NVL & Lịch Sử Còn Đó

Biến cố Phật Giáo Huế

Lịch sử còn đó… (1)

trích DCVOnline

L’histoire est vraie, mais la vérité est partielle: Nous pouvons savoir des choses sur le passé humain, nous ne pouvons savoir le tout de ce passé”

H. Marrou, sử gia.

Nguyễn văn Lục

biên soạn

Ngày mồng 8 tháng 5, năm 1963. Ngày đáng ghi nhớ. Ngày mở đầu cho biến cố Phật Giáo miền Trung 1963. Trong ngày đó, vào khoảng 10 giờ 30 tối, có cả thảy 8 em vô tội đã bị thảm sát tại Đài phát thanh Huế. Xin được nhắc lại một lần tên các em. Đó là Nguyễn Thị Ngọc Lan, 12 tuổi, 1951. Huỳnh Tôn Nữ Tuyết Hoa, 12 tuổi, 1951. Nguyễn Thị Phúc 15 tuổi, 1943. Lê Thị Kim Khanh 17 tuổi, 1948. Trần Thị Phước Tự, 17 tuổi, 1946. Nguyễn Thị Yến, 20 tuổi, 1943. Nguyễn Văn Đại 13 tuổi, 1950 và Đặng Văn Công 13 tuổi, 1950.

Sau cuộc thảm sát Đài phát thanh Huế tiếp theo cuộc tự thiêu của Hoà Thượng Thích Quảng Đức, 66 tuổi ngày 11/6/1963 tại ngã tư Phan Đình Phùng, Lê Văn Duyệt Sàigòn.

Hồi chuông báo tử đã dóng lên cho một chế độ.

Dư luận thời đó và ngay cả hiện nay, nhiều người vẫn nghĩ rằng vụ thảm sát tại đài phát thanh Huế là do xe tăng của Thiếu Tá Đặng Sĩ đã cán chết các em. Và người trực tiếp trách nhiệm vụ thảm sát này không ai khác hơn là Đặng Sỹ? Và người đứng đằng sau có thể là ông Ngô Đình Cẩn hoặc Tổng giám mục (TGM) Ngô Đình Thục?

Riêng ông Ngô đình Cẩn, trước khi chết có tâm sự với luật sư Võ Văn Quan là ông không có ra lệnh cho Đặng Sỹ giết trẻ em trước đài phát thanh? Thế thì còn lại TGM Ngô Đình Thục? Theo Linh mục (LM) Cao Văn Luận, trước khi lm Luận lánh mặt ra ngoại quốc có đến từ giã TGM Thục và TGM Thục tỏ ra chẳng có ưa gì về vụ biến động Phật giáo cả.

Cần có một câu trả lời cho cái chết của các trẻ em vô tội chết không toàn thây trước cửa Đài phát thanh Huế? Và nếu người ta thật sự thương xót các em thì cho đến nay ít ra cũng có cái gì đó, một cái miếu, cái cột, cái bảng, một hòn đá cũng được, hay một miếng gỗ. Ai dám nghĩ đến cái điều tưởng như tầm thường ấy?

Viết bài này, tôi cũng không quên được chính mình cũng là thế hệ thanh niên trí thức ở thời kỳ đó. Tôi vẫn nghĩ rằng thắc mắc của tôi là chính đáng.

Bài viết có hai phần, phần đầu, chọn lựa dựa trên các lời viết của các nhân chứng hàng đầu trong biến cố đài phát thanh Huế. Phần hai, duyệt xét lại vụ án thiếu tá Đặng Sỹ để xem ở thời điểm ấy, vụ án đã được xét xử như thế nào?

1. Trích dẫn về những chứng từ trong đêm 08 tháng 05 năm 1963, tại đài phát thanh Huế.

Những chứng từ sau đây của các nhân chứng hầu hết nhìn tận mắt cho thấy một sự việc đã được nhìn, được thấy như thế nào? Người viết ghi những chữ, những câu viết nghiêng để độc giả dễ theo dõi sự dị biệt giữa các nhân chứng.

a. Chứng từ của ông Nguyễn Khắc Từ, Huynh trưởng gia đình Phật Tử, người đã có mặt từ đầu đến cuối bên cạnh Thượng Tọa Trí Quang. Ông viết “Một chiếc xe mang tên Ngô đình Khôi cán bừa lên cả người đồng bào. Vài tiếng thét ghê rợn. Mặc kệ, họ cứ tiến vào đám quần chúng. Giữa lúc ấy, 3 tiếng súng lục chát chúa khô khan vang lên, và lựu đạn cay tung ra tứ phía. Từng loạt súng liên thanh và một tiếng nổ kinh hồn rung chuyển cả đài phát thanh. Tiếng súng vẫn nổ. Trong đài, chúng tôi vào ẩn trong trong phòng hoà âm gồm các Thượng Tọa, Đại Đức, ông Tỉnh trưởng và một số chúng tôi.” (Trích trên web Giao Điểm, Giao Điểm trích từ tạp chí Liên Hoa, số ra ngày 15 tháng 1965, Sàigòn.)

Nhận xét: Cứ như ông viết, lúc xảy ra có tiếng nổ, ông ở trong đài và ẩn trong một phòng hoà âm cùng với các Thượng Tọa, Đại Đức. Vậy bằng cách nào, ông có thể nhìn thấy cảnh xe tăng tiến vào với ba tiếng súng lục nổ. Đặc biệt, ông là một trong những nhân chứng nói đến lựu đạn cay tung ra tứ phía.

