Những người này lấy thông tin rồi tuyên truyền và đi thu tiền bạc ỡ những tay giầu có buôn bán có máu mặt như một thứ thuế máu để đổi lấy sự an toàn của bản thân họ. Trong một thành phố có chiến tranh, những kẻ giầu có luôn là kẻ tài trợ cho nhiều phe phái.

Nay Nguyễn Bình đã mang chiến tranh vào trong chính trung tâm Sài Gòn và coi việc ám sát thủ tiêu sẽ là con đường đưa tới chiến thắng, làm chủ Sài Gòn.

Và theo Lucien Bodard, tướng Nguyễn Bình đang điều khiển một guồng máy giết người kinh khủng nhất giết từng người và giết hàng loạt- một thứ Ministère de la mort-. Guồng máy ấy tướng Nguyễn Bình trao trách nhiệm cho Lê Văn Linh. Trong tay Linh, y có danh sách đen những người mà y sẽ thủ tiêu.

Những người làm việc cho Linh có khoảng vài trăm người được huấn luyện dưới sự huấn luyện của những kẻ đào ngũ gốc Đức. Họ sống rải rác ở Sài Giòn, không giấy tờ, không có súng ống, ăn mặc như bất cứ người nhà quê nào. Nếu bất ngờ có bị mật thám Pháp hỏi thì họ khai bất cứ tên tuổi nào mà không có cách chi tìm ra lý lịch của họ. Họ chỉ có một địa chỉ tìm đến để gặp các đồng chí và khi nhận lệnh thì được cung cấp súng đạn, lựu đạn đã được cất dấu đâu đó.

Thi hành xong công tác, họ mau chóng thoát khỏi Sài Gòn về hậu cứ chờ đợi một công tác khác.

Mỗi chuyến công tác bao gồm 4,5 người và những công tác ấy thường diễn ra giữa ban ngày hay ngay trong nhà nạn nhân với sự thỏa thuận đồng lõa của đầy tớ trong nhà. Công việc đã được tính toán kỹ lưỡng, điều nghiên từng chi tiết của nạn nhân.

Công việc nhiều khi nhanh chóng, giản dị- chỉ chừng vài phút là xong. Và họ ra khỏi Sài Gòn như lúc họ vào Sài Gòn..

Sau cái chết của Cò Bazin. Nguyễn Bình làm chủ Sài Gòn trong hai tháng trời!

[13] Lucien Bodard, sơ tóm La guerre d’Indochine, từ trang 443-451

Ngoài những tay ám sát chuyên nghiệp, Viet Minh còn thuê cả trẻ con trong việc ném lựu đạn ..Trong vụ ném lựu đạn vào nhà hàng Cafe restaurant Paix là do hai thiếu niên 15, 16 tuổi khi bị bắt đã khai ra. Chúng được cho 20 đồng và được chỉ dẫn cách xử dụng một trái lựu đạn rồi đem thi hành với lời dọa: Không thi hành thì sẽ bị giết. Và hầu như mỗi tuần đều có xảy ra chuyện ném lựu đạn do những kẻ không chuyên nghiệp, không phải Việt Minh.. Nhiều quả lựu đạn đã không nổ..

Việc ám sát và khủng bố của tướng Nguyễn Bình thật ra nằm trong chủ trương và đường lối của cộng sản từ Hồ Chí Minh đến Võ Nguyên Giáp. Tướng Bình chỉ làm theo chỉ thị của cấp trên.

Xin trích dẫn tài liệu theo chỉ thị của Hồ Chí Minh mà tác giả cuốn Tôi bỏ đảng ghi lại trong dịp Đại Hội Anh Hùng chiến sĩ thi đua năm 1952 được đón Bác Hồ đến thăm. Bác đã căn dặn như sau :

Mỗi lần chú giết được Tây hoặc Việt gian thì phải viết giắt cài lên áo công bố tội trạng. Nếu muốn cho xác người chìm xuống thì các chú phải mổ bụng và bổ đôi cái bao tử thì cái xác mới chìm xuống được.

Nghe kể chuyện giết người, tôi choáng váng sợ hãi, nhưng rồi cũng phải vỗ tay tán thưởng, ca ngợi thành tích các anh hùng. Những anh hùng này về sau cùngxếp vào một lớp với tôi, có tất cả là 101 sinh viên lớp chế tạo máy . Trong số 101 thì hơn phân nửa lá quân đội biệt phái.

[14] Hoang Hữu Quýnh, Tôi bỏ đảng, 1989, trang 108

Bác dặn dò kỹ càng và độc ác tàn bạo đến thế là cùng !!

Trong tài liệu của Ban Biên tập Truyền thống Tây Nam Bộ, cũng xác nhận có gây khủng bố như sau :

Ở Cần Thơ, có Trung đội Ngô Hồng Giỏi được trang bị đầy đủ . Một số cán bộ trở về lập ra Sát gian đoàn, chuyên làm công tác trừ gian, diệt ác tại thị xã.

Tháng sáu-1946, Sát Gian đoàn dùng lựu đạn đánh vũ trường nằm trên đường Phan Đình Phùng, Cần Thơ làm chết và bị thương một số sĩ quan Pháp. Sau đó hai mật thám ác ôn bị trừng trị, khiến cho bọn tay sai gián điệp chỉ điểm cùng bọn tề gian ác rất hoang mang. Lo sợ.

[15] Ghi lai. Trong Lớn lên với đất nước, Vỵ Thanh, trang 453

[16]Hillaire du Berrier, Background to Betrayal, trang 66-67

Theo tác giả Hillaire du Berrier, ông này cho rằng Bình được huấn luyện tại Moscou và được chỉ dạy những phương pháp giết người. Hillaire du Berrier còn quả quyết một điều đi ngược với tài liệu phía Việt Minh:

-A point to bear in mind as one stuties everything this iron-willed murderer did thereafter is that in Binh we find the perfect example of the tool of the Russians, able to say in all honesty that he was never a Communist. For Nguyen Binh to the end, never belonged to the party. It was always as a nationalist that shining, overworked word, that he worked.

[17] Hilaire du Berrier, Background to Betrayal, trang 65

Sự phủ nhận một cách xác quyết tướng Bình không phải là người cộng sản của tác giả Berrier đặt những người đang ra sức thổi phồng tướng Nguyễn Bình rơi vào một trường hợp khó xử.

Sự xác quyết này không phải là không có căn cứ. Tướng Bình thường hành xử một cách tự quyền-nặng óc đàn anh-đàn em, dùng người theo kiểu giang hồ, bất kể thành tích tốt xấu, pha thêm chút máu giang hồ, lưu manh cũng có làm sao chịu gò vào khuôn mẫu kỷ luật của đảng? Võ Nguyên Giáp hẳn nhiên nhận được các bá cáo bất lợi ấy về tướng Bình.

Cho nên, dù có cho vào đảng thì củng chỉ là một phương thức để kiềm chế Nguyễn Bình. Vì thế, theo tác giả Nguyên Hùng, tướng Nguyễn Bình, sự thật và huyền thoại xác nhận rằng :Vũ Huy Xứng là người đã làm lễ kết nạp tướng Nguyễn Bình vào đảng vào tháng 2-1947. Và đến 25-1-1948 được phong trung tướng cùng với 8 người khác

H. Berrier còn cho rằng vào năm 1944, những ngày đầu tiên khi còn hoạt động bên cạnh Hồ Chí Minh tại Hà Nội. Tướng Bình đã cùng với Võ Nguyên Giáp ám sát, khủng bố những thành phần quốc gia chống Pháp mà trước đây Bình từng là đồng chí với họ thời năm 1930. Bình và tướng Giáp đả mở những cuộc thanh trừng và sát hại rất nhiều thành phần được coi là Việt Gian. Khi giết những đồng chí Quốc Dân Đảng, phải chăng Nguyễn Bình muốn trả cái thù bị đâm chột mắt khi còn bị giam ở Côn Đảo? Rõ ràng cái gợi hứng ám sát và thủ tiêu những thành phần thù địch, Nguyễn Bình bước đẩu cùng đi một con đường với tướng Giáp.

[18] Tóm lược Hillaire du Berrier, Background to Betrayal, trang 66-67

Nếu đúng như lời trích dẫn của Bernier thì phải coi tướng Giáp là một loại sát thủ có hạng và được coi là người trực tiếp chỉ huy tướng Nguyễn Bình!!!Nguyễn Bình sau khi nghe tướng Giáp lý luận, ông đã thuận theo và từ nay, ông sẽ làm theo lệnh của tướng Giáp.

Anh hãy nghe đây, tướng Giáp nói với Bình: Anh là một người quốc gia thông minh. Anh phải đứng chung trong hàng ngũ của chúng tôi nếu không chúng tôi sẽ thủ tiêu những người bạn trẻ của anh. Chúng tôi phải làm như vậy bởi vì họ sau này có thể là những kẻ phản bội . Anh đã biết nếu những người này trở thành những người anh hùng? Bây giờ thì có thể họ chưa là gì, nhưng sau này thì họ sẽ đi vào lịch sử. Bởi vì họ đã làm được một số công trạng trong những năm vừa qua, họ ham muốn quyền lực. Nhưng họ lại không xứng đáng được. Và để đạt được quyền lực đó, họ chỉ có một con đường mà họ có thể làm được. Là họ sẽ cộng tác bắt tay với bọn Quốc Dân Đảng hoặc với Pháp. Họ phải bỏ đi thôi.