Bằng vào lời của nhân chứng, các nạn nhân chết vì ba nguyên nhân: vì xe tăng cán, vì tiếng nổ kinh hồn và đạn đại liên.

b. Chứng từ của Nguyễn Lang (tức Thiền sư Nhất Hạnh), cuốn 3 của Bộ Việt Nam Phật giáo sử luận.

“Thiếu tá Đặng Sỹ, Phó tỉnh trưởng nội an và Tiểu khu trưởng Thừa Thiên, huy động lực lượng thiết giáp Bảo An, đại bác quân cảnh, hiến binh và cảnh sát thành phố tới vây quanh đám quần chúng mà họ gọi là đám biểu tình..

“Thiếu Tá Đặng Sỹ ra lệnh bắn đạn mã tử khiến đám đông náo động. Lựu đạn cay, lựu đạn nổ được tung vào. Đồng thời súng trường và xe thiết giáp chận lại. Khi thiền sư Trí Quang và ông Tỉnh trưởng từ trong đài phát thanh ra tới thì máu đã đổ: 8 người thiệt mạng vì lựu đạn và 4 người bị thương. Xe thiết giáp cán vỡ đầu một thiếu nhi, sọ em nát vụn. Một thiếu nhi khác bị cán mất nửa đầu và một em khác mất hẳn nửa đầu. Xe Hồng Thập tự được gởi tới để mang những người bị thương về bệnh viện.

Nhận xét: Không hiểu tại sao lại đổi chức vị của thày Trí Quang là thiền sư? Đổi như thế nghe thấy lạ tai quá. Quân cảnh không có mang đại bác? Chắc là pháo binh? Một chi tiết khá quan trọng: Thày Trí Quang và ông tỉnh trưởng chỉ ra khỏi đài phát thanh khi máu đã đổ. Chi tiết này phản lại lời tường thuật của chính người trong cuộc là thày Trí Quang ở phần sau. Thày TQ và ông Tỉnh trưởng đứng ở bên ngoài đài và đang phủ dụ đám đông thì xảy ra biến cố. 8 người chết vì lựu đạn, rồi lại chết bị xe thiết giáp cán. Như vậy giả thiết là các em bị bắn chết, rồi xe thiết giáp cán thêm một lần nữa? Một em bị cán mất nửa đầu và một em khác mất hẳn nửa đầu thì có gì khác nhau?

Xin ghi nhận thêm: Nguyễn Lang, trong phần ghi chú XXXV111 của bộ Việt Nam giáo sử luận, tập 3 có cho rằng Bác Sĩ Lê Khắc Quyến bị ép buộc nên phải ký biên bản như trên. Thiền sư Nhất Hạnh cũng là người đứng ra mời một Uỷ ban Liên Hiệp Quốc đến VN điều tra về vụ Phật Giáo.

Về nội dung bản phúc trình của bác sĩ Quyến, người viết cũng thấy mổi người nói mỗi khác. Ra đến tòa án, Bác Sĩ Quyến vẫn giữ lời khai mà nội dung như sau: Không rõ chất nổ, nhưng không phải là do lựu đạn hoặc chất Plastic. Không bằng lòng về nội dung những bản phúc trình này, người viết có liên lạc với hai con trai của Bác sĩ Lê Khắc Quyến, quý anh LKT và LKH. Nhưng cũng không giúp thêm gì trong việc làm sáng tỏ điều này.’’ Rất tiếc, tôi không giúp được nhiều vì do chỉ là những gì được nghe nói, không có bằng chứng cụ thể’’

c. Chứng từ của Bác sĩ Erich Wulff

Phỏng vấn giáo sư Erich Wulff của báo Liên Hoa, số Đặc biệt Phật Đản, ngày 26 tháng 5- 1964. (trích lại trên Giao Điểm). Cuộc phỏng vấn này xảy ra khi bác sĩ người Đức này trở lại thăm Việt Nam.

“Đêm 8-5-1963, tôi và anh Tôn thất Kỳ, sinh viên y khoa của tôi có đến xem cuộc lộn xộn trước đài phát thanh Huế. Khi chúng tôi vừa đến thì điều làm chúng tôi hốt hoảng là một loạt súng chát chúa vang lên. Liền đó, xe thiết giáp kéo đến, tôi thấy rõ ràng có một chiếc xe mang tên “Ngô đình Khôi” có gắn súng 12-7, chĩa nòng súng vào phía dân chúng đang tụ tập nhốn nháo quanh đài phát thanh. Tôi đang bỡ ngỡ thì lại nghe tiếng nổ rất lớn. Rồi nhiều tiếng nổ khác tiếp theo.

Tiếp theo, ông đến nhà xác “Tôi thấy một cảnh tượng vô cùng khủng khiếp, 7 cái xác chết tan hoang, nhưng còn có thể nhận ra được, kẻ bị văng óc vỡ đầu, kẻ thì thân xác nát bấy, máu thịt đất cát cùng với óc não lẫn lộn be bét, còn một cái xác khác thì hoàn toàn tan nát từng mảnh không sao nhận ra được. Xem xét các xác chết, tôi thấy có ba xác bị bể sọ, quan sát kỹ chắc là do đạn (cỡ súng lớn bắn ). Mà chắc là do súng cỡ lớn trên xe thiết giáp NĐK bắn. Đạn này làm bay cả sọ, văng óc ra ngoài.

Kết luận ông đáp: Vì tôi đã tận mắt chứng kiến cuộc thảm sát ở Đài phát thanh Huế, tôi vô cùng xúc động trước sự đàn áp dã man này nên tự thấy có bổn phận ủng hộ cho cuộc đấu tranh”

Chứng từ thứ hai của Bác sĩ Erich Wulff , giáo sư Đại học Y khoa Huế, từ 1961-1967. bài trích dịch từ cuốn Vietnamesische Lehrejahren, 1972, từ trang 129-142, trích lại trên trang Giao Điểm và cũng trên Khuông Việt, 2003 trong bài Những tháng ngày không quên của Thái Kim Lan. Giữa bài phỏng vấn và bài trích trong sách của ông bác sĩ người Đức có nhiều chi tiết khác nhau lắm.

“Tôi bỗng nghe một người nào đó gọi tên tôi. Đó là Tý, một người học trò của tôi. Tý hỏi tôi muốn đi cùng đến nghe phát thanh lại bài nói chuyện sáng hôm nay của Thích Trí Quang, bài này sẽ được phát đi trong vòng vài phút nữa và sẽ được truyền ra bên ngoài bởi những loa phóng thanh đặt trước cửa đài.

Vài phút sau đó có tiếng ầm ầm của một đoàn xe thiết giáp . Có tất cả 5 xe thiết giáp xuất hiện. Một chiếc tìm cách đi thẳng vào khuôn viên của đài phát thanh. Nó dừng lại chỉ cách Tý và tôi vài bước mà thôi. Và rồi những phát đạn đầu tiên được bắn ra từ nòng súng cà nông của xe thiết giáp, chúng tôi nghe khoảng 10 phát súng nổ kêu vang và khô khan. Tôi có thể nhìn thấy rõ ràng đầu ngọn lửa phát ra từ họng súng của hai chiếc xe án ngự nơi bồn tròn nằm phía đầu cầu Trường Tiền. Sau đó một loạt súng trường bắt đầu nhả đạn. Sau đó, tôi đã gặp Paul Miller, một người Mỹ còn trẻ làm việc trong văn phòng trường đại học. Anh ta kể rằng “họ đã đi qua đây”. Thiếu tá Đặng Sỹ, người cầm đầu đoàn quân đã bảo anh ta phải biến mất đi. Sắp có màn phải giết người, vì ông ta đã nhận được lệnh của cấp trên đến dẹp tan vụ bạo lọan tại đài phát thanh với bất cứ giá nào”.

Sau đó, bác sĩ Wulff được một người y tá dẫn vào cổng sau nhà xác. Tai đây, ông ghi nhận như sau “Không có ánh đèn điện. Dưới ánh sáng yếu ớt của đèn bạch lạp, chúng tôi thấy có 7 thân người đầy máu me được đặt trên ba bàn khám nghiệm bằng đá. Từ chân đến ngực, thân thể họ còn nguyên vẹn. Nhưng năm cái xác, tất cả là trẻ em, thì không còn đầu. Nơi một người phụ nữ thì có những vết đạn bắn vào cánh tay, vai và cổ. Các xe thiết giáp đã bắn nát đầu các em thiếu nhi, có lẽ vào lúc các em leo qua hàng rào của đài phát thanh và nhô đầu ra trước. Nếu như các em khôn ngoan như người lớn, tức là nằm xuống dưới đất lúc súng đạn bắt đầu nổ thì có lẽ các em đã không hề hấn gì.

Khi về đến cư xá giáo sư đại học, tôi vội bước đến phòng của Giáo sư Krainick. Tình cờ lúc đó bà Krainick đang đọc vào máy ghi âm bức thư gia đình hỏi thăm các người con. Trong sự hốt hoảng lúc bà và ông chồng nghe tôi kể lại những biến cố vừa xảy ra, bà đã quên tắt máy. Cuộn băng ghi âm này đã được dùng làm bằng cớ vào tháng 09-năm 1963 trước Ủy Ban Việt Nam của Liên Hiệp Quốc, kèm theo với lời khai danh dự chứng thật nguyên bản của giáo sư Krainick.”

Nhận xét: Có lẽ những chứng từ của giáo sư người Đức được coi như có giá trị khả tín nhất, vì ông là người ngoại quốc. Đối với một số Phật tử thời đó, ông chẳng những là một nhân chứng hàng đầu mà còn l người ân nhân số một của biến cố 1963. Vào ngày 14/4/1964, ông E. Wulff được tiếp đón nồng nhiệt khi trở lại Huế sau ngày đảo chính. Người ta đã dành tất cả cái vinh dự ấy cho ông như một người bạn của Huế. Ông đã được các Thượng Tọa Thích Trí Quang và Hoà Thượng Thích Đôn Hậu đón tiếp với hàng rào người đứng hai bên. Vì vậy, ông mới được mời ra làm nhân chứng vào tháng 9-1963 với cuốn băng ghi kể lại biến cố với ông bà GS Krainick, trước Ủy Ban VN của LHQ. Nhưng thử so sánh hai bài tường thuật của ông xem sao.

• Thứ nhất: Có một sự lầm lẫn, nếu không được giải thích sẽ gây ra hiểu lầm. Có lúc ông nói là Tý có lúc là Tôn Thất Kỳ. Có sự khác biệt đổi tên như thế vì Tôn Thất Kỳ không muốn để lộ tên mình ra nên ông Wolff đã phải gọi tránh ra như thế.