[19] Hillaire du Berrier, Background to Betrayal, trang 66-67

Cho nên, nhìn toàn diện các hoạt động khủng bố, ám sát ở những ngày đầu cuộc kháng chiến, ta phải coi tướng Giáp là người chủ trương như nhận xét của Robert J O’ Neill:

- Tướng Võ Nguyên Giáp chịu tất cả mọi trách nhiệm trong khi Hồ Chí Minh vắng mặt về việc sát hại hằng trăm các nhà chính trị dám chống lại Việt Minh, phá hại tất cả các tổ chức nào xem ra có thể cạnh tranh với Việt Minh cũng như cấm đoán mọi tờ báo nào xuất bản mà không có sự kiểm soát của Việt Minh. Ông cũng đã thiết lập được một quân đội từ 30.000 lên 60.000 cũng như một đơn vị tự vệ từ các thường dân…

[20] Robert J O’ Neill, General Giap: Politician & Strategist, trang 44

Tại sao những cán bộ Việt Minh thời 1945 cho đến nay 2013 vẫn không đả động gì đến những vụ khủng bố, ám sát tàn bạo dành cho những thành phần đảng phái và không đảng phái, thành phần tôn giáo do sự chỉ đạo của tướng Võ Nguyên Giáp?

Ông Nghiêm Kế Tổ đã ghi lại một cách chi tiết như sau:

-Số nạn nhân Việt gian lên đến hàng ngàn, hàng vạn. Giam cầm, đầy ải hoặc thủ tiêu? Chẳng ai biết, chẳng ai hay. Được thể dân quân du kích, Công an hay Ủy ban kháng chiến cứ việc bắt bớ thẳng tay, không thương tiếc. Tâm lý bắt Việt gian và tâm lý sợ Việt gian trong vùng Việt Minh kéo dài từ 1946 mãi đến năm 1948 mới tạm dịu sau khi xảy ra một vụ bắt Việt gian kinh thiên động địa tại Việt Bắc.

Vụ Tổng kiểm soát, hay nói bằng một danh từ mới và thích hơp hơn: vụ ráp vĩ đại cả Bắc Việt lẫn Liên khu IV( nửa nước VN) đã làm cho hàng ngàn dân chúng chết oan uổng và hờn giận. Không phải riêng dân chúng bị bắt, bị tra tấn, bị thủ tiêu, ngay đến cả trong quân đội, trong đoàn thể, trong hàng ngũ cộng sản, số sĩ quan, nhân viên và đảng viên chịu cực hình cũng nhiều không kém. !!

[21] Nghiêm Kế Tổ, Việt Nam Máu lửa, trang 130-131.

Cho đến khi đang viết những dòng nảy, tôi vẫn không hiểu được những lệnh thủ tiêu, giết người Quốc Gia là theo lệnh của tướng Võ Nguyên Giáp- bằng cớ rõ ràng là như thề-. Nhưng dư luận phương Tây cũng như Việt Nam, hình ảnh của tướng Giáp vẫn được coi là một người anh hùng, một tướng lãnh với tài cầm quân, mặc dầu ông đã nướng không biết bao nhiêu sinh linh các chiến sĩ chết dưới quyền của ông- một đổi lấy bốn hay năm mạng người lính-.

Thật không hiểu được!

Trong khi tướng Bình ở Nam Bộ cũng ám sát, cũng thủ tiêu thì nhận rất nhiều tai tiếng!!

Tướng Bình được giao trách nhiệm vào Nam bộ, ông có nhiệm vụ là hợp nhất nhiều thành phần hỗ tạp lẫn lộn trong nhóm Bình Xuyên và thống nhất các lực lượng Cao Đài, Hòa Hảo trong việc chống lại người Pháp.

Sau cái chết của cò Bazin, Saigon nằm trong tay Nguyễn Bình. Và các cuộc khủng bố ấy tiếp tục kéo dài..Phố xá vắng hoe, kiều dân Pháp không dám ra ngoài đường. Rồi lần lượt nhiều Pháp kiều đã gục ngã sau Bazin như các vụ ám sát các kỹ nghệ gia chủ hãng thuốc lá- chủ đồn điền cao su- viên chức và nhà buôn.

Họ bị giết trong nhà, chết ở ngoài đường, thây bị vứt ở một góc phố nào đó có tấm bảng treo ở cổ. Đó là sự khủng bố trắng gây kinh hoàng cho mọi người .

[22] Lucien Bodard, La guerre d’Indochine, tóm sơ lược từ các trang 446-464

Người Pháp hầu như bất lực trước những cuộc ám sát của Nguyễn Bình.

Theo một hai người bạn lớn tuổi nhớ lại ký ức về giai đoạn đó kể lại rằng : Chỉ cần thủ một quả lựu đạn vào một rạp cine chỗ đông người, thảy trái lựu đạn rồi biến mất để lại một khung cảnh kinh hoàng người chết, người bị thương.

Berrier mô tả thêm :

-Binh murderd more people, with more brutality, than any Oriental since Genghis Khan, and did it as America’sprotege as well a Ho Chi Minh’s and the Russia’s..(..)No man has a right to be neutral . If he neutral, kill him..

[23] Hillaire de Berrier, Ibid, trang 67

Hàng ngày đài tiếng nói Nam Bộ rao truyền sự hận thù và sự kinh hoàng bằng cách đọc tên những thành phần sẽ bị thù tiêu trên một danh sách có sẵn.

Nhưng mọi chuyện đã mau chóng thay đổi, đem lại một không khí an bình giả tạo cho bộ mặt Sài Gòn.

Phải đợi đến khi thủ tướng Trần Văn Hữu họp báo và tuyên bố giao ngành an ninh cho một viên cựu đốc Phủ Sứ, tên Tâm- người được coi là hùm xám Cai Lậy.

Từ đây mọi chuyện bắt đầu đổi khác. Việc đầu tiên, Tâm làm sạch nội bộ ngành công an tìm ra một viên thứ ký là người của Việt Minh gài vào .. Mọi tin tức dù mật đến đâu đều lộ ra ngoài đều do người thư ký này bá cáo cho tướng Nguyễn Bình.

Tâm khai thác, hỏi cung và khi khai thác xong, tìm ra đường giây đầu mối qua viên thư ký này xong. Tâm thẳng tay mang ra xử bắn ngay trong ngày và sau đó bất cứ một nghi ngờ nhỏ nào mà trùm Cai Lậy biết được thì cũng là nguyên cớ để lôi ra tra khảo bằng đủ loại cực hình.

Phải nói sự tra tấn hoàn toàn bất nhân và bằng những hình cụ độc ác nhất!!

Tâm làm việc có kế hoạch, thu được nhiều tin tức, sẵn sàng chi tiền lấy tin tức. Tâm bỏ ra 60.000 để lấy tin tức từ một người chỉ điểm chỗ ỡ ở của Lê Văn Linh. Tâm bắt giam người đó và cho biết nếu chỉ đúng thì có 60.000 ngàn, nếu chỉ sai thì chỉ có chết. Tâm sau đó đã mở cuộc vây bắt Linh. Y còn đang ngủ. Lục soát đằng sau một tủ sách mà đằng sau dấu những khẩu súng liên thanh, súng lục từng dùng để đi ám sát. Ở một phòng khác đầu đủ hồ sơ những ngưởi sẽ bị thủ tiêu với ngày giờ thi hành.

Và một hồ sơ lớn đầy đủ về chính ông Tâm. bắt trọn ổ 4 người của tướng Bình mà người đứng đầu là Lê Van Linh.

Lê Văn Linh được coi như cánh tay mặt của tướng Nguyễn Binh ở tại một biệt thự đường Frères-Louis. Linh bị bắt không kịp chống cự. Khám phá nhà Linh còn bắt được một Hoa Kiều bị Linh bắt giam, đòi tiền chuộc mạng với giá một triệu đồng. Ông Tầu trả công thưởng 100.000 đồng cho Tâm. Tâm lấy số tiền đó trả 60.000 cho người chỉ điểm ..

Từ những người vừa bị bắt, Mai Hữu Xuân- một thứ sản phẩm của trùm mật thám Bazin từ trong huyết quản-ông trùm của mật thám- và sau này cũng là người được lệnh thanh toán anh em ông Ngô Dình Diệm năm 1963.

Và ngay ngày hôm sau Mai Hữu Xuân bắt trọn ổ 40 người khác của Nguyễn Bình.

19 ngày sau, một tên trùm Việt Minh chuyên ám sát bị tóm ở một biệt thự khác, đường Luro tên Van San ..

Việc bắt trọn ổ này là công khai thác, mua bán tin tức mà người Pháp gọi là: La vente des tuyaux,

Kết quả mẻ lưới của Tâm-Xuân bắt được cả thẩy khoảng 100 người của tướng Bình. Kể như hệ thống khủng bố và ám sát của tướng Bình bị xóa sổ.

Cũng theo nhận xét của Philip B. Davidson nhận xét về ông Tâm như sau: Cái ngưởi có thể đánh bại Bình là một người vóc dáng nhỏ thó, già, một thứ cảnh sát đã hết thời mà trước đây có tiếng là sát thủ và hùm Cai Lậy. Chỉ trong vài tuần lễ, Tâm phá sạch mạng lưới tình báo của Bình bằng cách tra tấn những tình báo viên bị bắt, Tâm bắt giam hoặc thủ tiêu những phe đảng của nguyễn Bình. Cho đến giữa năm 1950, Tâm đã có thể quét sạch bóng dáng của Bình ra khỏi Sải Gòn.