• Thứ hai, ông viết khi vừa đến thì đã nghe một loạt súng, liền sau đó xe thiết giáp kéo tới. Chắc ông viết lầm, phải đợi xe thiết giáp tới rồi mới bắn được?

• Thứ ba, ông còn có thể nghe và đếm được có khoảng 10 phát đạn bắn đi. Cái này phải hỏi chuyên viên vũ khí, có thể đếm được đạn đại liên bắn đi không? Có chỗ ông viết: nhìn thấy 5 xe thiết giáp tiến tới rồi nhả đạn. Thật sự trong cái tình thế căng thẳng và có thể đi đến rối loạn, thật khó có thể có những ghi nhận thật chính xác được. Những trắc nghiệm tâm lý đưa ra những hoàn cảnh giả (simulation), rồi yêu cầu được trả lời đã nhìn, nghe, nhớ gì. 90 phần trăm người được trắc nghiệm đã không thể trả lời đúng như sự việc đã xảy ra.

• Thứ tư: Và nếu như lời ông tường thuật ở đoạn không trích ra đây, ông và Tý thấy tuần xa là bắt đầu sợ và rủ nhau nhảy qua hàng rào đài phát thanh, đứng sang bên kia đường để nhìn về phía đài. Khi có tiếng súng nổ thì còn chạy núp vô một đường hẻm gần đấy. Đọc đọan ông mô tả thì như thể ông là một quan sát viên, hay một quan khách, đứng bàng quan và bình tĩnh, đứng gần tuần xa có mấy thước, nghe và đếm được 10 phát đạn, thấy hết hiện trường. Tôi chỉ hỏi thật, ông đứng ở đâu? Tôi có đặt vấn đề về chứng từ của ông Wolff với một người bạn từng quen biết ông Wolff thì người ấy vẫn quả quyết 100% là ông Wolff nói thật, nói chính xác.

• Thứ năm: ông kể được nghe qua một người bạn tên Paul Miller cho biết gặp Đặng Sỹ và Đặng Sỹ cho biết phải biến đi, vì sắp có cảnh dẹp loạn và cảnh giết người. Cứ tin vào chứng từ của ông bác sĩ thì Thiếu Tá Đặng Sỹ đã được lệnh trước chẳng những dẹp lọan mà còn có bổn phận phải tàn sát dân chúng đi biểu tình. Chứng cớ này khá là quan trọng vì có sách lược tàn sát đồng bào Phật Tử tối hôm đó? Ông Wolff phải ra làm chứng về điều này và xác nhận lại một lần nữa câu nói của ông. Nếu ông xác nhận Đặng Sỹ có nói như thế thì thì vụ án Đặng Sỹ rất đơn giản vì có lời giải đáp. Rất tiếc, ông đã rời VN sớm hơn một tháng trước khi vụ án Đặng Sỹ được đem ra xét xử.

• Thứ sáu: theo ông các trẻ em bị thảm sát vì vượt hàng rào đài phát thanh cao khoảng 1m50. Như vậy, thay vì bị chết ở sát cạnh đài phát thanh thì nay chết ở hàng rào đài phát thanh. Đây là một vấn đề cần đặc biệt lưu ý. Chứng cớ này của ông không đứng vững được vì vi phạm luật hiện trường. Một điều vẫn ám ảnh tôi mãi. Tại sao nạn nhân chỉ là trẻ con và thanh thiếu niên? Nếu đạn đại liên bắn như thế thì chẳng những các em chết và người lớn cũng chết không miễn trừ?

• Thứ bảy: ông là người thứ nhất, trước cả bác sĩ Lê Khắc Quyến có đặc quyền được giảo nghiệm xác chết. Tôi có đem truyện này hỏi các bác sĩ thì họ cho rằng nếu không phải bác sĩ chuyên môn về giảo nghiệm tử thi ( médecin légiste) thì không đủ tư cách để có thể xem xét và quyết đoán về các vết thương. Họ không thể nào xác định được một vết thương do đạn, hay do chất nổ? Về điểm này có thể nói rằng cho dù có chứng tử giảo nghiệm đi nữa, không bị cưỡng buộc đi nữa, chừng từ đó cũng khó có sự giảo nghiệm kỹ càng và chính xác. Một bác sĩ thường, không chuyên ngành, không có cách gì phân biệt được một vế thương do chất nổ lựu đạn hay plastic, hay do đầu đạn vv.. Thật không dễ đâu? Dầu vậy thì đây là một bằng chứng vô cùng quan trọng, bởi vì trong nhiều trường hợp, nhân chứng duy nhất có thể truy lùng ra tội phạm lại chính là xác chết. Xác chết biết nói, biết tố cáo. Mặc dù ông không phải bác sĩ chuyên khoa về giảo nghiệm xác chết, mặc dù dưới ánh nến lù mù không soi sáng đủ và mặc dù thời gian chắc cũng không cho phép ông ở lâu để giảo nghiệm, đo đạc các vết thương sâu hay rộng để biết đích xác vết thương do chất nổ gì gây ra. Ông đã khẳng định là: quan sát kỹ, ông cho rằng chắc là do đạn đại liên bắn ra làm bay cả sọ và văng óc ra ngoài. Ông còn ghi thêm là do chiếc xe có bảng hiệu Ngô Đình Khôi bắn ra nữa. Có lúc ông nói có 5 xác bị bắn nát đầu văng óc, nhưng từ chân đến đầu còn nguyên vẹn. Đọan sau, ông nói ngược lại là 7 xác chết tan hoang, nát bấy, hoàn toàn nát bấy. Còn nguyên vẹn và nát bấy đã hẳn phải khác nhau? 5 xác và 7 xác đã hẳn cũng khác nhau? Quý vị không tin cứ việc đọc lại. Không thể giảo nghiệm khơi khơi thế được? Chắc ông chưa từng được xem Bao Công xử án.

Kết luận: các nạn nhân chết là do đạn đại liên từ xe thiết giáp Ngô Đình Khôi bắn ra.

Hai bản văn mà nội dung do một nhân chứng viết lại có nhiều chỗ phản lại nhau từng chi tiết một, không có chi tiết nào trong hai bản văn giống nhau đến độ có cảm tưởng do hai nhân chứng viết lại chứ không phải một người.

(Còn tiếp)

Lịch sử còn đó... (Kết)

Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu (11/6/1963)

Nguồn: lib.berkeley.edu

“L’histoire est vraie, mais la vérité est partielle: Nous pouvons savoir des choses sur le passé humain, nous ne pouvons savoir le tout de ce passé”

H. Marrou, sử gia.

Nguyễn văn Lục

Xem xét lại Hiện Trường: thì đúng như TT Trí Quang xác nhận. Các nạn nhân bị chết ngay sát góc cửa lối vào đài phát thanh. Ở dưới nền nhà. Sát góc cửa, có một lỗ thủng bằng cái chén. Các cửa kính đài phát thanh đều bị vỡ, nhưng cửa gỗ đài phát thanh còn nguyên vẹn. Điều này cho thấy rằng chất nổ bằng hơi, gây sức ép chứ không phải bằng mảnh đạn. Mảnh đạn thì sẽ để lỗ trên cánh cửa. Sức hơi thì hoặc cửa vẫn còn đó hoặc có thể làm bay cánh cửa.

Việt Nam Phật giáo sử luận: ...đại bác quân cảnh, thiết giáp cán vỡ đầu một thiếu nhi, sọ em nát vụn, bác sĩ Lê Khắc Quyến bị ép buộc phải ký biên bản, ... Ảnh tác giả Nguyễn Lang với Thủ tướng CSVN, Phan Văn Khải (11/04/2005)

Nguồn: TTXVN

Về chất nổ: chuyên viên chất nổ nhìn nhận rằng chất nổ trước đài phát thanh Huế là một loại chất nổ cực mạnh. Là gì thì không biết được, nhưng QLVNCH chưa hề được cung cấp sử dụng. Ngay trong ngày 11-7-1963, Ủy ban liên bộ đã thông báo cho Ũy ban liên phái cho biết các em nạn nhân chết do chất nổ của Việt Cộng. Dĩ nhiên, Ủy Ban liên phái không chấp nhận kết luận này và trong hồ sơ của Nguyễn Lang cho rằng Bác sĩ Lê Khắc Quyến bị ép buộc phải ký biên bản như trên. Trong phiên toà, ông Đặng Phong, Trưởng ty cảnh sát quốc gia Thừa Thiên cho thấy người Mỹ có dính líu vào biến cố này bằng nhiều cách. Ông Đặng Phong đã tiết lộ rằng 2 nhân viên của cơ quan tình báo Hoa Kỳ là Scott, người điều hành cơ quan CIA tại Thừa Thiên lúc đó và Bell, người tổ chức chương trình đưa biệt kích xâm nhập miền Bắc có dính líu đến vụ cung cấp chất nổ này. Ông Mullen phó lãnh sự Hoa Kỳ tại Huế đã liên lạc thường xuyên với TT Trí Quang ở chùa Từ Đàm, nhờ giúp in ấn giấy tờ, truyền đơn, chuyển thư từ, tin tức vào Sàigòn hay ra ngoại quốc. Riêng ông Elble, Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Huế thường đi theo các cuộc biểu tình của Phật Giáo (PG) và công khai chống Ngô Đình Diệm.

Mặt khác, theo bá cáo của Bửu Thắng, một công an viên có nhiệm vụ canh gác trong đêm đó. Anh ta báo cáo rằng có thấy một vệt sáng chạy dài từ sát góc bên phải đài phát thanh, bay qua trên đầu những người đang tụ tập, xéo xuống trước cửa đài phát thanh, sau đó là một tiếng nổ lớn phát ra. Khi các chuyên viên võ khí đến thì đã không lượm được mảnh chất nổ nào. Nếu bá cáo của Bửu Thắng nói sự thật thì trái chất nổ bằng Plastic đã được châm ngòi rồi ném vòng tròn qua đầu đám biểu tình đang đứng trên bực thềm, và rơi ngay góc cửa ra vào của đài phát thanh. Nếu trái Plastic rơi vào một khoảng trống thì chỉ phát ra tiếng nổ chứ không gây tác hại nào cả. Nhưng khi trái plastic kia rơi vào sát góc tường, xung quanh lại có người đứng chen chúc chật ních, tạo thành sức ép nên mới công phá mạnh đến thế..