[24] Philip B. Davidson, Ibid, trang 82

Tâm không đưa những kẻ khủng bố ra tòa án VN vì các ông tòa Annam sợ không dám xử, sợ bị Việt Minh trả thù. Tâm đưa thẳng các bị can cho tòa án Tây xử. Các tòa án Tây xử theo luật có từ thời Nhật đặt ra rất khắt khe- bị can chỉ có thể rơi vào hai trường hợp: Hoặc số 76 hoặc số 83.

Giữa hai số đó có sự khác biệt lớn lắm. Chẳng may rơi vào số 76 là nhận án tử hình và 83 là tù chung thân.

Việt Minh qua tướng Bình đã thất bại trong cuộc chiến tranh khủng bố và phá hoại ở Sài Gòn, không phải với người Pháp mà với cặp Tâm-Xuân.

Tại sao Tâm làm được việc xóa sổ người của tướng Bình? Và đã có thể phá tan hệ thống khủng bố ấy trong thời gian vài tháng? Trong khi các tổ chức đảng phái Quốc Gia như Quốc Dân Đảng, Đại Việt đã bó tay trước các cuộc tàn sát và khủng bố của tướng Giáp ở ngoài Bắc?

Chính thức, tôi dựa vào tài liệu của Lucien Bodard vì tác giả có được các bút ký của tướng Nguyễn Bình viết mỗi ngày khi bị VNG gọi ra Bắc .. Đây là tài liệu khả tín do Phòng Nhì Pháp có được sau khi khám xét thi thể tướng Bình lúc bị thảm sát ở Campuchia.

Những bút ký ghi lại ấy chẳng khác những di chúc để lại cho vợ ông và cho biết những âm mưu muốn triệt hạ ông.

Phần tài liệu về phía Việt Nam có rất nhiều. Nhưng không dùng được vì chỉ là sách vở tuyền, che dấu sự thật, cắt xét phần bút ký của tướng Bình trên đường ra Bắc:

Cho đến nay, câu hỏi đặt ra ai giết tướng Bình vẫn là một câu hỏi .. Nhà báo Bùi Tín trong một dịp trả lời phỏng vấn cũng đặt câu hỏi ai giết tướng Nguyễn Bình, trung tướng tư lệnh Nam bộ?

Bảy Viễn và Bình Xuyên đối đầu với tướng Nguyễn Bình

Bảy Viễn là một nhân vật huyền thoại mà cuộc đời của ông ta còn vượt hơn cả những nhân vật truyện trong các phim ở Holywood.

Ông ta là kết tinh của tinh thần yêu nước và tướng cướp, kết tinh giữa cái hào hiệp và sự thanh toán dã man. Trong Bảy Viễn có cả cái tốt lẫn cái xấu, chất giang hồ hảo hán và cả lòng yêu nước. Ông chống Pháp, nhưng trấn lột những nhà giàu, bắt những kẻ giàu có đóng thuế để nuôi đám đàn em. Ông phạm nhiều tội ác như giết người, nhiều thủ đoạn trái pháp luật.

Vì thế, con người huyền thoại ấy tiêu biểu cho giới giang hồ miền đất Nam Bộ. Một thứ anh chị nổi lên từ criminal background trong thời chiến.

Không lạ gì, một sinh viên người Pháp, anh Pierre Debezies đã làm hẳn một luận án tiến sĩ Luật và đã đưa ra một nhận xét khá chính xác như sau về con người Bảy Viễn:

Bảy Viễn chắc chắn là một khuôn mặt kỳ lạ nhất ở miền Nam Việt Nam. Làm thế nào mà một tên cướp xa lộ bị săn đuổi bởi nhà cầm quyền qua những vùng lầy ở Soài Rạp mười năm trước đây nay có thể có một địa vị như anh ta có được ngày hôm nay.

[25] Hillaire du Berrier, Ibid, trang 55

Bảy Viễn vốn chỉ là dân giang hồ, ăn cướp và từng bị án 12 năm tù ở Côn đảo. Nhưng mới thụ án được 4 năm thì Bảy Viễn đã tố chức đóng bè và trôi dật về bờ biển Phan Thiết. Sau đó lại bị tù ra Côn Đảo trong một vụ cướp. Án tù là 12 năm cộng với 8 năm chưa thi hành, nhưng ông lại vượt ngục với Mười Trí.

Thành tích duy nhất là những lần vượt ngục Côn Đảo.

Khi trở Bảy Viễn vượu ngục từ Côn Đảo về Sài gòn thì tình hình rất lộn xộn. Nhật cướp chính quyền, rồi đầu hàng. Bảy Viễn gặp lại Ba Dương, Maurice Thiên và cùng với Mười Trí lập bộ đội..tự nhận là Ủy viên quân sự.

Ngày xưa là dân giang hồ nay nghiễm nhiên là chiến sĩ, là ủy viên quân sự dưới quyền có khoảng 100 người.

Sau khi Ba Dương bị sát hại trong một cuộc càn của Pháp thì cuối cùng Bảy Viễn được Nguyễn Bình đề cử khu phó và Bảy Viễn đóng trụ ở Rừng Sác..

Theo tài liệu của Huỳnh Tấn Phát cho thấy Việt Minh có mở lớp huấn luyện cán bộ cho Bình Xuyên tại Rừng Sác- Rừng Sác là căn cứ địa và chiến khu của Bảy Viễn- :

Anh Pham Ngọc Thạch cùng tôi vào Vũng Tàu và anh giao cho tôi mở lớp huấn luyện cho tân binh ở Bà Rịa, còn anh đến Phước An, Rừng Sát tìm hiểu tình hình Bình Xuyên và công tác tại đây một thời gian. Sau đó anh bảo tôi về Bình Xuyên mở lớp huấn luyện cho bộ đội của anh Ba Dương Văn Dương, Tám Mạnh và Dương Văn Hà, những cán bộ vững vàng và trung kiên.

[26]Huỳnh Tấn Phát, Ibid, trang 146

Mặc dầu Bảy Viễn nhận được nhiều hứa hẹn từ phía Nguyễn Bình như cho làm Trưởng Khu 7( hiện là khu phó), nhưng Bảy Viễn do dự yên lặng vì ông ta thích cái tự do, không chịu nằm dưới chướng của ai và làm chủ những vùng lầy bãi sậy- một thứ trùm băng đảng thu thuế cho băng đảng của mình-. Bảy Viễn có giang sơn của mình. Giang sơn nào anh hùng nấy, đúng tinh thần dân Nam Bộ; anh hùng hảo hớn..

Ngoài ra quyền lợi thu thuế khu vực Sài Gòn Chợ lớn cũng không phải nhỏ mà hai bên thường dẫm chân lên nhau. Nguyễn Bình cũng muốn nắm trọn quyền thu thuế, Bảy Viễn cũng có cơ sở, có đàn em và không muốn mất phần.

Dưới tay Bảy Viển có nhiều cố vấn có học như bọn Lâm Ngọc Đường và Maurice Thiên. Lại thêm có nhà trí thức Trần Văn Ân làm cố vấn chính trị. Bọn này không đời nào để Bảy Viễn mắc vào cái bẫy của Việt Minh dăng ra qua tướng Bình .. Bọn Tài, Sang- tay sai của phỏng nhì Pháp, một loại cố vấn cũng nhất định tìm cách ngăn cản Bảy Viễn xuống Đồng Tháp nhận chức khu trưởng khu 7.

Đã hơn ba năm rồi, tình trạng giữa Bảy Viễn và tướng Bình vẫn nhì nhằng và cũng xảy ra nhiều đụng chạm giữa đôi bên. Có nhiều dấu hiệu cho thấy Bảy Viễn ngả theo Tây như các giáo phái.. Bảy Viễn khai trừ cán bộ miền Bắc trong khi đó thì hai lần tướng Nguyễn Bình mưu toan ám sát Bảy Viễn bất thành ..

Nhưng Bảy Viễn do cái máu lang bạt, do tự ái anh hùng hảo hớn cứ nhất quyết đi dự phiên họp do Tướng Bình mời. Bảy Viễn cẩn thận mang theo hai đại đội đi theo. Buổi họp ấy có đầy đủ chức sắc lãnh đạo của Việt Minh như Phạm Ngoc Thuần, Lê Duẩn. Thuần đã ép Bảy Viễn giải tán Bình Xuyên. Việc yêu cầu giải tán Bình Xuyên là một yêu cầu mà Bảy Viễn không thể chấp nhận được.

Trước khi ra về Bảy Viễn dứt khoát : Không đời nào!!

Tướng Bình nhân dịp này muốn bắt Bảy Viễn, nhưng đã bị Lê Duẩn cản nên Bảy Viễn được thong thả ra về.

Trong khi đó thì hai ông Thiên và Đường- phụ tá của Bảy Viển- đã tiếp xúc với tướng De la Tour là nếu một khi Bảy Viên kéo quân về thành. De la Tour sẽ ra đón Bảy Viễn ngay cửa ngõ vào Saigòn với tất cả nghi lễ dành cho một tướng lãnh Bình Xuyên về với chính nghĩa Quốc Gia!!

Từ chối hợp tác với Nguyễn Bình, Bảy Viễn còn có con đường nào khác?

Nguyễn Bình đương nhiên nghi ngờ Bảy Viễn và tìm cách cho người xâm nhập vào tổ chức và phá tổ chức của Bảy Viễn. Khi biết Bảy Viễn có liên lạc với Pháp thì Nguyễn Bình muốn trừ khử Bảy Viễn.

Và theo tài liệu của Hillaire du Berrier, đã có lần lấy cớ ngày sinh nhật Hồ Chí Minh, Nguyễn Bình tỏ ý muốn gặp Bảy Viễn tại bộ Tham Mưu của mình.

Bảy Viễn nhận lời và mang theo 200 cận vệ dữ dằn nhất của mình để nếu cần cứu nguy và giết Nguyễn Bình khi có dấu ra lệnh.

Khi vào bên trong lều, Nguyễn Bình nói với Bảy Viễn: ông phản bội chúng tôi, nhưng tôi sẵn lòng tha thứ cho ông và đặt tay lên vai Bảy Viễn và ôm ông ta. Đúng lúc ấy thị bọn đao phủ đột nhập vào lều chỉ huy định ám hại Bảy Viễn. Bọn cận vệ của Bảy Viễn can thiệp kịp thời và bảo vệ cho Bảy Viễn rút lui .

Sau việc này, Bảy Viễn sai Lai Hữu Tài như một thư ký riêng đến gặp người Pháp và yêu cầu được cung câp súng đạn để dẹp Việt Minh ra khỏi khu vực.

Ngay cả khi chưa nhận được sự ưng thuận của Pháp, Bảy Viễn cho đàn em thanh toán người của Nguyễn Bình tại các khu chiếm đóng của Việt Minh một cách khủng khiếp. Xác người chết trôi sông không được trình báo.

Bảy Viễn được Savani cho người tiếp xúc và lien6b lạc kín đáo và họ đã có một thỏa thuận vào ngày 16-8-1948.

Đến năm 1951 thì lại có thỏa thuận với Bảo Đại và được độc quyền khai thác trỏng lãnh vực: Cờ bạc, buôn thuốc phiện lậu và gái điếm. Nổi tiếng với sòng bạc Đại thế giới.

Và chẳng bao lâu sau, uy tín của Bình Xuyên lên cao, Bảy Viễn trở thành một thứ Robin Hood Việt Nam.

Kể từ khi Bảy Viễn nắm quyền, xe đò chạy đường Sàigon- Vũng Tàu thong thả, không bị quân của tướng Bình chặn bắt và đóng thuế. Sài gòn nói chung dưới sự quản lý của Bình Xuyên, Pháp kiều cũng như dân chúng có thể đi chơi đêm mà không sợ bị giết .. Không còn những xác người vứt bên vệ đường với án tử hình treo nơi cổ như một đe dọa những kẻ khác.

Dân chúng được sống an bình trong vài năm cho đến khi Thủ tướng Ngô Đình Diệm về nước..

Trước những thất bại của các tổ ám sát, tướng Bình đã liều lĩnh tổ chức các cuộc tấn công các đơn vị quân đội Pháp tại các tỉnh, nhưng đã không thành công và tướng Bình cũng đã đụng phái một viên sĩ quan Pháp- một sĩ quan đã gặt hái được nhiều thành công vì tài chỉ huy, vì kinh nghiệm chiến trường và biết lấy lòng dân quê. Đó là tướng Chanson.

Binh lính Pháp đi đến đâu là làm công tác xã hội đến đấy để lấy lòng dân!!

Nguyên nhân thất thất bại của tướng Nguyễn Bình ở miền Nam

Tôi đã có dịp viết một bài với nhan đề: Kháng chiến Nam Bộ đi trước mà về sau.

Sơn Nam cũng phản ánh một nhận xét tương tự:

Phải phản ảnh tình hình Nam Bộ, kháng Pháp đi trước miền Bắc và Nam Bộ quá xa xôi, khó được cơ may gặp cụ Hồ như ở ngoài Bắc. Cần chứa đựng nỗi ray rứt độc đáo của Nam Bộ .

[27] Hồi Ký Sơn Nam, Từ U Minh đến Cần Thơ

Kháng chiến khởi đầu ở Nam Bộ, đi một bước trước, vậy mà sau này- bởi vì thiếu những điều kiện khách quan đã là cớ sự cho sự thua trận trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất.

Đây cũng là một thực tế chiến tranh mà không mấy sách vở tài liệu chiến tranh nào của miền Bắc đề cập đến điều này .. Riêng tướng Giáp qua những sách mà đại tướng đã viết ..Người đọc có cảm tưởng chiến tranh Dông Dương chỉ xảy ra luẩn quẩn tại miền Bắc và bên Lào.

Một nửa phần đất phía Trung và Nam Bộ hầu như không có chiến tranh?

* Yếu tố địa lý

Miền Nam là một miền đất mới- khác hẳn miền Bắc về địa lý, dân số, xã hội và tôn giáo ..Nói chung đó là một xã hội mở theo nghĩa khả năng thích ứng và hội nhập rất là mạnh. Nó cũng là miền đất được thiên nhiên ưu đãi, đất rộng bao la mà người thưa. Thời Minh Mạng, người ta phải đo ruộng đất bằng Dây thay vì thước tấc.

Một dây có diện tích co dãn từ 5 đến 10 mẫu ta, qua câu ca dao:

Đất năm dây cò bay thẳng cánh

Anh dám hỏi nàng quê quán ở đâu

[28] Sơn Nam, Đất Gia định xưa, trang 64

Miền đất Nam Bộ- miền đất mới- địa giới phân chia làng xóm lại lỏng lẻo, nhà nọ cách nhà kia xa- Mỗi đơn vị nhà cửa mang tính tự lập và không nằm trong khuôn khổ tập tục, xã hội làng xã. Dân làng phần lớn hỗn tạp, dân du nhập đủ thành phần, chẳng theo phép tắc nào cả, nếp sông trôi sông lạc chợ, ở rồi đi, đất rộng người thưa rất khó gom dân lại đễ tổ chức làng xã theo tập tục, nề nếp. Thời Đệ Nhất Cộng Hòa cũng gặp trở ngại gom dân trong các ấp chiến lược và không mấy thành công.

Sơn Nam trong sách của ông viết:

- Dân U Minh thưa thớt, thiếu tổ chức, Cách Mạng xuống đó làm gì cho mệt, muốn vậy, phải xuất phát từ tỉnh lỵ Rạch Giá này mới có hiệu quả. . Nghĩ vậy, tôi tự hào một mình rằng đã có trình độ, đúng hay sai chưa biết.

Có gì động tĩnh, chỉ lên chiếc xuồng Ba Lá, chốc lát vèo một cái là đã mất hút vào không gian vô tận .

[29] Hồi ký Sơn Nam Ibid, trang 158

Vậy thì quân ở đâu mà rải ra khắp nơi khắp chốn? Vì thế, nếu Việt Minh sống ở các vùng Cần Thơ, Vĩnh Long, Rạch Giá thì có cái ăn, nhưng không có chỗ ẩn náu an toàn. Bị Tây càn là vô phuong trốn chạy. Cho nên, muốn an toàn phải đi xuôi nữa đi sâu nữa vào vùng U Minh .. Đó cũng là căn cứ địa của Khu 9.

Miền Nam chỉ có cái lợi thế địa lý khi đi sâu vào miệt phía Đông Nam Sài Gòn hay miệt Cà Mâu vì ở đấy có những loại cây tràm mọc dưới nước mà không dễ gì len lỏi vào được .. Và phải dùng thuyền nhỏ. Vì thế nó cũng trở thành nơi trú ẩn an cho các lực lượng kháng chiến miền Nam trong nhiều thập niên.

[30] Philip B. Davidson, Ibid , trang 39

Trong khi đó, làng xã miền Bắc là những đơn vị kinh tế, xã hội, tôn giáo, lịch sử, phong tục- một xã hội khép kín- bao bọc bởi lũy tre, làng nọ sát làng kia, nhà nhà san sát nhau chia ra rừng xóm như xóm trong, xóm ngoài, xóm trên, xóm dưới ..

Chính ở chỗ đó dễ kiểm soát dân làng.. Khi Việt Minh về, chỉ cần mấy du kích vào làng bắt đi ông lý trưởng và vài chức sắc là nắm tóc được cả làng. Dân làng sợ hãi riu ríu nghe theo, chó không dám xủa, trẻ con không dám khóc. Kinh nghiệm cá nhân của tôi là khi Việt Minh nổi dậy, họ vào bắt ông Lý Chân-lý trưởng của làng tôi- chẳng biết ông có tội tình gì- và dẫn đi biệt tích .. Bố tôi, chỉ là một ông Trùm, chức phận nhỏ bé, không làm một điều xằng bậy gì, chỉ lo phận sự hàng xứ, lễ lạc cho họ đạo. Ông cũng bị đi tù giam ở trại Lý Bá Sơ. Chỉ có cái may là sau một năm tù, ông sống sót trở về. Nhưng nào đã hết, anh tôi du học ở ngoại quốc về- ở địa phận Hà Nội- tội tình gì bị xử án giam tù cộng chung tất cả hơn 20 năm, lên tận Cổng Trời, nằm Hỏa Lò..

Vào miền Nam đến lượt các anh rể tôi, các cháu đi cải tạo. Tính chung gia đình chúng tôi cống hiến cho cách mạng trên 100 năm tù!!

Tôi vẫn tự hỏi, chúng tôi tội tình gì. Dân chúng tôi tội gì mà bị những tên đao phủ hành hạ đến như thế !!

Địa lý miền Bắc với núi cao hiểm trở, rừng khắp nơi là chỗ trú ẩn an toàn cho kháng chiến .. Các trận chiến thắng có tính cách quyết định cho tướng Giáp đều xảy ở các nơi núi cao hiểm trở, như chiến thắng trong chiến dịch biên giới, chiến thắng Điện Biên Phú.