Cũng theo Đại Uý Bửu thì trong cuộc hành quân ở Nam Đồng vào năm 1966. Đại Uý Scott lúc này là cố vấn tiểu đoàn 1-3 từ năm 1965 mới tiết lộ cho biết sự thật. Theo đó, hai người có trao đổi với nhau và Scott cho rằng Hoa Kỳ đã giúp cho Phật giáo nhiều yếu tố thành công trong vụ 1963, trong đo có chất nổ Plastic. (Tài liệu khá dài, 7 trang giấy không tiện viết hết ra. (Trích Ai giết anh em Ngô Đỉnh Diệm. Quốc Đại, từ trang 307)

Các nhà phân tích đều tin rằng chính phủ Ngô Đình Diệm, dù có loại chất nổ đó trong tay, cũng không ngu dại gì đem ra xử dụng trong trường hợp này để tự gây họa cho mình. Trên thế giới, người ta chưa bao giờ thấy một cơ quan nào dùng chất nổ Plastic để dẹp biểu tình. Như thế, ai gây ra vụ nổ để giáng tai họa cho chế độ Ngô Đình Diệm? (Trích từ nguồn Giấc mơ lãnh tụ).

Về tính chất hợp pháp và công lý của tòa án: Thật khó mà bảo đảm tính cách vô tư của một thứ toà án như thế. Xin viện dẫn ra ý kiến của luật sư Võ Văn Quan, người đã từng biện hộ cho các can phạm trong vụ Caravelle thời ông Diệm, vụ án Ngô Đình Cẩn, Trần Ngọc Châu và vụ án sinh viên Nguyễn Hữu Giao, tự là Giao Bảo Đại, sinh viên tranh đấu Huế và cuối cùng là vụ án bác sĩ Nguyễn Văn Mẫn Thị trưởng Đà Nẵng. Với kinh nghiệm tòa án như thế, lời ông nhận xét đáng được chú ý. Về trường hợp của Nguyễn Hữu Giao được tha bổng, ông viết thế này: “Tuy biết rằng sự Giao được trả tự do, đó không phải nhờ sự biện hộ của tôi, nhưng tôi cũng thấy ấm lòng và vui mừng.” (Trích Trong Luật sư...). Về việc TT Trí Quang mời ông biện hộ cho Bác sĩ Mẫn. Luật sư Quan đòi TT Trí Quang phải đến gặp ông. Cuối cùng TT đã đến. Ông đòi ông Mẫn phải viết mémoire để ông dễ nắm sự kiện. Ông Mẫn hỏi xin lệnh TT Trí Quang. TT Trí Quang đã giao cho Giao mang đến luật sư Quan vỏn vẹn có mấy chữ như sau: “Anh Mẫn, làm mémoire đi. Ông Già.” (trong giới thuộc hạ, tiếng lóng ‘ông già’ để chi TT Trí Quang). Ông viết như sau: “Tôi suy đoán rằng TT Trí Quang thừa biết rằng thực sự các đệ tử của ông không cần đến sự biện hộ của tôi. Là người có nhiều kinh nghiệm về hậu trường chính trị, ông thừa hiểu dưới chế độ quân phiệt này, Tòa quân sự chỉ là công cụ của chính quyền trong những vụ án chính trị. Ông muốn có tôi chẳng qua là để thêm hoa lá cành cho các luật sư ‘gà nhà’ của ông mà thôi.’’ (Trích luật sư, Nghề hay Nghiệp.) Về việc TT Trí Quang không ra làm chứng trước tòa. Ông viết: “Trong thơ, TT tuyên bố sẵn sàng ra tòa khai rõ về những việc đã xảy ra tại miền Trung, vì chính ông lãnh đạo cuộc tranh đấu ấy. Dĩ nhiên tòa không mời TT Trí Quang ra làm nhân chứng để ông không dùng phiên tòa làm diễn đàn chánh trị. Còn truy tố ông, ‘họ’ dám thì đã làm tử lâu. Chưa kể đằng sau tòa án, còn có những sách nhiễu tiền bạc bỉ ổi, những thủ đọan lừa lọc gian manh.

Và luật sư Võ Văn Quan đã chua chát lấy lại câu nói của luật sư De Sège khi biện hộ cho vua Louis 16, đã can đảm nói với họ: “Je viens ici chercher des juges mais je ne trouve que des bourreaux’’. Tôi đến đây tìm những vị thẩm phán quan, nhưng tôi chỉ gặp những tên đao phủ thủ.

Về hai nhân chứng tối quan trọng: TT Trí Quang và Thiếu Tá Đặng Sỹ và ngay cả tướng Nguyễn Khánh? Ông đã bị những áp lực gì qua những vụ án Ngô Đình Cẩn? Phan Quang Đông? Và Đặng Sỹ? Ông có liên lạc với bà Trần Trung Dung để thương lượng về cái chết của ông Ngô Đình Cẩn, đổi lấy mấy triệu đồng cái sinh mạng ấy? Và ông Ngô Đình Cẩn đã từ chối? Ông có dám đối chất với luật sư Võ Văn Quan đã tiết lộ ra những đìều này không?

Người ta có thể phần nào gỡ rối về vụ án biến cố đài phát thanh này nếu các nhân chứng trên, trong tình hình hiện nay, chịu lên tiếng và nói rõ tất cả những gì họ biết. Lịch sử đã trôi qua đi, thời gian như vết bụi phủ mờ những điều đáng lẽ có thể được sáng tỏ. Nếu nói về trách nhiệm đối với lịch sử thì họ là những người có trách nhiệm hàng đầu. Vậy mà cả hai đã không lên tiếng. Lý do tại sao không lên tiếng thì chỉ có thể suy đoán? Nhưng ngay cả suy đoán thì đem đến kết quả gì?