80% lãnh thổ miền Bắc là rừng, núi thay đổi từ rừng thưa đến dầy đặc. Những cánh rừng bao phủ, che đậy những hoạt động của Việt Minh ở bên dưới. Nó cũng che dấu các kho vũ khí, đạn dược.

Nó cũng là những nơi ẩn lánh lý tưởng cho bộ độ với nhiều lùm cây, bụi rậm..

Vì thế, Pháp khó có thể tiến hành những cuộc tấn công hoặc lục soát mà không bị tổn thất nặng nề vì bị phục kích …

[31] Philip B. Davidson, Viet Nam at war, The History 1946-1975

Và người ta cũng nhận thấy rằng các cuộc tấn công của Việt Minh phần lớn đều phải dựa theo mùa. Đó là thời gian lý tưởng cho các cuộc hành quân ở miền Bắc từ giữa tháng 10 đến giữa tháng năm..

Thống kê cho thấy 19 cuộc tấn công vào quân đội Pháp do tướng Giáp điều động đều xảy ra trong thời gian này trên tổng số 26 cuộc tấn công.

Điện Biên Phủ đã diễn ra cũng trong thời điểm này .. Tết Mậu Thân sau này cũng vậy.

· Yếu tố cá tính dân miền Nam

Tôi hồi tưởng lại hai biến cố cải cách ruộng đất và Nhân Văn Giai phẩm ở miền Bắc vào đầu thập niên 1950. Tôi tự hỏi làm cách nào người cộng sản đã có thể chà đạp con người, khinh rẻ nhân phẩm con người từ người nhà quê đến một người có học vấn đến như thế ? Làm thế nào mà người cộng sản có thể bắt người bố gọi con dâu bằng bà và xưng con, còn cô con dâu xưng bà với bố chồng? Tôi không nói đến những thiệt hại vật chất đã đến với những người địa chủ lớn nhỏ vô tội, nhưng tôi thấy họ đã biến những người nông dân hiền lành trở thành một bọn côn đồ, bọn cướp ngày. Còn những nạn nhân như các địa chủ, các nhà văn lớn nhỏ thì sợ hãi nhút nhát như con giun, con dế, van xin, lạy lục để được tha, để được yên thân.

Bây giờ thì người cộng sản tự họ lãnh cái hậu quả của những tên công an đang hành hạ người dân cả nước..Những nhà thơ, nhà văn trong nhóm Nhân Văn Giai phẩm- mặc dầu không thể không kính nể họ- vẫn thấy họ hành xử nhát sợ như những con run, con dế!!

Tại sao tướng Nguyễn Bình đã có thời làm mưa làm gió ở miền Nam lại bó tay thua cuộc? Bởi vì cá tính dân miền Nam quen tự lập, quen sống nếp giang hồ, không chịu ép mình làm tôi tớ cho một người- dủ là tướng ở miền Bắc vào- cưỡi đầu cưỡi cổ-.

Thật vậy, Sau 1975 thì tôi càng nhận thức một cách rõ rệt, đã nhận ra cái cá tính dân miền Nam, nó gìn giữ dân miền Nam đứng vững trên hai đôi chân của mình .. Không phải những khu vực như Dốc Mơ, Gia Kiệm, Xóm Mới là những thành trì chống Cộng vững chắc !!. Chính những nơi này –do có tổ chức, có lỷ luật trên bảo dưới nghe- lại tỏ ra dễ bảo hơn các thành phần xã hội khác.

Sau 1975, người ta càng thấy rõ yếu tố cá tính người dân miền Nam đã làm ung thối các chính sách đi kinh tế mới, các buổi học tập dân phố, các chính sách đánh tư sảnvv Nếu chính sách xã hội hóa miền Nam gặp khó khăn và trở ngại là do thành phần đa số dân miền Nam rất ngang bướng, rất khó bảo.

Hãy thử nhìn lại, chỉ 20 năm sau vài trăm ngàn người sĩ quan và công chức cũng như gần 300 nhà văn nhà thơ của miền Nam bị tù tội, bị đi cải tạo. Đã có bao nhiêu người tỏ ra yếu hèn viết những cuốn sách thú tội, tố cáo nhau hoặc tố cáo tội ác Mỹ Ngụy của miền Nam Việt Nam không ?Những Trần Văn Tuyên, những nhà thơ như Vũ Hoàng Chương cho đến lúc chết nào họ có nửa lời biếm nhã với miền Nam ?? Điều gì làm nên sự khác biệt giữa hai giai đoạn dưới sự thống trị của cộng sản? Nếu không phải là cá tính người dân miền Nam nói chung- Bắc 54 nói riêng và miền Nam? Cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa Xã Hội ở miền Nam là một sự thất bại hoàn toàn, nhưng nó lại có thể điều động, khuất phục hàng triệu người miền Bắc như những con cừu?

Người ta còn nhớ trong buổi họp chiêu dụ Bảy Viễn, trước mặt bá quan văn võ, trước mặt tướng Nguyễn Bình, Bảy Viễn chửi và nói thẳng ông ghét người miền Bắc.

Bảy Viễn đứng thẳng lên không nhìn chủ tọa mà ngó ngay Nguyễn Bình:

Trước khi trả lời bốn điều thắc mắc của Khu trưởng Nguyễn Bình, tôi xin nói thẳng điều này, cá nhân Bảy Viễn không tin người Bắc, Tôi cũng không khoái mấy cha chính trị viên.. Khi mới lập bộ đội, gian khổ chết chóc thì không thấy các cha đâu, khi bộ đội thành nề nếp, có đại đội, có tiểu đoàn rồi thì các cha vác mặt tới đòi chia quyền chỉ huy..(..) Tôi không tin khu, tôi về đây không phải vì chức khu trưởng các ông dành cho tôi. Thật ra đây là kế điệu hổ ly sơn nhằm tách tôi ra khòi chiến khu Rừng Sác. Đây là hạ sách, đứa con nít cũng biết..

[32]Nguyên Hùng, Bảy Viễn, thủ lỉnh Bình Xuyên, trang 196-197

Cái cung cách Bảy Viễn, cái ngang tàng của Bảy Viễn đối với Việt Minh cũng là điều mà dân miền Nam đáp trả lại cộng sản sau 1975.

Một tính khí- một con người- một miền Nam.

Phải nhìn nhận có một yếu tố nào đó làm cho người dân miền Bắc và miền Nam có hai lối ứng xử khác nhau trước bạo quyền. Tôi nghĩ đó là do cá tính con ngưởi miền Bắc khác miền Nam … Miền Bắc có nêp sống văn hóa quy củ, đã đi vào nề nêp, biết tôn trọng lễ nghi, tập tục và pháp luật nên dễ uốn mình theo kẻ cầm quyền.

Đứng ở một mặt nào đó, cá tính dân miền Nam thể hiện ra qua con người Bảy Viễn. Hành xử giang hồ, dẫm đạp lên pháp luật nên coi trời bằng vung. Bảy Viễn đã sẵn sàng đối đầu với kẻ cầm quyền, chỉ sẵn sàng nói chuyện phải quấy với kẻ biết điều và nếu không được thì chẳng ngại đối đầu trước một viên tướng khét tiếng hung thần như tướng Bình?

· Yếu tố tôn giáo

Nhưng quan trọng hơn cả là lực lượng Bình Xuyên và hai giáo phái Cao Đài Hòa Hảo đã là những khu tự trị hầu như bất khả xâm phạm. Đó là những mẫu mực tôn giáo đến lạ lùng. Nó pha trộn các giá trị, niềm tin tín ngưỡng tôn giáo với mê tín và chính trị đến không hiểu được. Nhân vật giáo chủ được huyền hoặc đến độ coi ông Huỳnh Phú Sổ là bất tử, súng đạn bắn không chết. Vì thế khi ông bị Việt Minh ám hại, các giới chức sắc không làm thể nào giải thích về cái chết ấy cho lọt tai ..

Người Tây Phương không hiểu được họ nên gọi họ một cách khinh miệt là những ông đạo khùng.

Các vùng Hòa Hảo, Cao Đài và Sài Gòn –Chợ Lớn của Bình Xuyên hầu như là những khu tự trị- nội bất xuất, ngoại bất nhập-.

Người Pháp không tốn một viên đạn, một tên lính mà tự nhiên bình định được phần lớn lãnh thổ miền Nam !!

Chúng ta thừa biết rằng Hồ Chí Minh và tướng Giáp có ưa gì công giáo Bùi Chu-Phát Diệm- Trước cũng vậy và nay cũng vậy. Vậy mà họ vẩn giả đò nhẫn nhịn giao hảo. Nhân dịp lễ phong chức giám mục Lê Hữu Từ, Ông Hồ Chí Minh đã kéo phần lớn các bộ trong chính phủ lục tục về Phát Diệm- như Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Mạnh Hà dự lễ phong chức.

Màn kịch trẻ con ấy, đáng nhẽ phải có một Bảy Viễn công giáo miền Bắc vạch trần ra mới phải.

Đồng thời tạm để yên cho nhóm tự trị công giáo Phát Diệm. Cả một vùng đất từ Ninh Bình nhất là Bùi Chu Phát Diệm giáp giới đến Thanh Hóa dưới quyền giám mục Lê Hữu Từ trở thành vùng trái đệm và đã cứu sống nhiều thành phần đảng phái thoát nạn.