Người trách nhiệm và nhân chứng quan trọng nhất trong vụ thảm sát trẻ em trước đài phát thanh Huế, ông Đặng Sỹ, nay vẫn còn sống và hiện ở Hoa Kỳ. Tôi có người bạn VP (1), nguyên trưởng ban biên tập Việt ngữ đài BBC, tôi có viết thư hỏi anh ấy. Anh cho biết, ngay từ năm 1992, đài BBC có tìm phỏng vấn Đặng Sỹ để cho rõ vấn đề, nhưng ông ấy cứ khất lần, rồi tránh né không muốn trả lời. Ông ấy có vẻ tức tối, nhưng tránh né cuộc phỏng vấn, chắc là muốn an phận. Tôi có hỏi thêm là Bác sĩ Trần Kim Tuyến, người đã tâm sự và để anh phỏng vấn, có biết gì hơn không? Câu trả lời là không. Còn chính bản thân anh, Trưởng Ban Việt ngữ đài BBC, nơi có thể có nhiều nguồn tài liệu, anh có thể khẳng định gì về vấn đề này không? Câu trả lời là không thể trả lời có hay không được?

Thật ra, ông vẫn lên tiếng, nhưng chính thức thì không có.

Vì thế bao lâu ông Đặng Sỹ và một số người liên can không chịu lên tiếng công khai, không chịu làm rõ có thể vấn đề vẫn còn đó? Không phải như ông Nguyên Vũ kết luận và nghĩ rằng: “cho tới năm 2002, vài người còn nhắm mắt lại mà nguyền rủa quả lựu đạn hay trái mìn của cộng sản hoặc tình báo Mỹ không hề hiện hữu trên.” (Trong Ngàn năm soi mặt, trang 32).

Cộng thêm những ông Đặng Văn Quang, Dương Hiếu Nghĩa cũng cần lên tiếng? Họ đang ngồi ở nước Mỹ này? Họ không lên tiếng vì bản thân họ cũng bê bối quá chăng?

Đã thế cái Phúc trình điều tra của Liên Hiệp Quốc nay nhiều người không ai muốn nhắc tới? Nội dung phúc trình này đồng quan điểm với chính phủ Diệm thời đó là: Chất nổ và vụ sát hại 8 trẻ em không do chính quyền ông Diệm gây ra. Khi phúc trình đó được tuyên bố và gửi cho phái đoàn Ủy Ban liên phái. Chẳng ai chịu tin và coi như những tấm giấy lộn mặc dầu do Thiền sư Nhất Hạnh mời họ sang? Và mặc dầu họ là những người có uy tín, là những trí thức Phật tử? Tôi còn nhớ sau khi phúc trình được đưa ra, có dư luận là mấy ông đó bị cho vào bẫy, cho coi phim con heo và chơi gái? Thôi thì cũng phải đốt mấy ông này để vô hiệu hoá phúc trình của họ?

Quan trọng hơn nữa là bản cáo trạng hồ sơ của tòa án Đặng Sỹ của tòa án cách mạng đã bị tiêu hủy? Trách nhiệm những hồ sơ thụ lý Phan Quang Đông và Đặng Sỹ nằm ở an ninh quân đội? Và không lạ gì, sau này Tướng Tôn Thất Đính có truy tìm, nhưng đã chẳng tìm thấy được gì?

Cho dù thế nào đi nữa, biến cố đài phát thanh cũng như nhiều diễn biến lịch sữ khác vẫn có một khoảng trống cần bổ khuyết: Thiếu tài liệu của phía người Cộng Sản như Stanley Karnow viết: “Il fut en particulier très difficile de rendre compte de la guerre du côté Communiste puisque les documents saisis, la propagande… ne racontaient qu’une partie de l!histoire. Je crois que les dirigeants nord-Vietnamiens et Vietcong ont commis une grave erreur en refusant de fournir des informations aux médias ocácidentaux.” (Việt Nam..., trang 420). Ông Nguyễn ngọc Giao trong một số báo Diễn Đàn Paris, xuất bản ở Pháp cũng có ý tưởng tương tự: Bao lâu tài liệu phía CS chưa mở ra cho công chúng. Lịch sử VN vẫn là những mảnh rời rạc.

Phần kết: Về phần tôi, chỉ có thể nói được rằng: Lịch sử vẫn còn đó. Sự thật nằm ở chỗ nào? Chúng ta có nên nhang khói cho những cái có vẻ như là sự thật không chối cãi được? Và chúng ta ngủ quên trong tiềm thức với những điều tin rằng là xác tín? Mỗi người chúng ta đều khát vọng sự thật và tôn thờ sự thật trong tôn giáo của mình, trong lịch sử đất nước của mình và lịch sử của chính mình bằng cách né tránh những nẻo đường có gai chông, hầm hố có thể đụng chạm đến những điều đã xác tín. Bẽ bàng thay giữa sự thật và điều xác tín thường có khoảng cách mây mù mà ngay ý thức lý trí cũng không soi rọi, soi sáng hết được những góc ẩn dấu, những phân mảnh rời rạc? Bởi vì sự thật thì ở tầm xa chưa nắm được. Còn điều xác tín chỉ là sự thật ảo? Ta khát vọng sự thật, nhưng lại thường sợ hãi sự thật và bằng lòng với xác tín ảo mà ta đã nắm chặt trong tay. Ai nói khác là không được.

Cứ nhìn lịch sử đi để thấy sự thật nằm ở chỗ nào? Có chỗ nào là sự thật? Nhiều khi chỉ là những tình cờ vụng dại, khờ khệch, vô tình. Nhiều khi là những mánh lới gian dối đủ thứ.