Tôi giả dụ rằng có khu tự trị Bùi Chu và Phát Diệm của công giáo rồi được tiêp nối ngay là khu tự trị của Cao Đài trải dài từ Nam Định, Phủ Lý, Hà Đông lên đến Hà Nội. Rồi từ Hà Nội là khu tự trị Bình Xuyên kéo xuống đến Hải Phòng, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hòn Gay. Và từ đó lên miền thượng du giáp ranh biên giới Việt Trung là lảnh địa khu tự trị Hòa Hảo thì có đến hai Võ Nguyên Giáp, liệu có thể làm gì được?

Vai trò tôn giáo-chính trị là một sản phẩm đặc thù của miền Nam mà rất tiếc miền Bắc không có được!!

· Yếu tố biên giới

Nếu không có một biên giới Việt Trung-một vùng hậu cần rộng lớn là nguồn cung cấp súng đạn, lương thực và huấn luyện thì liệu chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất sẽ xảy ra như thế nào? Làm thế nào, tướng Giáp có những sư đoàn được huấn luyện đầy đủ, được trang bị đầy đủ quân trang quân dụng, được trang bị những võ khí chiến lược như đại bác 105, súng phòng không 37 ly đã làm thay đổi diện mạo trận chiến Điện Biên Phủ ngay từ lúc đầu?

Philip B. Davidson đã có một nhận xét sâu sắc không thể chối cãi được rằng ( Xin trích nguyên văn), một cái lợi thế địa lý tuyệt hảo cho Việt Minh vì giáp ranh biên giới với Tàu:

If the French spread out to control the countryside, they subjected themselves to defeat in small detachments. If they concentrated around the key population centers, they surrendered the rural areas to the Viet Minh.

There was a fourth Vietminh advantage- the location of the Viet Bac(The Vietminh base area) adjacent to China. This factor gave them a priceless sanctuary and logistic base. The Vietbac-China sanctuary provided a source of arms and equipment, training areas, and above all, defensive locations for the organ of the Vietminh government.

[33][1] Philip B. Davidson Ibid,, trang 43

Biên giới Việt- Trung là một lãnh địa vô giá và lá căn cứ hậu cần cho sự chiến thắng của tướng Giáp.

Và nay chúng ta cũng phải trả một cái giá vô giá về vùng biên giới này. Không biết tướng Giáp có biết điều đó không?

Tất cả những yếu tố trên làm nên cái vinh quang của đại tướng Võ Nguyên Giáp thì cũng là những nguyên nhân làm nên thất bại cho tướng Bình ở vùng Nam Bộ? Việc tiếp tế hậu cần cho Nam Bộ thật vô vàn khó khăn.

Sau đây là trường hợp hợp hiếm hoi giúp đỡ không phải theo nhu cầu mà tiện thể có người vô Nam Bộ nên cung cấp cho miền Nam một số tiền.

Theo tài liệu trong cuốn Huỳnh Tấn Phát kể lại cho hay:

Sau cùng đoàn chuẩn bị về Nam, anh Huỳnh Tấn Phát và tôi được phân công về trước, đưa một đoàn cán bộ quân chính khóa năm Trung Ương ( Khoảng 70 người) tình nguyện vào Nam . Anh Huỳnh Tấn Phát đi nhận nhiệm vụ ở Bộ Quốc Phòng giao cho anh một số tiền lớn đem về cho tướng Nguyễn Bình ở miền Đông Nam bộ ..

[34] Huỳnh Tấn Phát, Cuộc đời và sự nghiệp, trang 143

Số tiền giao cho Huỳnh Tấn Phát đưa vào Nam cho tướng Bình là bao nhiêu thì không rõ, có đủ nuôi quân trong vài tháng trời không.

Về trang bị vũ khí đạn dược thì cửa ngõ duy nhất là Vũng Rô có nhiệm vụ cung cấp vũ khí không phải chì cho khu 7 mà còn cả các khu 8,9 nữa.

Công việc cấp bách lúc đó là xây dựng kho chứa vũ khí, tìm ghe thuyền đưa vũ khí về Nam Bộ. Một trong các kho đó là Vũng Rô mà thủ kho là đồng chí Tất. Chính từ kho Vũng Rô này mà bà Nguyễn Thị Định nhận võ khí chi viện cho Nam Bộ . Các thuyền trưởng Trần Văn Hoài( Hoài Râu), Đặng Văn Qua, Mười Thôi cũng xuất phát từ đó đem súng đạn về cho ba khu 7,8,9.

[35] Nguyễn Bình, Huyền thoại và sự thật,, chuong 45, Ibid .

Số phận hai người họ làm nên số phận hai vùng đất nước mà họ có trách nhiệm!!

[36] Hồi Ký Sơn Nam, Từ U minh đến Cần Thơ, Ở chiến khu 9…trang 158

[37] Hứa Hoành, Việt Minh giết Đức thầy Huỳnh Phú Sổ, namkylucinh.

Nếu cần phải nói thêm điều gì thì có thể nói rằng yếu tố thời gian là một trong những yếu quyết định phần thắng bại cho đôi bên. Thời gian càng kéo dài càng lợi cho VNG và bất lợi cho Pháp cũng như Mỹ sau này.

Người Pháp và người Mỹ cần một chiến thắng mau lẹ. (Quick victory). Viet Minh cần một cuộc chiến tranh kéo dài (protracted war)..

Cái chết của tướng Nguyễn Bình

Tướng Nguyễn Bình đã mắc phải một số sai lầm không tha thứ được như: định thủ tiêu Bảy Viễn. Giết hại rất nhiều đồng đội của Bảy Viễn. Nhưng quan trọng hơn cả, ông được coi là người có trách nhiệm giết hại lãnh tụ Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ.

Mối hận thù ấy đến tận bây giờ, người dân Hòa Hảo vẫn chưa quên và không bao giờ tha thứ cho Việt Minh.

Việc giết giáo chủ Huỳnh Phú Sổ thật ra có nhiều nguồn tin trái ngược nhau .. Ký giả Nam Đình quy cái tội ấy cho Trần Văn Giàu.

Còn theo Hứa Hoành, việc giết giáo chủ Huỳnh Phú Sổ là do tên Đào Công Tâm, chính trị viên của đại đội 66 (Việt Minh) chủ động hạ sát Đức Thầy vào họp, rồi ùa ra đâm loạn đả vào mọi người (tự vệ quân của Đức Thầy) khi đèn tắt. Đào Công Tâm đã hạ sát Đức thầy không phải Bửu Vinh (Theo lời kể của ông Lâm Quang Phòng, một nhân vật tên tuổi của miền Tây kháng chiến kể lại).

[38] Hứa Hoành, Việt Minh giết Đức thầy Huỳnh Phú Sổ, namkyluctinh.org

Lợi dụng tình trạng sâu xé nhau ấy, tướng Latour đem tiền bạc vũ khí cung cấp cho họ. Họ được coi như một vùng tự trị, được thu thuế, được tuyển quân. Cả một vùng rộng lớn nay người Pháp có thể yên tâm. Đức Phạm Công Tắc còn ngả theo Nhật, tôn phò Cường để, cung cấp tin tức cho Pháp, cho Nhật..

Việt Minh sở dĩ bị cô lập, theo Hilaire du Bernier vì đã phạm vào lỗi lầm là đã tiêu diệt Phật giáo Hòa Hảo: Aliénation of the Hoa Hao was the first of Binh’s mistakes.

[39] Hilaire du Berrier, Ibid, trang 69

Nhưng việc đổ mọi trách nhiệm lên đầu tướng Nguyễn Bình thật cũng không đúng.

Theo người viết bài này, cái lỗi lầm không tha thứ được của tướng Nguyễn Bình là đã không đi cùng đường với Tổng Bộ- nói đúng ra không vừa lòng Võ Nguyên Giáp

Và theo cách suy luận biện chứng của người cộng sản thì ông sẽ bị khai trừ. Khai trừ cách nào là chuyện xảy ra sau đó.

Cũng vẫn theo H. Berrier thoạt tiên là khai trừ các tay chân bộ hạ của tướng Bình và được thay thế bằng những người khác từ Bắc gửi vào. Khi nhận được giấy phải ra Hà Nội, ông đã do dự trù trừ trong mấy tuần lễ rồi mới quyết định ra đi .

Xin trích nguyên văn nhận xét của H. Berrier :

For weeks, he stalled. At last, he started, only to be killed by the French along the way.

There were those in the expeditionary corps who suspected that the tip-off which reach their hands was sent by Ho and Giap themselves.

Having Binh intercepted by a French column was a more satisfactory method of execution, for the man was still an idiot to may in the South. He has spilled so much French blood there; and this, to the Viet Minh of Cochin China, was the measure of his greatness.

[40]Hillaire du Berrier, Ibid, trang 70

Việc Bảy Viễn đã từ chối không nhận chức khu trưởng khu 7, nào phải lỗi của riêng tướng Bình? Điều đó cũng là trách nhiệm của Phạm Ngọc Thuần, Lê Duẩn,, Việc sát nhập Bình Xuyên và giải tán Bình Xuyên vào lực lượng Việt Minh thì đương nhiên Bảy Viễn không bao giờ chấp nhận.

Người ta còn nhớ là sau buổi họp với nhóm Việt Minh và khi về lại nơi đóng quân của mình, các quân sư của Bảy Viễn như Maurice Thiên cho rằng : Chúng nó bầy trò phong chức khu trưởng, chỉ là cái bánh vẽ to tướng.

Không còn Bình Xuyên là mất tất cả.

Bảy Viễn cũng đồng ý như thế và nói: Mày nói đúng. Mất danh nghĩa Bình Xuyên là mất tất cả!!