Tình cờ như vụ treo cờ. Theo Vĩnh Phúc, trong những Huyền Thoại và sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm. Theo anh ấy, ông Ngô Đình Diệm là người rất trọng nguyên tắc: Cấm treo cờ tôn giáo ra ngoài. Có lần ông Diệm xuống phi trường, thấy bọn khuyển nho nịnh bợ treo đầy cờ tòa thánh Vatican. Ông không xuống máy bay, đòi dẹp hết ông mới xuống. Ông không bao giờ có ý định diệt Phật Giáo. Những người viết thiếu trung thực thường đưa ra cái luận điệu đó để kết tội ông mà họ khó có thể đưa ra những bằng cớ cụ thể. Ngay như ông Nhu khi đi săn về từ Đàlạt được ông Cao Xuân Vỹ cho biết chuyện, ông Nhu lẩm bẩm: “Mình chết rồi, hắn đưa tôn giáo vào trong chính trị là mình chết rồi. Chuyện ni mình khó gỡ lắm. Đây là cái đại nạn cho chính phủ’’. Và hai cái kẻ châm ngòi, đặt chất nổ là bà Ngô Đình Nhu và GM Thục. Những người làm chính trị như ông Diệm, ông Nhu và cả ông Cẩn, chẳng ai ngu dại triệt hại Phật Giáo một cách ngu xuẩn để gây ra kiếp nạn. (Xem Vĩnh Phúc, Những huyền thoại về... từ trang 280-299).

Và đây là ý kiến của TT Tâm Châu nhận xét về ông Diệm qua trả lời phỏng vấn trực tiếp từ Luân Đôn sang Canada của BBC:

VP: theo Hoà Thượng , Tổng Thống (TT.) Diệm và ông Nhu có ý kỳ thị Phật giáo hay không?

TT Tâm Châu: Thực ra, đối với TT. Diệm khi đó tôi có gặp thì biết, ngài là người nho học. Ngài có tinh thần dân chủ hơn. Còn vấn đề kỳ thị thì tôi không dám nói có hay không? Chắc chắn thì tôi thẳng thắn nói rằng ở cấp trên thì đương nhiên là hiểu biết rộng hơn cấp thừa hành dưới... Hồi đó, sự phát triển của Phật giáo nói chung, mà điển hình là sự phát triển các chùa chiền có gì trở ngại không? Thực ra không có gì trở ngại. Nó chỉ có vấn đề trong sự bình thường chỗ nào làm chùa mà xin phép thì được xét thôi. Chung chung không có gì cả”. (Trích Những huyển thoại... của Vĩnh Phúc trang 296).

Điển hình của sự gian dối lịch sử như trường hợp tướng Giáp. Tôi có một lô sách của Võ Nguyên Giáp như Điện Biên Phủ – Điểm hẹn lịch sử, Chiến đấu trong vòng vây hay Những năm tháng không thể nào quên. Điều duy nhất tôi đọc được ở đó là không bao giờ có thống kê bằng con số vể thiệt hại của Việt Minh. Nào, dở bất cứ trang nào như trang 271, Đường tới Điện Biên phủ: “Tuyến phòng thủ của Đờ Lát đã ngốn của đội quân viễn chinh 25 tiểu đoàn Âu Phi tinh nhuệ, 1.200 khẩu súng cối, 500 khẩu pháo từ 37 ly đến 105 ly, trên 10.000 súng trường và liên thanh các loại. 800 lô cốt boong ke.” Không một chữ cho sự thiệt hại về quân đội của tướng Giáp.

Trong khi đó thì Salan đã viết như thế này. 24 tiểu đoàn quân chính quy Việt Minh bỏ lại chung quanh Vĩnh yên 1280 xác chết, 450 tù binh, 3000 thương binh. Pháp đã bắn 50.000 quả dạn đại bác 105 ly, 200.000 quả đạn 75 ly, 250 phi vụ oanh kích.

Chúng ta là nạn nhân của những sự thật và đôi vai chúng ta nặng trĩu những gánh nặng oan trái của gian dối, tuyên truyền, bịa đặt của lịch sử: Lịch sử thời nhà Nguyễn, lịch trước 55 ở hai phía và sau 1975.

Nguyễn Văn Lục — Nguồn: DCVOnline

Phía bên quốc gia mình cũng chả hơn gì, chúng ta có nên đọc Trần Văn Đôn, Đỗ Mậu, Nguyễn Cao Kỳ, Cao Văn Viên hay Tôn Thất Đính? Bên kia ca tụng cái tập thể, cái Đảng thì bên này suy tôn cá nhân mình với những hào quang chiến thắng tự mình thiết chế lấy và tự đeo vào cổ? Hay là chúng ta nên bằng lòng với những cuốn sách của những người sĩ quan cỡ trung úy, đại uý như Hoàng Khởi Phong, Cao Xuân Huy, Trương Duy Hy? Nếu độc giả đọc bài này mà không đồng ý với tôi là quyền của quý vị. Quyền nắm giữ sự thật? Tôi là kẻ không may mắn, không nắm được sự thật, vì thế vẫn có thể nghêu ngao sự thật nằm ở chỗ nào? Tôi chỉ hỏi có hai điều thôi: Ai trách nhiệm vụ tàn sát đài phát thanh Huế? Và sát hại bằng chất nổ gì?