[41] Trích Nguyễn Bình, Huyền thoại và sự thật, chương 45, trongvnmilitaryhistory.net

Tuy nhên, việc đổ vỡ chính trị này, tướng Nguyễn Bình vẫn là người trách nhiệm. Vì ông vẫn bị mang tiếng là một viên tướng ngoài cõi, bất chấp triều đình.

Những lãnh đạo cộng sản khác như Lê Duẩn, Lê Đức Thọ chờ dịp này đổ hết trách nhiệm lên đầu tướng Bình ..Loại bỏ được tướng Bình thì có lợi cho họ, Lê Đức Thọ đã không ngần ngại chỉ trích tướng Bình là người bạt mạng, trọng hình thức bên ngoài. Sự loại trừ tướng Bình ra khỏi sân khấu chính trị miền Nam mở rộng chỗ cho Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và Phạm Hùng và họ là những người trực tiếp thừa hưởng cái việc ra đi của tướng Bình.

Phần Hồ Chí Minh đã có lần gửi một thư với nội dung với lời trách cứ như sau: Bác tin chú (chỉ tướng Nguyễn Bình) giữ được tình đoàn kêt mới đưa tới đại thành công.

[42]Nguyễn Bình, Huyền thoại, Ibid, , chuong 50, trang 06

Chính vì bị Tổng Bộ quy trách nhiệm không thống nhất được các lực lượng Bình Xuyên và giáo phái, tướng Nguyễn Bình đã quyết định phải cử Hai Trọng( tức Lương Văn Trọng, thư ký riêng cũa tướng Nguyễn Bình) ra Bắc bá cáo tình hình quân sự Đông Nam bộ. Hai Trọng đã đi cùng với phái đoàn Trần Văn Trà bao gồm: Trần Bửu Kiếm, Nguyễn Đức Thuận, linh mục Nguyễ Bá Kỉnh, Phạm Văn Cung, Trần Văn Nguyên. Ở ngoài Bắc, tướng Võ Nguyên Giáp bắt Hai Trọng viết một đề án: Cách mạng hóa bộ đội giang hồ.

Trình bày trên cho thấy tướng Nguyễn Bình đã mất uy tín trước tướng Giáp, vì không giải quyết được mâu thuẫn với Bảy Viễn.

Số phận ông nằm trong tay tướng Võ Nguyên Giáp.

Cái sai lầm thứ hai của Nguyễn Bình là những thất bại bị loại ra khỏi Sài gòn đã khiến ông quyết định sống mái với quân đội Pháp. Thay vì tiếp tục chiến tranh du kích, ông mở những cuộc dàn trận. ( Bataille rangée), trực diện đối đầu ở khắp nơi, đánh vào các đồn bốt của Pháp trước sự kinh hoàng của binh sĩ, bất kể những thiệt hại về người.

Tướng Nguyễn Bình hơn ai hết hiểu rằng các đơn vị dưới quyền ông đã kiệt lực, đã thiều thốn đủ thứ, đã không đủ mạnh, đã không đủ người, nhất là trang thiết bị quá yếu kém.

Thật ra, tướng Bình đã làm một liều lĩnh lớn mà bất cứ nhà chỉ huy quân sự nào cũng phải tránh, khi ông từ bỏ lối đánh du kích để tiến hành một chiên tranh dàn trải .( Bataille rangee). Lợi thế sẽ nghiêng về phía Pháp vì họ được trang bị vũ khí, hỏa lực đầy đủ.

Đó là kiểu đánh một mất một còn- nếu thắng là vinh quang. Nếu thua, thua lụn bại..

Bà Nguyễn Thị Liên Hằng cũng có cùng nhận xét dịch sơ lược như sau:

- Tướng Bình đã tiến hành và trả một giá đắt trong việc sát hại những nhóm chống đối cũng như việc mở những cuộc tấn công lớn ( Large-scale attacks) chống lại lực lượng thực dân Pháp. Những cuộc tân công ở mức độ lớn như thế, nhưng lại không đem lại một kết quả quân sự nào ở miền Nam cũng như miền Nam trung bộ. Ông đã bị các thành phần trong nội bộ đảng phê phán mà họ đều thèm muốn cái sự nổi tiếng của ông.

[43][1] Nguyên Thi Lien Hang, Hanoi’s War, trang 27

Phải chăng vì thế tổng bộ Việt Minh đòi hỏi ông phải trả món nợ đó bằng cách khai trừ ông?

Trong khi đó người Pháp đã phản công một cách đúng mức, có mặt tại những nơi cần có mặt bằng nhảy dù, bằng tầu bè, xe lội nước, băng xe cộ và để lại đằng sau họ nhiều xác chết Việt Minh không kịp chôn cất.

Theo sự nhận định của Lucien Bodard trong sách của ông, có thể nói binh đội tướng Bình hoàn toàn tan rã và không bao giờ có khả năng hồi phục lại nữa. Binh đội tướng Bình phải tìm cách lẩn trốn sang vùng biên giới ráp gianh với Campuchia và lẩn vào rừng già tận mũi Cà Mâu.

Tướng Chanson đã hưởng những vinh dự dành cho ông qua những cuộc tảo thanh này.. Và trong cuộc kháng chiến chống Pháp, miền Nam đi trước về sau và người dân miền Nam đã sống được một cuộc sống tương đối an bình..

Kết quả là vào năm 1951, Lucien Boudard, dựa vào nhật ký mà người Pháp thu thập được một cuốn nhật ký từ xác chết của tướng Nguyễn Bình.

Căn cứ vào cuốn nhật ký mỏng này mà Lucien Boudard có thể khẳng định dứt khoát: Người giết tướng Nguyễn Bình không ai khác là tướng Giáp. Theo lệnh của tướng Giáp, Nguyễn Bình đã bị chết.

Theo Philip B. Davidson, việc yêu cầu tướng Bình trở ra Bắc là một bản án tử hình và mọi người liên quan đều biết rõ điều đó. Giáp thừa biết Bình đang yếu nặng và có thể sẽ không sống nổi trong cuộc hành trình đầy gian khổ này. Lê Duẩn đã chọn hai sĩ quan chính trị đi theo Bình. (xin trích nguyên văn):

Le Duan’s commissars blew Binh’s brain out with a United States Army Colt.45. One of the Vietminh officer was captured by the Cambodians, and he told them that the body was that of Lt. Gen. Nguyen Binh, late Viet Minh commanders in chief in Cochi China. The Frenh officer cut off one of Binh’s hand and sent ir to Saigon, where the fingersprints were found to be those of Binh.

This death came to Nguyen Binh in feverish Cambodian jungle-alone, sick, betrayed- the price of failure in the world of Giap, Ho, and Le Duan.

[44] Philip B. Davidson, Ibid, trang 82

[45] Lucien Boudard, La guerre d’Indochine, trang 464

Cũng theo Lucien Boudard, việc thủ tiêu công khai tướng Nguyễn Bình sẻ gây xôn xao và bất nhẫn trong nội bộ quân đội của tướng Bình nên Giáp cần dàn cảnh ra một cuộc đi ra Bắc .. và tìm cách giết ông.

Trước khi Nguyễn Bình lên đường ra Bắc, Lê Duẩn đã đưa cho Nguyễn Bình một lá thư của tướng Giáp nội dung như sau :

- Đồng chí thân mến, đồng chí sẽ được một nhóm hộ tống gồm 30 người. Tôi giao công việc sống còn này cho đồng chí . Đồng chí sẽ sẽ đi ra Bắc xuyên qua các tỉnh ở Cam Bốt từ Kompong Cham, rồi đến Kratie1 và đ61n Strung Streng.

Lá thư chấm dứt ở đó, tại sao chỉ đến Strung Streng ?

Nguyễn Bình biết chắc rằng mình sẽ bị giết trên tuyến đường này và mục đích của chuyến đi này. Giáp cũng biết rằng Nguyễn Bình biết mình có thể bị thủ tiêu trên đường đi. Nhưng Nguyễn Bính không có chọn lựa nào khác vẫn phải chấp nhận vì cao ngạo, vì kỷ luật đảng mà không thể phản bội.

Nguyễn Bình đã cẩn thận ghi lại từng chi tiết chuyến đi này coi như một bản chúc thư. Ông không ngu dại gì để không thấy đây là cái bẫy dẫn ông đến cái chết- một cánh rừng tuyệt đối hoang dại, không có đường tiếp tế, không có căn cứ quân sự của Việt Minh mà chỉ cần cứ để rừng già làm cái công việc của nó cũng đủ chết rồi.

Trong đám quân đi hộ tống, tất cả đều là người của Lê Duẩn chọn lựa. Tướng Bình tiếng là chef, nhưng có hai người ủy viên do Lê Duẩn chọn lựa mới thực sự là người chỉ huy. Sau hai tháng đi bộ thì tới gần biên giới Lào. Cái bản ghi nốt cuối cùng của tướng Nguyễn Bình ghi ngày 21 tháng 9 1951 cho hay, họ nghỉ lại một nơi gần một bản Mọi. Sau khi liên lạc thì những người này hứa cung cấp gạo .. Nhưng đợi cả ngày không có tin tức gì cho mãi đến trưa hôm sau.

Và đây rõ ràng là một cuộc ám toán có chủ đích. Những người Mọi gửi điện cho Sang Saroun cách xa đó chừng 50 kilo mét . Họ phải mất nhiều giờ mới tới nơi.

Biết có biến đám đi hộ tống tướng Nguyễn Bình đã bỏ chạy, nhưng trễ quá rồi. Tướng Bình bị thương không cử động được. Bất đồ có hai người mặc đồ đen nằm trong nhóm của tướng Bình thừa dịp này đã chĩa súng về phía ông và nổ cò-.

Đây là hai sát thủ được chỉ định của Việt Minh. Họ đã nhận được chỉ thị nếu bị rơi vào tay quân Pháp thì phải thanh toán tướng Bình.

Và đó là diễn biến xảy ra thảm kịch mà tướng Giáp mong muốn, với bao nhiêu tính toán, cân nhắc và lựa chọn của ông.

Nguyễn Bình cuối cùng thật sự đã chết. Nhưng một tình cờ là tướng Chanson- một kẻ thù của tướng Bình cũng bị ám sát chết trong một lần kinh lý ở Sađéc trong một buổi lễ !!

Ở xứ Nam Kỳ này chết vì một cuộc ám sát là điều thường tình. Như thế tướng Bình và tướng Chanson, cả hai kẻ thú trong trận chiến 1950 đều bị khai trừ trong khoảng cách hai ba tuần.

Sau cái chết của Nguyễn Bình, lưc lượng Việt Minh của Lê Duẩn không còn gì nữa, đành ở ẩn vào bưng biền Đồng Tháp Mười.

Sự khác biệt cắt nghĩa được nay chiến tranh chuyển ra Bắc vì từ nay, Võ Nguyên Giáp được chi viện đầy đủ về quân sự và huấn luyện.. Chiến tranh du kích được thay thế bằng chiến tranh trận địa ..

Thử hỏi, đặt địa vị tướng Giáp vào tướng Bình, ông sẽ làm được gì hơn không, vì nguồn cung câp vũ khí rất hiếm hoi, thỉnh thoảng mới nhận được từ Vũng Rô.

Trước khi kết thúc bài biên khảo này, đôi giòng sau đây trích trong nhật ký của ông nói lên tất cả những điều ông cần phải nói trước khi chết.

Bác sĩ bi quan về tình trạng sức khỏe của tôi. Ông nói rằng tôi không thể đi xa được Tôi cần phải có vài tháng nghỉ ngơi dưỡng bệnh. Nếu đi, tôi sẽ ngã gục vì không có thuốc men, không có một y tá để săn sóc .. Tôi bước đi rất khó khăn, vậy mà tôi phải đi bộ hàng ngàn cây số trong rừng ngàn phần nguy hiểm chết người này. Nhưng làm thế nào, tôi có thể ở lại Nam Bộ chờ bình phục? Thật là nhục nhã nếu van xin để hoãn lại chuyến đi này! Và tôi sẽ trở thành một chướng ngại làm phiền mọi người. Mỗi một lúc, tôi sẽ phải xin những người bạn cuối cùng còn sót lại, vợ con họ săn sóc. Không, tôi không muốn điều đó. Tôi cũng không muốn ẩn náu ở trong gia đình tôi.

Không, tất cả những điều đó không thể được. Tôi quyết định đi mặc dầu thân xác tôi đau ốm nặng. Tôi nghĩ tới bổn phận của tôi. Tôi sẽ đi để uy tín của tôi không bị sứt mẻ nơi những người đã kính phục tôi. Nếu tôi ở lại. Họ sẽ nói rằng tôi che dấu bệnh tật và tôi không đủ can đảm vượt lên trên những tình cảm cá nhân của mình. Họ sẽ tố cáo tôi nặng tình cảm gia đình thay vì cách mạng. Vậy thì tôi phải đi. Tôi quyết định sẽ đi theo lộ trình đã được vạch ra; nhưng một vài bạn hiểu tôi, hiểu tình trạng bệnh hoạn của tôi đã không thể cầm được nước mắt.

[46] Lucien Bodard, Ibid, trang 466

Trong một phần nhật ký khác, tướng Nguyễn Bình đã có ý tưởng muốn ra hàng Bảo Đại, nhưng lại nghĩ lại hành xử như thế thì thì là một phản bội- phản bội bạn bè- phản bội lại những kẻ đã hy sinh và những người còn sống và sẽ biến thành kẻ thù của tôi. Tôi đã ở bên phía họ, tôi dành ở lại.

Phần Hillaire du Berrier cũng cho rằng Tướng Bình đã chịu kiểm thảo một cách gay gắt, nhưng ba năm còn lại ở miền Nam là cơn ác mộng với ông ..Từng người một những người tay chân thân cận của ông bị bứng đi hết thay bằng những người khác cũa tổng bộ. Và cuối cùng năm 1951 ông nhận được lệnh của tổng bô Việt Minh phải lên đường ra Bắc. Trên đường đi, ông đã bị Pháp phục kích. Việc mượn bàn tay Pháp giết tướng Bình cũng là một phương pháp khai trừ hữu hiệu nhất.

[47] Hillaire du Berrier, Ibid, trang 70

Phải nhận rằng cái chết của Nguyễn Bình là một cái chết hoàn hảo.

Nó vừa lòng cả hai phía. Người Pháp trả được những món nợ do tướng Bình gây ra cho những đồng đội của họ. Tổng bộ bằng lòng. VNG xoa tay vì kế hoạch khai trừ đạt mức độ hoàn hảo. Các người cộng sản Nam Bộ loại trừ được môt tên Bắc Kỳ khó chịu.

Và nếu người đọc tìm hiểu cho kỹ cái suy luận biện chứng cộng sản thì biện pháp khai trừ là một biện pháp thông thường ..

Chính bản thân VNG cũng từng lo ngại bị ám sát, thủ tiêu. Vị bác sĩ từng có trách nhiệm chăm lo sức khỏe cho VNG thú nhận một cách ngây thơ rằng không bao giờ đại tướng chịu uống thuốc mà không do chính tay ông đưa cho!!

Vì sao thế? Đại tướng sợ bị đầu độc.

[1] Larry Berman, Perfect Spy, Pham Xuan An, trang 2và 3

[2] Larry Berman, Ibid, trang 9

[3]

[4] Sài gòn Giải phóng, 19/3/2013

[5] Hồi ký Nguyễn Kỳ Nam, Ibid, trang 51

[6] Nguyễn Kỳ Nam, Ibid, trang 80

[7] Tại chiến khu Bà Quẹo,, một đai hội đã nhóm, họp ngày 20 thang 4 năm 1946 tại bản doanh tướng Huỳnh Văn Trí, có đại diện các đảng phái chính trị, tôn giáo, các cơ quan quân sự, các tấng lớp dân chúng tuyên bố thành lập Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp V.N để tiếp tục cuộc lãnh đạo kháng chiến. Trích Nguyễn Kỳ Nam, Ibid, trang 82

[8] Nguyễn Kỳ Nam, Ibid, trang 81

[9]Cecil B. Currey, Victory at any cost, trang 116

[10] Nguyễn Kỳ Nam, Ibid, trang 80

[11] Huỳnh Tấn Phát, Cuộc đời và sự nghiệp, nhiều tác giả, trang 163

[12] Nguyen thi Lien Hang, Hanoi’s War, trang 26

[13] Lucien Bodard, sơ tóm La guerre d’Indochine, từ trang 443-451

[14] Hoang Hữu Quýnh, Tôi bỏ đảng, 1989, trang 108

[15] Ghi lai. Trong Lớn lên với đất nước, Vỵ Thanh, trang 453

[16] Hillaire du Berrier, Background to Betrayal, trang 66-67

[17] Hilaire du Berrier, Background to Betrayal, trang 65

[18] Hillaire du Berrier, Background to Betrayal, trang 66-67

[19] Hillaire du Berrier, Background to Betrayal, trang 66-67

[20] Robert J O’ Neill, General Giap: Politician & Strategist, trang 44

[21] Nghiêm Kế Tổ, Việt Nam Mau1 lu73a, trang 130-131

[22] Lucien Bodard, La guerre d’Indochine, tóm sơ lược từ các trang 446-464

[23] Hillaire de Berrier, Ibid, trang 67

[24] Philip B. Davidson, Ibid, trang 82

[25] Hillaire du Berrier, Ibid, trang 55

[26] Huỳnh Tấn Phát, Ibid, trang 146

[27] Hồ iKý Sơn Nam, Từ U Minh đến Cần Thơ

[28]

[29]

[30] Philip B. Davidson, Ibid , trang 39

[31] Philip B. Davidson, Viet Nam at war, The History 1946-1975

[32] Nguyên Hùng, Bảy Viễn, thủ lỉnh Bình Xuyên, trang 196-197

[33] Philip B. Davidson Ibid,, trang 43

[34] Huỳnh Tấn Phát, Cuộc đời và sự nghiệp, trang 143

[35] Nguyễn Bình, Huyền thoại và sự thật,, chuong 45, Ibid .

[36] Hồi Ký Sơn Nam, Từ U minh đến Cần Thơ, Ở chiến khu 9…trang 158

[37]

[38] Hứa Hoành, Việt Minh giết Đức thầy Huỳnh Phú Sổ, namkylucinh.org

[39] Hilaire du Berrier, Ibid, trang 69

[40] [40]Hillaire du Berrier, Ibid, trang 70

[41] Trích Nguyễn Bình, Huyền thoại và sự thật, chương 45, trongvnmilitaryhistory.net

[42]

[43] Nguyên Thi Lien Hang, Hanoi’s War, trang 27

[44] Philip B. Davidson, Ibid, trang 82

[45] Lucien Boudard, La guerre d’Indochine, trang 464

47 Hillaire du Berrier, Ibid, trang 70